Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.6 KB, 94 trang )

PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
Câu 1: Trình bày mục đích của thanh tra đối với hoạt động hành chính.
Thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Ví dụ: Thanh tra Chính Phủ tiến
hành cuộc thanh tra toàn bộ hoạt động của Tập đoàn Tàu thủy Việt Nam (Vinashin).
Mục đích vốn là mối quan tâm trong hoạt động của con người, là cái mà con người
cần hướng tới (bằng các phương thức và giải pháp thích hợp) và “giành” cho được.
Suy cho cùng công tác thanh tra nhằm hướng tới cái gì thì đó là mục đích của thanh
tra.
Lênin dạy rằng: thanh tra là để giúp sữa chữa “sửa chữa một cách chính xác, kịp
thời đó là nhiệm vụ chính của Bộ dân uỷ kiểm tra công nông”.
Khi nói về thanh tra, kiểm tra, Bác Hồ cặn dặn: “ cán bộ thanh tra giúp trên hiểu biết
tình hình địa phương và cấp dưới, đồng thời giúp các địa phương kịp thời sữa chữa, uốn
nắn nếu làm sai hoặc làm chậm”, “thanh tra là để theo dõi, xem xét kế hoạch, chỉ thị, chính
sách đó các địa phương đã chấp hành như thế nào”... “nếu họ làm sai hay gặp khó khăn,
còn giúp họ làm cho đúng với nghị quyết, chỉ thị của trên đưa xuống”.
Chỉ thị 38/ CTTW ngày 20 tháng 02 năm 1984 của Ban bí thư Trung ương Đảng nêu
rõ “mục đích thanh tra là đánh giá chính xác những mặt làm đúng, làm sai trong việc chấp
hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật, kế hoạch nhà nước... Trước mắt cũng
như lâu dài công tác thanh tra có tác dụng quan trọng, trực tiếp đối với việc thực hiện
đường lối chính sách của Đảng, giữ gìn pháp luật nhà nước, tăng cường trách nhiệm quản
lý kinh tế, quản lý xã hội của bộ máy nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động”.
Nghị quyết 26-HĐBT ngày 15 tháng 02 năm 1984 của Hội đồng Bộ trưởng nêu rõ
thanh tra là “nhằm mục đích phát huy mặt đúng, ngăn ngừa sữa chữa cái sai, làm cho chủ
trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh và thi
hành có hiệu quả thiết thực’.
Pháp lệnh Thanh tra 1990 nêu rõ mục đích của hoạt động thanh tra là “nhằm phát
huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý vi phạm, góp phần hoàn thành thúc đẩy nhiệm vụ,
hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, các


quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân”.
Luật Thanh tra 2004 khẳng định “hoạt động thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính
sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc
phục; phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản
lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
cá nhân”.
Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “Mục đích hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ
hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm


quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật;
giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố
tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
Như vậy, mục đích của hoạt động thanh tra bao gồm cả xây dựng, phát huy những
nhân tố tích cực và chống những tiêu cực, vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn có nhận
thức khác nhau trên thực tế về mục đích của thanh tra là “xây dựng” hay “chống”.
+ Thực tiễn chỉ đạo hoạt động thanh tra, người lãnh đạo, quản lý thường hay giao cho
thanh tra làm những việc như: chống tiêu cực, chống tham nhũng và thường vì cơ quan địa
phương, bộ phận hay công việc nào đó có chỗ không đúng, chỗ sai làm mới cần thanh tra.
+ Thực tế cũng có nơi, có lúc thanh tra nặng về “bới lông tìm vết”, nặng về nêu thiếu
sót, khuyết điểm, quan trọng hoá chỗ sai, chỗ chưa đúng. Do vậy có nơi, có chỗ, có lúc đã
hiểu sai mục đích thanh tra. Hiểu thanh tra chỉ “ xây” mà không “chống” hoặc chỉ “
chống” mà không “xây” đều không đầy đủ và không đúng bản chất, mục đích của thanh
tra.
Câu 2: Trình bày vai trò của thanh tra trong quản lý nhà nước. GIÁO TRÌNH
TRANG47
Nhìn vào mục đích này có thể thấy rằng, thanh tra hành chính có vai trò rất lớn
trong việc giúp hoàn thiện hệ thống quy định của pháp luật nói chung và hệ thống quy

định về hoạt động kinh tế nói riêng. Thông qua hoạt động thanh tra, các quy định của pháp
luật khi triển khai trên thực tế phát sinh những bất cập, không mang lại hiệu quả, thậm chí
cản trở hoạt động của các chủ thể kinh tế sẽ được cơ quan thanh tra phát hiện, chỉ rõ
những điểm cần sửa đổi, bổ sung và phương án sửa đổi, bổ sung thích hợp. Cũng thông
qua hoạt động này, những khoảng trống trong quy định của pháp luật có thể được phát
hiện, cơ quan thanh tra có thể kiến nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành bổ sung những
cơ chế còn thiếu để tạo ra sự đồng bộ trong hệ thống quy định về hoạt động kinh tế.
1/ Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý Nhà nước
Tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra việc thực hiện quyết định là những giai
đoạn tiếp theo của quá trình quản lý. Các giai đoạn này gồm những công việc như: truyền
đạt quyết định; lập kế hoạch tổ chức; điều chỉnh quyết định; kiểm tra việc thực hiện quyết
định và tổng kết tình hình thực hiện quyết định. ở đây kiểm tra được hiểu là hình thức tác
động có hướng đích nhằm quan sát cả hệ thống để phát hiện những sai lệch so với yêu cầu
đề ra, tìm ra nguyên nhân và từ đó có những giải pháp phù hợp đảm bảo để đối tượng bị
quản lý tự điều chỉnh hoạt động để đạt tới mục tiêu mà chủ thể quản lý đã xác định.
Việc tìm ra và áp dụng các giải pháp phù hợp phụ thuộc rất nhiều yếu tố, trong đó
có yếu tố thuộc về chất lượng và hiệu quả của hoạt động kiểm tra. Muốn cho công việc
kiểm tra có kết quả, cần có những kế hoạch rõ ràng, làm căn cứ cung cấp những chỉ tiêu
xác đáng cho việc kiểm tra; sắp xếp tổ chức khoa học, hợp lý nhằm xác định chính xác
nhiệm vụ của từng bộ phận, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch. Cần tiến hành thường


xuyên và kết hợp linh hoạt nhiều hình thức kiểm tra : kiểm tra lường trước, kiểm tra những
điểm trọng yếu, kiểm tra trực tiếp, kiểm tra gián tiếp, kiểm tra định kỳ, kiểm tra bất
thường, kiểm tra từ trên xuống, kiểm tra từ dưới lên...
Trong một phạm vi, chừng mực nhất định nào đó, hoạt động kiểm tra theo nghĩa
thông thường có thể đưa lại những thông tin cần thiết, đáp ứng được yêu cầu của việc tìm
ra giải pháp phù hợp. Nhưng ở một cấp độ cao hơn của công tác quản lý Nhà nước, hoạt
động kiểm tra theo nghĩa thông thường chưa đáp ứng được yêu cầu của việc tìm giải pháp
phù hợp đó. Thực tiễn điều hành, quản lý nói chung và quản lý Nhà nước nói riêng đòi hỏi

trong nhiều trường hợp phải có một phương thức kiểm tra khác với nghĩa kiểm tra thông
thường. Phương thức kiểm tra này không chỉ dừng lại ở chỗ phát hiện sai lệch của đối
tượng bị quản lý so với yêu cầu đề ra mà còn phải tìm ra những nguyên nhân chủ quan,
khách quan của sự sai lệch đó. Nếu có yếu tố trách nhiệm thì đương nhiên phải chỉ rõ trách
nhiệm đó thuộc về ai? tổ chức, cá nhân nào? Chính từ việc tìm nguyên nhân và quy trách
nhiệm cùng những yếu tố khác đã làm nảy sinh những yêu cầu mới đối với chính hoạt
động kiểm tra như phải thu thập và xử lý dữ liệu, số liệu nhiều hơn, phức tạp hơn; nhận
xét và đánh gía, phân tích tổng hợp nguyên nhân; xử lý và kiến nghị xử lý các đối tượng
sai phạm... loại hình kiểm tra như vậy hay nói cách khác phương thức chính là hoạt động
thanh tra. Thực chất thanh tra là một phương thức của kiểm tra, là chức năng của quản lý,
là công cụ của người lãnh đạo, người quản lý. Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước, các cơ quan quản lý Nhà nước nhất thiết phải tiến hành hoạt động thanh tra đối
với việc thực hiện các quyết định mà mình đã ban hành. Đó là một khâu không thể thiếu
được trong quá trình hoạt động quản lý Nhà nước. Chính vì vậy thanh tra được xác định là
chức năng thiết yếu của quản lý Nhà nước.
2/ Thanh tra góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước:
Để quyết định quản lý Nhà nước được các cơ quan, tổ chức và cá nhân chấp hành
một cách chính xác, đầy đủ thì các cơ quan, cá nhân đã ban hành quyết định phải đề ra quy
trình thực hiện quyết định. Trong quy trình đó không thể thiếu được hoạt động thanh tra,
kiểm tra. Thanh tra, kiểm tra là để đánh giá, nhận xét tình hình và kết quả thực hiện quyết
định quản lý; để kiểm nghiệm lại chính nội dung và chất lượng quản lý; khi cần thiết phải
bổ sung, sửa đổi, thậm chí phải huỷ bỏ một phần hay toàn bộ quyết định quản lý.
Khi nội dung và chất lượng quyết định quản lý được thực tế kiểm nghiệm là đúng,
là phù hợp, nhưng đối tượng thi hành vẫn không tuân thủ và không chấp hành nghiêm
chỉnh thì khi đó hoạt động thanh tra, kiểm tra phải phục vụ cho việc làm rõ nguyên nhân
chủ quan, khách quan, xác định rõ trách nhiệm thuộc khâu nào, thuộc ai để chấn chỉnh
hoặc xử lý khi có vi phạm. Với ý nghĩa đó thanh tra thực chất đã góp phần nâng cao hiệu
lực quản lý Nhà nước.
3/ Thanh tra là một phương thức bảo đảm pháp chế XHCN.



Một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của hệ thống chính trị và bộ
máy Nhà nước ta là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nội dung của nguyên tắc pháp
chế là sự bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ một cách tuyệt đối, không có một thực thể
nào đứng trên pháp luật hay đứng ngoài pháp luật. Nguyên tắc pháp chế hiện hữu ở việc
chấp hành pháp luật cả từ phía các cơ quan Nhà nước và từ phía các cá nhân, tổ chức là
đối tượng chịu sự quản lý của Nhà nước. Về phía các cơ quan Nhà nước, nguyên tắc pháp
chế thể hiện ở việc các cán bộ, công chức Nhà nước thực thi đúng chức trách, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình mà pháp luật đã quy định. ở bình diện rộng hơn, nó còn là việc mỗi
cơ quan Nhà nước thực thi đúng phạm vi, thẩm quyền, trách nhiệm đã được quy định
trong các văn bản pháp luật. Ngay trong hoạt động ban hành các quyết định, các văn bản
quản lý, nguyên tắc pháp chế cũng được thể hiện ở việc văn bản của cơ quan cấp dưới phải
phù hợp với các quy định trong các văn bản của cơ quan cấp trên, văn bản có hiệu lực thấp
hơn phải phục tùng những văn bản có hiệu lực cao hơn và mọi văn bản pháp luật phải phù
hợp với Hiến pháp - đạo luật gốc, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Về phía các đối tượng quản lý, mọi công dân, cá nhân, tổ chức trong mọi mặt của
đời sống kinh tế - xã hội đều phải thực hiện theo các quy định của pháp luật. Hệ thống
pháp luật quy định cho mỗi công dân, mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ chức có những quyền
nhất định như quyền tự do kinh doanh, tự do đi lại, quyền được học tập, quyền có nhà ở..
đồng thời pháp luật cũng quy định những nghĩa vụ của các đối tượng này. Ngoài ra, pháp
luật còn có những qui phạm điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội. Pháp chế đòi hỏi tất
cả những quy định đó đều phải được tuân thủ một cách tuyệt đối.
Với tư cách là một chức năng của quản lý Nhà nước, thanh tra chính là hoạt động
xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức cá nhân có đúng chính sách, pháp luật hay
không. Nếu họ làm sai hoặc làm chậm thì giúp họ sửa chữa và làm cho đúng. Mục đích
của thanh tra là phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa xử lý những vi phạm, bảo đảm để
các cơ quan, tổ chức và cá nhân tuân thủ và chấp hành một cách chính xác, đầy đủ và
nghiêm chỉnh pháp luật Nhà nước. Muốn có pháp chế cần phải làm cho mọi người hiểu
biết pháp luật. Mặc dù công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật không phải là chức
năng chính của thanh tra, nhưng thông qua hoạt động của mình, công tác thanh tra đã góp

phần tích cực vào việc giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu đúng và chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật và đó cũng là một hoạt động bảo đảm tăng cường pháp chế.
Tuy nhiên, trong thực tế không ít trường hợp, mặc dù hiểu rõ pháp luật nhưng vẫn vi
phạm pháp luật. Trong những trường hợp đó, yêu cầu khách quan đòi hỏi thanh tra phải có
hình thức xử lý nghiêm khắc hơn, mạnh mẽ hơn. Xử lý mạnh mẽ, nghiêm khắc hơn là để
cho đối tượng quản lý phải sửa chữa những vi phạm pháp luật và việc xử lý đó còn có tác
dụng lâu dài đến đối tượng quản lý đó, cũng như mang tính chất răn đe đối với các đối
tượng quản lý khác. Người này sửa chữa để người kia tránh và như thế rõ ràng càng làm
cho pháp chế được tăng cường.
Vai trò của các cơ quan thanh tra trong việc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa
bằng các hình thức xử lý nghiêm khắc và mạnh mẽ đã được thể hiện ngay từ Sắc lệnh số


64/SL ngày 23/11/1945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Tại Sắc lệnh này quy định Ban
thanh tra đặc biệt có toàn quyền “nhận các đơn khiếu nại của dân; điều tra, hội chứng, xem
xét các tài liệu giấy tờ của UBND hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công việc
giám sát; đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong UBND hay của Chính phủ đã
phạm lỗi”.
Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 cũng quy định cụ thể về các quyền, nghĩa vụ của các
tổ chức Thanh tra Nhà nước, đó cũng là những quy định của pháp luật thể hiện vai trò cơ
quan thanh tra trong việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Kế thừa những quy định này
trong Pháp lệnh thanh tra, Luật thanh tra cũng đã thể hiện khá cụ thể các quyền cũng như
trách nhiệm của các cơ quan thanh tra nhà nước trong việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật.
Tóm lại, sự vi phạm pháp luật đã, đang và sẽ còn là một thực tế với nhiều lý do khác
nhau. Để giải quyết vấn đề này, chủ thể quản lý có thể áp dụng nhiều biện pháp từ giáo
dục, thuyết phục đến cưỡng chế. Các biện pháp đó đều có thể được thực hiện thông qua
công tác thanh tra, qua thanh tra có thể đánh giá được một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào
đó chấp hành pháp luật như thế nào, có vi phạm pháp luật hay không, vi phạm ở mức độ
nào... Từ đó đề ra những biện pháp xử lý thích hợp. Do vậy, thanh tra là một phương thức

bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
4. Thanh tra là một biện pháp ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi
phạm pháp luật.
Luật thanh tra và nhiều văn bản pháp luật khác đã có quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan thanh tra và các cơ quan có chức năng kiểm tra, giám sát khác trong
việc đấu tranh phòng chống những hành vi vi phạm pháp luật.
Pháp lệnh chống tham nhũng và Pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm
1998 đều có những quy định về trách nhiệm của các cơ quan thanh tra cùng với các cơ
quan khác như: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội;
các cơ quan hành chính Nhà nước; các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; Mặt trận
Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong việc thanh tra, kiểm tra,
giám sát việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cũng đã nhấn mạnh việc “định kỳ
kiểm tra, đánh giá cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém
và thoái hóa”. Nghị quyết cũng xác định một trong những biện pháp đẩy mạnh cuộc đấu
tranh chống tham nhũng là phải “tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát, bảo
đảm tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách Nhà nước, tài sản công, tài chính Đảng,
đoàn thể, tài chính các doanh nghiệp Nhà nước, các quỹ do nhân dân đóng góp và do nước
ngoài tài trợ”.


Tuy nhiên, vai trò của công tác thanh tra không chỉ và không phải chủ yếu là phát
hiện và xử lý các vi phạm pháp luật mà quan trọng hơn, thanh tra đóng vai trò như một
biện pháp phòng ngừa hữu hiệu các vi phạm pháp luật. Tính phòng ngừa của thanh tra đối
với các hành vi vi phạm pháp luật được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Một là, thanh tra cùng với các phương thức kiểm tra, giám sát luôn luôn là hiện thân
của kỷ cương pháp luật. Chỉ riêng sự hiện diện của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám
sát đã là một sự nhắc nhở thường xuyên đối với tất cả các đối tượng chịu sự thanh tra,
kiểm tra, giám sát rằng: pháp luật phải được tuân thủ. Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát định
kỳ, thường xuyên hay đột xuất luôn tạo ra một “sức ép” thường trực lên các đối tượng và

nhờ đó, nó đã hạn chế sự vi phạm pháp luật.
Thanh tra không chỉ có chức năng bảo đảm pháp chế mà còn có chức năng tìm hiểu,
giúp đỡ, định hướng cho các đối tượng thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Điều
này sẽ càng trở nên quan trọng nếu chúng ta quan niệm về một Nhà nước làm dịch vụ
công. Khi đó các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát sẽ thực sự trở thành
một trong những địa chỉ mà các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, công dân... trông cậy để có
thể nhận được những khuyến nghị, những chỉ dẫn bảo đảm cho hoạt động của mình đúng
pháp luật.
Hai là, thanh tra, kiểm tra, giám sát luôn luôn là cách thức phân tích, mổ xẻ một
cách sâu sắc, đầy đủ nhất các nguyên nhân, động cơ, mục đích, tính chất, mức độ của một
hành vi vi phạm. Do vậy các giải pháp (các khuyến nghị, kiến nghị, yêu cầu...) được đưa
ra từ hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát không chỉ hướng vào việc xử lý hành vi vi
phạm pháp luật mà nó phát hiện được, mà còn có tác dụng khắc phục các kẽ hở của chính
sách, pháp luật, ngăn ngừa tận gốc mầm mống phát sinh những vi phạm pháp luật tương tự
xảy ra ở một nơi khác hoặc vào một thời điểm khác.
Ba là, thanh tra, kiểm tra, giám sát dù là loại hình nào cũng luôn luôn có tính định
hướng và tính xây dựng. Vai trò phòng ngừa của thanh tra, kiểm tra, giám sát được đề cập
ở đây là vai trò phòng ngừa mang tính chủ động. Trong rất nhiều trường hợp, qua thanh
tra, kiểm tra, giám sát mà có thể dự báo được một hành vi vi phạm pháp luật sẽ xảy ra
trong tương lai nếu không có sự chấn chỉnh, không có sự định hướng lại cho các đối tượng
một cách kịp thời.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; pháp luật được
xây dựng để thể hiện ý chí của nhân dân cho nên thanh tra góp phần tăng cường pháp chế,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước và ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những
hành vi vi phạm pháp luật cũng chính là góp phần phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thanh tra hoàn thiện cơ chế, chính sách về kiểm soát quyền lực trong lĩnh vực hành
pháp: Xuất phát từ chức năng của các cơ quan thanh tra nhà nước có chức năng quản lý
nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng.
Bản thân hoạt động thanh tra, kiểm tra chính là hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước.



Từ chức năng của vốn có của mình các cơ quan thanh tra nhà nước tham mưu cho thủ
trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp trong việc xây dựng chính sách, pháp luật, ban
hành các quy định theo thẩm quyền, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tổ
chức và hoạt động có liên quan đến hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước. Cụ thể
như Thanh tra Chính phủ là cơ quan chủ trì giúp Chính phủ xây dựng Luật thanh tra, Luật
Khiếu nại, Luật tố cáo và Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản pháp luật hướng
dẫn thi hành. Thanh tra bộ, thanh tra tỉnh, thanh tra sở tham mưu với thủ trưởng cơ quan
cùng cấp ban hành những văn bản cụ thể hóa việc thực hiện pháp luật về thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong phạm vi quản lý nhà nước của
mình, phối hợp với thanh tra Chính phủ trong việc xây dựng các văn bản pháp luật về
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Sau khi văn bản được
ban hành có hiệu lực trên thực tế thì chính các cơ quan thanh tra nhà nước có trách nhiệm
tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật đó để đảm bảo việc triển khai thực hiện
có hiệu quả.
Thanh tra đảm bảo việc thực thi chính sách một cách thống nhất, nhất quán trong
hệ thống hành pháp: Sau quy trình ban hành chính sách pháp luật là việc tuyên truyền, tổ
chức thực hiện chính sách pháp luật. Thông qua công tác thanh tra các cơ quan thanh tra
giúp các chủ thể có trách nhiệm tổ chức thực hiện chính sách pháp luật nhận thức đúng
chủ trương, chính sách, giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận thức chưa đúng hoặc làm
chưa đúng thì sửa chữa, khắc phục để từ đó đảm bảo việc thực thi chính sách được thông
suốt, đồng bộ, thống nhất từ trên xuống, đảm bảo quyền, lợi ích của công dân từ đó đảm
bảo nguyên tắc chế xã hội chủ nghĩa.
Thanh tra đảm bảo sự tuân thủ chỉ đạo điều hành của cơ quan cấp trên với cơ quan
cấp dưới trong việc tổ chức thực hiện pháp luật và quản lý hành chính nhà nước: Hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước gồm nhiều cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức
theo thứ bậc nhất định từ Chính phủ, các bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các sở ngành, Ủy
ban nhân dân cấp huyện, phòng, ban thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân
dân cấp xã. Với bộ máy các cơ quan nhà nước đồ sộ được tổ chức ở các cấp hành chính
một trong những yêu cầu đảm bảo nền hành chính mạnh đó là bộ máy hành chính phải

thông suốt, việc chỉ đạo, điều hành được thực hiện nhanh chóng, hệ thống hành chính có
kỷ luật, cấp dưới tuân thủ cấp trên, mệnh lệnh hành chính được ban hành cần phải được tổ
chức đồng bộ; cán bộ làm hết chức trách, nhiệm vụ được giao, tận tụy với công việc. Với
chức năng của mình, các cơ quan thanh tra làm nhiệm vụ kiểm tra tính thông suốt, đồng
bộ, kỷ luật của bộ máy hành chính, phát huy nhân tố tích cực, khen thưởng cơ quan, đơn
vị, cá nhân thực hiện tốt, xem xét xử lý trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân thực
hiện không tốt chức năng, nhiệm vụ, từ đó giúp cho thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước
cùng cấp nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước.
Thanh tra hạn chế lạm dụng quyền lực, phòng ngừa vi phạm pháp luật của các cơ
quan nhà nước, cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước: Để kiểm soát tính hiệu quả của
bộ máy hành chính nhà nước mà cụ thể là thủ trưởng cơ quan hành chính kiểm soát chính
bộ máy hành chính dưới quyền của mình, của cán bộ, công chức do mình quản lý là một
yêu cầu quan trọng để đảm bảo tính chính đáng của bộ máy hành chính nhà nước. Muốn
vậy, thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước thường xuyên kiểm soát các cơ quan thuộc


quyền quản lý của mình, cán bộ, công chức do mình quản lý còn phải có bộ phận, cơ quan
chuyên trách thường xuyên kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ công vụ của cơ
quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của mình để từ đó kịp thời phòng ngừa những
vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức đồng thời cũng kịp thời uấn nắn những cơ
quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm, cần thiết thì xử lý những vi phạm làm gương
cho những người khác không vi phạm, không lạm dụng quyền lực của nhà nước vì mục
đích riêng.
Thanh tra đảm bảo cung cấp thông tin phản hồi liên quan đến việc thực hiện chính
sách pháp luật và kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách, pháp luật phù
hợp với thực tiễn nhằm sử dụng quyền lực nhà nước có hiệu lực, hiệu quả: Đây là một vai
trò quan trọng của cơ quan thanh tra nhà nước góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước,
góp phần đảm bảo quyền lực nhà nước được sử dụng một cách đúng mục đích, có hiệu
lực, hiệu quả. Cơ quan thanh tra không chỉ giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận thức
đúng pháp luật, sửa chữa những sai sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công cụ mà

cũng thông qua công tác thanh tra cơ quan thanh tra, người cán bộ thanh tra cung cấp
thông tin phản hồi về những thuận lợi, khó khăn của các cơ quan, tổ chức trong việc triển
khai thực hiện chính sách, pháp luật, nêu lên những kiến nghị, phản ánh tới người có trách
nhiệm để có biện pháp tháo gỡ khó khăn, sửa đổi, cơ chế chính sách góp phần nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước.
Góp phần đảm bảo phát huy dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức và công dân từ đó thúc đẩy cơ chế kiểm soát quyền lực của công dân đối với các
cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng: hiện nay, Đảng và
Nhà nước ta đang xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa coi trọng quyền con người, quyền
công dân, tạo điều kiện cho công dân thực hiện được những quyền của mình trong đó có
quyền giám sát các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói
riêng. Khi thực hiện chức năng thanh tra, các cơ quan thanh tra không chỉ đảm bảo hệ
thống cơ quan hành chính trong đó là các cơ quan hành chính, cán bộ, công chức trong các
cơ quan hành chính nhà nước thực hiện quyền lực trong giới hạn pháp luật cho phép, thực
hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ với yêu cầu về chất
lượng. Từ đó tạo điều kiện cho người dân được đảm bảo các quyền từ phía cơ quan nhà
nước và thúc đẩy công dân tăng cường hoạt động giám sát, kiểm soát quyền lực của cơ
quan nhà nước đặc biệt là quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, phương thức người dân
đấu tranh với những cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính hay cơ quan hành chính
nhà nước khi mà họ không thực hiện hết chức trách, nhiệm vụ của mình.
Như vậy, vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước thể hiện qua vị trí, chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan thanh tra: Cơ quan thanh tra là cơ quan thuộc hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước. Nó có phạm vi quản lý nhà nước riêng, có chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn khác với các cơ nhà nước khác. Các cơ quan thanh tra là cơ quan nhà
nước có thẩm quyền riêng thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho thủ trưởng cơ quan cùng cấp
về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Từ khi
thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945 cho tới nay thì các cơ thanh
tra nhà nước đều được xác định là cơ quan thuộc bộ máy cơ quan hành pháp. Thậm chí



trước đó, các triều đại phong kiến cơ quan có chức năng thanh tra cũng gần với hoạt động
hành pháp, giúp nhà vua cai trị có hiệu quả bộ máy quan lại tại các địa phương. Vai trò của
cơ quan thanh tra cũng có thể được tóm lại qua mục đích của hoạt động thanh tra, đó là
không chỉ nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện
những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục mà còn giúp phát huy nhân tố tích cực; góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đây cũng chính là vai trò
của các cơ quan thanh tra nhà nước.
Câu 3: Những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thanh tra có vai trò như thế
nào đối với hoạt động thanh tra? Phân tích nội dung của từng nguyên tắc trong hoạt
động thanh tra.
Nguyên tắc đóng vai trò quan trọng, là định hướng, cơ sở cho các hoạt động cụ thể
trong thực tiễn. Nguyên tắc còn là những điều cơ bản rút ra từ thực tế khách quan để chỉ
đạo hành động.
Trong hoạt động thanh tra, các nguyên tắc được hiểu là những tư tưởng, định hướng chủ
đạo, đúng đắn, khách quan và khoa học, được quy định trong pháp luật thanh tra mà các
cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức thanh tra, cán bộ, thanh tra viên phải tuân theo
trong quá trình thực hiện thanh tra kinh tế, xã hội, thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng,
chống
tham
nhũng.
Các nguyên tắc này không chỉ thể hiện trong toàn bộ quá trình tiến hành thanh tra
mà nó phải trở thành ý thức của từng cán bộ, công chức, thanh tra viên trong suy nghĩ và
trong hành vi, hành xử cụ thể khi thực thi nhiệm vụ, công vụ trên cương vị của mình. Các
nguyên tắc hoạt động thanh tra chỉ đạo và chi phối mối quan hệ trong thanh tra nhằm đảm
bảo cho hoạt động thanh tra đạt được mục đích đề ra. Các nguyên tắc trong hoạt động
thanh tra có một số các đặc điểm và vai trò cụ thể như sau:

1. Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra thể hiện quan điểm, chủ trương
của Đảng và Nhà nước đối với công tác thanh tra.
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều quan điểm, chủ trương về công tác thanh tra,
kiểm tra qua các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và được cụ thể hóa trong pháp luật về thanh
tra như Pháp lệnh Thanh tra 1990, Luật Thanh tra 2004, Luật Thanh tra năm 2010 và các
văn bản hướng dẫn thi hành,… Các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về hoạt
động thanh tra được thể hiện trong các quy định pháp luật cụ thể về thanh tra mà trước hết
là ở các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra. Bởi lẽ các nguyên tắc đưa ra phương hướng
chỉ đạo, là nền tảng, định hướng quan trọng cho việc thiết lập các quy định cụ thể về
quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động thanh tra như: Đoàn thanh tra, đối tượng
thanh tra, người có quyền và lợi ích liên quan; về trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra; về
việc kết luận và thi hành kết luận, kiến nghị thanh tra,…
Các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về hoạt động thanh tra được thể hiện
qua các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra bao gồm:
a) Thanh tra là một trong những nội dung, phương thức thực hiện sự lãnh đạo
của Đảng


Trong cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, Đảng lãnh đạo
Nhà nước thông qua những phương thức như: Hoạch định chính sách và những giải pháp
lớn để định hướng cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Những chính sách của
Đảng sẽ được Nhà nước thể chế hoá bằng pháp luật và tổ chức thực hiện; Đào tạo đội ngũ
cán bộ, công chức, định ra chủ trương, biện pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức;
giới thiệu những đảng viên hoặc người có phẩm chất, có năng lực, có uy tín để nhân dân
bầu hoặc để Nhà nước bổ nhiệm giữ các chức vụ trong bộ máy nhà nước; Kiểm tra việc
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; kiểm tra các tổ chức đảng, các đảng viên trong
bộ máy nhà nước trong việc thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Như vậy, kiểm tra luôn luôn là một trong những nội dung, phương thức thực hiện sự
lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà nước. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của
các cơ quan quyền lực nhà nước, các cơ quan hành chính nhà nước, của Viện kiểm sát

nhân dân cũng như hoạt động giám sát của Mặt trận tổ quốc mà Đảng là hạt nhân đều
hướng đến một mục tiêu chung là đảm bảo cho các đường lối, chính sách của Đảng được
thực hiện.
b) Thanh tra là một trong những phương thức thực hiện chức năng quản lý của
Nhà Nước
Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước bao gồm 3 mặt thống nhất chặt chẽ với nhau:
Ban hành quyết định quản lý; tổ chức, phân công, chỉ đạo việc thực hiện các quyết định
quản lý; và kiểm tra việc thực hiện các quyết định quản lý.
Như vậy, thanh tra là một trong ba mặt thống nhất của quản lý (hiểu theo nghĩa
rộng), là một khâu không thể thiếu của hoạt động quản lý nhà nước. Theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin, ở đâu có Nhà nước thì ở đó có thanh tra, kiểm tra, giám sát. Lênin
đã từng nói: “Quản lý đồng thời phải có thanh tra; quản lý thanh tra là một chứ không phải
là hai”. Người đã nhiều lần khẳng định vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra đối với toàn
bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Người nói: “Mấu chốt của vấn đề chính là sự kiểm tra
trên phạm vị toàn quốc, toàn diện các hoạt động của Nhà nước Xô Viết ” khi phê phán các
Xô viết “chưa học được cách quản lý” và đề cập đến việc kiểm tra, thanh tra các mệnh
lệnh, chỉ thị được thực hiện trên thực tế.
Như vậy, trong toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc thực hiện các chức năng
của Nhà nước về đối nội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng thì thanh tra, kiểm tra là một
khâu không thể thiếu.
c) Thanh tra, kiểm tra, giám sát là phương thức bảo đảm pháp chế, ngăn ngừa,
phát triển và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật
Một trong những nguyên tắc cơ bản của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước ta là
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nội dung của nguyên tắc pháp chế là sự bảo đảm
cho pháp luật được tuân thủ một cách tuyệt đối, đồng thời hệ thống pháp luật cũng phải
hoàn chỉnh để đảm bảo pháp luật được thực hiện.
Công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá được việc chấp hành pháp luật đồng thời phát
hiện các quy định pháp luật chưa hoàn thiện để tạo cơ sở xây dựng hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh.



2. Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra cụ thể hóa các nguyên tắc chung
về tổ chức và hoạt động của máy nhà nước, cụ thể và rõ nhất là nguyên tắc hoạt động
của cơ quan quản lý hành chính nhà nước
Là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, nên nguyên tắc trong hoạt động thanh
tra không thể tách rời các nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
ta được định ra trong Hiến pháp. Chẳng hạn như nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa:
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa; nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc bình đẳng; nguyên tắc tôn trọng các
quyền và nhĩa vụ cơ bản của công dân...
Ở nước ta, cũng như nhiều nước khác trên thế giới, thanh tra được coi như “con mắt,
lỗ tai” của người quản lý. Điều đó có nghĩa rằng hoạt động thanh tra là một bộ phận không
thể tách rời hoạt động quản lý. Thanh tra mặc dù có tính độc lập nhất định trong quá trình
hoạt động nhưng luôn được coi như “cái bóng” của quản lý, thanh tra là một khâu, là một
công cụ phục vụ công tác quản lý. Chính vì vậy mà các nguyên tắc của hoạt động thanh tra
cũng dựa trên các nguyên tắc chung của quản lý nhà nước trong đó coi trọng tính hiệu quả,
hiệu lực, đề cao nguyên tắc tập trung trên cơ sở dân chủ, thể hiện tính nhanh nhạy, kịp thời
của yêu cầu quản lý, tôn trọng và thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục luật định, tính bắt
buộc thi hành đối với các quyết định xử lý...
3. Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật về thanh tra
Trên cơ sở các quan điểm, định hướng của Đảng về hoạt động thanh tra, kiểm tra,
Nhà nước thể chế hóa vào các văn bản pháp luật cụ thể trong lĩnh vực này. Những văn bản
pháp luật quan trọng ghi nhận các nguyên tắc làm cơ sở, nền tảng và định hướng cho các
quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động thanh tra được phát triển và kế thừa từ Pháp lệnh
Thanh tra năm 1990 đến Luật Thanh tra năm 2004, Luật Thanh tra năm 2010. Trên cơ sở
các nguyên tắc được thể hiện trong các văn bản luật, các văn bản hướng dẫn cũng ghi nhận
và cụ thể hóa các nguyên tắc này, như các nghị định hướng dẫn luật, quy chế Đoàn thanh
tra,…
a) Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, tại Điều 5 quy định “Hoạt động thanh tra chỉ tuân

theo pháp luật, bảo đảm chính xác, khách quan, công khai, dân chủ, kịp thời. Không một
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động thanh tra”.
Nguyên tắc này nhấn mạnh khá rõ sự độc lập của thanh tra và gần giống với nguyên tắc
hoạt động của các cơ quan tư pháp. Nguyên tắc này có yếu tố hợp lý tại thời điểm ban
hành Pháp lệnh, đặc biệt trong hoàn cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền mà ở đó, pháp
luật có vị trí thượng tôn, hoạt động của mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức đều phải tuân thủ
pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Pháp lệnh Thanh tra thì nguyên tắc này
cũng nảy sinh những điểm bất hợp lý. Trên thực tế, hoạt động thanh tra không thể có sự
độc lập hoàn toàn mà còn phụ thuộc vào cơ quan quản lý. Hoạt động thanh tra không thể
tách rời hoạt động quản lý, do vậy, những nguyên tắc hoạt động thanh tra cũng không thể
tách rời hay khác biệt những nguyên tắc của hoạt động quản lý. Mục đích quan trọng nhất
của hoạt động quản lý và cơ quan quản lý là vấn đề hiệu quả theo nghĩa rộng của quá trình
phát triển kinh tế, do đó có những hoạt động quản lý không chỉ bám sát và tuân thủ tính
hợp pháp, mà còn có cả yếu tố hợp lý, phù hợp với thực tiễn xã hội hiện tại. Hoạt động


quản lý vốn đa dạng và phức tạp với rất nhiều tình huống không thể dự kiến hết nên khi
đánh giá hiệu quả thì không phải cái gì có hiệu quả cũng đúng pháp luật, nhất là các nhân
tố mới trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế.
b) Luật Thanh tra năm 2004 tại Điều 5 quy định “Hoạt động thanh tra phải tuân theo
pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; không
làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra”.
So với các nguyên tắc được quy định trong Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 thì các nguyên
tắc hoạt động thanh tra đã được thay đổi đáng kể. Nguyên tắc Không một cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động thanh tra không còn được
quy định mà thay vào đó là nguyên tắc không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ
quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra. Điều này xuất phát từ thực tiễn của hoạt
động thanh tra cho thấy, khi tiến hành thanh tra dù là dưới hình thức thanh tra theo chương
trình, kế hoạch hay thanh tra đột xuất, thì ít hay nhiều cũng thu hút sự chú ý của dư luận
và ảnh hưởng đến tâm lý của đối tượng thanh tra và các đối tượng có liên quan. Khi tiến

hành thanh tra một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào thì hoạt động bình thường của cơ
quan, tổ chức, cá nhân đó ít nhiều cũng bị ảnh hưởng. Và có những ảnh hưởng mang tính
tiêu cực đến hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra, gây tác động xấu đến tình
hình sản xuất kinh doanh hay hoạt động bình thường của cơ quan, đơn vị. Do đó, Luật
Thanh tra 2005 đã quy định nguyên tắc này, nhằm đảm bảo hoạt động thanh tra không tác
động xấu đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, mà chỉ giúp cho cơ quan, tổ
chức là đối tượng thanh tra thấy được những sai sót, hạn chế trong tổ chức và hoạt động
của mình để có sự điều chỉnh cho phù hợp.
Bên cạnh đó, nguyên tắc đầu tiên cũng được sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn quản
lý nhà nước, do thanh tra là một chức năng của quản lý. Đó là thay đổi cụm từ “chỉ tuân
theo pháp luật” bằng “phải tuân theo pháp luật”. Nếu như “chỉ tuân theo pháp luật” cho
thấy pháp luật là thượng tôn, là kim chỉ nam và là cơ sở cho mọi hoạt động thanh tra. Mọi
xem xét, đánh giá chỉ dựa vào các quy định pháp luật, không tính đến các yếu tố xã hội
khác như sự hợp lý, sự phù hợp với tồn tại xã hội, với thực tế xã hội đầy biến động mà
công tác quản lý phải điều chỉnh hàng ngày. Như vậy nếu “chỉ” tuân theo pháp luật sẽ
khiến cho việc đánh giá bị hạn chế đi những nhân tố tích cực, phù hợp với đời sống xã hội
nhưng lại có thể chưa được pháp luật điều chỉnh hoặc pháp luật điều chỉnh nhưng đã lỗi
thời, chưa kịp sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Nguyên tắc hoạt động “phải” tuân theo pháp
luật mở đường cho sự đánh giá và ghi nhận cả về sự hợp lý, phù hợp của các quyết định,
hành vi của các cơ quan, tổ chức và cá nhân là đối tượng thanh tra. Do đó hoạt động thanh
tra có ý nghĩa hơn trong việc giúp cho quản lý thực hiện tốt, hiệu quả vai trò của mình.
Bên cạnh Luật Thanh tra, các nguyên tắc còn được ghi nhận trong các văn bản
hướng dẫn dưới Luật như: Nghị định 41/2005/NĐ-CP ngày 25 tháng 3 năm 2005 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra Điều 3 của Nghị định này
quy định: “Hoạt động thanh tra tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung
thực, công khai, dân chủ, kịp thời; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan,
tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra; Khi tiến hành thanh tra, người ra quyết định thanh
tra, thủ trưởng cơ quan thanh tra, trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên, thành viên đoàn
thanh tra phải tuân thủ quy định pháp luật về thanh tra và phải chịu trách nhiệm trước pháp



luật về hành vi, quyết định của mình”. So với các nguyên tắc hoạt động thanh tra được quy
định trong Luật thì Nghị định 41 đã quy định thêm một nguyên tắc mới trên cơ sở tinh
thần của Luật Thanh tra và nguyên tắc hoạt động thanh tra tuân theo pháp luật, đó là
nguyên tắc Khi tiến hành thanh tra, người ra quyết định thanh tra, thủ trưởng cơ quan
thanh tra, trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên, thành viên đoàn thanh tra phải tuân thủ
quy định pháp luật về thanh tra và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết
định của mình.
Quy chế đoàn thanh tra được ban hành theo Quyết định số 2151/2006/QĐ-TTCP
ngày 10 tháng 11 năm 2006 của Tổng Thanh tra cũng quy định các nguyên tắc hoạt động
của đoàn thanh tra tại Điều 3. Theo đó, Đoàn thanh tra hoạt động phải tuân thủ các nguyên
tắc sau: Hoạt động của Đoàn thanh tra phải theo nguyên tắc bảo đảm chính xác, khách
quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; đúng nội dung, đối tượng, thời hạn ghi
trong quyết định thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức,
cá nhân là đối tượng thanh tra. Khi tiến hành thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thành viên
Đoàn thanh tra phải tuân thủ Luật Thanh tra, các văn bản pháp luật có liên quan và các quy
định của Quy chế này; chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thanh tra. Các nguyên
tắc hoạt động của Đoàn thanh tra đã cụ thể hóa các nguyên tắc hoạt động thanh tra vào cơ
chế đặc thù, đó là cơ chế hoạt động của Đoàn thanh tra trên cơ sở tinh thần của các nguyên
tắc hoạt động thanh tra đã được quy định trong Luật Thanh tra và Nghị định hướng dẫn.
c) Luật Thanh tra năm 2010 tại Điều 7 quy định hoạt động thanh tra “tuân theo pháp
luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; Không
trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện
chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá
nhân là đối tượng thanh tra”. Việc quy định nguyên tắc hoạt động thanh tra trong Luật
Thanh tra là hết sức cần thiết, trên thực tế nguyên tắc này không chỉ giúp cho hoạt động
thanh tra được thực hiện một cách nghiêm túc, công khai, minh bạch mà còn giúp cho các
cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra, nhất là doanh nghiệp không bị ảnh hướng
đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, nguyên tắc mới được bổ sung
Không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan

thực hiện chức năng thanh tra là một yêu cầu đòi hỏi từ thực tiễn bất cập trong việc thực
hiện Luật thanh tra năm 2004, khi có nhiều hoạt động thanh tra bị trùng lắp về đối tượng,
thời gian, gây lãng phí nguồn lực và ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả công tác thanh tra.
4. Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra có tính ổn định cao
Tính ổn định của các nguyên tắc hoạt động thanh tra phản ánh tính ổn định của định
hướng chỉ đạo, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về hoạt động thanh tra. Bên
cạnh đó nó còn phản ánh tính khoa học của việc đưa ra các nguyên tắc, dựa trên các cơ sở
lý luận và thực tiễn vững chắc.
Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể nhận thấy, từ Pháp lệnh Thanh tra năm
1990 đến Luật Thanh tra năm 2010 luôn có sự kế thừa và phát triển của các nguyên tắc.
Phần lớn không có sự loại bỏ mà chỉ là sự điều chỉnh cho phù hợp và thêm các nguyên tắc
dựa định hướng lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và sự đòi hỏi của thực tiễn hoạt động
quản lý, hoạt động thanh tra.


Nếu như Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 đưa ra nguyên tắc “Hoạt động thanh tra chỉ
tuân theo pháp luật, bảo đảm chính xác, khách quan, công khai, dân chủ, kịp thời. Không
một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động thanh
tra”. Thì đến Luật Thanh tra năm 2004, nguyên tắc chỉ tuân theo pháp luật được sửa đổi lại
thành phải tuân theo pháp luật để phù hợp hơn với yêu cầu của hoạt động quản lý và tính
chất của hoạt động thanh tra. Nguyên tắc Không một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào
được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động thanh tra về cơ bản đã được thể hiện trong
nguyên tắc hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật nên đã không được giữ lại ở Luật
Thanh tra năm 2004, thay vào đó là nguyên tắc mới được bổ sung cho phù hợp với yêu
cầu, đòi hỏi của công tác quản lý nhà nước về thanh tra cũng như thực tiễn hoạt động
thanh tra, đó là nguyên tắc không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức,
cá nhân là đối tượng thanh tra. Đến Luật Thanh tra năm 2010, các nguyên tắc được giữ
nguyên, có điều chỉnh và bổ sung thêm một nguyên tắc mới, đó là nguyên tắc Không trùng
lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức
năng thanh tra.

5. Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra chi phối toàn bộ quá trình ra
quyết định thanh tra, thực hiện thanh tra, kết thúc thanh tra
Các nguyên tắc hoạt động thanh tra là những định hướng cơ bản, xuyên suốt quá
trình tiến hành hoạt động thanh tra, từ khi ra quyết định thanh tra, thực hiện thanh tra và
kết thúc hoạt động thanh tra. Các nguyên tắc được phản ánh vào các quy định cụ thể về
trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động thanh tra, về thẩm quyền, nghĩa vụ của các chủ thể
trong hoạt động thanh tra: trưởng đoàn, thanh tra viên, đối tượng thanh tra,…
Trong quá trình thực hiện hoạt động thanh tra, các nguyên tắc đóng vai trò chi phối
toàn bộ các hoạt động và đảm bảo cho kết quả hoạt động thanh tra phản ánh đúng đắn,
khách quan thực tế vụ việc. Các nguyên tắc tạo khuôn khổ, sự chuẩn mực cho các thành
viên đoàn thanh tra thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ của mình, đảm bảo không được
lạm dụng quyền hạn, chi phối đối tượng thanh tra để có thể làm sai lệch kết quả hoạt động
thanh tra nhằm mưu lợi cá nhân.
Với mỗi nguyên tắc, vai trò trong từng giai đoạn thực hiện hoạt động thanh tra là
khác nhau. Có nguyên tắc xuyên suốt quá trình thực hiện hoạt động thanh tra, có nguyên
tắc chỉ chi phối một giai đoạn nào đấy của hoạt động thanh tra. Tuy nhiên chúng đều phản
ánh vào kết quả chung của hoạt động thanh tra. Nguyên tắc tuân theo pháp luật sẽ theo
suốt quá trình thực hiện hoạt động thanh tra, từ khi xây dựng kế hoạch, khảo sát, ra quyết
định thanh tra, tiến hành thanh tra và kết thúc thanh tra. Tất cả các giai đoạn này, các chủ
thể tiến hành hoạt động thanh tra đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thanh tra
và các quy định pháp luật khác có liên quan, từ việc thực hiện các quy định về nội dung
lẫn các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động thanh tra. Nguyên tắc bảo
đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời cũng là một nguyên
tắc ảnh hưởng bao quát đến tất cả các hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng
nội dung nguyên tắc mà nó phản ánh vào yêu cầu của hoạt động thanh tra đối với từng giai
đoạn sẽ khác nhau. Ví dụ như dân chủ chỉ thể hiện nhiều trong quá trình làm việc với đối
tượng thanh tra. Nguyên tắc kịp thời thể hiện trong các giai đoạn có thời hạn thực hiện các
hoạt động thanh tra,… Nguyên tắc Không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời



gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra thể hiện chủ yếu ở giai đoạn
xây dựng kế hoạch thanh tra, thực hiện khảo sát. Nếu trong giai đoạn này phát hiện những
nội dung dự kiến thanh tra đã nằm trong kế hoạch hoặc đang được tiến hành thanh tra bởi
một cơ quan khác thì nội dung đó sẽ không đưa vào kế hoạch thực hiện thanh tra nữa,
nhằm tránh sự chồng chéo, trùng lặp, gây lãng phí về các nguồn lực và hiệu quả công tác
thanh tra. Nguyên tắc không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá
nhân là đối tượng thanh tra thể hiện chủ yếu ở giai đoạn làm việc với đối tượng thanh tra
tại cơ quan, trụ sở của đối tượng thanh tra.
Từng nguyên tắc có vai trò và sự tác động, chi phối tới từng nội dung của hoạt động
thanh tra khác nhau nhưng đều phản ánh vào kết quả chung của hoạt động thanh tra, chúng
tạo ra những quy chuẩn trong thực hiện các quyền và nghĩa vụ của Đoàn thanh tra trong
hoạt động thanh tra. Và mỗi cá nhân trong đoàn thanh tra hoặc các cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác muốn tác động vào hoạt động của đoàn thanh tra nhằm thay đổi sự thật khách
quan của vụ việc là đều vi phạm vào các nguyên tắc của hoạt động thanh tra. Điều này dẫn
đến các vi phạm khác về thẩm quyền, trách nhiệm của các cá nhân thành viên đoàn thanh
tra khi thực hiện sự tác động nhằm làm sai lệch kết quả thanh tra. Và để bảo vệ các nguyên
tắc này, pháp luật về thanh tra đã tạo dựng các cơ chế nhằm ngăn ngừa sự vi phạm này như
Quy chế giám sát đoàn thanh tra,… Các thiết chế nhằm bảo vệ và bảo đảm cho các nguyên
tắc chi phối toàn bộ hoạt động thanh tra.
Nguyên tắc thanh tra là tập hợp các quy tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn hành động mà
các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức thanh tra, cán bộ, Thanh tra viên phải tuân theo
hoạt động thanh tra.
Các nguyên tắc hoạt động thanh tra chỉ đạo và chi phối các mối quan hệ trong thanh
tra nhằm đảm bảo cho hoạt động thanh tra đạt được mục đích đề ra.
Hoạt động thanh tra phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
Một là, hoạt động thanh tra tuân theo pháp luật.
Trong quá trình thanh tra, những người được giao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
thanh tra (Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra)
phải tuân thủ đúng những qui định của pháp luật, bảo đảm tính độc lập, nghiêm minh khi
thực hiện những thủ tục cần thiết và trong phạm vi thẩm quyền cho phép. Việc ra quyết

định thanh tra trong phạm vi thẩm quyền; việc tiến hành thanh tra trong phạm vi nội dung,
thời hạn ghi trong quyết định thanh tra; việc áp dụng các quyền hạn được thực hiện theo
quy định của pháp luật; việc kết luận thanh tra phải dựa trên cơ sở quy định của pháp luật.
Người ra kết luận thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về kết luận và việc làm của mình trong quá trình thanh tra.
Các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn thanh tra để thực hiện hành vi trái pháp
luật, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra; thanh tra vượt quá thẩm
quyền, phạm vi, nội dung thanh tra; cố ý kết luận sai sự thật, quyết định, xử lý trái pháp
luật, bao che cho người có hành vi vi phạm... đều bị nghiêm cấm và bị xử lý theo quy định
của pháp luật.
Hai là, bảo đảm chính xác khách quan, công khai, trung thực, dân chủ, kịp thời.
Đây là nguyên tắc quan trọng, vì bất kỳ một kết quả nào trong thanh tra không đảm bảo


tính chính xác đều dẫn đến việc nhìn nhận, đánh giá sai đối tượng thanh tra, từ đó có
những xử lý thiếu đúng đắn, trái pháp luật.
Phải bảo đảm chính xác trong hoạt động thanh tra mới có thể giúp cho việc đánh giá
thực trạng tình hình được chính xác, giúp cho việc xử lý sai phạm đúng người, đúng lỗi,
đúng pháp luật. Tính chính xác bảo đảm cho công tác thanh tra đạt hiệu quả cao, được đối
tượng chấp nhận, nhân dân đồng tình ủng hộ, tạo cơ sở thực hiện kết luận, quyết định xử
lý về thanh tra. Muốn đảm bảo tính chính xác trong hoạt động thanh tra nói chung và trong
kết luận thanh tra nói riêng, không chỉ đòi hỏi có quan điểm đúng đắn, mà cần phải có kiến
thức, năng lực và phương pháp nghiệp vụ mới có thể đem lại kết quả chính xác.
Tính khách quan cũng là vấn đề có tính nguyên tắc, nó bảo đảm phản ánh đúng sự
thật, không thiên lệch và bóp méo sự thật. Tính chính xác và tính khách quan có tác động
qua lại lẫn nhau. Có khách quan mới bảo đảm chính xác, ngược lại có chính xác mới thể
hiện được tính khách quan.
Để bảo đảm tính khách quan, phải sâu sát thực tế, tôn trọng sự thật, phản ánh đúng
sự thật. Điều quan trọng là phải có bản lĩnh vững vàng, ý thức trách nhiệm cao và có năng
lực xem xét, phân tích chính xác, khoa học.

Trung thực là phản ánh đúng và đầy đủ bản chất của sự việc, không thêm, bớt đồng
thời cũng viện dẫn đầy đủ không cắt xén các quy định pháp luật để xác định rõ đúng, sai.
Tính công khai trong hoạt động thanh tra thể hiện ở chỗ phải thông báo nội dung
thanh tra để mọi người biết nhằm động viên đông đảo nhân dân tham gia phát hiện, giám
sát, kiểm tra góp phần bảo đảm tính chính xác.
Việc công khai trong hoạt động thanh tra bao gồm: công khai quyết định thanh tra
đối với đối tượng thanh tra; tiếp công khai đối tượng thanh tra và mọi người có liên quan ở
nơi thanh tra; công khai kết luận thanh tra... Tuỳ theo từng tính chất vụ việc thanh tra mà
có hình thức công khai cho thích hợp. Có trường hợp công khai lên báo chí, trong phạm vi
địa phương, hoặc hẹp hơn là trong đơn vị được thanh tra. Tuy nhiên, không phải mọi vấn
đề đưa ra công khai đều có lợi. Ví dụ vấn đề thuộc bí mật quốc gia, thuộc an ninh quốc
phòng hoặc cần giữ bí mật về người tố cáo để bảo vệ họ... thì không được phép công khai.
Cần phải hiểu cho đúng công khai không đồng nghĩa với việc đưa tất cả những thông tin
về vụ việc cho bất cứ ai, mà công khai trên cơ sở đảm bảo đúng quy chế bảo mật và những
quy định về báo cáo, cung cấp thông tin trong hoạt động thanh tra, kiểm tra.
Vấn đề dân chủ trong hoạt động thanh tra là thể hiện sự tôn trọng và tin tưởng vào
lực lượng đông đảo quần chúng góp phần tích cực vào kết quả kiểm tra, thanh tra. Trong
quá trình thanh tra cần coi trọng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, coi trọng tính thuyết
phục và việc thu thập, tiếp nhận thông tin có liên quan, kể cả tạo điều kiện cho đối tượng
thanh tra được trình bày ý kiến của họ để rà soát lại tính đúng đắn từng việc làm cụ thể.
Cần tránh mọi biểu hiện chủ quan áp đặt, bất chấp ý kiến người khác.
Tuy nhiên qua ý kiến đóng góp trình bày của nhiều người, Đoàn thanh tra, Thanh tra
viên phải xem xét, cân nhắc, để có sự quyết đoán chính xác, dám chịu trách nhiệm về các
quyết định và việc làm của mình. Nếu do dự hoặc không biết chọn lọc ý kiến sẽ rất lúng
túng, mất tính chủ động trong kiểm tra, thanh tra.
Tính kịp thời trong hoạt động thanh tra cũng rất quan trọng bởi vì do yêu cầu quản
lý nhà nước và những vấn đề cuộc sống đặt ra là phải được kiểm tra, thanh tra và trả lời


đầy đủ, kịp thời mới có đối sách ứng xử cho sát hợp. Nếu hoạt động thanh tra tiến hành

chậm trễ hoặc không gắn với chu trình quản lý sẽ kém hiệu quả.
Muốn bảo đảm kịp thời, không phải chỉ có đầy đủ những kiến thức sách vở mà phải
có năng lực thực sự, đủ sức phát hiện, phân tích, giám sát chiều sâu, làm rõ các mối liên hệ
mới có thể đánh giá đúng bản chất của sự vật, không lầm lẫn.
Ba là, tuân thủ trình tự thanh tra.
Trong Luật Thanh tra và Nghị định 86/2011/NĐ-CP có một chương riêng về hoạt
động thanh tra. Những nội dung cần xác định trong chương này là những qui tắc mà hoạt
động thanh tra, đối tượng thanh tra và cả những người có liên quan phải chấp hành.
Theo nguyên tắc này, muốn tiến hành thanh tra trước hết phải có quyết định thanh
tra do người có thẩm quyền ban hành. Quyết định thanh tra phải ghi rõ nội dung thời hạn
thanh tra và xác định rõ người thực hiện. Khi thời hạn thanh tra đã hết, nếu cuộc thanh tra
chưa kết thúc phải có quyết định kéo dài hoặc gia hạn thời hạn thanh tra. Thực hiện quyết
định thanh tra là Đoàn thanh tra hoặc Thanh tra viên. Kết thúc cuộc thanh tra, Đoàn thanh
tra (Thanh tra viên) phải có báo cáo kết quả thanh tra, kiến nghị về các nội dung đã được
thanh tra và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các kết luận, quyết định, các kiến nghị.
Người ra quyết định thanh tra phải ra kết luận thanh tra.
Kết luận thanh tra phải xác định rõ đúng, sai; xác định các nguyên nhân khách quan,
chủ quan; quy rõ trách nhiệm. Tất cả các kết luận đều phải có hồ sơ, tài liệu, chứng cứ, vật
mang tin khác .v.v... bảo đảm.
Bốn là, xác định đúng đối tượng, phạm vi, nội dung hoạt động thanh tra. Đối
tượng, phạm vi, nội dung thanh tra luôn được xác định bởi yêu cầu quản lý nhà nước.
Theo từng thời kỳ giai đoạn cụ thể, như một đòi hỏi mang tính tất yếu quản lý cần phải
hướng dẫn kiểm soát hệ thống của mình để hướng đích.


Do vậy, việc xác định đối tượng, phạm vi, nội dung hoạt động thanh tra có căn cứ từ
hai phương diện:
- Mức khái quát, hệ thống quản lý cần thông tin về vấn đề gì và thanh tra đáp ứng
theo phương pháp nào lấy ngăn chặn, phòng ngừa là chính hay xử lý là chính.
- Mức cụ thể, hoạt động thanh tra thuộc quản lý nhà nước ở lĩnh vực nào thì có đối

tượng phạm vi, nội dung cụ thể theo lĩnh vực đó và điều đó được thể hiện trực tiếp thông
qua quyết định của cấp có thẩm quyền.
Năm là, sử dụng đúng quyền hạn trong hoạt động thanh tra. Quyền hạn trong hoạt
động thanh tra là yếu tố mang tính nguyên tắc đảm bảo cho thanh tra đạt được mục đích đề
ra. Hoạt động thanh tra là hoạt động nhân danh quyền lực hành chính nhà nước của cơ
quan quản lý hành chính cấp trên đối với cấp dưới. Do vậy giới hạn, phạm vi sử dụng
quyền trong thanh tra nằm trong khuôn khổ của quyền lực hành chính nhà nước. Việc sử
dụng đúng quyền hạn trong thanh tra đòi hỏi trên các khía cạnh: phạm vi, tính chất vấn đề,
hành động và không hành động trong sử dụng quyền.
Sáu là, hoạt động thanh tra không được làm cản trở hoạt động bình thường của
cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra. Đây là nguyên tắc thể hiện mối quan
hệ giữa các cơ quan thanh tra với cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra; giữa cơ
quan, tổ chức, cá nhân thực thi quyền lực nhà nước với đối tượng chịu sự quản lý.
Nhìn một cách tổng quát, mục đích cuối cùng của hoạt động thanh tra là góp phần
bảo đảm sự phát triển ổn định và lành mạnh. Chính vì vậy mà thanh tra không được làm
cản trở hoạt động của đối tượng. Các cơ quan thanh tra chỉ tiến hành thanh tra những nội
dung ghi trong quyết định thanh tra, không được tự ý mở rộng phạm vi thanh tra hoặc kéo
dài thời gian thanh tra… Việc kết luận phải chính xác, khách quan, không vì động cơ cá
nhân, không được gây khó khăn, phiền hà, sách nhiễu làm ảnh hưởng đến hoạt động bình
thường của đối tượng thanh tra. Đồng thời, cần khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp
trong hoạt động thanh tra, Luật Thanh tra năm 2010 đã quy định hoạt động thanh tra
“không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan
thực hiện chức năng thanh tra”.
-Tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai,
dân chủ, kịp thời.
Nguyên tắc “hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật”
Nó phù hợp với nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa – một nguyên tắc cơ bản của
quản lý hành chính nhà nước, hoạt động thanh tra đòi hỏi tuân thủ nguyên tắc tuân theo
pháp luật. Nguyên tăc này đặt ra hai yêu cầu sau:
• Mọi công việc cần tiến hành trong hoạt động thanh tra phải được thực hiện trên

cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành về thanh tra.
• Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật về hoạt
động thanh tra. Khi có đầy đủ những căn cứ do pháp luật quy định, cơ quan thanh tra được
quyền tiến hành hoạt động thanh tra một cách độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc can


thiệp không có căn cứ pháp luật của bất kỳ cá nhân nào đều là bất hợp pháp và tùy theo
mức độ nặng, nhẹ sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Những đòi hỏi nêu trên có nội dung rất rộng, theo đó, từ chương trình, kế hoạch
hoạt động của các tổ chức thanh tra đến việc ra quyết định thanh tra, cử Đoàn Thanh tra,
Thanh tra viên...đến việc kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong hoạt động thanh tra đều phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật hiện hành.
Trong quá trình thanh tra, kiểm tra phải tuân thủ đúng những quy định pháp luật, bảo
đảm tính độc lập, nghiêm túc khi thực hiện những thủ tục cần thiết và trong phạm vi thẩm
quyền cho phép. Cơ quan thanh tra nằm trong tổ chức của bộ máy hành chính nhà nước,
do vậy, trong tổ chức và hoạt động của mình, cơ quan thanh tra cũng chịu sự điều chỉnh
của phương pháp mệnh lệnh quyền uy. Nói cách khác, trong tổ chức và hoạt động của
mình ở một khía cạnh nào đó, cơ quan thanh tra phải phục tùng mệnh lệnh cấp trên. Mặc
dù nguyên tắc hoạt động thanh tra “… chỉ tuân theo pháp luật” (Pháp lệnh Thanh tra năm
1990); “… phải tuân theo pháp luật” (Luật Thanh tra 2004); và “…tuân theo pháp luật”
(Luật Thanh tra năm 2010) luôn được tôn trọng và áp dụng, nhưng trong quá trình hoạt
động không tránh khỏi có những lúc, những nơi hoạt động thanh tra bị tác động bởi những
cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm ảnh hưởng đến tính trung thực, khách quan
của hoạt động thanh tra.
Nguyên tắc hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật là những định hướng cơ bản,
xuyên suốt quá trình tiến hành hoạt động thanh tra, từ khi ra quyết định thanh tra, thực
hiện thanh tra và kết thúc hoạt động thanh tra. Nguyên tắc này được phản ánh vào các quy
định cụ thể về trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động thanh tra, về thẩm quyền, nghĩa vụ của
các chủ thể trong hoạt động thanh tra: trưởng đoàn, thanh tra viên, đối tượng thanh tra,…
Trong quá trình thực hiện hoạt động thanh tra, nguyên tắc hoạt động thanh tra phải

tuân theo pháp luật và cá nguyên tắc khác đóng vai trò chi phối toàn bộ các hoạt động và
đảm bảo cho kết quả hoạt động thanh tra phản ánh đúng đắn, khách quan thực tế vụ việc.
Các nguyên tắc tạo khuôn khổ, sự chuẩn mực cho các thành viên đoàn thanh tra thực hiện
đúng chức trách, nhiệm vụ của mình, đảm bảo không được lạm dụng quyền hạn, chi phối
đối tượng thanh tra để có thể làm sai lệch kết quả hoạt động thanh tra nhằm mưu lợi cá
nhân. Nguyên tắc tuân theo pháp luật sẽ theo suốt quá trình thực hiện hoạt động thanh tra,
từ khi xây dựng kế hoạch, khảo sát, ra quyết định thanh tra, tiến hành thanh tra và kết thúc
thanh tra. Tất cả các giai đoạn này, các chủ thể tiến hành hoạt động thanh tra đều phải tuân
thủ các quy định của pháp luật về thanh tra và các quy định pháp luật khác có liên quan, từ
việc thực hiện các quy định về nội dung lẫn các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành các
hoạt động thanh tra. Cụ thể:
• Trong giai đoạn chuẩn bị thanh tra : Nguyên tắc tuân theo pháp luật là nguyên tắc
chung được thể hiện ở trong tất cả các giai đoạn của hoạt động thanh tra. Mục đích của
nguyên tắc này là nhằm đảm bảo tính pháp chế xuyên suốt trong hoạt động thanh tra.
• Trong giai đoạn tiến hành thanh tra: Việc thực hiện nguyên tắc này trong giai đoạn
tiến hành thanh tra được phân tích ở các khía cạnh sau: tuân thủ về trình tự, thủ tục; tuân
thủ về thời hạn thanh tra; tuân thủ việc sử dụng đúng quyền trong hoạt động thanh tra;


• Trong

giai đoạn kết thúc thanh tra: Trong giai đoạn này nguyên tắc phải tuân theo
pháp luật được thể hiện trong việc tuân thủ đúng thời hạn ghi trong quyết định thanh tra;
tuân thủ thời hạn báo cáo kết quả thanh tra; tuân thủ về thời hạn ra kết luận thanh tra.
Ngoài ra, khi kết thúc thanh tra, Đoàn thanh tra phải thông báo với đối tượng thanh tra về
việc kết thúc thanh tra tại nơi tiến hành thanh tra. Tuy nhiên trên thực tế việc tuân thủ pháp
luật về thời hạn thanh tra thường không được các cơ quan thanh tra tuân thủ, vì trên thực
tế từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra phải làm
việc với Đoàn thanh tra, nghe đối tượng thanh tra giải trình, ý kiến của các cơ quan, tổ
chức có liên quan, ý kiến chỉ đạo của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước… nên việc

tuân thủ pháp luật về thời hạn này thường không được đáp ứng.
Nguyên tắc đảm bảo chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ,
kịp thời trong hoạt động thanh tra.
Thanh tra là hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, trên cơ sở đó đề ra những biện pháp xử lý thích hợp, đảm bảo cho
chính sách, pháp luật, kế hoạch được tôn trọng thực hiện. Mỗi kết luận, kiến nghị hay
quyết định trong hoạt động thanh tra đều rất quan trọng bởi nó phải làm rõ tính đúng sai,
nêu rõ tình hình, tính chất, hậu quả của sự việc, xác định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
nếu họ sai phạm và yêu cầu các đối tượng này có những biện pháp tích cực loại trừ những
sai phạm đó. Vì vậy, tính chính xác phải được coi là một nguyên tắc của hoạt động thanh
tra. Bản thân nguyên tắc tuân theo pháp luật trong hoạt động thanh tra đã tạo ra cơ sở quan
trọng để đảm bảo cho nguyên tắc chính xác. Điều này có nghĩa là hoạt động thanh tra phải
được tiến hành trên cơ sở có đầy đủ những căn cứ rõ ràng đã được quy định trong pháp
luật; việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn, các quyền và nghĩa vụ pháp lý khác hoàn
toàn phải phù hợp với quy định của pháp luật về hoạt động thanh tra.
Nguyên tắc khách quan trong hoạt động thanh tra đòi hỏi, mọi công việc tiến hành
trong hoạt động này phải xuất phát từ thực tiễn quản lý hành chính nhà nước. Mọi quyết
định, kết luận hay kiến nghị trong hoạt động thanh tra đều phải xuất phát từ thực tiễn
khách quan đó chứ không phải là kết quả của việc suy diễn chủ quan, hời hợt hay mang
tính áp đặt. Muốn khách quan trong hoạt động thanh tra, cán bộ thanh tra phải có trình
độ hiểu biết về chính trị, pháp luật, am hiểu chuyên môn nghiệp vụ để có thể độc lập,
khách quan trong suy nghĩ và hành động của mình.
Công khai, dân chủ là bản chất chế độ xã hội của chúng ta và nó cũng đã trở thành
một nguyên tắc trong hoạt động thanh tra. Các quy định pháp luật về cơ cấu, tổ chức,
nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục thanh tra đều thể hiện rõ nét những nội dung của
nguyên tắc công khai, dân chủ. Nguyên tắc công khai, dân chủ đòi hỏi:
- Nội dung các công việc của hoạt động thanh tra phải được thông báo một cách đầy
đủ và rộng rãi cho mọi đối tượng có liên quan biết;
- Cơ quan thanh tra phải có trách nhiệm thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tích
cực tham gia vào hoạt động thanh tra, đảm bảo phát huy mạnh mẽ tính dân chủ của hoạt

động này;


- Các kết luận, kiến nghị, quyết định về thanh tra trong hoạt động thanh tra được
thông báo công khai cho các đối tượng có liên quan biết.
Kịp thời là một yêu cầu mang tính đặc thù trong phương pháp hoạt động của thanh
tra. Yêu cầu này nhằm đảm bảo phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời những việc làm vi
phạm pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và các cá nhân
trong xã hội. Nguyên tắc kịp thời trong hoạt động thanh tra đòi hỏi:
- Khi có đầy đủ cơ sở tiến hành thanh tra, tổ chức thanh tra có thẩm quyền phải nhanh
chóng tiến hành hoạt động thanh tra theo đúng quy định của pháp luật;
- Mọi công việc cần tiến hành trong hoạt động thanh tra đều phải thực hiện trong thời
hạn được pháp luật quy định.
Nguyên tắc: Không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh
tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động
bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.


Theo nguyên tắc này: Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước cần nghiên cứu, xem
xét kỹ các căn cứ và những điều kiện khác có liên quan trước khi ra quyết định thanh tra
và thành lập Đoàn Thanh tra để tránh trùng lặp, cố gắng tránh hiện tượng có thể xảy ra là 1
năm liên tiếp có nhiều Đoàn kiểm tra, thanh tra đến 1cơ quan, đơn vị, nhất là thanh tra,
kiểm tra về cùng 1 nội dung. Trong quá trình thanh tra, kiểm tra, Trưởng đoàn và các thành
viên Đoàn Thanh tra cần thực hiện đúng kế hoạch thanh tra, đúng quyền hạn, trình tự thủ tục và
đúng thời gian, thời hiệu thanh tra.
Thực hiện hoạt động thanh tra nhằm góp phần đảm bảo tuân thủ pháp chế và kỷ luật
nhà nước, tăng cường hiệu quả, hiệu lực hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Pháp luật
trao cho cơ quan thanh tra những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt để tiến hành hoạt động
thanh tra nhằm đạt được mục tiêu quan trọng nêu trên. Tuy nhiên, khi tiến hành hoạt động
thanh tra, trong đó có việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt này, cơ quan thanh tra

phải đảm bảo không cản trở đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, đơn vị
và cá nhân là đối tượng thanh tra. Có như vậy, thanh tra mới thực sự là công cụ để củng cố
và tăng cường pháp chế và kỷ luật nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Nguyên tắc không cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra có ý nghĩa thực
tiễn rất quan trọng, đặc biệt khi trên thực tế xuất hiện tình trạng một bộ phận cán bộ thanh
tra lợi dụng việc thanh tra để thực hiện nhưng hành vi tiêu cực, gây ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động của đối tượng thanh tra, đặc biệt là của các đơn vị thực hiện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh.
Nguyên tắc này cũng lấy nguyên tắc tuân theo pháp luật làm cơ sở để đảm bảo thực
hiện. Luật Thanh tra đã quy định những hành vi bị nghiêm cấm trong quá trình tổ chức
thực hiện hoạt động thanh tra, trong đó có những hành vi bị cấm nhằm đảm bảo thực hiện
nguyên tắc không cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra. Khoản 1, Điều
13 Luật Thanh tra cấm “ lợi dụng chức vụ, quyền hạn thanh tra để thực hiện hành vi trái
pháp luật, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra”.
Câu 4: Khái niệm, vai trò và ý nghĩa của hình thức thanh tra. Có những hình
thức thanh tra nào?
Điều 37 Luật Thanh tra năm 2010 quy định có 3 hình thức thanh tra: Thanh tra được
thực hiện theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên hoặc thanh tra đột xuất.
Điều 34 Luật Thanh tra năm 2004 quy định có 2 hình thức thanh tra: Thanh tra theo
chương trình, kế hoạch và thanh tra đột xuất.
So với Luật Thanh tra 2004 thực hiện dưới hình thức thanh tra theo chương trình,
kế hoạch và thanh tra đột xuất thì ở Luật Thanh tra 2010 có thêm hình thức thanh tra
thường xuyên là điểm mới so với Luật Thanh tra 2004.
* Phân biệt sự khác nhau giữa thanh tra thường xuyên với thanh tra theo kế hoạch:
Thanh tra thường xuyên
Thanh tra theo kế hoạch
Thanh tra thường xuyên được tiến hành
Thanh tra theo kế hoạch được tiến hành
trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của cơ quan theo kế hoạch đã được phê duyệt.



được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành.
Là hoạt động thanh tra thường xuyên của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo
ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong việc chấp hành pháp luật
chuyên ngành, quy định về chuyên mônkỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh
vực đó.
Cơ quan được giao thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành thường xuyên là cơ
quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước
theo ngành, lĩnh vực, bao gồm tổng cục, cục
thuộc bộ, chi cục thuộc sở được giao thực
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.
Cơ quan được giao thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành không thành lập
cơ quan thanh tra chuyên ngành độc lập.
Thẩm quyền ra quyết định thanh tra
thường xuyên: Chánh Thanh tra bộ, Chánh
Thanh tra sở, Thủ trưởng cơ quan được giao
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành
ra quyết định thanh tra.
Quyết định thanh tra phải được công bố
cho đối tượng thanh tra ngay khi tiến hành
thanh tra.

Là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức,
cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính

sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được
giao.

Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh
tra theo kế hoạch là những cơ quan Thanh tra
Chính phủ; Thanh tra Bộ, cơ quan ngang bộ;
Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; Thanh tra huyện, quận, thị xã.
Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh
tra theo kế hoạch được thành lập cơ quan
thanh tra độc lập.
Thẩm quyền ra quyết định thanh tra kế hoạch:
Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước ra
quyết định thanh tra.

Quyết định thanh tra phải được công bố chậm
nhất là 15 ngày, kể từ ngày ký quyết định
thanh tra.

Câu 5: Khái niệm phương pháp thanh tra. Phương pháp thanh tra có vai trò
như thế nào đối với hoạt động thanh tra? Phân tích thông qua ví dụ thực tiễn.
CÂU 9 đề cương 2
Phương pháp là lề lối, là cách thức phải theo để tiến hành công tác với kết quả tốt nhất.
Phương pháp thanh tra là cách thức để tiến hành một cuộc thanh tra đạt kết quả tốt
nhất.
Câu 6: Để sử dụng có hiệu quả các phương pháp thanh tra cần chú ý những
điểm gì? Hãy nêu kinh nghiệm của bản thân về việc sử dụng phương pháp trong hoạt
động thanh tra.
Câu 7: Phân tích nhiệm vụ và quyền hạn của Tổng thanh tra Chính phủ,
Chánh thanh tra cấp tỉnh, Chánh thanh tra cấp huyện. Từ đó rút ra những điểm

khác biệt về nhiệm vụ và quyền hạn của Tổng thanh tra Chính phủ, Chánh thanh tra
cấp tỉnh, Chánh thanh tra cấp huyện.
Luật thanh tra 2010
Điều 16. Nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng Thanh tra Chính phủ


1. Tổng Thanh tra Chính phủ có nhiệm vụ sau đây:
a) Lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra công tác thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước
của Chính phủ; lãnh đạo Thanh tra Chính phủ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy
định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
b) Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Định hướng chương trình thanh tra và tổ
chức triển khai Định hướng chương trình thanh tra;
c) Chủ trì xử lý việc chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra
giữa các Thanh tra bộ; giữa Thanh tra bộ với Thanh tra tỉnh;
d) Xem xét xử lý vấn đề mà Chánh Thanh tra bộ không nhất trí với Bộ trưởng,
Chánh Thanh tra tỉnh không nhất trí với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về công tác
thanh tra. Trường hợp Bộ trưởng không đồng ý với kết quả xử lý của Tổng Thanh tra
Chính phủ thì Tổng Thanh tra Chính phủ báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết
định.
2. Tổng Thanh tra Chính phủ có quyền hạn sau đây:
a) Quyết định việc thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và chịu
trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về quyết định của mình;
b) Quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Bộ trưởng kết luận nhưng phát hiện có
dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Thủ tướng Chính phủ giao; quyết định thanh tra lại
vụ việc đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu
vi phạm pháp luật;
c) Đề nghị Bộ trưởng, yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tiến hành thanh
tra trong phạm vi quản lý của bộ, của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh khi phát hiện có dấu hiệu
vi phạm pháp luật; trường hợp Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh không đồng
ý thì có quyền ra quyết định thanh tra, báo cáo và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính

phủ về quyết định của mình;
d) Kiến nghị Bộ trưởng đình chỉ việc thi hành hoặc hủy bỏ quy định do bộ đó ban
hành trái với quy định của cơ quan nhà nước cấp trên, của Tổng Thanh tra Chính phủ về
công tác thanh tra; trường hợp Bộ trưởng không đình chỉ hoặc không hủy bỏ văn bản đó
thì trình Thủ tướng Chính phủ quyết định;
đ) Đình chỉ việc thi hành và đề nghị Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ quy định của Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trái với quy định của cơ quan
nhà nước cấp trên, của Tổng Thanh tra Chính phủ về công tác thanh tra;
e) Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành quy
định cho phù hợp với yêu cầu quản lý; kiến nghị đình chỉ hoặc hủy bỏ quy định trái pháp
luật phát hiện qua công tác thanh tra;


g) Kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét trách nhiệm, xử lý người thuộc quyền
quản lý của Thủ tướng Chính phủ có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra
hoặc không thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra; yêu cầu người đứng đầu cơ
quan, tổ chức xem xét trách nhiệm, xử lý người thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức
có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra hoặc không thực hiện kết luận, quyết
định xử lý về thanh tra.
Điều 22. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh Thanh tra tỉnh
1. Chánh Thanh tra tỉnh có nhiệm vụ sau đây:
a) Lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra công tác thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước
của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; lãnh đạo Thanh tra tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo
quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
b) Chủ trì xử lý việc chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra
giữa các Thanh tra sở, giữa Thanh tra sở với Thanh tra huyện; chủ trì phối hợp với Chánh
Thanh tra bộ xử lý việc chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra
trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
c) Xem xét xử lý vấn đề mà Chánh Thanh tra sở không nhất trí với Giám đốc sở,
Chánh Thanh tra huyện không nhất trí với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện về công

tác thanh tra. Trường hợp Giám đốc sở không đồng ý với kết quả xử lý của Chánh Thanh
tra tỉnh thì Chánh Thanh tra tỉnh báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét,
quyết định.
2. Chánh Thanh tra tỉnh có quyền hạn sau đây:
a) Quyết định việc thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và chịu
trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về quyết định của mình;
b) Quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Giám đốc sở kết luận nhưng phát hiện
có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao; quyết
định thanh tra lại vụ việc đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện kết luận nhưng
phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật;
c) Yêu cầu Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thanh tra trong phạm
vi quản lý của sở, Ủy ban nhân dân cấp huyện khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp
luật; trường hợp Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện không đồng ý thì có
quyền ra quyết định thanh tra, báo cáo và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh về quyết định của mình;
d) Kiến nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết vấn đề về công tác thanh
tra; trường hợp kiến nghị đó không được chấp nhận thì báo cáo Tổng Thanh tra Chính phủ;
đ) Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành quy
định cho phù hợp với yêu cầu quản lý; kiến nghị đình chỉ hoặc hủy bỏ quy định trái pháp
luật phát hiện qua công tác thanh tra;


×