BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
………/.……………
BỘ NỘI VỤ
…../ ….
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ MINH
PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP – LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật hành chính
Mã số: 60 38 01 02
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HIẾN PHÁP
- LUẬT HÀNH CHÍNH
BUÔN MA THUỘT, NĂM 2017
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA - PHÂN VIỆN
KHU VỰC TÂY NGUYÊN
Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS. NGUYỄN BÁ CHIẾN
Phản biện 1: Tiến sỹ Nguyễn Minh Sản
Phản biện 2: Tiến sỹ Đỗ Văn Dương
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sỹ, Học viện Hành
chính Quốc gia
Địa điểm: Giảng đường số 04 - Phân viện khu vực Tây Nguyên.
Số 51 Phạm Văn Đồng, T.P Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Thời gian: vào hồi 13 giờ 30’ ngày 29 tháng 5 năm 2017
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
hoặc trên trang Web Khoa Sau Đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
An toàn thực phẩm là một trong những vấn đề mà Đảng, Nhà nước ta từ lâu đã
đặc biệt quan tâm và coi đây là một vấn đề có ý nghĩa lớn về kinh tế - xã hội, về an
toàn xã hội, sức khoẻ cộng động, về bảo vệ môi trường và cũng là vấn đề có ảnh
hưởng lớn đến tiến trình hội nhập của Việt Nam. Do vậy, Đảng và Nhà nước ta
thường xuyên chỉ đạo và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về ATTP,
không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm,
bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
Vấn đề ATTP trở thành đề tài nóng tại các diễn đàn, hội nghị, phiên họp quan
trọng của quốc hội, chính phủ và trở thành vấn đề gây lo lắng, bức xúc trong quần
chúng nhân dân. Thời gian qua, báo chí, truyền thông đưa tin lực lượng chức năng đã
kịp thời phát hiện và ngăn chặn hàng loạt các vụ vận chuyển thực phẩm hôi thối,
nhiễm khuẩn đi tiêu thụ; bên cạnh đó vì mục tiêu lợi nhuận các nhà sản xuất, kinh
doanh đã sử dụng nhiều loại hóa chất, chất phụ gia bị cấm để chăn nuôi, trồng trọt,
chế biến, bảo quản thực phẩm. Mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật trong đó có Luật an toàn thực phẩm; Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Luật
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; sửa đổi, bổ sung một số điều về vi phạm VSATTP
trong Bộ luật hình sự … cùng hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về an toàn thực
phẩm được hình thành từ trung ương đến cơ sở. Song nhiều hành vi sản xuất, kinh
doanh vi phạm về ATTP vẫn xảy ra, thậm chí ngày càng gia tăng, trong đó có địa bàn
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Thực trạng trên cho thấy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện cả về
cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật về ATTP dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật
Hành chính nhằm đánh giá những ưu điểm, những hạn chế, vướng mắc, đồng thời
đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về ATTP là rất cần thiết và khách quan, đáp
ứng yêu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới. Vì
vậy, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật về An toàn thực phẩm - Từ thực tiễn
Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk” để làm Luận văn tốt nghiệp lớp Cao học
Luật, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Đã có một số nghiên cứu quy mô trong thời gian gần đây như: “Tội vi phạm
quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm trong Luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Trí Ngọc, năm 2009, Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; “Pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm
trong hoạt động thương mại ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Đặng Công
Hiển năm 2010, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; “Thi hành pháp luật về vệ
sinh an toàn thực phẩm ở cấp Phường trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc
sỹ của tác giả Trần Mai Vân năm 2013, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội…
3
Nhìn chung, những công trình trên đã tập trung nghiên cứu một số quy định
của pháp luật về ATTP, việc tổ chức thực hiện pháp luật về ATTP, phân tích, làm rõ
những hạn chế, bất cập trong thực thi pháp luật về ATTP. Tuy nhiên chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách hệ thống thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật
về an toàn thực phẩm. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Pháp luật về An toàn thực phẩm
- Từ thực tiễn Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk” của tác giả là hoàn toàn
mới, chưa có một công trình nào nghiên cứu.
3. Mục tiêu nghiên cứu: Từ việc phân tích những vấn đề lý luận của pháp luật
về ATTP, phân tích thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về ATTP trên địa bàn
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, đánh giá những ưu điểm, hạn chế, tồn tại
và nguyên nhân để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về ATTP, nâng
cao chất lượng đảm bảo ATTP từ thực tiễn Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu pháp luật về ATTP và thực hiện
pháp luật về an toàn thực phẩm theo quy định của Luật An toàn thực phẩm năm 2010
và các văn bản hướng dẫn, triển khai thực hiện của các ngành chức năng đối với công
tác bảo đảm an toàn thực phẩm.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực hiện
pháp luật về ATTP trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk giai đoạn
2011-2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ
nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về an toàn thực phẩm.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, phân
tích, tổng hợp, kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài các nội dung: lời cam đoan, danh mục từ viết tắt, danh mục các biểu đồ,
mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; nội dung chính của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về an toàn thực phẩm
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm
trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về an toàn thực phẩm
từ thực tiễn Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
4
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
CỦA PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm an toàn thực phẩm
Thực phẩm là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua
sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các
chất sử dụng như dược phẩm. Mỗi loại thực phẩm đều có quy định riêng về ngưỡng
an toàn và khi thực phẩm chứa những yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe con người thì
thực phẩm đó không còn an toàn. ATTP là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại
đến sức khỏe, tính mạng con người. Đảm bảo an toàn thực phẩm là toàn bộ những
vấn đề cần xử lý liên quan đến việc đảm bảo vệ sinh đối với thực phẩm nhằm đảm
bảo cho sức khỏe của người tiêu dùng.
1.1.2. Khái niệm pháp luật về an toàn thực phẩm
Pháp luật về an toàn thực phẩm là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc
chung do nhà nước đặt ra và bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực an toàn thực phẩm. Pháp luật an toàn thực phẩm là toàn bộ
các văn bản luật và dưới luật, các thông tư, nghị định có liên quan điều chỉnh những
vấn đề xã hội phát sinh trong lĩnh vực an toàn thực phẩm.
1.1.3. Khái niệm thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm
Thực hiện pháp luật là hành vi xử sự của con người được tiến hành phù hợp
với yêu cầu của các quy phạm pháp luật. Thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm là
việc các chủ thể pháp luật về an toàn thực phẩm phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý của
mình bằng hành động tích cực và chủ động. Theo đó thực hiện pháp luật về an toàn
thực phẩm là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật
về an toàn thực phẩm đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp
của các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tiếp cận dưới góc độ thực tiễn, thực hiện pháp
luật về an toàn thực phẩm thể hiện qua các hình thức sau: ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật triển khai thực hiện; tổ chức bộ máy, con người, tài chính để thực
hiện; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về ATTP; phân công, phối
hợp triển khai thực hiện; việc giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử phạt hành chính, cưỡng
chế các hành vi vi phạm pháp luật về ATTP để bảo đảm ATTP.
1.2. Nội dung chủ yếu của pháp luật về an toàn thực phẩm và thực hiện
pháp luật về an toàn thực phẩm
1.2.1. Nội dung chủ yếu của Pháp luật về an toàn thực phẩm
Luật An toàn thực phẩm được Quốc hội thông qua ngày 28/06/2010 và có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/07/2011, có 11 chương và 72 điều, gồm các nội dung cơ bản
5
sau: quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong bảo đảm an toàn thực
phẩm; điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm, sản xuất, kinh doanh thực phẩm
và nhập khẩu, xuất khẩu thực phẩm; quảng cáo, ghi nhãn thực phẩm; kiểm nghiệm
thực phẩm; phân tích nguy cơ đối với an toàn thực phẩm; phòng ngừa, ngăn chặn và
khắc phục sự cố về an toàn thực phẩm; thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn
thực phẩm; trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.
Sau khi Luật An toàn thực phẩm có hiệu lực thi hành, Đảng, Nhà nước, Chính
phủ, các bộ, ngành, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, làm cơ sở
cho việc tổ chức triển khai thực hiện Luật an toàn thực phẩm. Cùng với việc ban hành
Luật ATTP, nhiều luật, pháp lệnh mới hoặc sửa đổi, bổ sung có liên quan tới công tác
đảm bảo ATTP như: Luật Thương mại, Luật Tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật, Luật
Chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật Quảng cáo …
Hệ thống các văn bản trên đã tạo hành lang pháp lý giúp cho việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật về ATTP, điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực ATTP, kiểm
soát chất lượng thực phẩm, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về ATTP và hội nhập
quốc tế.
1.2.2. Thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm
Sau khi Luật an toàn thực phẩm có hiệu lực thi hành, ngoài việc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn việc triển khai tổ chức thực hiện thì Chính
phủ, các bộ ngành có liên quan cũng tiến hành đồng loạt các hoạt động triển khai thực
hiện pháp luật về an toàn thực phẩm, cụ thể:
* Thành lập các cơ quan chuyên môn, giúp việc, hệ thống kiểm nghiệm ATTP:
Hệ thống tổ chức này giúp cho việc thực thi quản lý nhà nước theo chuỗi và giúp
kiểm soát an toàn thực phẩm tại nơi phát sinh ra mối nguy.
+ Ở cấp Trung ương:
Tại Bộ Y tế, Cục An toàn thực phẩm được thành lập để giúp Bộ Y tế thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về ATTP.
Tại Bộ Công thương, công tác quản lý ATTP giao cho Vụ Khoa học và Công
nghệ làm đầu mối, ngoài ra còn có Cục Quản lý Thị trường.
Tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, do tính chất đa ngành, thành lập
Cục Trồng trọt, Cục Bảo vệ thực vật, Cục Quản lý chất lượng nông lâm, thủy sản,
Cục Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối là các đơn vị được giao chức năng,
nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ NN&PTNT thực hiện quản lý nhà nước về an toàn thực
phẩm nông nghiệp. Tại các đơn vị này đều có bộ phận chức năng (phòng, trung tâm)
thực hiện quản lý về an toàn thực phẩm theo chuỗi sản phẩm rau, củ, quả và chè. Cục
Trồng trọt có 02 Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng và Trung
tâm Khảo kiểm nghiệm phân bón; Cục Bảo vệ thực vật có Phòng quản lý an toàn
6
thực phẩm và Môi trường, 09 Chi cục Kiểm dịch thực vật vùng với hơn 80 trạm
Kiểm dịch thực vật tại các cửa khẩu thực hiện công tác kiểm dịch thực vật và kiểm
tra an toàn thực phẩm đối với hàng hóa thực phẩm có nguồn gốc thực vật xuất khẩu,
nhập khẩu; 04 Trung tâm bảo vệ thực vật vùng thực hiện dự tính, dự báo và giám sát
sinh vật có hại trên đồng ruộng; 02 trung tâm Kiểm định và khảo nghiệm thuốc bảo
vệ thực vật đạt tiêu chuẩn ISO/IEC 17025, thực hiện nhiệm vụ kiểm định chất lượng
thuốc bảo vệ thực vật và phân tích dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kim loại nặng, vi
sinh vật, aflatoxin trong thực phẩm. Cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy
sản có Phòng Quản lý chất lượng nông lâm sản, Phòng Quản lý kiểm nghiệm và nguy
cơ an toàn thực phẩm, 02 cơ quan Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản
Trung Bộ và Nam Bộ đặt tại Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh, 07 Trung tâm
chất lượng nông lâm thủy sản của các vùng đặt tại 07 tỉnh, thành phố trong cả nước;
Cục Chế biến nông lâm thủy sản và Nghề muối có Phòng Chế biến và bảo quản Nông
sản.
+ Tại các địa phương:
Thực hiện Quyết định số 809/QĐ-TTg ngày 30/5/2011 của Thủ tướng Chính
phủ, đến nay 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã thành lập Chi cục Quản
lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản. Ngoài ra các Chi cục thú y, bảo vệ thực vật,
thủy sản cũng tham gia triển khai quản lý, kiểm tra chất lượng an toàn thực phẩm
nông, lâm, thủy sản theo phân công của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Hệ
thống thanh tra chuyên ngành chất lượng an toàn thực phẩm đã đi vào hoạt động ở
hầu hết các địa phương.
Trong lĩnh vực y tế, tại tuyến tỉnh, thực hiện Nghị định 79/2008/NĐ-CP của
Chính phủ, đến nay đã có 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành lập Chi
cục An toàn vệ sinh thực phẩm; tại cấp huyện, công tác quản lý về an toàn thực phẩm
giao cho phòng kinh tế hoặc phòng kinh tế - nông nghiệp, phòng y tế hoặc trung tâm
y tế huyện đảm nhận. Tại cấp xã có 01 cán bộ y tế kiêm nhiệm giúp UBND xã về an
toàn thực phẩm. UBND xã, phường đều có Ban Chỉ đạo vệ sinh ATTP.
Về hệ thống kiểm nghiệm: có 01 Viện Kiểm nghiệm An toàn vệ sinh thực
phẩm quốc gia - là cơ quan trọng tài trong lĩnh vực kiểm nghiệm ATTP, 03 trung tâm
kiểm nghiệm khu vực, 14 cơ quan kiểm tra nhà nước về thực phẩm nhập khẩu và
phòng kiểm nghiệm thuộc 63 trung tâm y tế dự phòng các tỉnh/thành phố. Đến nay,
42/63 tỉnh/thành phố có phòng kiểm nghiệm được công nhận phù hợp ISO/IEC
17025.
* Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về an toàn thực phẩm
Hoạt động tuyên truyền, giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng luôn
được Bộ Y tế quan tâm và đẩy mạnh, đặc biệt tập trung vào dịp Tết Nguyên đán,
Tháng hành động vì ATTP và Tết Trung thu. Công tác tuyên truyền đã giúp nâng cao
nhận thức, thực hành về ATTP của các nhóm đối tượng. Những thông tin về điều
7
kiện của cơ sở sản xuất thực phẩm không đảm bảo an toàn, những sản phẩm thực
phẩm không an toàn hoặc những hành động gian dối, kiếm lợi bất chính mà hệ lụy là
thực phẩm không an toàn được đưa tin hàng ngày với mức độ ngày càng gia tăng.
Công tác tuyên truyền đã giúp nâng cao nhận thức, thực hành về ATTP của các nhóm
đối tượng. Theo kết quả điều tra kiến thức hàng năm với cùng 1 đối tượng, năm 2015
so với năm 2012, kiến thức của người sản xuất tăng từ 76% lên 81,9%, kiến thức của
người kinh doanh tăng từ 73% lên 84,6%; kiến thức của người tiêu dùng tăng từ
65,8% lên 82,5%. Đặc biệt với khuyến cáo “hãy là người tiêu dùng thông thái” đã tác
động đến ý thức, trách nhiệm của người dân trong lựa chọn và đấu tranh với thực
phẩm không an toàn.
* Tổ chức thanh tra, kiểm tra việc triển khai thực hiện các quy định của pháp
luật về an toàn thực phẩm
Công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường, giúp ngăn chặn, xử lý nhiều vụ
vi phạm về ATTP góp phần làm cho thị trường thực phẩm an toàn hơn. Công tác
thanh, kiểm tra về ATTP hàng năm được thực hiện theo Kế hoạch của Ban Chỉ đạo
liên ngành Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện về ATTP, trong đó tập trung nhiều vào
dịp Tết Nguyên đán, Tháng hành động vì ATTP và Tết Trung thu. Trong giai đoạn
2011-2016, cả nước đã thành lập được 153.493 đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành
tiến hành kiểm tra tại 3.350.035 cơ sở, phát hiện 678.755 cơ sở vi phạm.
Việc áp dụng các chế tài xử phạt đã được đẩy mạnh qua các năm, tỷ lệ cơ sở bị
phạt tiền tăng từ 30,0% năm 2011 lên 67,1% trong năm 2016. Kết quả xử phạt đã thể
hiện tính răn đe cao đối với các cơ sở cố ý vi phạm các quy định về ATTP. Hầu hết
các trường hợp vi phạm đã được thông báo công khai, kịp thời trên các phương tiện
thông tin đại chúng theo đúng quy định.
Trong quá trình thanh tra, kiểm tra, các đoàn đã tiến hành lấy mẫu kiểm
nghiệm. Kết quả kiểm nghiệm đã góp phần tích cực giúp các địa phương đưa ra các
biện pháp quản lý phù hợp, đồng thời cảnh báo mối nguy và triển khai việc thanh tra
dựa trên nguy cơ đạt hiệu quả.
1.3. Sự cần thiết và vai trò của pháp luật về an toàn thực phẩm trong đời
sống xã hội Việt Nam hiện nay
1.3.1. Sự cần thiết của pháp luật về an toàn thực phẩm trong đời sống xã hội
Việt Nam hiện nay
ATTP ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của người dân, xâm hại
đến quyền lợi của người tiêu dùng. Vì thế ATTP từ lâu luôn là mối quan tâm hàng
đầu của Đảng và Nhà nước ta. Giữ được ATTP trước hết nhằm bảo đảm cho phát
triển sản xuất, phát triển kinh tế; thứ hai là bảo đảm cho sức khỏe, thể chất và tầm
vóc người Việt Nam, hạn chế các bệnh truyền qua thực phẩm; thứ ba, ATTP bảo đảm
cho một môi trường sống trong lành, thu hút đầu tư, khách du lịch và cũng là vấn đề
có ảnh hưởng lớn đến tiến trình hội nhập của Việt Nam. Do vậy cần thiết phải có các
8
quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra và bảo đảm thực hiện, nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, tạo lập trật
tự, ổn định xã hội.
Mặt khác, Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) từ ngày 01/01/2007, nên phải từng bước tuân thủ các hiệp định của Tổ
chức này, trong đó có các dịch vụ về y tế. Bên cạnh đó, trong điều kiện hội nhập, cần
thiết phải có cơ chế pháp lý về việc thừa nhận tiêu chuẩn lẫn nhau giữa Việt Nam và
các quốc gia trong khu vực, cũng như thế giới, đặc biệt là việc áp dụng các hệ thống
quản lý tiên tiến trong quản lý an toàn thực phẩm. Như vậy, các yêu cầu trên cho
thấy, Việt Nam cần phải nội luật hóa các quy định của WTO, WHO, FAO,
CODEX…về ATTP để có cơ sở pháp lý thực hiện tại Việt Nam.
1.3.2. Vai trò của pháp luật về an toàn thực phẩm trong đời sống xã hội Việt
Nam hiện nay:
Bảo đảm an toàn thực phẩm một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, vừa cấp bách,
vừa lâu dài của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cấp ủy, tổ chức đảng, chính
quyền các cấp, trước hết là của người đứng đầu; là chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội
hằng năm ở các cấp. Vì thế pháp luật về ATTP đóng vai trò, vị trí quan trọng trong
công tác bảo đảm ATTP, thể hiện qua những điểm sau:
Thứ nhất, Pháp luật về an toàn thực phẩm có vai trò quan trọng trong việc
đảm bảo thực hiện các quy chuẩn, tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, đồng thời công
nhận những thực phẩm đạt chuẩn bảo đảm an toàn
Thứ hai, Pháp luật về an toàn thực phẩm có vai trò quan trọng trong việc ngăn
chặn các hành vi vi phạm an toàn thực phẩm
Thứ ba, Pháp luật về an toàn thực phẩm có vai trò quan trọng trong việc nâng
cao nhận thức của xã hội về vấn đề an toàn thực phẩm.
9
Chương 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN
THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT,
TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật
về an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
Thành phố Buôn Ma Thuột là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Đắk Lắk, là thành
phố trung tâm cấp vùng tây nguyên, có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng
của vùng và cả nước. Nằm trên trục đường Quốc lộ 14, nối liền Đà Nẵng - Thành phố
Hồ Chí Minh, đã tạo điều kiện cho Buôn Ma Thuột tiếp cận nhanh chóng với các
trung tâm kinh tế - chính trị của cả nước và trở thành đầu mối giao lưu quan trọng của
tỉnh và cả vùng Tây Nguyên, thúc đẩy các hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa bàn
Thành phố phát triển.
Tuy nhiên trong cơ cấu kinh tế của Thành phố, nông nghiệp vẫn chiếm ưu thế;
lực lượng lao động tuy dồi dào nhưng phương tiện, kỹ thuật lao động còn đơn giản,
lạc hậu vì vậy việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, nâng
cao năng xuất, chất lượng sản phẩm còn hạn chế; phần lớn cơ sở sản xuất, kinh doanh
thực phẩm trên địa bàn Thành phố nhỏ lẻ, kinh doanh theo quy mô hộ gia đình do đó
việc đầu tư cơ sở vật chất nhằm đáp ứng đầy đủ các quy định về điều kiện sản xuất,
kinh doanh theo quy định là khó khả thi; một số cơ sở sản xuất, kinh doanh do nhận
thức còn hạn chế, thiếu hiểu biết, chạy theo lợi nhuận nên chưa thực hiện tốt
VSATTP. Thành phố Buôn Ma Thuột là đô thị miền núi có dân số lớn nhất Việt
Nam, mặt bằng dân trí thấp, là địa bàn sinh sống của nhiều dân tộc anh em, với phong
tục, tập quán, văn hóa đa dạng, đời sống kinh tế còn khó khăn, đặc biệt là đối với
đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Do đó hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về an toàn thực phẩm còn hạn chế, chưa tạo được sự chuyển biến
trong nhận thức làm thay đổi hành vi chấp hành các quy định về VSATTP. Bên cạnh
đó đội ngũ cán bộ, công chức của Thành phố còn hạn chế cả về số lượng và chất
lượng; đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về ATTP phần lớn không có trình độ chuyên
môn, chưa qua đào tạo về nghiệp vụ ATTP lại kiêm nhiệm nhiều việc nên việc hiểu
và áp dụng pháp luật về ATTP còn hạn chế; tình hình an ninh chính trị trên địa bàn
còn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định.... những nguyên
nhân trên ít nhiều ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm trên địa
bàn Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
2.2. Phân tích thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về an toàn thực
phẩm trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột
2.2.1. Thực trạng pháp luật về an toàn thực phẩm
Công tác đảm bảo ATTP trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói chung và Thành phố
Buôn Ma Thuột nói riêng trong thời gian qua đã nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối hợp của Mặt trận, các tổ chức đoàn thể
10
và quần chúng nhân dân. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk đã ban hành Kế hoạch số
20-KH/TU ngày 01/12/2011 triển khai thực hiện Chỉ thị số 08-CT/TW của Ban Bí
thư về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm trong tình
hình mới ”. UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành Kế hoạch số 4118/KH-UBND ngày
25/7/2012 triển khai thực hiện Kế hoạch số 20 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; ban hành
Chiến lược quốc gia an toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030 trên
địa bàn tỉnh, giai đoạn 2012-2015; Chỉ thị số 12/CT-UBND năm 2014 của Chủ tịch
UBND tỉnh Đắk Lắk về việc tăng cường công tác quản lý chất lượng vật tư nông
nghiệp, ATTP nông lâm thủy sản trên địa bàn Tỉnh và các văn bản phân định trách
nhiệm, cơ chế phối hợp cụ thể cho từng lĩnh vực.
* Trên cơ sở phân định thẩm quyền của UBND Tỉnh, UBND Thành phố Buôn
Ma Thuột đã cụ thể hóa công tác quản lý nhà nước về ATTP cho các phòng chức
năng của UBND Thành phố cụ thể như sau:
+ Đối với lĩnh vực ATTP do ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn quản
lý: Giao Phòng Kinh tế Thành phố có trách nhiệm phối hợp với Sở NN&PTNT Tỉnh
và các đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ATTP thuộc Sở NN&PTNT
Tỉnh, quản lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh, vật tư nông nghiệp và thực phẩm nông
lâm thủy sản đóng trên địa bàn Thành phố, trong đó chú trọng các cơ sở sản xuất, chế
biến, rang xay cà phê, nhằm giữ vững uy tín, thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột đối
với thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước.
Phòng Kinh tế Thành phố đang triển khai thực hiện Công văn số 1960/UBNDVP ngày 18/9/2015 của UBND Thành phố về việc rà soát, thống kê các loại hình cơ
sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ theo Thông tư số 51/TT-BNNPTNT ngày 27/12/2014 của
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn; tổ chức tập huấn, hướng dẫn điều kiện đảm
bảo ATTP đối với từng loại hình cơ sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ, thực hiện ký cam kết
với từng cơ sở. Dự kiến triển khai ký cam kết sản xuất thực phẩm an toàn và tổ chức
kiểm tra việc thực hiện nội dung đã cam kết của các cơ sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ
trong năm 2017.
+ Đối với lĩnh vực ATTP do ngành y tế quản lý: Ngày 08/4/2015 UBND
Thành phố Buôn Ma Thuột ban hành Công văn số 597/UBND-YT giao Phòng Y tế
Thành phố quản lý các cơ sở kinh doanh ăn uống, bếp ăn tập thể có quy mô suất ăn
nhỏ, vừa từ 50-200 suất ăn/lần phục vụ; ký cam kết đảm bảo an toàn thực phẩm đối
với các bếp ăn tập thể tại các trường học có suất ăn phục vụ dưới 200 suất/lần phục
vụ và xác nhận kiến thức an toàn thực phẩm cho chủ cơ sở, người trực tiếp chế biến
và kinh doanh thực phẩm tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống.
+ Đối với lĩnh vực ATTP do ngành công thương quản lý: do các văn bản phân
cấp, hướng dẫn triển khai thực hiện của Trung ương chậm ban hành nên một số lĩnh
vực đến cuối năm 2016, đầu năm 2017 UBND Tỉnh mới phân cấp về cho UBND cấp
huyện.
* Công tác phối hợp thực hiện:
11
Để phối hợp, chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả các hoạt động bảo đảm
ATTP trên địa bàn, UBND Thành phố đã ban hành quy chế phối hợp liên ngành giữa
các phòng, ban Thành phố với Ủy ban nhân dân các phường, xã và các đơn vị liên
quan trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn Thành phố.
Thực hiện Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 15/4/1999 của Thủ tướng Chính phủ về
việc “tăng cường công tác bảo đảm chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm”, Thành
phố đã thành lập Ban chỉ đạo Vệ sinh an toàn thực phẩm (còn gọi là Ban chỉ đạo 08)
phân công Phó chủ tịch UBND Thành phố phụ trách văn xã làm Trưởng ban, Trưởng
phòng Y tế làm Phó trưởng ban Thường trực, thành viên ban chỉ đạo là đại diện lãnh
đạo các ban, ngành, đoàn thể thành phố. Ban chỉ đạo liên ngành về VSATTP có trách
nhiệm xây dựng kế hoạch và chỉ đạo triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng, nhà nước về ATTP, sơ kết, tổng kết các kế hoạch dài hạn cũng như ngắn
hạn về ATTP tại địa phương.
Phòng Y tế hiện đã tham mưu cho UBND Thành phố quyết định kiện toàn lại
Ban chỉ đạo liên ngành ATTP theo tinh thần Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 09/5/2016
của Thủ tướng Chính phủ theo đó Chủ tịch UBND Thành phố trực tiếp làm nhiệm vụ
Trưởng ban chỉ đạo liên ngành an toàn thực phẩm.
Công tác phối hợp liên ngành được triển khai có hiệu quả trong hoạt động
thanh tra, kiểm tra về ATTP. Trong những năm qua, các đoàn kiểm tra liên ngành của
Thành phố cơ bản đã phát huy được hiệu quả, hiệu lực trong việc phát hiện, xử lý các
hành vi vi phạm về ATTP trên địa bàn, qua đó kịp thời cảnh báo đến cộng đồng
những nguy cơ mất ATTP để nhân dân biết và phòng tránh.
Ngoài việc phối hợp hoạt động giữa các ngành, cơ quan, đơn vị cũng như các
hội, đoàn thể cũng được triển khai thường xuyên, hiệu quả, nhịp nhàng thông qua các
hoạt động chỉ đạo thanh tra, kiểm tra, tuyên truyền. Đặc biệt được các nội dung tuyên
truyền về ATTP lồng ghép vào các buổi tập huấn, nói chuyện chuyên đề gắn với
phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư, xây dựng nông thôn mới.
2.2.2. Thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn Thành phố
Buôn Ma Thuột
2.2.2.1. Công tác tổ chức bộ máy, con người, cơ sở vật chất, tài chính để triển
khai thực hiện
- Đối với Phòng Y tế Thành phố Buôn Ma Thuột thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về ATTP: được phân bổ 07 biên chế, gồm 01 trưởng phòng, 01 phó trưởng
phòng, phân công Phó trưởng phòng và 01 cán bộ chuyên trách giúp Trưởng phòng Y
tế thực hiện công tác quản lý nhà nước về ATTP. Về trình độ chuyên môn: 02 Bác sỹ
(01 bác sỹ chuyên khoa I), 02 dược sỹ (01 dược sỹ đại học), 01 kế toán, 02 kỹ sư
Công nghệ thực phẩm (hợp đồng)). Ngoài ra, còn có Trung tâm Y tế Thành phố được
thành lập từ năm 2012 thực hiện riêng chức năng y tế dự phòng với tổng số cán bộ,
nhân viên 55 người, trong đó có khoa an toàn thực phẩm - dinh dưỡng, có từ 2-3 viên
chức, thực hiện nhiệm vụ chuyên trách về ATTP
12
Tại tuyến xã: chỉ riêng ngành y tế mới có hệ thống quản lý nhà nước về ATTP
tại tuyến xã, trong đó 21 UBND phường, xã (quản lý nhà nước) và 21 trạm y tế (thực
hiện chuyên môn, nghiệp vụ). Số lượng nhân lực làm công tác ATTP tại Trạm y tế
phường, xã là 01 người/phường, xã nhưng chủ yếu là kiêm nhiệm. 21/21 phường, xã
đều có Ban chỉ đạo Vệ sinh an toàn thực phẩm do Phó chủ tịch UBND phụ trách văn
xã làm Trưởng ban.
- Đối với phòng Kinh tế Thành phố Buôn Ma Thuột: với tổng số 17 cán bộ,
nhân viên, trong đó biên chế 11 và hợp đồng 06, gồm 01 trưởng phòng và 03 phó
trưởng phòng, phân công 01 phó trưởng phòng và 01 chuyên viên phụ trách công tác
bảo đảm ATTP; phòng kinh tế chủ yếu tham gia phối hợp cùng các Đoàn kiểm tra
liên ngành và chuyên ngành của Sở NN&PTNT tỉnh Đắk Lắk và các chi cục thuộc Sở
NN&PTNT kiểm tra quản lý ATTP trong sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, bảo quản
thực phẩm tươi sống, các cơ sở sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp và sản xuất
kinh doanh nông lâm thủy sản trên địa bàn Thành phố.
+ Công tác chuẩn bị cơ sở vật chất, tài chính:
Phòng Y tế, Phòng Kinh tế, Trung tâm Y tế Thành phố đều đã bố trí trụ sở làm
việc ổn định; được trang bị các máy móc, cơ sở vật chất tương đối đầy đủ.
Thành phố hiện chưa có cơ sở kiểm nghiệm an toàn thực phẩm. Khoa xét
nghiệm của Trung tâm Y tế Thành phố chủ yếu phục vụ cho xét nghiệm y tế; khi tiến
hành thanh tra, kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn, các
đoàn chủ yếu thực hiện các test kiểm nghiệm nhanh thực phẩm và lấy mẫu gửi đi
kiểm nghiệm.
Hiện tỉnh Đắk Lắk có 02 cơ sở kiểm nghiệm là Trung tâm Y tế dự phòng Tỉnh
(thuộc Sở Y tế) và Trung tâm kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm (thuộc Viện vệ
sinh dịch tễ Tây Nguyên); với nhu cầu đánh giá, chứng nhận sự phù hợp quy chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật về ATTP như hiện nay, thì cả 02 cơ sở kiểm nghiệm này không
thể đáp ứng được nhu cầu thực tế của địa phương.
Hằng năm, UBND Thành phố bố trí kinh phí cho hoạt động bảo đảm ATTP
khoảng 70 triệu đồng/năm, chủ yếu cho hoạt động thanh tra, kiểm tra và các mẫu test
nhanh đối với thực phẩm. Tuy nhiên, thực tế nguồn kinh phí dành cho hoạt động
trong lĩnh vực này chưa đáp ứng nhu cầu đặt ra.
2.2.2.2. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về ATTP
Sau khi Luật ATTP được ban hành, các phòng, ban chuyên môn đã tham mưu
cho UBND Thành phố đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các
nội dung cơ bản của Luật ATTP, đồng thời tổ chức tổ chức nhiều chiến dịch truyền
thông trên các phương tiện thông tin đại chúng về an toàn thực phẩm. Giai đoạn
2011-2016, Thành phố đã tổ chức nhiều chiến dịch truyền thông trên các phương tiện
thông tin đại chúng, cụ thể: hằng năm tổ chức lễ phát động Tháng hành động vì chất
lượng Vệ sinh an toàn thực phẩm với hơn 6.000 lượt người tham dự; tổ chức phát
thanh trên Đài phát thanh và Truyền hình Thành phố với 6.575 lần tin bài, 34 phóng
sự, 55 bài viết về công tác đảm bảo ATVSTP. Công tác tuyên truyền bằng hình ảnh
13
trực quan được triển khai sâu rộng, tổ chức treo 366 băng rôn trong Tháng hành động
ATVSTP, chuyển phát tài liệu hỏi đáp về Luật an toàn phẩm, Chiến lược quốc gia về
Vệ sinh an toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030, hướng dẫn đảm
bảo an toàn thực phẩm đối với các cơ sở chế biến thức ăn sẵn; cấp, phát 5.400 tờ áp
phích, 26.160 tờ rơi, 250 băng đĩa tuyên truyền về ATTP; thực hiện 468 buổi nói
chuyện, 74 hội thảo, hội nghị với hơn 50.000 người tham gia.
Qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ATTP đã từng bước
nâng cao nhận thức của người dân về ATTP, về tầm quan trọng của công tác bảo đảm
ATTP, giúp cho người tiêu dùng hiểu biết về quyền lợi của mình và tác hại của việc
sử dụng sản phẩm thực phẩm không an toàn.
2.2.2.3. Kết quả thực hiện pháp luật về ATTP trên địa bàn Thành phố
+ Công tác Quản lý an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh, vận chuyển,
bảo quản thực phẩm tươi sống:
- Trong sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, bảo quản rau, củ, quả tươi và sơ chế:
ngoài một số cơ sở sản xuất rau, củ, quả theo quy trình ViệtGap đã được kiểm tra
chất lượng nguồn nước, điều kiện đất canh tác, công tác sơ chế, chế biến, vận chuyển
đến nơi tiêu thụ tương đối đảm bảo quy trình kỹ thuật; công tác quản lý ATTP tại các
cơ sở này tương đối thuận lợi, được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đủ
điều kiện sản xuất, sơ chế rau an toàn, được kiểm tra, giám sát thường xuyên. Những
cơ sở khác, thật sự chưa có điều kiện để kiểm tra chất lượng đất, nước và sản phẩm
thường xuyên do nguồn lực còn thiếu.
Tuy nhiên hàng năm Phòng Kinh tế Thành phố phối hợp với các cơ quan chức
năng của Sở NN&PTNT được giao nhiệm vụ đã tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra quy trình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tại các vùng sản xuất sơ chế rau trên địa
bàn Thành phố. Hầu hết các hộ dân tại các vùng sản xuất rau đều được tấp huấn kỹ
thuật phòng trừ dịch hại tổng hợp, sản xuất rau theo quy trình ViệtGap nên việc sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học trên rau rất hạn chế, chủ yếu sử dụng thuốc bảo
vệ thực vật sinh học.
- Trong chăn nuôi, giết mổ, vận chuyển, bày bán, kiểm dịch động vật, kiểm tra
vệ sinh thú y đối với động vật và sản phẩm động vật:
Qua các cuộc thanh, kiểm tra việc sử dụng thức ăn chăn nuôi, giết mổ, vận
chuyển, cơ sở bày bán sản phẩm gia súc, gia cầm: kiểm tra nguồn nước, hóa chất,
thuốc thú y, kiểm soát dịch bệnh, vệ sinh thú y, an toàn sinh học bảo đảm vệ sinh môi
trường khu vực chăn nuôi, giết mổ, kinh doanh sản phẩm gia súc, gia cầm chưa phát
hiện sự cố lớn xảy ra, nhìn chung tương đối đảm bảo các quy định của pháp luật. Hầu
hết các trang trại, gia trại chăn nuôi gia súc, gia cầm trên địa bàn trong quá trình kiểm
tra không phát hiện sử dụng chất tăng trọng. Tuy nhiên việc đầu tư cơ sở giết mổ gia
súc, gia cầm đảm bảo ATTP còn bất cập do thiếu nguồn lực đầu tư. Việc vận chuyển
gia súc, gia cầm và sản phẩm gia súc, gia cầm bằng các phương tiện phổ thông, sơ
chế còn tiềm ẩn nguy cơ mất VSATTP. Việc kiểm soát các cơ sở giết mổ gia súc, gia
cầm nhỏ lẻ còn rất nhiều khó khăn.
14
- Trong nuôi trồng, đánh bắt, khai thác, chế biến thủy sản và các sản phẩm thủy
sản: Công tác ATTP thủy sản đã triển khai thực hiện nhiều hoạt động chuyên môn
nhằm tăng cường công tác quản lý VSATTP trong lĩnh vực thủy sản như tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra đối với các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động sản xuất,
kinh doanh vật tư thủy sản, nuôi trồng, khai thác thủy sản. Đồng thời đẩy mạnh công
tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật trong lĩnh vực thủy sản. Các hoạt động trên được
triển khai thực hiện hàng năm trên địa bàn Thành phố, nhờ vậy trong những năm qua
không có trường hợp gây mất VSATTP trong lĩnh vực thủy sản.
+ Quản lý ATTP trong xuất khẩu, nhập khẩu thực phẩm: trên địa bàn Thành
phố không có doanh nghiệp nào hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trực tiếp hàng hóa
thực phẩm qua đường chính ngạch hay tiểu ngạch.
+ Quản lý ATTP trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm:
Trên địa bàn thành phố hiện có 2.860 cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm,
trong đó Thành phố quản lý 1.183 cơ sở (dịch vụ ăn uống 663 cơ sở, kinh doanh 520
cơ sở); phường, xã quản lý 1.677 cơ sở (dịch vụ ăn uống 1.164 sơ sở, kinh doanh 513
cơ sở). Đến nay Phòng Y tế đã tổ chức thẩm định các điều kiện đảm bảo ATTP và
cấp 427/663 giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP và ký 40/68 bản cam kết chấp
hành các điều kiện về ATTP tại các bếp ăn tập thể; đã tổ chức thi và cấp 1.914 giấy
xác nhận kiến thức về ATTP. Tổ chức 07 lớp tập huấn và xác nhận kiến thức ATTP
cho hơn 500 người, trong đó tổ chức 01 lớp tập huấn và xác nhận kiến thức ATTP
riêng cho những người trực tiếp kinh doanh thức ăn đường phố vào ban đêm…qua đó
đã làm thay đổi bộ mặt ATVSTP tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống..
Việc quản lý các sản phẩm từ rau, thịt, thủy sản, lương thực, sản xuất, kinh
doanh bia, rượu, nước giải khát, bánh, kẹo, kinh doanh thực phẩm tại các chợ… do
ngành NN&PTNT, ngành công thương quản lý. Tuy nhiên do chậm phân cấp cho
tuyến huyện nên trong thời gian dài lĩnh vực này bỏ ngõ, chỉ được các đoàn liên
ngành của Thành phố tổ chức kiểm tra vào các đợt cao điểm như dịp tết Nguyên đán,
Tháng hành động vì ATTP và dịp Tết Trung thu.
Việc quản lý các cơ sở thức ăn đường phố chưa được chú trọng, phần lớn các
vụ ngộ độc thực phẩm trên địa bàn đều phát sinh từ đây. Nhiệm vụ này được giao cho
chính quyền các phường, xã, tuy nhiên do quản lý số lượng lớn cơ sở thức ăn đường
phố, trong khi cán bộ phụ trách chỉ có 01 người lại không có chuyên môn, nghiệp vụ,
không có thiết bị kiểm nghiệm, nên việc quản lý và xử lý các vấn đề đặt ra rất hạn
chế, gần như là bỏ ngỏ.
+ Việc kiểm soát các nguy cơ gây mất ATTP
Thông qua hoạt động kiểm nghiệm mẫu giám sát mối nguy gây ô nhiễm thực
phẩm hàng ngày và thanh tra, kiểm tra, Trung tâm Y tế Thành phố đều có báo cáo
đánh giá nguy cơ, trực tiếp xử lý và kiến nghị xử lý đối với các sản phẩm thực phẩm
và cơ sở thực phẩm gây mất an toàn. Tuy nhiên hoạt động này chưa triển khai rộng
và thường xuyên do kinh phí hạn hẹp. Ngoài ra, giám sát nguy cơ dựa phần lớn vào
15
test kiểm nghiệm nhanh thực phẩm thường không có giá trị trong việc xử lý vi phạm
hành chính.
+ Tình hình ngộ độc thực phẩm, các bệnh truyền qua thực phẩm, việc khắc
phục các sự cố về ATTP
Giai đoạn 2011-2016, địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột xảy ra 02 vụ ngộ độc
thực phẩm với 22 người mắc, không có người tử vong.
100% vụ ngộ độc thực phẩm đều được tổ chức điều tra, xử lý theo quy định
của Bộ Y tế.
2.2.2.4. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về an toàn
thực phẩm
Giai đoạn 2011 - 2016, Thành phố đã tiến hành thanh tra, kiểm tra tại 7.844
lượt cơ sở sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm, thực hiện gần 1.000 lượt test
nhanh đối với thực phẩm và lấy mẫu xét nghiệm. Qua thanh, kiểm tra, số cơ sở đạt
5.078, số cơ sở vi phạm 2.766, trong đó nhắc nhở 2.369, cảnh cáo 228 cơ sở và xử
phạt hành chính hơn 300 cơ sở. Riêng các đoàn kiểm tra liên ngành của Thành phố
giai đoạn 2011-2016 kiểm tra 1.818 cơ sở, số cơ sở vi phạm 1.086, trong đó nhắc nhở
577 cơ sở, cảnh cáo 223, phạt tiền 286 cơ sở cơ sở với tổng số tiền phạt 372.710.000
đồng; buộc tiêu hủy hơn 1.500 kg hàng hóa, bánh kẹo không rõ nguồn gốc, 230 kg
giò chả có chứa hàn the…tình hình kiểm tra được thể hiện qua biểu đồ sau:
kiểm tra
vi phạm
520
192
309
271
267
163
259
188
210
196
214
2014
2015
2016
115
2011
2012
2013
Biểu đồ 1.2. Tình hình kiểm tra ATTP trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột
tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2011-2016
Qua kiểm tra các cơ sở thực phẩm, các đoàn kiểm tra liên ngành phần lớn là
nhắc nhở, hướng dẫn công tác bảo đảm VSATTP, các trường hợp vi phạm nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng thì tiến hành phạt cảnh cáo, phạt tiền, có trường hợp đình chỉ
hoạt động. Kết quả kiểm tra được thể hiện qua biểu đồ sau:
16
Nhắc nhở
Cảnh cáo
Phạt tiền
26%
53%
21%
Biểu đồ 2.2. Tình hình xử lý vi phạm ATTP trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột,
tỉnh Đăk Lăk giai đoạn 2011-2016
Tuy nhiên hoạt động kiểm tra chuyên đề về ATTP đối với dịch vụ ăn uống, bếp
ăn tập thể và thức ăn đường phố triển khai hạn chế do thiếu kinh phí tổ chức Đoàn
kiểm tra. Ngoài ra công tác lấy mẫu gửi labo kiểm nghiệm khi nghi ngờ sản phẩm
thực phẩm không an toàn còn rất hạn chế do không có nguồn kinh phí chi trả mẫu xét
nghiệm.
* Về xử lý hình sự: trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk cũng như Thành phố Buôn Ma
Thuột chưa triển khai xử lý hình sự về ATTP giai đoạn 2011-2016.
2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về an toàn thực
phẩm trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột
2.3.1. Đối với các quy định của pháp luật về ATTP
+ Ưu điểm: Các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm ngày càng tiến
bộ, bao quát và đầy đủ hơn, đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới.
Tỉnh Đắk Lắk cũng như Thành phố Buôn Ma Thuột đã kịp thời ban hành đầy
đủ các văn bản quy phạm pháp luật triển khai thực hiện pháp luật về ATTP; kịp thời
tổ chức quán triệt, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về ATTP đến đội ngũ cán bộ làm
công tác quản lý ATTP, các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm, nâng
cao nhận thức, kiến thức về VSATTP cho người dân.
+ Hạn chế:
Việc ban hành văn bản chỉ đạo điều hành còn chậm vì tâm lý chờ văn bản triển
khai thực hiện của Bộ, ngành Trung ương, của Tỉnh Đắk Lắk. Do đó, một số lĩnh vực
quản lý bị bỏ trống trong một thời gian dài, gây nguy cơ mất an toàn cho người tiêu
dùng.
2.3.2. Đối với thực hiện pháp luật về ATTP:
+ Ưu điểm:
- Phòng Y tế và phòng Kinh tế Thành phố đã thực hiện tốt chức năng tham
mưu cho UBND Thành phố ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, các chủ trương,
kế hoạch, giải pháp, biện pháp cụ thể để thực hiện có hiệu quả pháp luật về ATTP
cũng như thực hiện tốt nhiệm vụ đảm bảo ATTP, góp phần quan trọng vào sự nghiệp
17
bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội của
Thành phố.
- Ban chỉ đạo liên ngành về VSATTP đã được thành lập và kiện toàn thường
xuyên ở cả 02 cấp (thành phố/phường, xã), kịp thời chỉ đạo triển khai thực hiện tốt
công tác ATTP trên địa bàn Thành phố, kết quả các chỉ tiêu đề ra hàng năm và trong
giai đoạn đều đạt theo kế hoạch.
- Công tác truyền thông về ATTP được triển khai thường xuyên, huy động
nhiều nguồn lực tham gia, kịp thời phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật về
ATTP và hướng dẫn điều kiện bảo đảm ATTP trong quá trình sản xuất, kinh doanh
và tiêu dùng thực phẩm qua đó nhận thức của nhà quản lý, người sản xuất kinh doanh
thực phẩm và người tiêu dùng đã có sự chuyển biến tích cực, tình trạng VSATTP đã
được cải thiện đáng kể, số vụ ngộ độc thực phẩm đông người đã được kiểm soát và
hạn chế ở mức thấp nhất (nhiều năm qua trên địa bàn thành phố không xảy ra vụ việc
ngộ độc thức ăn nào lớn, chỉ xảy ra 02 vụ với 22 người mắc, không có người tử
vong), chưa có vụ việc nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự về ATTP, đem lại niềm
tin cho người tiêu dùng.
- Cấp phép các thủ tục hành chính về ATTP đã được thực hiện theo đúng quy
định của pháp luật, nhờ đó người dân dễ dàng tiếp cận, thực hiện các thủ tục hành
chính trong quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra về ATTP diễn ra thường xuyên thông qua các
đợt cao điểm về ATTP hàng năm. Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà nước về ATTP
còn thực hiện hoạt động thanh tra đột xuất về ATTP nhằm kịp thời phát hiện, chấn
chỉnh, xử lý các hành vi vi phạm về chất lượng, ATTP, những cơ sở vi phạm ATTP
đều công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân được
biết.
Việc bảo đảm ATTP phục vụ các sự kiện văn hóa, chính trị tại địa phương và
khách du lịch triển khai có hiệu quả, đặc biệt là Lễ hội festival cà phê Buôn Ma Thuột
được tổ chức định kỳ 02 năm 01 lần, góp phần quảng bá thương hiệu cà phê Buôn
Ma Thuột và hình ảnh du lịch của Buôn Ma Thuột đến du khách trong và ngoài nước.
* Nguyên nhân ưu điểm: Công tác đảm bảo ATTP đã nhận được sự quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, kịp thời của Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố,
sự phối hợp chặt chẽ của các phòng, ban chuyên môn, Mặt trận tổ quốc, các tổ chức
đoàn thể của Thành phố và cấp ủy, chính quyền các phường, xã, đặc biệt là vai trò
tham mưu của phòng y tế, phòng kinh tế Thành phố.
Vấn đề ATTP là vấn đề nóng, nhạy cảm do đó thu hút được sự quan tâm của
các cơ quan truyền thông từ trung ương đến địa phương tham gia cũng như sự hưởng
ứng, ủng hộ của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của nhà nước về ATTP.
+ Hạn chế
- Một số cấp uỷ, chính quyền phường, xã, cán bộ, đảng viên chưa nhận thức
đúng đắn về tầm quan trọng của công tác đảm bảo ATTP, chưa xem công tác đảm
18
bảo ATTP là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của địa phương, đơn vị do đó chưa
tạo được sự đồng thuận, huy động được sức mạnh của hệ thống chính trị đối với
nhiệm vụ bảo đảm ATTP.
- Công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm của UBND các cấp tuy đã
có chuyển biến song việc triển khai còn thụ động, mới tập trung giải quyết được một
số vấn đề bức xúc, chưa chủ động quản lý được nguy cơ ô nhiễm theo chuỗi cung cấp
thực phẩm theo một chiến lược dài hạn. Phương thức quản lý thực phẩm còn nhiều
bất cập. Công tác ATTP trên địa bàn Thành phố hầu hết được giao cho ngành y tế
đảm trách trong điều kiện nguồn kinh phí từ Trung ương cấp xuống bị cắt giảm theo
từng năm; thiếu cán bộ chuyên trách về lĩnh vực ATTP, một cán bộ phụ trách nhiều
lĩnh vực, không có chuyên môn, nghiệp vụ về ATTP.
Tỷ lệ cơ sở chế biến, giết mổ gia súc, gia cầm trên địa bàn được kiểm soát còn
ở mức rất thấp. Chất lượng ATTP của một số sản phẩm thực phẩm chế biến thủ công,
quy mô nhỏ tuy có được cải thiện nhưng vẫn là một khâu yếu. Việc quản lý ATTP ở
cấp xã, phường lại gặp nhiều khó khăn, không có cán bộ chuyên trách làm công tác
ATTP, trong khi đó các hoạt động về VSATTP lại diễn ra chủ yếu ở tuyến cơ sở. Bên
cạnh đó, hầu hết cán bộ xã, phường không có trình độ chuyên môn, thiếu dụng cụ
phân tích, kiểm nghiệm.
- Tỷ lệ người sản xuất, kinh doanh dịch vụ, người tiêu dùng nhận thức đúng về
ATTP tuy có tiến bộ nhưng ở mức trung bình; trách nhiệm của người sản xuất quy
mô nhỏ lẻ đối với sức khỏe cộng đồng chưa cao; tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh thực
phẩm được cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP và tỷ lệ hàng hóa được cấp
chứng nhận tiêu chuẩn sản phẩm ở mức rất thấp;
- Công tác thanh tra, kiểm tra tuy được tổ chức đều khắp trên địa bàn thành
phố nhưng tần xuất kiểm tra tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm còn thấp.
Mặt khác việc thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về ATTP chỉ có thể thực hiện
theo từng thời điểm nhất định nên dẫn đến tình trạng nhiều chủ cơ sở sản xuất, kinh
doanh tìm mọi cách đối phó với lực lượng chức năng. Chế tài xử phạt còn nhiều bất
cập, chưa cụ thể; việc xử lý vi phạm còn nương nhẹ, chưa đủ sức răn đe, phòng ngừa.
Việc tổ chức thanh tra liên ngành về lĩnh vực ATTP giữa tuyến tỉnh và tuyến
thành phố chưa đồng bộ, còn chồng chéo nên xảy ra trường hợp có đơn vị không được
kiểm tra, có đơn vị trong một thời gian ngắn bị nhiều đoàn liên ngành của tỉnh, của
thành phố kiểm tra, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị.
Lực lượng thanh tra, kiểm tra ATVSTP còn mỏng, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ còn hạn chế nên việc hiểu và áp dụng pháp luật về ATTP hạn chế; cơ sở
vật chất, trang thiết bị tác nghiệp còn thiếu nên chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý
ATTP.
- Chính quyền địa phương chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý theo
chuỗi cung cấp thực phẩm “từ trang trại đến bàn ăn”; việc quy hoạch vùng sản xuất
thực phẩm an toàn chưa gắn với thị trường tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, xuất xứ
địa lý của sản phẩm nên thực phẩm an toàn chưa tạo được niềm tin cho người tiêu
19
dùng, giá thành cao khó cạnh tranh với thực phẩm thông thường, vì vậy chưa tạo
động lực cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm an toàn đầu tư kinh phí, nâng
cao chất lượng, số lượng thực phẩm cung cấp cho thị trường.
* Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm
+ Nguyên nhân chủ quan
- Văn bản chỉ đạo, điều hành về lĩnh vực ATTP còn chồng chéo, chưa cụ thể
cho từng đối tượng quản lý, chưa quy định biện pháp khắc phục cụ thể khi bị xử phạt
hành chính.
- Nhận thức trách nhiệm của một số cấp ủy đảng, chính quyền địa phương về
tầm quan trọng của công tác quản lý ATTP chưa đầy đủ nên sự chỉ đạo thiếu quyết
liệt, triển khai thực hiện pháp luật về ATTP chưa đồng bộ.
- Năng lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp còn hạn chế, chưa kịp
thời triển khai thực hiện các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các ngành chức năng về
quản lý ATTP.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị quản lý nhà nước về ATTP trên địa bàn
chưa đồng bộ, chưa thật sự chặt chẽ.
- Ý thức chấp hành pháp luật về ATTP và trách nhiệm của người sản xuất, kinh
doanh thực phẩm đối với cộng đồng còn chưa cao, một mặt là do người sản xuất,
kinh doanh chạy theo lợi nhuận trước mắt, coi thường tính mạng, sức khỏe người tiêu
dùng; mặt khác do việc xử lý vi phạm còn nương nhẹ, thiếu kiên quyết.
- Phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ kiểm tra nhà nước về chất lượng
ATTP còn thiếu và lạc hậu; trình độ cán bộ chuyên môn và năng lực phân tích của
các phòng thử nghiệm trên địa bàn chưa đáp ứng yêu cầu hiện nay.
+ Nguyên nhân khách quan
- Phần lớn các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn Thành phố
đều nhỏ lẻ, kinh doanh theo quy mô hộ gia đình, do đó việc đầu tư cơ sở vật chất
nhằm đáp ứng đầy đủ các quy định về điều kiện sản xuất, kinh doanh thực phẩm theo
quy định của Bộ Y tế trong thực tế là không khả thi.
- Các hóa chất, phụ gia bị cấm trong chăn nuôi, trồng trọt, chế biến, bảo quản
thực phẩm không khó mua ngoài thị trường đã tạo cơ hội và thúc đẩy cho người dân
vi phạm.
- Do ngân sách còn khó khăn, việc đầu tư trang thiết bị, máy móc phục vụ công
tác thanh tra, kiểm tra chất lượng các sản phẩm còn hạn chế.
20
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Quan điểm đảm bảo an toàn thực phẩm ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay
3.1.1. Nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức, cá
nhân về tầm quan trọng của công tác đảm bảo an toàn thực phẩm
Việc nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác đảm bảo an toàn thực
phẩm nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về thái độ và hành vi, ý thức, trách nhiệm
của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm đối với sức khỏe cộng đồng. Do đó cấp ủy
đảng, chính quyền các cấp ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, chỉ thị lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện, đưa công tác bảo đảm ATTP vào nội dung thảo luận ở các kỳ
đại hội và các văn kiện, nghị quyết, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương; là một nội dung sinh hoạt thường kỳ của chi bộ nhằm phát huy tính chủ
động, tích cực của mỗi cán bộ, đảng viên trong công tác bảo đảm ATTP nói chung và
bảo vệ bữa ăn của từng gia đình nói riêng. Qua đó các ngành, các cấp ủy đảng, chính
quyền nâng cao trách nhiệm, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện đối với công tác
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân trong đó có công tác bảo đảm ATTP.
3.1.2. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của chủ thể có thẩm quyền về quản lý
an toàn thực phẩm.
An toàn thực phẩm không phải là vấn đề chuyên môn sức khỏe thuần túy, mà
liên quan trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, an sinh, an toàn xã hội, hợp tác quốc tế,
an ninh quốc gia... do đó, công tác quản lý an toàn thực phẩm phải là công tác liên
ngành và gắn liền với chính sách phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và đối
ngoại của nhà nước. Công tác này phải được đầu tư nguồn lực (nhân lực, vật lực)
tương xứng với yêu cầu thực tiễn. Phải coi công tác đầu tư cho an toàn thực phẩm là
đầu tư cho phát triển, an toàn và an sinh xã hội. Cần phát huy vai trò của các tổ chức
nghề nghiệp, hội, hiệp hội liên quan tham gia công tác xây dựng chính sách, giám sát
an toàn thực phẩm; coi các tổ chức này như là “cánh tay nối dài” của cơ quan quản lý
nhà nước trong lĩnh vực an toàn thực phẩm.
Để kiểm soát chất lượng an toàn thực phẩm cũng như việc triển khai thực hiện
đồng bộ, có hiệu quả pháp luật về an toàn thực phẩm thì trách nhiệm trước hết, trên
hết thuộc về chính quyền các cấp.
Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ
đạo bảo đảm ATTP trên địa bàn; đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò giám sát của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân các cấp và các phương tiện truyền thông để
bảo đảm ATTP ở tất cả các khâu từ sản xuất, kinh doanh, chế biến đến tiêu dùng. Đặc
biệt, cần tăng cường công tác quản lý Nhà nước về vấn đề VSATTP: củng cố hệ
thống quản lý các cấp, xây dựng cơ chế phối hợp giữa các ngành liên quan; tổ chức
thanh, kiểm tra thường xuyên và đột xuất, xử lý nghiêm các vi phạm về VSATTP;
21
nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp chế biến thực phẩm, tư vấn và áp dụng các
hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trong lĩnh vực VSATTP; quan tâm tới công tác
cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện VSATTP cho các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh
doanh thực phẩm. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, áp dụng
các thành tựu khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực VSATTP; xã hội hóa công tác đảm bảo
VSATTP, tăng cường đầu tư các nguồn lực cho công tác này.
3.1.3. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hệ thống quản lý và kiểm nghiệm
an toàn thực phẩm
Tăng cường năng lực kiểm nghiệm chất lượng VSATTP, xây dựng hệ thống
giám sát ngộ độc thực phẩm, các bệnh truyền qua thực phẩm và phân tích nguy cơ ô
nhiễm thực phẩm.
Xây dựng quy hoạch hệ thống kiểm nghiệm thực phẩm theo hướng đa dạng
hoá, xã hội hoá, chuyên sâu và phổ cập nhằm đánh giá được các mối nguy hoá chất
và vi sinh vật trong toàn bộ chuỗi cung cấp thực phẩm. Đầu tư nâng cấp phòng kiểm
nghiệm chất lượng VSATTP, thực hiện chuẩn hoá ở các phòng kiểm nghiệm cấp tỉnh
theo tiêu chuẩn thực hành "Labor tốt" và tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng phương pháp
và duy trì đánh giá năng lực trình độ kỹ thuật của các phòng kiểm nghiệm định kỳ
hàng năm. Đầu tư trang thiết bị kiểm nghiệm chất lượng VSATTP. Xây dựng mô
hình phòng chống ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm tại các vùng
có nguy cơ cao.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về an toàn thực phẩm từ thực tiễn
Thành phố Buôn Ma Thuột
3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về an toàn
thực phẩm
* Đối với Luật an toàn thực phẩm
Nghị định 38/NĐ-CP của Chính Phủ và các văn bản hướng dẫn, phối hợp thực
hiện quản lý nhà nước về ATTP còn chồng chéo, mâu thuẫn, một mặt hàng phải chịu
nhiều cơ quan nhà nước cùng quản lý nhưng cũng có mặt hàng chưa được cơ quan
quản lý nhà nước nào phụ trách. Ngoài ra, còn một bất cập nữa trong việc phân công
quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, đó là đang có nhiều đầu mối chịu trách
nhiệm (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có 04 đơn vị đầu mối, Bộ Y tế có 01
đơn vị đầu mối và Bộ Công thương có 02 đơn vị đầu mối, trong số này có rất nhiều
cơ quan có hệ thống ngành dọc đến cấp xã, phường, biên chế rất cồng kềnh, thêm vào
đó là các cơ quan Thanh tra của các Bộ này), tuy nhiên, mỗi khi có sự cố liên quan
đến an toàn thực phẩm xảy ra thì không cơ quan quản lý nhà nước nào chịu trách
nhiệm (hành chính và vật chất).
Do đó, các Bộ quản lý ATTP phải phối hợp, họp thống nhất để dự thảo trình
Chính phủ ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định 38/NĐ-CP của Chính Phủ;
các bộ ngành thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ATTP cũng tiến hành rà soát
lại các văn bản quy phạm của đơn vị để điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với Luật
ATTP.
22
* Đối với việc xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm
Ngày 14/11/2013 Chính phủ ban hành Nghị định số 178/2013/NĐ-CP quy định
xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm, có hiệu lực từ ngày 31/12/2013.
Nghị định này quy định mức xử phạt vi phạm hành chính là phạt tiền trong nhiều lĩnh
vực quy định quá thấp, nên không bảo đảm được tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa
chung, dẫn đến tình trạng tuy không phổ biến nhưng nhiều tổ chức, doanh nghiệp
hiện đang tồn tại tâm lý chung là chấp nhận nộp phạt vẫn có lợi hơn so với phải chấp
hành đúng quy định của pháp luật về lĩnh vực đó. Bên cạnh đó Nghị định chưa quy
định các biện pháp khắc phục cụ thể sau khi bị xử phạt hành chính.
Vì vậy đề nghị Bộ Y tế nghiên cứu tham mưu trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung
Nghị định 178/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về
an toàn thực phẩm theo hướng tăng mức phạt tiền bảo đảm có tính răn đe hơn và quy
định các biện pháp khắc phục cụ thể khi bị xử phạt hành chính.
* Đối với pháp luật hình sự
Cần sửa đổi, bổ sung Điều 244 Bộ luật Hình sự hiện hành (Điều 317 dự thảo
Bộ luật hình sự 2015) theo hướng nên căn cứ vào hàm lượng sử dụng chất cấm trong
lương thực, thực phẩm quá mức quy định bao nhiêu lần để định mức xử phạt tương
ứng chứ không căn cứ vào tỷ lệ tổn thương cơ thể do sử dụng lương thực, thực phẩm
không an toàn gây ra. Đồng thời đề nghị bổ sung riêng một điều về tội sản xuất, buôn
bán sử dụng vượt mức cho phép các chất cấm, chất độc hại trong trồng trọt, chăn
nuôi, bảo quản, chế biến thực phẩm và khung hình phạt này phải tương ứng như
khung hình phạt về tội sản xuất và buôn bán hàng giả về lương thực, thực phẩm quy
định tại Điều 193.
Ngoài hai điều (193 và 317) quy định trực tiếp về hành vi vi phạm vệ sinh an
toàn thực phẩm, Dự thảo Luật cũng đề cập đến tội sản xuất, buôn bán hàng cấm và tội
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm - tương tự như Bộ luật Hình sự hiện hành, trong đó
hàng cấm ở đây bao hàm cả các chất cấm, chất độc hại đang được sử dụng rộng rãi
trong thức ăn chăn nuôi, trồng trọt, bảo quản, chế biến thực phẩm. Tuy nhiên, quy
định ở cả Luật hiện hành và Dự thảo Luật đều chưa đảm bảo tính khả thi và răn đe
trong thực tế.
Cụ thể, nội dung các Điều 153, 154, 155 của Bộ luật hiện hành không có văn
bản hướng dẫn cụ thể thế nào là số lượng hàng cấm lớn, rất lớn, đặc biệt lớn để định
khung xử phạt nên không áp dụng được. Trong khi đó, Điều 190 (Tội sản xuất, buôn
bán hàng cấm) và Điều 191 (Tội vận chuyển, tàng trữ hàng cấm) của Dự thảo Luật lại
chủ yếu căn cứ vào giá trị hàng phạm pháp hoặc khả năng thu lợi của chủ hàng để
định tội. Theo quy định tại hai điều luật này, hàng phạm pháp có giá trị từ 100 triệu
đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc chủ hàng thu lợi/có khả năng thu lợi bất chính từ
50 triệu đồng đến trên 500 triệu đồng thì mới bị xem xét xử lý hình sự. Quy định như
vậy rõ ràng không phù hợp với thực tế bởi mặt hàng cấm được sử dụng trong chăn
nuôi, trồng trọt, chế biến lương thực, thực phẩm đa phần đều có giá trị vô cùng nhỏ
(vì chủ yếu là sản phẩm trôi nổi, không rõ nguồn gốc, xuất xứ), do đó khó có thể khởi
23
tố vụ việc và xử lý triệt để hành vi vi phạm loại này. Mặt khác, khả năng thu lợi bất
chính trong việc sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là chất cấm sử
dụng trong lương thực, thực phẩm - đối với mỗi một sự vụ cụ thể - cũng không lớn
tới con số vài chục đến vài trăm triệu đồng mỗi lần vi phạm, vì vậy cần xem lại tính
khả thi của các điều luật.
3.2.2. Những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng hoạt động thi hành
pháp luật về an toàn thực phẩm từ thực tiễn Thành phố Buôn Ma Thuột trong thời
gian đến
Trong thời gian tới, tình hình ATTP còn tiếp tục diễn biến phức tạp, để thực
hiện có hiệu quả pháp luật về ATTP cũng như Kết luận số 11-KL/TW ngày
19/01/2017 Ban Bí thư “về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 08-CT/TW ngày
21/10/2011 của Ban Bí thư tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn
thực phẩm trong tình hình mới”, các địa phương, đơn vị cần thực hiện tốt một số giải
pháp sau:
+ Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo
ATTP;
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục nhằm nâng cao nhận
thức của xã hội, của doanh nghiệp, của nhân dân về an toàn thực phẩm, về các chủ
trương, chính sách, pháp luật và những kiến thức cần thiết về ATTP; kịp thời cung
cấp các thông tin về ATTP cũng như thực phẩm không an toàn để người dân biết, lựa
chọn.
+ Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Ủy ban
nhân dân các cấp chịu trách nhiệm về bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa
bàn; xác định việc bảo đảm VSATTP là nhiệm vụ cấp thiết cần tập trung chỉ đạo,
điều hành; ưu tiên bố trí đủ kinh phí, nguồn lực cho công tác quản lý, bảo đảm an
toàn thực phẩm.
+ Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về ATTP.
Thanh tra, kiểm tra luôn được coi là một hoạt động quan trọng và ưu tiên hàng đầu
của quản lý nhà nước về ATTP, kết hợp giữa kiểm tra, xử lý và thông tin, tuyên
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về các cơ sở sản xuất kinh doanh vi
phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm
Tăng cường hoạt động phối hợp liên ngành; nâng cao vai trò của ban chỉ đạo
liên ngành VSATTP các cấp trong tham mưu, chỉ đạo, điều hành, triển khai các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về ATTP.
+ Đầu tư, nâng cấp hệ thống quản lý và kiểm nghiệm an toàn thực phẩm, đáp
ứng nhu cầu đặt ra. Cần xây dựng cơ chế quản lý chuỗi thực phẩm một cách hệ thống,
nhằm bảo đảm mỗi loại thực phẩm đều có “lý lịch” rõ ràng, an toàn. Đây cũng là yêu
cầu bắt buộc để từ đó cơ quan chức năng có thể truy cứu trách nhiệm khi có sự cố,
tổn thất đối với người tiêu dùng.
3.2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác đảm bảo an toàn thực phẩm
trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột
24
+ Rà soát, kiện toàn đội ngũ cán bộ chuyên trách thực hiện công tác quản lý
chất lượng ATTP cả 02 cấp; tăng cường công tác đào tạo, tập huấn nâng cao năng
lực, kỹ năng, nghiệp vụ cho các biên chế chuyên trách thực hiện công tác quản lý
chất lượng ATTP ở thành phố và phường, xã. Đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật thiết
yếu phục vụ công tác tham mưu, thực hiện công tác quản lý chất lượng ATTP của các
biên chế chuyên trách. Phân bổ kinh phí tương ứng với chức năng, nhiệm vụ được
phân giao.
+ Tập trung chỉ đạo, đầu tư đối với sản phẩm nông nghiệp chủ lực một cách
đồng bộ từ khâu giống, chăm sóc, thu hoạch, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm, nhằm
tạo ra sản phẩm có giá trị vượt trội, có sức cạnh tranh cao theo tinh thần Chương trình
số 07-CTr/TU ngày 08/6/2016 của Thành ủy Buôn Ma Thuột “áp dụng tiến bộ khoa
học kĩ thuật, nâng cao hiệu quả và giá trị gia tăng một số sản phẩm nông nghiệp chủ
lực của thành phố Buôn Ma Thuột, giai đoạn 2016-2020”. Đẩy mạnh chính sách hỗ
trợ cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn từ các chính sách ưu đãi, vốn vay đầu tư
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, gắn sản xuất tăng chuỗi giá trị sản phẩm nông
nghiệp, nâng cao đời sống nông dân.
+ Phát triển hệ thống phân phối thực phẩm an toàn: Tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh phải công bố quy trình sản xuất, kinh doanh bảo đảm an toàn, vệ sinh
thực phẩm. Tập trung chỉ đạo xây dựng và phát triển các vùng nguyên liệu sản xuất
nông sản thực phẩm an toàn; thúc đẩy áp dụng rộng rãi mô hình ViệtGAP, các mô
hình sản xuất an toàn khác và phát triển hệ thống phân phối thực phẩm an
toàn. Thành phố cần đầu tư trang thiết bị đo kiểm di động hoặc cố định tại các trung
tâm thương mại, chợ nông sản, hướng dẫn và giúp người dân nhận biết thực phẩm an
toàn, thực phẩm không an toàn. Phòng Y tế Thành phố sớm hoàn thành đề tài “Xây
dựng mô hình kiểm soát chuỗi thực phẩm rau an toàn tại Thành phố Buôn Ma Thuột,
tỉnh Đắk Lắk” để triển khai trong thực tế.
+ Bảo đảm an toàn các loại thực phẩm tươi sống, thực phẩm tiêu dùng: cần tập
trung chỉ đạo, tạo chuyển biến rõ nét trong việc bảo đảm an toàn, vệ sinh đối với các
loại thực phẩm tươi sống và các loại thực phẩm tiêu dùng trong sinh hoạt hàng ngày
của nhân dân. Mặt khác, để tạo điều kiện cho người dân sản xuất và kinh doanh các
sản phẩm rau an toàn, Thành phố tiến hành tổ chức lại sản xuất, quy hoạch lại các
vùng chuyên sản xuất rau sạch, an toàn để cung ứng đủ sản lượng, chủng loại cho
người dân sử dụng; liên kết với các doanh nghiệp để cung cấp các sản phẩm an toàn
trên địa bàn và từng bước tăng cường quản lý chất lượng để tiêu thụ ở các chợ trung
tâm.
+ Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra có trọng tâm, trọng điểm
và hiệu quả, phối hợp chặt chẽ giữa các ngành chức năng trong hoạt động quản lý
chất lượng ATTP nhằm tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng ATTP trên địa bàn. Đề
xuất tổ chức thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm cấp huyện, xã, phường, thị trấn tại
tỉnh Đắk Lắk.
25