Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai Từ thực tiễn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

………………./………………..

……../…….

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ PHƯỚC TOÀN

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CƯ KUIN,
TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

ĐẮK LẮK – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

………………./………………..

……../…….

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA


LÊ PHƯỚC TOÀN

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CƯ KUIN,
TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 60380102
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TUẤN KHANH

ĐẮK LẮK - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán đầy đủ các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Hành
chính Quốc gia.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện Hành chính Quốc gia
xem xét để tôi có thể được bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Phước Toàn



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU................................................................................................. 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP
LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC
ĐẤT ĐAI
1.1. Cơ sở lý luận pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực đất đai ......................................................................................................... 6
1.2. Nội dung của pháp luật và thực hiện pháp luật về giải quyết khiêu
nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai ..................................................................... 19
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai ........................................................... 26
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC
ĐẤT ĐAI, TẠI HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
đất đai ............................................................................................................... 33
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực đất đai, tại huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk ......................................... 40
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI, QUA THỰC
TIỄN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về



giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai .......................................... 56
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai .......................................... 58
KẾT LUẬN .......................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................... 84


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

UBND

ỦY BAN NHÂN DÂN


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý. Đất đai là tài sản vô cùng quý giá, vừa là tư liệu sản xuất,
vừa là điều kiện cần thiết trong đời sống của tất cả mọi người, đóng vai trò
quyết định cho sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Đất đai vừa là tài sản
có giá trị cao vừa tham gia các giao dịch trên thị trường nên tranh chấp, khúc
mắc về đất đai là không thể tránh khỏi. Việc tìm ra các cơ chế để giải quyết,
đảm bảo ổn định xã hội và cân bằng lợi ích của các chủ thể liên quan đến đất
đai, quản lý và sử dụng đất đai hiệu quả là mục tiêu quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế của nước ta.
Trong bối cảnh nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đang nổ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật
thì ý nghĩa của hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là

lĩnh vực thường xuyên xảy ra khiếu nại, tố cáo nhiều hơn các lĩnh vực khác
càng được thể hiện rõ nét. Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, pháp luật
về đất đai đã hoàn thiện hay chưa, còn tồn tại những vấn đề nào dẫn đến tình
trạng khiếu nại, tố cáo là vấn đề nóng bỏng của xã hội và biện pháp nào để
khắc phục tình trạng này là những vấn đề cần nghiên cứu.
Huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk có vị trí địa lý nằm dọc trên Quốc lộ 27,
cách Trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk 15 km. Những năm
gần đây, tình hình khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn huyện
Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp, phát sinh nhiều
vụ việc đông người và kéo dài, nhất là tình hình khiếu nại, tố cáo đông người
liên quan đến thu hồi đất, đền bù hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng
các công trình công cộng. Bên cạnh đó, tình trạng quản lý đất đai lỏng lẻo, lấn
chiếm đất đai, xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp vẫn còn diễn ra rất
1


nhiều, chưa được xử lý dứt điểm. Hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện
pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai nhằm đảm bảo
lợi ích chính đáng của người dân, góp phần ổn định kinh tế - xã hội là nhu cầu
cấp thiết trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Pháp luật về giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong lĩnh vực đất đai - Từ thực tiễn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk”
làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là đề tài thu
hút sự quan tâm của giới khoa học pháp lý. Thời gian qua đã có các công trình
nghiên cứu, sách báo pháp lý và các bài viết liên quan đến vấn đề này dưới
góc độ lý luận và thực tiễn, như:
- Kỹ năng áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt
Nam (Sách chuyên khảo, Tiến sĩ Doãn Hồng Nhung, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội 2014); Pháp luật về thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật đất đai ở
Việt Nam (Sách chuyên khảo, Tiến sĩ Doãn Hồng Nhung, Nxb Xây dựng
2013); Khiếu nại, tố cáo hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo hành
chính ở Việt Nam hiện nay (Sách chuyên khảo, Viện Khoa học thanh tra,
Thanh tra Chính phủ 2012).
- Pháp luật về giải quyết khiếu nại tố cáo ở Việt Nam (Trần Ngân Hà,
Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội); Hiệu quả hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước ở Ninh
Bình hiện nay (Nguyễn Thị Hồng Thơm, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội); Cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính ở Việt Nam
hiện nay và vấn đề hoàn thiện (Phạm Anh Tuấn, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội); Thực thi pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
về đất đai trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (Nguyễn Ngọc Linh, Luận văn Thạc
sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội); Thi hành pháp luật giải quyết khiếu
2


nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (Võ Nguyên Chương,
Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội).
- Khiếu nại, tố cáo hành chính - cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp
(Đề tài Khoa học cấp Nhà nước, Thanh tra Chính phủ); Thu hồi đất và giải
quyết khiếu nại về thu hồi đất ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn (Đề tài khoa học, Viện Khoa học Thanh tra, Thanh tra Chính phủ).
- Bài viết trên các trang báo: Giải quyết khiếu nại, tố cáo phải biến
nhận thức thành hành động (trên trang WWW.thanh tra.gov.vn); Giải quyết
khiếu nại, tố cáo luôn đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị
(trên trang WWW.noichinh.com); Khiếu nại, tố cáo về đất đai vẫn tăng (trên
trang WWW.dangcongsan.vn) …
Các công trình, bài viết chủ yếu đi sâu nghiên cứu về từng vấn đề trong
khiếu nại, tố cáo mà chưa khái quát hóa từ mặt lý luận đến đánh giá thực tiễn

áp dụng pháp luật về khiếu nại, tố cáo; đồng thời, chưa tổng kết được các
nguyên nhân dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai chiếm
tỷ lệ cao để đưa ra các giải pháp cải thiện tình hình. Tiếp tục kế thừa những
thành quả nghiên cứu của các công trình, bài viết trên đây, Luận văn đi sâu
tìm hiểu một cách có hệ thống, toàn diện về khiếu nại, tố cáo và giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. Bên cạnh đó, địa bàn huyện Cư Kuin,
tỉnh Đắk Lắk có những đặc điểm riêng biệt về nguồn tài nguyên đất đai và
quản lý, sử dụng đất đai, vì vậy luận văn tìm hiểu thực trạng việc thực hiện
pháp luật và nguyên nhân dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo kéo dài, phức
tạp trên địa bàn huyện Cư Kuin trong những năm gần đây để đưa ra những
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích:
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
3


trong lĩnh vực đất đai, đánh giá đúng đắn thực trạng thực hiện pháp luật trong
lĩnh vực này từ thực tiễn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk. Trên cơ sở đó, đưa ra
các giải pháp để hoàn thiện và đảm bảo thực hiện pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai.
Nhiệm vụ:
Một là: Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hệ thống quy định của pháp luật
và thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai.
Hai là: Đề xuất được các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và đảm
bảo thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng: Các quy phạm pháp luật thực định về khiếu nại, tố cáo và

giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai đang có hiệu lực thi hành.
Phạm vi nghiên cứu: Phân tích, tìm hiểu các nội dung về khiếu nại, tố
cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai quy định tại Luật
Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011, Luật Đất đai năm 2013, các văn
bản hướng dẫn thi hành có liên quan và tình hình thực hiện pháp luật giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn huyện Cư Kuin
trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp luận: Luận văn vận dụng các thành tựu nghiên cứu khoa
học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên
khảo, bài viết của các tác giả khác để phát triển nội dung nghiên cứu trong
luận văn.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng tổng hợp các phương
pháp lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê và vận dụng chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng và Nhà nước về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố
4


cáo để làm sáng tỏ các vấn đề được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Qua việc nghiên cứu đề tài này, kết quả luận văn sẽ đóng góp cho khoa
học ở những khía cạnh như sau:
Thứ nhất: Góp phần hình thành nhận thức thống nhất về vai trò, ý
nghĩa, tầm quan trọng của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
đất đai và hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Thứ hai: Đưa ra được những giải pháp, nhiệm vụ cụ thể nhằm hoàn
thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, nhằm phát
huy những kết quả đạt được, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc,

tồn tại, hạn chế đang đặt ra.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai tại huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp để hoàn thiện pháp luật và đảm bảo
thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai.

5


Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
1.1. Cơ sở lý luận pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực đất đai
1.1.1. Khái niệm về khiếu nại và khiếu nại trong lĩnh vực đất đai; về
giải quyết khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
1.1.1.1. Khái niệm về khiếu nại
Khiếu nại là hiện tượng xung đột về lợi ích giữa các chủ thể mà biểu
hiện của nó là sự phản ứng của các chủ thể khi họ cho rằng quyền và lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm phạm. Trong xã hội, các quan hệ về quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể rất đa dạng, vì vậy, khiếu nại được thể hiện ở nhiều
cấp độ khác nhau, trên những lĩnh vực khác nhau.
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ khiếu nại được đề cập đến như là sự
phản ứng của các chủ thể trong xã hội đối với quyết định của các cơ quan nhà
nước (cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp) hoặc hành vi
của cán bộ, công chức, người làm việc trong cơ quan nhà nước khi họ cho

rằng các quyết định, hành vi đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về khiếu nại nhưng nhìn chung,
quan niệm về khiếu nại đều được hiểu như vậy. Theo sách Thuật ngữ pháp lý
phổ thông “khiếu nại là việc yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc
người có chức vụ giải quyết việc vi phạm các quyền hoặc lợi ích hợp pháp
của bản thân người khiếu nại hay người khác” [11, tr. 14]. Theo Từ điển
tiếng Việt “khiếu nại được hiểu là đề nghị cơ quan có thẩm quyền xét một
việc làm mà mình không đồng ý, cho là trái phép hay không hợp lý” [26, tr.
17].
Nhìn lại lịch sử lập pháp Việt Nam, thuật ngữ khiếu nại được sử dụng
6


lần đầu tiên trong văn bản chính thức của Nhà nước Việt Nam là kể từ khi có
Sắc lệnh số 64-SL ngày 23/11/1945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Điều II
của Sắc lệnh quy định: “… Ban Thanh tra đặc biệt có toàn quyền: Nhận các
đơn khiếu nại của nhân dân...” [11, tr. 16]. Tinh thần và nội dung của bản Sắc
lệnh cho thấy khiếu nại ở đây chỉ sự khiếu nại của nhân dân đối với chính
quyền mà hiện nay chúng ta quan niệm đó chính là khiếu nại đối với hoạt
động của bộ máy nhà nước và công chức nhà nước mà trước hết là các cơ
quan hành chính nhà nước, đó chính là khiếu nại hành chính. Tại Điều I, Sắc
lệnh cũng đã xác định: “Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra đặc biệt,
có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của uỷ ban
nhân dân và các cơ quan của Chính phủ” [11, tr. 16]. Như vậy, việc khiếu nại
vừa có ý nghĩa bảo vệ quyền lợi của người dân tránh sự vi phạm từ phía cơ
quan nhà nước và cán bộ nhà nước, vừa tạo ra cơ chế để giám sát hoạt động
của chính quyền các cấp.
Năm 2000, trong một kết quả nghiên cứu của Thanh tra Nhà nước, khái
niệm khiếu nại được hiểu rộng hơn, theo đó:
Khiếu nại theo nghĩa chung nhất là việc cá nhân hay tổ chức

đề nghị cá nhân, tổ chức hay cơ quan nào đó xem xét, sửa
chữa lại một việc làm mà họ cho là không đúng đắn, gây thiệt
hại hoặc sẽ gây thiệt hại đến quyền, lợi ích chính đáng của họ
và đòi bồi thường thiệt hại do việc làm không đúng gây ra
[26, tr. 17].
Trong lĩnh vực quản lý nhà nước, khiếu nại gắn liền với thuật ngữ
khiếu nại hành chính. Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra quan niệm: “Khiếu
nại hành chính là việc cá nhân hay tổ chức đề nghị cơ quan hành chính nhà
nước xem xét, sửa chữa một hành vi hay một quyết định hành chính mà họ
cho là hành vi và quyết định đó không đúng pháp luật, gây thiệt hại hoặc sẽ
gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ...” [26, tr. 18].
7


Theo quy định tại Khoản 1, Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011:
Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ,
công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định
hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà
nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ
cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình [16, tr. 7, 8].
1.1.1.2. Khái niệm về khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
Trong giáo trình Luật Đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội - Nhà
xuất bản Công an nhân dân năm 2009, ThS. Nguyễn Thị Dung đã kế thừa hai
cách hiểu của nhóm Nguyễn Như Ý và Nguyễn Ngọc Điệp, cùng với định
nghĩa về Khiếu nại trong Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 để cho ra khái
niệm khiếu nại trong lĩnh vực đất đai như sau:
Khiếu nại trong lĩnh vực đất đai là việc các cơ quan, tổ

chức, công dân đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xem xét lại các quyết định hành chính hoặc hành vi hành
chính trong quản lý đất đai khi có căn cứ cho rằng các quyết
định, hành vi đó là xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của mình [11, tr. 17].
Khoản 1, Điều 204 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Người sử dụng
đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu
nại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai” [20,
tr. 236].
Từ quan điểm chung nhất về khiếu nại và qua các nghiên cứu nêu trên,
khiếu nại trong lĩnh vực đất đai có thể hiểu là một hình thức của khiếu nại
hành chính, là việc đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân xem xét lại các
8


quyết định, hành vi hành chính đã làm trong quản lý và sử dụng đất đai khi có
căn cứ cho rằng các quyết định, hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm đến
quyền lợi hợp pháp của mình.
1.1.1.3. Khái niệm về giải quyết khiếu nại
Tại Khoản 11, Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011 định: “Giải quyết
khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu
nại” [16, tr. 9].
Như vậy, giải quyết khiếu nại được hiểu là quá trình xem xét, đánh giá
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật có
đúng pháp luật hay không, từ đó đưa ra các giải pháp xử lý phù hợp.
1.1.1.4. Khái niệm về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
Tại Khoản 2, Điều 204 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Trình tự, thủ
tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai
thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại” [20, tr. 236, 237].
Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai là một dạng giải quyết

khiếu nại hành chính và cũng giống với giải quyết khiếu nại, nó được hiểu là
quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, đánh giá đối với quyết
định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất
đai có đúng pháp luật hay không, từ đó đưa ra các giải pháp xử lý phù hợp.
1.1.2. Khái niệm về tố cáo và tố cáo trong lĩnh vực đất đai; về giải
quyết tố cáo và giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai
1.1.2.1. Khái niệm về tố cáo
Tố cáo là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội. Tố
cáo được quan niệm khác nhau tùy theo mức độ, phạm vi, đối tượng tố cáo.
Theo nghĩa chung nhất là “vạch rõ tội lỗi của kẻ khác trước cơ quan pháp
luật hoặc trước dư luận” [11, tr. 18]. Như vậy, tố cáo chính là sự phản ứng
của xã hội trước những hành vi sai trái nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của nhà
nước, của cơ quan, tổ chức và cá nhân và bảo đảm trật tự xã hội. Tố cáo là
9


nguồn thông tin quan trọng để cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời ngăn
chặn và xử lý hành vi vi phạm và kêu gọi sự đồng thuận của xã hội ngăn chặn,
đẩy lùi các hành vi đó. Xuất phát từ trách nhiệm của các chủ thể trong việc
bảm đảm trật tự xã hội nói chung, chủ thể của quyền tố cáo rất rộng, có thể
bao gồm cả cơ quan, tổ chức, cá nhân khi phát hiện bất kỳ hành vi sai trái nào
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác và của mình.
Dưới góc độ pháp lý, tố cáo là quyền của công dân phát hiện với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền các quyết định, hành vi trái pháp luật của cơ quan, tổ
chức hoặc cá nhân đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của
nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích của công dân nói chung, kể cả không
gây thiệt hại trực tiếp cho công dân thực hiện việc tố cáo.
Tại Khoản 2, Điều 2, Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 quy định:
Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo
cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi

phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây
thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức [14, tr. 1].
Đây là quan niệm chung nhất về tố cáo nhưng lại bó hẹp bởi thủ tục
được quy định. Khái niệm này cũng không phân biệt tố cáo đối với các hành
vi xâm phạm đến những khách thể khác nhau trong xã hội, cụ thể là không
phân biệt tố cáo hành vi xâm phạm trật tự quản lý, hành vi xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, hành vi xâm phạm hoạt động tư
pháp… Do đó, chưa phân biệt rõ thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiếp nhận và xử
lý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau đối với thông tin về những
hành vi vi phạm pháp luật khác nhau.
Tại Khoản 1, Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011 quy định:
Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo
cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi
10


vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức [17, tr.
7, 8].
1.1.2.2. Khái niệm về tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Khoản 1, Điều 205 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Cá nhân có
quyền tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai” [20, tr. 237].
Từ quan điểm chung nhất về tố cáo và qua các phân tích nêu trên, tố
cáo trong lĩnh vực đất đai có thể hiểu là việc cá nhân báo cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật về quản lý và
sử dụng đất đai của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
cơ quan, tổ chức.

Tố cáo trong lĩnh vực đất đai theo quy định của Luật Tố cáo năm 2011
có 02 dạng: Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức có thẩm
quyền trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; Tố cáo các cơ quan, tổ chức,
cá nhân xâm phạm, vi phạm các quy định pháp luật trong quản lý, sử dụng đất
đai. Trong giới hạn nghiên cứu của luận văn này chủ yếu đề cập đến việc tố
cáo các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức được quy định trong
Luật Tố cáo năm 2011, không đề cập đến những tin báo, tố giác tội phạm
trong quản lý, sử dụng đất đai, những tin báo, tố giác tội phạm này được giải
quyết theo thủ tục tố tụng.
1.1.2.3. Khái niệm về giải quyết tố cáo
Tại Khoản 7, Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011 quy định: “Giải quyết tố
cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc xử lý tố
cáo của người giải quyết tố cáo” [17, tr. 8].
Như vậy, giải quyết tố cáo được hiểu là quá trình cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo; xác minh, kết luận nội dung tố
11


cáo; xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo và công khai kết luận nội dung
tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo.
1.1.2.4. Khái niệm về giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Tại Khoản 2, Điều 205 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Việc giải
quyết tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai thực hiện theo
quy định của pháp luật về tố cáo” [20, tr. 237].
Giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một dạng giải quyết tố cáo,
nó được hiểu là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận, xử lý
thông tin tố cáo về đất đai; xác minh, kết luận nội dung tố cáo; xử lý tố cáo
của người giải quyết tố cáo và công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định
xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo trong lĩnh vực đất đai.
1.1.2. Đặc điểm của khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai và giải

quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
1.1.2.1. Đặc điểm của khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Một là: Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một dạng của khiếu
nại, tố cáo, vì vậy nó cũng mang những đặc điểm chung của khiếu nại, tố cáo.
Khiếu nại, tố cáo là các quyền chính trị cơ bản của công dân được ghi nhận
trong Hiến pháp của nước ta cũng như các văn bản pháp luật có liên quan.
Giữa khiếu nại và tố cáo có điểm chung là đều nhằm để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức khi bị xâm phạm, đều có chung căn
cứ là vi phạm pháp luật. Vì vậy, các thông tin do khiếu nại, tố cáo mang đến
đều là những thông tin phản ánh vi phạm pháp luật. Về bản chất khiếu nại, tố
cáo là giải quyết, xử lý vi phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, mặc dù giữa khiếu nại và tố cáo có những đặc điểm chung
và có quan hệ gần gũi với nhau, tuy nhiên giữa chúng cũng có những đặc
điểm riêng biệt, như: Chủ thể của khiếu nại là cơ quan nhà nước, tổ chức và
cá nhân, còn chủ thể của tố cáo chỉ là cá nhân. Đối tượng của khiếu nại là
quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật đối với
12


cán bộ, công chức. Còn tố cáo có đối tượng rộng hơn rất nhiều, đó là hành vi
vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc
đe doạ gây thiệt hại tới lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, cơ quan, tổ chức. Mục đích của khiếu nại hướng tới bảo vệ và khôi phục
quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại, còn mục đích của tố cáo
không chỉ nhằm bảo vệ và khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của người tố
cáo mà còn bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Cách thức thực
hiện của khiếu nại là việc người khiếu nại yêu cầu hoặc đề nghị người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại xem xét lại các quyết định hành chính, hành
vi hành chính. Trong khi đó, cách thức thực hiện tố cáo là việc người tố cáo
báo cho người có thẩm quyền giải quyết tố cáo biết về hành vi vi phạm pháp

luật…
Hai là: Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một quyền cơ bản của
người sử dụng đất. Sở dĩ như vậy vì Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân,
do Nhân dân và vì Nhân dân. Đất đai ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước làm đại diện chủ sở hữu, thay mặt nhân dân thực hiện hoạt động quản lý
đất đai để đảm bảo cho đất đai được sử dụng hợp lý, phục vụ cho lợi ích hợp
pháp của người sử dụng đất.
Ba là: Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai có cùng căn cứ là sự vi
phạm pháp luật. Đó là các quyết định, hành vi hành chính của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền hoặc hành vi của bất kỳ cá nhân, tổ chức, cơ
quan nào trái hoặc vi phạm pháp luật đất đai, xâm phạm hoặc đe dọa xâm
phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất cũng như của
toàn xã hội. Khi thực hiện khiếu nại, tố cáo, người khiếu nại, tố cáo đều
hướng tới mục đích là chấm dứt những hành vi vi phạm, trái pháp luật ấy; yêu
cầu phục hồi các quyền và lợi ích bị xâm hại, bồi thường thiệt hại về vật chất,
danh dự do những hành vi đó gây ra, xử lý đúng pháp luật các cá nhân, tổ
chức đã vi phạm, góp phần củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa và lập lại kỷ
13


cương xã hội.
Bốn là: Nội dung của khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai rất phong
phú và đa dạng. Các hoạt động quản lý nhà nước về đất đai bao gồm rất nhiều
nội dung: Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất
đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó; xác định địa giới hành chính, lập và
quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính; khảo sát, đo đạc, lập
bản đồ địa chính; lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất; quản lý
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quản lý giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,
chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quản
lý tài chính về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai…

Năm là: Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai khi xảy ra không chỉ
ảnh hưởng tới hoạt động của người sử dụng đất mà nó còn ảnh hưởng tới hoạt
động quản lý đất đai của Nhà nước. Khi khiếu nại, tố cáo xảy ra, bản thân
người sử dụng đất không thể thực hiện được các quyền lợi của mình đối với
đất đai, không thực hiện được các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Còn cơ quan
nhà nước sẽ khó khăn trong hoạt động quản lý của mình về đất đai, vì việc
thực hiện các quyết định, hành vi hành chính về đất đai bị đình trệ.
1.1.2.2. Đặc điểm của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất
đai
Một là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một dạng
của giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính. Có điểm chung trong hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính là đều được thực hiện bằng con đường
hành chính. Tất cả các hoạt động này một bên tham gia quan hệ đều là cơ
quan hành chính nhà nước, còn bên khác trong quan hệ có thể là cá nhân, tổ
chức, cơ quan khác của nhà nước. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo hành
chính là một hoạt động bảo đảm pháp chế trong quản lý nhà nước, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ lợi ích nhà
nước, xã hội, bảo vệ trật tự kỷ cương, trật tự pháp luật, xử lý những hành vi vi
14


phạm pháp luật. Vì vậy, hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ
quan hành chính nhà nước cũng là biện pháp bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Bên cạnh đó, mặc dù có những điểm chung với nhau nhưng về thủ tục
hành chính trong giải quyết khiếu nại và giải quyết tố cáo có những điểm
riêng biệt, như: Giải quyết khiếu nại hành chính phải đảm bảo khách quan,
dân chủ, kịp thời, trong khi đó giải quyết tố cáo còn phải đảm bảo bí mật, bảo
vệ người tố cáo; trong giải quyết khiếu nại hành chính Tòa án là lá chắn cuối
cùng bảo vệ quyền của người khiếu nại, còn trong giải quyết tố cáo hành

chính thì không có hệ thống Tòa án.
Hai là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai phải bảo đảm
nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý.
Kiên quyết bảo vệ những thành quả cách mạng về ruộng đất, đồng thời khắc
phục kịp thời, đúng pháp luật những trường hợp đã xử lý sai trái hoặc xử lý
không đúng. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai do
có quan có thẩm quyền quản lý nhà nước tiến hành theo trình tự, thủ tục hành
chính.
Ba là: Cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo phải nắm
vững quan điểm lấy dân làm gốc, phải dựa vào dân, bàn bạc dân chủ công
khai quỹ đất với dân để giải quyết và phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ
trong nội bộ nhân dân để giúp nhân dân tìm ra giải pháp, không gò ép mệnh
lệnh. Đề cao vai trò của các tổ chức, đoàn thể để hòa giải các vụ khiếu nại, tố
cáo có hiệu quả.
Bốn là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai nhằm mục
đích phát triển sản xuất, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
Năm là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai phải được
thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và phải tuân theo trình tự, thủ tục đã
được quy định trong các văn bản pháp luật về khiếu nại, về tố cáo và về đất
15


đai. Một mặt phải tuân thủ quy định của Luật khiếu nại năm 2011, Luật Tố
cáo năm 2011, mặt khác phải tuân thủ quy định của Luật Đất đai năm 2013 và
các văn bản hướng dẫn thi hành.
Sáu là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai được quy
định theo phân cấp quản lý, bao gồm từ cấp huyện lên cấp tỉnh; bên cạnh đó,
người dân còn có thể khởi kiện ra Tòa án mà không cần phải chờ giải quyết
khiếu nại lần hai (đối với khiếu nại) hoặc tố cáo tiếp (đối với tố cáo).
Bảy là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai phản ánh mối

quan hệ giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quản lý đất đai với người
sử dụng đất. Trong quan hệ này, cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét nội dung
quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại, bị tố cáo, từ đó đi đến
công nhận hay không công nhận một phần hay toàn bộ quyết định hành chính
đó; kết luận về tính đúng đắn của hành vi hành chính hoặc kết luận về tính
đúng đắn của nội dung tố cáo.
1.1.3. Vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong lĩnh vực đất đai
1.1.3.1. Vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung
Thứ nhất: Quyền khiếu nại, quyền tố cáo là quyền chính trị cơ bản của
công dân, là phương tiện đảm bảo quyền, lợi ích của công dân, lợi ích của
Nhà nước. Quyền khiếu nại được coi là quyền để bảo vệ quyền, quyền khiếu
nại được sử dụng khi quyền và lợi ích của công dân bị vi phạm do quyết định
hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan quản lý nhà nước. Khiếu nại
là kênh thông tin hữu ích giúp cơ quan quản lý nhà nước phát hiện những tồn
tại, vướng mắc và qua đó hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước. Tố cáo là
phương thức giúp công dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của
cơ quan quản lý nhà nước. Khiếu nại, tố cáo là phương thức công dân tham
gia vào họat động quản lý nhà nước và quyền khiếu nại, quyền tố cáo được
phát huy đã phản ánh nền dân chủ quốc gia. Hiến pháp năm 2013 quy định:
16


“Mọi người có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức,cá
nhân” [21, tr. 5].
Thứ hai: Khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là một
trong những hoạt động nhằm đảm bảo pháp chế, triệt để tôn trọng pháp luật
trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước và công dân. Hoạt động giải quyết
khiếu nại, tố cáo là hoạt động đảm bảo pháp chế trong hoạt động quản lý hành

chính nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ trật tự
pháp luật và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật. Việc thực hiện quyền
khiếu nại, quyền tố cáo của công dân có vai trò to lớn trong việc mở rộng cơ
chế dân chủ, tăng cường pháp chế và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Thông qua khiếu nại, tố cáo, Nhà nước kiểm định được tính đúng đắn, khả thi
của các quy định pháp luật và hiệu quả của công tác triển khai thực hiện các
quy định pháp luật; góp phần giúp Nhà nước hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội
bằng pháp luật.
Thứ ba: Thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo mà các hành vi vi phạm
pháp luật, tham nhũng, lãng phí được phát hiện, xử lý kịp thời, từ đó các cơ
quan chức năng mới có các biện pháp để xử lý nghiêm minh những sai phạm.
Bất cứ hành vi vi phạm nào sau khi giải quyết mà xét thấy đúng như những gì
khiếu nại, tố cáo đã nêu đều sẽ bị các cơ quan chức năng xử lý bằng nhiều
hình thức. Chính vì thế để đảm bảo cho pháp luật nghiêm minh thì hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo có tác dụng răn đe, ngăn chặn những hành vi sai
phạm.
Thứ tư: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo thể hiện tinh thần nhân
đạo, tiến bộ và dân chủ của nước ta. Hoạt động này sẽ bảo đảm tính dân chủ,
công khai, minh bạch trong quản lý hành chính nhà nước. Giải quyết hợp lý
các yêu cầu khiếu nại, tố cáo của công dân lấy được lòng tin của nhân dân vào
cơ quan Nhà nước, vào sự lãnh đạo của Đảng; làm sợi dây liên kết Đảng, Nhà
17


nước và nhân dân thêm chắc chắn. Đó cũng là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh được thể hiện thông qua những lời văn hết sức bình dị nhưng vô cùng
sâu sắc: “Đồng bào có oan ức, có thắc mắc mới khiếu nại, ta giải quyết tốt
các khiếu nại, đồng thời thấy Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến họ, do
đó mối quan hệ quần chúng với Đảng và Chính phủ được củng cố tốt hơn”
[12, tr. 15].

Như vậy, thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo có vai trò
vô cùng quan trọng, góp phần đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
quyền và lợi ích chính đáng của công dân; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa;
phát huy sức mạnh, trí tuệ của nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước và
tăng cường kỷ cương, pháp luật.
1.1.3.2. Vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Thứ nhất: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một
dạng của giải quyết khiếu nại, tố cáo nên nó cũng có những vai trò của giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
Thứ hai: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc đảm bảo cho pháp luật nói chung và pháp luật về đất
đai nói riêng được thực thi nghiêm chỉnh, góp phần nâng cao hiệu quả của
hoạt động quản lý và sử dụng đất đai. Thông qua hoạt động này các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền sẽ thấy được những lĩnh vực nào của pháp luật đất
đai còn bộc lộ những điểm không phù hợp với thực tiễn để từ đó tiến hành
nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, đồng thời cũng thông qua đây, Nhà
nước có thể điều chỉnh các quan hệ đất đai cho phù hợp với lợi ích của Nhà
nước, của nhân dân cũng như của từng hộ gia đình, cá nhân.
Thứ ba: Việc giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật các khiếu nại, tố
cáo trong lĩnh vực đất đai, gắn với nó là việc khôi phục kịp thời các quyền, lợi
ích hợp pháp của người sử dụng đất, đồng thời xử lý nghiêm minh, đúng pháp
luật những người có hành vi sai phạm sẽ củng cố niềm tin của nhân dân vào
18


chính quyền, chế độ, vào các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước. Nếu hoạt động khiếu nại, tố cáo của công dân chỉ dừng lại ở việc
phát hiện và thông tin các hành vi vi phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức,
cơ quan trong hoạt động quản lý đất đai thì chưa hoàn toàn đảm bảo quyền và
lợi ích của công dân. Kết quả của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực

đất đai còn khôi phục quyền và lợi ích của công dân bị xâm phạm: bồi
thường, hỗ trợ thỏa đáng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng chủ
sở hữu, giải quyết tranh chấp đất đai giữa công dân với nhau… đáp ứng mong
mỏi chính đáng của công dân khi khiếu kiện lên các cơ quan có thẩm quyền.
1.2. Nội dung của pháp luật và thực hiện pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
1.2.1. Nội dung của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực đất đai
Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù
hợp với lợi ích của giai cấp mình.
Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là tổng
hợp các quy định pháp luật điều chỉnh nguyên tắc, thẩm quyền, điều kiện,
trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm khôi phục quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân bị xâm phạm do các quyết định hành chính, hành vi
hành chính về đất đai của các cơ quan quản lý nhà nước.
Pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là hệ thống
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong khiếu
nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. Hệ thống
pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai bao gồm các chế
định cơ bản như: Những quy định chung về nguyên tắc, quan niệm, phạm vi,
đối tượng điều chỉnh; những quy định về thẩm quyền, trình tự và thủ tục giải
19


×