Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (776.91 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THỊ NHÂN

PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỀN TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

ĐẮK LẮK – NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THỊ NHÂN

PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỀN TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 60 38 01 02


Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Minh Sản

ĐẮK LẮK – NĂM 2017

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với tiêu đề “Pháp luật về Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” hoàn toàn là kết quả nghiên
cứu của chính bản thân tôi và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào của người khác. Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã
thực hiện nghiêm túc các quy tắc đạo đức nghiên cứu; các kết quả trình bày
trong luận văn là sản phẩm nghiên cứu, khảo sát của riêng cá nhân tôi; tất cả
các tài liệu tham khảo sử dụng trong luận văn đều được trích dẫn tường minh,
theo đúng quy định.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính trung thực của số liệu và các
nội dung khác trong luận văn của mình.
Đắk Lắk, ngày 20 tháng 3 năm 2017
Tác giả Luận văn

Trần Thị Nhân

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………… ...................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn…… ………… ................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn……… ................. 3

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ...................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ................................... 5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ............. 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ............................................. 5
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................. 6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân.............................................. 7
1.1.1. Khái niệm kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân .......................... 7
1.1.2. Đặc điểm kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ............................ 9
1.1.3. Vị trí, vai trò của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ................ 11
1.2. Pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân.......................... 12
1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ...... 12
1.2.2. Nội dung pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ....... 13
1.2.3. Vai trò của pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ..... 14
1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân ..................................................................................................... 17

4


1.3.1. Yếu tố thể chế pháp lý .................................................................... 17
1.3.2. Yếu tố tổ chức, bộ máy ................................................................... 20
1.3.3. Yếu tố cán bộ, công chức ................................................................ 23
1.3.4. Yếu tố cơ sở, vật chất và nguồn lực tài chính ................................. 23
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về Kiểm sát viên Viện Kiểm
sát nhân dân ..................................................................................................... 26
2.1.1. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên

................................................................................................................... 26
2.1.2. Các quy định về tiêu chuẩn Kiểm sát viên...................................... 28
2.1.3. Quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và
thuyên chuyển Kiểm sát viên .......................................................................... 31
2.1.4. Quy định về mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và các cơ quan tố
tụng khác ......................................................................................................... 34
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân
dân ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay ........................................................................... 38
2.2.1. Hoạt động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm
sát viên............................................................................................................. 38
2.2.2. Về tiêu chuẩn, trình tự thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm
cách chức Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân........................................... 49
2.2.3. Về mối quan hệ giữa kiểm sát viên và các cơ quan tố tụng khác
................................................................................................................... 51

5


2.3. Đánh giá chung việc thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay ............................................................. 53
2.3.1. Những kết quả đạt được .................................................................. 53
2.3.2. Những hạn chế, bất cập ................................................................... 55
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập....................................... 59
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ BẢO
ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN HIỆN NAY
3.1. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên
Viện Kiểm sát nhân dân .................................................................................. 63
3.1.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát

nhân dân .......................................................................................................... 63
3.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân
dân ................................................................................................................... 67
3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân hiện nay ...................................................................................... 74
3.2.1. Tăng cường các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân ........................................................................... 74
3.2.2. Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về Kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân...................................................................... 75
KẾT LUẬN ............................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 79

6


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NNPQ

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

7



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Đất nước đang bước vào công cuộc đổi mới toàn diện, là một trong
những cơ quan của chuyên chính vô sản, trách nhiệ m của ngành kiểm sát,
người cán bộ kiểm sát là hết sức quan trọng, trong đó có đội ngũ Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), "Người cán bộ Kiểm sát viên phải
thấy hết trách nhiệm cao cả và nặng nề của mình, luôn luôn tôn trọng sự thật,
phân rõ đúng sai, hết sức giữ thái độ khách quan, thận trọng, công minh,
chính trực" (Lê Duẩn).
Ngay từ khi nước nhà giành độc lập, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hoà đã chú ý tới những cán bộ làm nhiệm vụ công tố, những vấn đề pháp lý
về chức danh này bước đầu được điều chỉnh trong những văn bản pháp luật
do nhà nước ban hành. Sự ra đời của VKSND năm 1960 đánh dấu sự hình
thành chức danh Kiểm sát viên có nhiệm vụ kiểm sát sự tuân theo pháp luật
và thực hành quyền công tố. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên VKSND trong
hệ thống cơ quan Viện kiểm sát và bộ máy nhà nước nói chung đã và đang
được khẳng định. Với cơ quan Viện kiểm sát, Kiểm sát viên là người trực tiếp
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, trong bộ máy nhà nước, Kiểm sát viên là một chức danh tư pháp, có
nhiệm vụ thực hiện chức năng của Viện kiểm sát, bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự thực thi pháp luật nghiêm minh, công bằng.
Là một trong 5 tỉnh Tây Nguyên, có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng
của cả nước, Đắk Lắk có diện tích hơn 13.000 km2; dân số gần 02 triệu người;
có 47 dân tộc anh em ở khắp các vùng, miền trong cả nước cùng về đây sinh
sống; có 73 km đường biên giới giáp tỉnh Munđunkiri thuộc nước bạn Campu-chia; tỉnh Đắk Lắk tiếp giáp với 05 tỉnh bạn là Gia Lai, Đắk Nông, Lâm
Đồng, Khánh Hoà và Phú Yên; có 03 quốc lộ 14, 26 và 27 chạy qua; có 15

8



đơn vị hành chính cấp huyện gồm 01 thành phố cấp 01 Buôn Ma Thuột, 01 thị
xã Buôn Hồ và 13 huyện, với 184 xã, 2.445 thôn, buôn, bản.
Trong những năm qua, tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh luôn
diễn biến và tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, nhất là các hoạt động của bọn
phản động Fulrô lưu vong liên quan đến tình hình an ninh nông thôn và tội
phạm hình sự (lượng án ở Đắk Lắk giải quyết đứng thứ 5 trên toàn quốc). Với
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND
tỉnh Đắk Lắk đã góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử
lý kịp thời, nghiêm minh. VKSND tỉnh Đắk Lắk không thể đảm nhận được
vai trò, nếu thiếu nhân tố có ý nghĩa quyết định đó là đội ngũ cán bộ, Kiểm sát
viên của hai cấp. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên hai cấp có đủ
phẩm chất và năng lực là nhiệm vụ có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước và thực hiện
nhiệm vụ chính trị của địa phương, nhất là yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân, vì dân, pháp luật
về Kiểm sát viên đã bộc lộ những những yếu kém, bất cập: thiếu tính đồng
bộ, tính thống nhất; nhiều quy định về Kiểm sát viên còn chung chung, chưa
hoàn toàn phù hợp; số lượng định biên và cơ cấu chức danh Kiểm sát viên
còn gò bó, cứng nhắc, có nơi thiếu, nơi thừa, chưa đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị; các quy định về quản lý còn phân tán, chống
chéo, thiếu thống nhất, chưa có sự phân công rõ ràng, rành mạch; tiêu chuẩn
đối với Kiểm sát viên còn nhiều mâu thuẫn, chưa ăn khớp; công tác đào tạo,
bồi dưỡng Kiểm sát viên chậm được đổi mới; tiền lương, phụ cấp và các đãi
ngộ khác đối với Kiểm sát viên chưa được giải quyết một cách cơ bản, còn
nhiều bất hợp lý; một số chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng về Kiểm
sát viên chưa được thể chế hóa thành pháp luật; chính sách thu hút và trọng
dụng tài năng chưa được quan tâm; tình trạng cục bộ địa phương chậm được


9


khắc phục; nhiều vấn đề mới phát sinh trong quản lý và xây dựng đội ngũ
Kiểm sát viên chưa được pháp luật điều chỉnh, bổ sung kịp thời, vv... Những
thiếu sót đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến trình độ, chất
lượng của đội ngũ Kiểm sát viên tỉnh Đắk Lắk còn thấp; năng lực của một bộ
phận không nhỏ Kiểm sát viên còn yếu kém, chưa toàn tâm toàn ý với công
vụ, thiếu công tâm, khách quan, còn có những biểu hiện tiêu cực, chưa được
nhân dân tín nhiệm.
Để tạo được một hệ thống văn bản pháp luật về Kiểm sát viên có được
sự đổi mới cơ bản, có hệ thống quy phạm, nguyên tắc, định hướng và mục
đích pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ, thống nhất và có tính khả thi cao đã đặt
ra nhiều vấn đề lý luận, pháp lý cần phải được giải đáp thấu đáo, có căn cứ
khoa học và thực tiễn. Vì vậy, việc chọn và nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân - Thực tiễn từ tỉnh Đắk Lắk” là yêu
cầu khách quan và tất yếu, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài: “Pháp luật về Kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân - Thực tiễn từ tỉnh Đắk Lắk” cho thấy, các
nhà khoa học tiếp cận theo nhiều cách, với những cấp độ khác nhau, trong đó
đáng chú ý như:
Tô Tử Hạ (2003), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ công chức
hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh
Phương (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; TS. Nguyễn Minh Tuấn (2012), Tiếp
tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật; Lê Hữu Thể (chủ biên) (2005),
Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều

tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội; Lê Tài Triển (1970), Nhiệm vụ của Công tố viên,
Nxb Sài Gòn; Lê Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án

10


tiến sĩ Luật học, Hà Nội; Đỗ Văn Đương (2006), "Cơ quan thực hành quyền
công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp; Nguyễn Thị Thu Hà (2015), “Tranh tụng trong tố tụng dân sự - một số
vấn đề lý luận cơ bản”, đăng trên trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ;
Nguyễn Thị Thu Hà (2009), Về quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS nhân
dân, Tạp chí Luật học tháng 11/2009; Phạm Hồng Hải (2006), "Đổi mới mô
hình tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Nhà
nước và pháp luật…
Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện, chuyên biệt về pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Luận văn là công trình
khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên biệt về: “Pháp
luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân - Thực tiễn từ tỉnh Đắk Lắk”
dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Với kết quả nghiên cứu của
luận văn, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần khắc phục tình trạng nêu trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn hướng tới làm sáng tỏ cơ sở lý luận
và thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND - Từ thực tiễn tỉnh Đắk
Lắk để đưa ra các quan điểm, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn
thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thời gian tới.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất, luận văn xây dựng cơ sở lý luận của pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND thông qua việc phân tích, làm rõ khái niệm pháp luật về Kiểm
sát viên VKSND; đặc điểm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; nội dung

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; vai trò pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND; các yếu tố bảo đảm thực hiện hiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND tỉnh Đắk Lắk, luận văn đánh giá khách quan về những kết quả

11


đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất
cập này.
Thứ ba, luận văn hình thành các quan điểm, đề xuất phương hướng và
các giải pháp cơ bản, có tính hệ thống và bảo đảm cơ sở khoa học nhằm hoàn
thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định pháp luật hiện hành của
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND.
Dưới góc độ tiếp cận của khoa học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính,
phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định là pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND ở Việt Nam, được đánh giá thông qua thực tiễn thực hiện pháp luật
về Kiểm sát viên VKSND tỉnh Đắk Lắk, thời gian từ năm 2012 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về chiến lược xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2016; về đổi mới
công tác cán bộ và cải cách tư pháp.
Để phù hợp với nội dung và mục đích nghiên cứu, luận văn đã sử dụng
hợp lý, có hiệu quả từng từng phương pháp nghiên cứu cụ thể, trong đó luận
văn chú trọng các phương pháp như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh
pháp luật.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu sâu, toàn diện và có hệ
thống về pháp luật Kiểm sát viên VKSND - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk trên cả
phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Các kết quả nghiên cứu của luận
văn sẽ là những bổ sung quan trọng vào hệ thống lý luận về Luật Hiến pháp
và Luật Hành chính, góp phần làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng, Nhà

12


nước về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2020; về đổi mới công tác cán bộ và cải cách tư pháp.
Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu này còn góp phần nâng cao nhận
thức về vai trò, giá trị của pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong đời sống
dân sự. Luận văn có thể được tham khảo trong xây dựng chiến lược hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020, trong đổi mới công tác cán
bộ và cải cách tư pháp; tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở
đào tạo chuyên ngành pháp luật, tư pháp và các khóa bồi dưỡng cán bộ, công
chức ngành kiểm sát nhân dân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân và thực tiễn thi hành ở tỉnh Đắk Lắk;
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân và bảo đảm thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân hiện nay.


13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Khái niệm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Để có quan niệm xác thực về Kiểm sát viên VKSND, trước hết cần phải
tiếp cận nó như một bộ phận cấu thành của hệ thống cán bộ, công chức nhà
nước và là một thuật ngữ có tính tập hợp.
Cán bộ, theo quan niệm thông thường được hiểu là những người thoát
ly khỏi sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp… để làm việc trong bộ máy chính
quyền, đảng, đoàn thể, những người là sĩ quan trong lực lượng Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân, những người giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý
trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức kinh tế…
Theo các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta hiện nay, sử dụng
đồng thời ba thuật ngữ: cán bộ, công chức, viên chức. Hiến pháp năm 2013 ở
Điều 8 "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước phải
tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân…". Theo quy định của Hiến

14


pháp thì những người phục vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước bao gồm
cán bộ, công chức và viên chức.
Căn cứ tại khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ công chức năm 2008 thì “Cán
bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà

nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương
từ ngân sách nhà nước.”
Theo quy định này thì tiêu chí xác định cán bộ gắn với cơ chế bầu cử,
phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ. Những người đủ
các tiêu chí chung của cán bộ, công chức mà được tuyển vào làm việc trong
các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội thông qua bầu cử,
phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ chức danh theo nhiệm kỳ thì được xác định
là cán bộ.
Công chức là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia
trên thế giới. Đây là khái niệm mang tính lịch sử, đồng thời phản ánh đặc sắc
riêng của nền công vụ và tổ chức bộ máy nhà nước ở mỗi quốc gia. Tùy thuộc
vào đặc điểm chính trị, kinh tế, xã hội và chế độ chính sách của mỗi quốc gia
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể mà nội dung của khái niệm công chức
được hiểu theo những cách khác nhau.
Theo Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011),
Luật tổ chức VKSND năm 2002 và đến nay là Luật Tổ chức VKSND năm
2014 qui định thì tại Điều 74 quy định: Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm
theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp [38].
Đồng thời, căn cứ Nghị định 60/NĐ-CP ngày 25/01/2010 quy định
những người là công chức thì xác định “Công chức là công dân Việt Nam,

15


được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên chế,
hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật, làm việc trong các cơ

quan, tổ chức, đơn vị quy định tại Nghị định này” [4].
Theo đó, công chức trong hệ thống VKSND gồm: Phó Viện trưởng
VKSND tối cao; kiểm sát viên, điều tra viên; người làm việc trong văn phòng,
vụ, cục, ban và Viện nghiệp vụ thuộc VKSND tối cao; Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện VKSND cấp tỉnh; kiểm sát viên, điều tra viên; người làm việc
trong văn phòng, phòng thuộc VKSND cấp tỉnh; Viện trưởng, Phó Viện
trưởng VKSND cấp huyện; kiểm sát viên, điều tra viên và người làm việc
trong VKSND cấp huyện.
Qua phân tích các quy định trên đây, dưới góc độ luật học có thể khái
quát về Kiểm sát viên VKSND như sau: Kiểm sát viên VKSND là công dân
Việt Nam được bổ nhiệm vào vào ngạch Kiểm sát viên theo nhiệm kỳ để làm
nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
VKSND là một bộ phận trong bộ máy chính quyền nhà nước. Kiểm sát
viên VKSND là những người hoạt động theo thẩm quyền được pháp luật quy
định, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước nhân dân và cơ quan nhà
nước cấp trên. Là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ, công chức
nhà nước, hoạt động của Kiểm sát viên đều hướng theo mục tiêu nhiệm vụ
chung.
Về vị trí: Là cơ quan trong bộ máy nhà nước ta được quy định bởi
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được xác lập trong Hiến pháp.
Về chức năng, nhiệm vụ: Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp.

16


Về tổ chức, quyền hạn: Hệ thống VKSND là một hệ thống thống nhất,

bao gồm VKSND tối cao, các VKSND cấp cao, các VKSND địa phương, các
VKS quân sự và được phân cấp đảm nhiệm những chức năng. Do đó, Kiểm
sát viên VKSND gồm hai bộ phận, một là, chỉ thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo bổ nhiệm ngạch Kiểm sát
viên; hai là, vừa thực hiện chức năng trên vừa giữ chức danh quản lý theo sự
bỏ phiếu tín nhiệm của từng nhiệm kỳ.
Về hoạt động: Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với người
phạm tội; kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm sát tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp.
Đặc điểm của Kiểm sát viên VKSND được thể hiện cụ thể sau đây:
Kiểm sát viên là người thực thi pháp luật và thực hiện chức năng, nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ
tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm mọi hành vi xâm phạm lợi ích
của nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải
được xử lý theo pháp luật.
Kiểm sát viên có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh
chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa; tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; đấu tranh
không khoan nhượng với mọi tội phạm và vi phạm pháp luật; kiên quyết bảo
vệ Hiến pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng xã hội; không ngừng phấn đấu,
học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Công minh, chính
trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”; nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật,
nguyên tắc tổ chức hoạt động của VKSND. Chính vì vậy, Kiểm sát viên là
những người gần dân, sát dân, biết dân, vì nhân dân phục vụ nên dễ làm dân

17



tin và dân mến, có điều kiện thuận lợi trong việc thuyết phục, vận động nhân
dân tuân thủ pháp luật, thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy còn không ít Kiểm sát
viên chưa toàn tâm, toàn ý với công việc được giao, trong giải quyết công
việc còn thiếu trách nhiệm mà coi nhẹ kỷ cương, pháp luật.
Kiểm sát viên là người có trình độ chuyên môn và có năng lực công tác.
Theo tiêu chuẩn thì Kiểm sát viên có trình độ cử nhân luật trở lên, đã hoàn
thành đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát. Kiểm sát viên hiểu biết, nắm vững và áp
dụng đúng các quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế, các quy
chế nghiệp vụ của ngành, nhất là các quy định của pháp luật trong lĩnh vực
công tác được giao để giải quyết công việc được chính xác, có chất lượng,
hiệu quả; vận dụng linh hoạt, nhạy bén các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn hoạt động nghiệp vụ, đồng thời biết gắn
nhiệm vụ công tác được giao với yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị của
Đảng; có khả năng tham mưu, hướng dẫn pháp luật trong công tác. Ngoài ra,
với tính chất công việc và yêu cầu nhiệm vụ, Kiểm sát viên có mối quan hệ
công tác và tiếp xúc với nhiều người khác nhau như: Điều tra viên, Thẩm
phán, Luật sư và viên chức các ban ngành có liên quan đến công việc, quần
chúng hay bị can, bị cáo, đương sự … nên Kiểm sát viên còn có các kĩ năng
giải quyết vấn đề, phân tích thông tin và kỹ năng báo cáo, kĩ năng tranh tụng
trước tòa, hùng biện và nói trước đám đông, thuyết phục. Khi thực thi pháp
luật, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật và
Viện trưởng Viện kiểm sát về hành vi, quyết định của mình trong việc thực
hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Đây cũng là những đặc điểm khác biệt của Kiểm sát viên so với các đối tượng
công chức nhà nước khác.
Kiểm sát viên không có tính ổn định, là công chức trong biên chế, làm
việc suốt đời (60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ), nhưng chức danh


18


được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ, nếu không được bổ nhiệm thì không còn giữ
chức danh Kiểm sát viên nữa; thường có sự điều động, luân chuyển. Về nghĩa
vụ, trách nhiệm có tính đặc thù, chuyên trách với trách nhiệm cao, thường
xuyên làm việc với đối tượng phạm tội, nhưng thực chất chế độ của Kiểm sát
viên chưa được hưởng tương xứng và đầy đủ. Bên cạnh đó, có những Kiểm
sát viên còn hạn chế về năng lực, trình độ, chưa nắm vững các quy định pháp
luật và các quy định có liên quan nên chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
1.1.3. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân
Trong bộ máy nhà nước, VKSND có một vị trí đặc biệt. Luật tổ chức
VKSND năm 2014 khẳng định rõ địa vị pháp lý của VKSND là thiết chế Hiến
định trong bộ máy nhà nước, có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân. Hệ thống cơ quan VKSND gồm VKSND tối cao,
các VKSND cấp cao, các VKSND địa phương và các Viện kiểm sát quân sự.
VKSND tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
VKSND cấp cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
cấp cao. VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi địa phương mình. Các Viện
kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong quân đội.
1.2. Pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân
1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân
Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là lĩnh vực pháp luật có tính chất
liên ngành, các quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND được quy định

trong nhiều văn bản pháp luật như Hiến pháp, các luật, bộ luật, pháp lệnh, các

19


nghị định trong đó Luật cán bộ, công chức; các nghị định của Chính phủ về
cán bộ, công chức, Luật tổ chức VKSND có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với
vị trí là những văn bản chung.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý tối cao, là cơ sở để
làm hình thành pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Hiến pháp quy định các
nguyên tắc mang tính chính trị - xã hội cốt yếu của nền hành chính, thông qua
quy định nghĩa vụ của công chức nhà nước trong hoạt động công vụ; quyền tự
do của công dân trên các lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực hành chính - chính
trị; quy định trình tự pháp lý của việc thiết lập các chức vụ chính trị trong bộ
máy nhà nước; quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các chức vụ
trong bộ máy đó. Các quy định này là cơ sở định hướng cho việc xây dựng chế
độ pháp lý về cán bộ, công chức nói chung và Kiểm sát viên VKSND nói riêng.
Luật cán bộ, công chức là văn bản qui định liên quan tới mọi mặt đời sống
công vụ; xác định phạm vi, các quyền, nghĩa vụ công vụ ; các quy tắc chung về
tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật v.v...của
cán bộ, công chức nói chung, trong đó có Kiểm sát viên VKSND.
Luật tổ chức VKSND năm 2014 là văn bản hợp nhất Luật tổ chức
VKSND năm 2002 và Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2011, là văn
bản trực tiếp và quan trọng nhất liên quan tới Kiểm sát viên, qui định các mặt
cụ thể của chế độ công vụ của Kiểm sát viên VKSND, quy định về: tuyển
dụng, sử dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật, trách nhiệm bồi thường vật
chất, .... của Kiểm sát viên VKSND.
Như vậy, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một lĩnh vực pháp luật,
bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới mọi mặt của Kiểm sát
viên VKSND và chế độ công vụ đối với họ. Những văn bản lập pháp và lập

quy này do cơ quan nhà nước ở Trung ương, địa phương ban hành. Phạm vi
điều chỉnh của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là những quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình thiết lập đội ngũ Kiểm sát viên.

20


Từ những phân tích trên đây, dưới góc độ luật học có thể khái quát như
sau: Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là tổng thể các quy phạm pháp luật
thể hiện dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành, quy định các nguyên tắc của chế độ công vụ, trật tự
hoạt động công vụ, điều chỉnh các quan hệ về công vụ trong thiết lập các chức
danh công chức của VKSND; các quyền, nghĩa vụ của Kiểm sát viên VKSND
trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ; việc bổ nhiệm, tuyển dụng, sử
dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật và các vấn đề khác trong chính sách
Kiểm sát viên VKSND.
1.2.2. Nội dung pháp luật về Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân
Quy định pháp luật điều chỉnh về Kiểm sát viên có ở nhiều văn bản
khác nhau. Dưới góc độ luật Hiến pháp - Luật Hành chính, dựa vào các quan
hệ được điều chỉnh bởi pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, trên cơ sở thực
tiễn pháp luật, có thể xác định được nội dung của pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND gồm những vấn đề cơ bản sau:
- Địa vị pháp lý - công vụ của chức danh Kiểm sát viên. Vấn đề này
thường trả lời cho câu hỏi, Kiểm sát viên có phải là cán bộ, hay công chức
trong nền công vụ mà nó đang tồn tại.
- Nhiệm kỳ Kiểm sát viên, các ngạch Kiểm sát viên.
- Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên.
- Tiêu chuẩn Kiểm sát viên, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức Kiểm sát viên.
- Chế độ đối với Kiểm sát viên.

Như vậy có thể thấy, hai nhóm nội dung cơ bản của pháp luật về Kiểm
sát viên là: Thứ nhất, nhóm các quy định về chế độ hoạt động của Kiểm sát
viên, bao gồm các quy định về địa vị pháp lý, quyền hạn, trách nhiệm và
nghĩa vụ pháp lý của Kiểm sát viên; thứ hai, nhóm các quy định về quản lý

21


(hành chính) đối với Kiểm sát viên như: tuyển chọn, bổ nhiệm, sử dụng, quản
lý, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, điều động, khen thưởng, kỷ luật, miễn
nhiệm, cách chức. Trong từng trường hợp cụ thể mà có thể xác định nguồn
quy phạm điều chỉnh quan hệ xã hội cụ thể đối với Kiểm sát viên. Trong
phạm vi luận văn này, chủ yếu tập trung vào một số nội dung cơ bản của hai
nhóm nêu trên, đó là các quy định về: nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của Kiểm sát viên; quy định về tiêu chuẩn, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên; và mối quan hệ công vụ của Kiểm sát
viên với cơ quan tiến hành tố tụng khác.
1.2.3. Vai trò của pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân
Nhà nước pháp quyền là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì dân,
là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, trong đó Hiến pháp là tối cao, tối
thượng, các luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác không trái, mâu
thuẫn với Hiến pháp. Pháp luật của NNPQ là pháp luật vì con người, phục vụ
con người, điều đó đòi hỏi muốn xây dựng NNPQ trước hết phải xây dựng
được một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện cả về nội dung và hình thức,
trong đó có pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Như vậy, pháp luật về Kiểm
sát viên VKSND là một trong những phương tiện có vai trò quan trọng để xây
dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân. Vai trò đó thể hiện ở những khía
cạnh sau:
Một là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là phương tiện để Đảng ta
thực hiện quan điểm về xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên đảm bảo sự lãnh đạo

của Đảng. Pháp luật là phương tiện thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm, chính
sách của Đảng. Chính sách đưa ra phương hướng phải tiến tới, ấn định nguyên
tắc giải quyết các vấn đề, còn pháp luật quy định cụ thể trong từng trường hợp
mỗi người có quyền và nghĩa vụ gì, phải hành động hay không được hành động,
quy định những biện pháp cưỡng chế nếu có những hành vi vi phạm. Đồng thời,

22


pháp luật về Kiểm sát viên VKSND cũng chính là phương tiện để Đảng kiểm
nghiệm chủ trương, đường lối của mình trong thực tiễn.
Hai là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là phương tiện quan trọng
trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước là lĩnh vực có
quy mô và phạm vi hoạt động rất rộng, bao gồm nhiều mối quan hệ cần điều
chỉnh, trong đó có quan hệ hành chính nhân sự là một trong những vấn đề
quan trọng, mối quan tâm hàng đầu của nền hành chính các quốc gia. Pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND là tổng thể những quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ quản lý nhân sự, đảm bảo trật tự công vụ và sự vận hành có
hiệu quả của bộ máy nhà nước từ khâu tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi
dưỡng đến khâu sử dụng, quản lý và các chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật
đối với Kiểm sát viên VKSND. Các văn bản pháp luật đó quy định phạm vi,
quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND trên cơ sở
các chức vụ hành chính được nhà nước trao cho nhằm tạo ra hành lang pháp
lý trong quá trình thực thi công vụ, phục vụ nhân dân. Việc quy định nhiệm
vụ, quyền hạn, những việc Kiểm sát viên VKSND được làm và không được
làm là đảm bảo pháp lý giúp cho Kiểm sát viên VKSND hoàn thành chức
trách, nhiệm vụ của mình trên cơ sở pháp luật, vừa bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của công chức vừa bảo đảm các mệnh lệnh, quyết định quản lý nhà nước
đều được tổ chức thực hiện đầy đủ.
Ba là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là phương tiện cho đội ngũ

Kiểm sát viên thực thi đúng chức trách của mình, bảo vệ lợi ích nhà nước,
đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một bộ phận trong hệ thống
pháp luật nhà nước, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ chức vụ hành chính nhà nước. Các hoạt động của Kiểm sát viên
VKSND trong bộ máy nhà nước nhằm thực thi quyền hành pháp. Kiểm sát
viên VKSND là những người được nhà nước lựa chọn làm nhân sự ủy thác,

23


thay mặt nhà nước để thi hành chức trách. Do đó, hoạt động công vụ của họ
mang tính quyền lực nhà nước.
Trong mối quan hệ giữa Kiểm sát viên VKSND với nhà nước: Việc
pháp luật quy định các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, các bảo đảm pháp lý,
những việc Kiểm sát viên không được làm… nhằm tạo điều kiện cho Kiểm
sát viên VKSND hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình, mặt khác để bảo
vệ danh dự, uy tín và lợi ích của nhà nước, của quốc gia. Hầu hết các văn bản
pháp luật có tầm quan trọng quy định về chế độ Kiểm sát viên VKSND đã
khẳng định Kiểm sát viên VKSND có nghĩa vụ trung thành phục vụ nhà nước,
phục vụ nhân dân, làm tốt chức trách, nhiệm vụ của mình, đảm bảo cho các
quyết định, mệnh lệnh của nhà nước được thi hành nghiêm chỉnh, bảo vệ lợi
ích của nhà nước. Trong mối quan hệ này, pháp luật có vai trò xác định trách
nhiệm của Kiểm sát viên VKSND đối với nhà nước.
Quan hệ giữa Kiểm sát viên với công dân: Trong mối quan hệ này,
pháp luật xác định Kiểm sát viên là công bộc của nhân dân, có nghĩa vụ tận
tụy phục vụ nhân dân; những quy định về địa vị pháp lý, những việc không
được làm, khen thưởng và kỷ luật là cơ sở pháp lý quan trọng để Kiểm sát
viên thực thi đúng bổn phận, trách nhiệm của mình. Các quy định của pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND nhằm đảm bảo các quyết định, mệnh lệnh của

nhà nước được thi hành nghiêm chỉnh; hạn chế tình trạng thiếu trách nhiệm,
sách nhiễu, cửa quyền, ức hiếp dân, thậm chí còn tham nhũng, nhận hối lộ,
gây phiền hà cho dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với nhà nước. Mặc
dù Kiểm sát viên có những quyền, bảo đảm pháp lý nhất định trong khi thi
hành nhiệm vụ, công vụ nhưng quan hệ giữa Kiểm sát viên VKSND (theo
nghĩa đại diện nhà nước) với công dân vẫn là quan hệ giữa người phục vụ và
người được phục vụ, đều phải tuân thủ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Tóm lại, trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND có vai trò đặc biệt

24


quan trọng, nó không chỉ là phương tiện để Đảng ta thực hiện quan điểm về
xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND, mà còn là phương tiện quan trọng
trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước ở cơ sở và bảo vệ lợi ích nhà
nước, đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân.
1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm sát viên Viện
Kiểm sát nhân dân
1.3.1. Yếu tố thể chế pháp lý
Xây dựng NNPQ là yêu cầu tất yếu khách quan, là nội dung trọng yếu
của thời kỳ đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Điều đó đã được xác định rõ ràng,
chính thức qua các văn kiện quan trọng nhất của Đảng và ghi nhận trang trọng
trong Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức" [12].
Điều này đòi hỏi Đảng và nhân dân ta vừa thực hiện, vừa nghiên cứu, tổng

kết, để hình thành dần và ngày càng hoàn thiện mô hình phù hợp với yêu cầu mà
lịch sử đã đặt ra cho chúng ta; nhằm đưa cách mạng nước ta đến mục tiêu: Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đây thực sự là nhiệm vụ quan trọng không chỉ vì thuộc tính cơ bản của
NNPQ là tính tối cao của pháp luật, mà còn vì pháp luật đóng vai trò không
thể thiếu trong việc thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng dân chủ; tăng cường hợp tác
quốc tế; cơ sở để đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước và xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức. Trong khi đó, hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay
còn nhiều hạn chế, bất cập, thiếu các bộ luật, đạo luật, đặc biệt là pháp luật về
kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, công chức, công vụ v.v... Yêu cầu

25


×