BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN VĂN BAN
THẨM QUYỀN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
CẤP TỈNH TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
ĐẮK LẮK - NĂM 2017
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN VĂN BAN
THẨM QUYỀN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
CẤP TỈNH TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN MINH SẢN
ĐẮK LẮK - NĂM 2017
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật
Hành chính: “Thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong xét xử vụ
án hành chính - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” là công trình nghiên cứu của riêng
tôi, tôi không có sự sao chép của bất cứ công trình nào khác. Những số liệu phục vụ
nghiên cứu đều là nguồn tài liệu của các cơ quan chức năng.
TÁC GIẢ
Nguyễn Văn Ban
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………1
1
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn……………………………………………...1
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn…………………………..2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn…………………………………3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn……………………………….3
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn………………3
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn……………………………………..4
7. Kết cấu của luận văn……………………………………………………………4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN CẤP TỈNH TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH………….5
1.1. Xét xử vụ án hành chính………………………………………………………5
1.2. Thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành
chính……………………………………………………………………………….18
1.3. Các yếu tố bảo đảm thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
trong xét xử vụ án hành chính…………………………………………………...42
Tiểu kết chương 1…………………………………………………………………46
Chương 2: THỰC TRẠNG THẨM QUYỀN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TỈNH ĐẮK LẮK TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH…………..48
2.1. Sơ lược về kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh
Đắk Lắk....................................................................................................................48
2.2. Phân tích thực trạng thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
Lắk trong xét xử vụ án hành chính……………………………………………...52
2.3. Đánh giá chung về thực trạng thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Đắk Lắk trong xét xử vụ án hành chính…………………………………...58
Tiểu kết chương 2…………………………………………………………………61
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THẨM QUYỀN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH……………………………………………………………………62
3.1. Quan điểm hoàn thiện thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
trong xét xử vụ án hành chính…………………………………………………...62
3.2. Các giải pháp hoàn thiện thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh trong xét xử vụ án hành chính……………………………………………...64
Tiểu kết chương 3…………………………………………………………………80
KẾT LUẬN………………………………………………………………………..81
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ gốc
Stt
Từ viết tắt
01
Kiểm sát viên
KSV
02
Kiểm tra viên
KTV
2
03
Viện kiểm sát
VKS
04
Viện kiểm sát nhân dân
VKSND
05
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
VKSNDTC
06
Tòa án nhân dân
TAND
07
Tòa án nhân dân tối cao
TANDTC
08
Tố tụng hành chính
TTHC
09
Ủy ban nhân dân
UBND
10
Hội đồng xét xử
HĐXX
11
Nhà nước pháp quyền
NNPQ
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Sau 14 năm thi hành Pháp lệnh tố tụng quốc gia các vụ án hành chính
(PLTTGQCVAHC), ngày 24/11/2010 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, khóa XII kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Tố tụng hành hính (TTHC)
được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 07 tháng 12 năm 2010 và có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2011. Tiếp đến, ngày 25/11/2015 Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa XIII kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật
3
TTHC (sửa đổi) và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016. Sự ra đời
của Luật TTHC là dấu mốc có ý nghĩa quan trọng, không chỉ nghi nhận thành tựu
trong lĩnh vực lập pháp mà còn góp phần vào sự phát triển trong lĩnh vực tố tụng
hành chính.
Một trong những nguyên tắc cơ bản được Hiến định của pháp luật Việt Nam
là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này yêu cầu mọi chủ thể phải
chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đảm bảo tính thống nhất và
thượng tôn của pháp luật. Trong TTHC, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp tỉnh
đóng vai trò quan trọng trong giải quyết tranh chấp hành chính giữa “quan” và
“dân”, là hình thức “dân kiện quan”. Luật TTHC đã kế thừa, phát triển các quy định
của pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ở nước ta từ trước đến nay,
thể chế hoá các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp trong hoạt động giải quyết
các vụ án hành chính. Trong đó, tiếp tục quy định và có nhiều nội dung đổi mới
quan trọng liên quan đến hoạt động của VKSND cấp tỉnh trong giải quyết vụ án
hành chính. Do vậy, sự tham gia của VKSND cấp tỉnh trong TTHC nhằm bảo đảm
sự nghiêm minh của pháp luật, sự công bằng, bình đẳng và tuân thủ pháp luật của
các chủ thể là rất cần thiết.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế
quốc tế, nhất là yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Việt Nam của dân, do dân, vì dân, các quy định pháp luật về thẩm quyền
của VKSND cấp tỉnh trong TTHC vấn bộc lộ những yếu kém, bất cập: thiếu tính
đồng bộ, tính thống nhất; quy định về thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh trong
TTHC còn chung chung, chưa hoàn toàn phù hợp trong giải quyết vụ án hành chính
tại phiên tòa sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm. Đặc biệt, thẩm quyền xem xét lại
quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC, vv... Những thiếu sót đó là một
trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của VKSND cấp tỉnh trong TTHC còn chưa bảo đảm hiệu lực, hiệu quả.
Để có được sự đổi mới cơ bản về thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh trong xét
xử các vụ án hành chính, từ hệ thống quy phạm, nguyên tắc, định hướng đến mục
đích pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ, thống nhất và có tính khả thi cao trong đáp
ứng yêu cầu xây dựng NNPQ của dân, do dân và vì dân đã đặt ra nhiều vấn đề lý
luận, pháp lý cần phải được giải đáp thấu đáo, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Vì
vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
trong xét xử vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” là yêu cầu khách quan và
tất yếu, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
4
Tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài “Thẩm quyền của Viện
Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành chính- Từ thực tiễn tỉnh Đắk
Lắk”, chúng tôi thấy các nhà khoa học đã tiếp cận theo nhiều cách, với những cấp
độ khác nhau:
“Như bài từ thực tiễn 12 năm thực hiện pháp lệnh thử tục giải quyết các vụ
án hành chính” của tác giả: Hoàng Minh đăng trên tạp chí kiểm sát. “Xây dựng các
hệ thống văn bản pháp luật về hành chính để khắc phục cho hoạt đông của Tòa án
hành chính” của tác giả: của giáo sư tiến sĩ. Nguyễn Văn Thâm, trường đại học tổng
hợp Hà Nội.
Ngoài ra, có một số bài viết như: “Những quy định mới về vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của VKSND trong Luật TTHC” của TS. Hoàng Quỳnh Chi đăng trên Tạp
chí kiểm sát; Bài viết: “Địa vị pháp lý của VKSND trong TTHC” của tác giả
Nguyễn Hợp Phố đăng trên Tạp chí kiểm sát, vv...
Tình hình nghiên cứu trên đây cho thấy, các công trình khoa học, đề tài
nghiên cứu, sách chuyên khảo, luận văn và các bài báo trong chừng mực nhất định
đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng về thẩm
quyền của VKSND cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng NNPQ
XHCN trong tình hình mới.
Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện
và chuyên biệt về thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành chính Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk. Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một
cách toàn diện và chuyên biệt về: “Thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh trong xét xử vụ án hành chính - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” dưới góc độ Luật
Hiến pháp và Luật Hành chính. Với kết quả nghiên cứu của luận văn, chúng tôi hy
vọng sẽ góp phần khắc phục tình trạng nên trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn hướng tới làm sáng tỏ cơ sở lý luận và
thực trạng thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành chính - Từ
thực tiễn tỉnh Đắk Lắk để đưa ra các quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm hoàn
thiện thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành chính trong thời
gian tới.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất, luận văn xây dựng cơ sở lý luận về thẩm quyền của VKSND cấp
tỉnh trong xét xử vụ án hành chính thông qua việc phân tích, làm rõ khái niệm về
thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh trong xét xử các vụ án hành chính; đặc điểm xét
xử các vụ án hành chính; nội dung thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh trong xét xử
các vụ án hành chính; vai trò của VKSND cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành chính;
5
các yếu tố bảo đảm thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong xét xử
vụ án hành chính.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích thực trạng thẩm quyền của VKSND tỉnh Đắk
Lắk trong xét xử vụ án hành chính, luận văn đánh giá khách quan về những kết quả
đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập này.
Thứ ba, luận văn hình thành các quan điểm mang tính nguyên tắc chỉ đạo
cho việc hoàn thiện thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành chính
và đề xuất các giải pháp cơ bản, có tính hệ thống và bảo đảm cơ sở khoa học nhằm
hoàn thiện thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành chính.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh
trong xét xử vụ án hành chính ở Việt Nam hiện nay - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk.
Dười góc độ tiếp cận của khoa học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính,
phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định đó là toàn bộ thẩm quyền của
VKSND cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành chính ở Việt Nam, được đánh giá thông
qua hoạt động thực thi thẩm quyền của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong xét xử vụ án
hành chính, thời gian từ năm 2011 đến 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ
trương của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp và đổi mới hoạt động xét xử, về xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
Để phù hợp với nội dung và mục đích nghiên cứu, luận văn đã sử dụng hợp
lý, có hiệu quả từng từng phương pháp nghiên cứu, trong đó luận văn chú trọng các
phương pháp như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh pháp luật, vv…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu sâu, toàn diện và có hệ thống về
thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành chính - Từ thực tiễn tỉnh
Đắk Lắk trên cả phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Các kết quả nghiên cứu
của luận văn sẽ là những bổ sung quan trọng vào hệ thống lý luận về Luật Hiến
pháp và Luật Hành chính, góp phần làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng, Nhà
nước về cải cách tư pháp và đổi mới hoạt động xét xử, về xây dựng NNPQ XHCN
của dân, do dân và vì dân. Đồng thời, góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân về
vai trò của VKSND cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành chính. Luận văn có thể được
tham khảo trong xây dựng chiến lược cải cách tư pháp và đổi mới hoạt động xét xử;
trong hoạt động của các cơ quan và người tiến hành tố tụng cũng như các đương sự
6
khi tham gia tố tụng giải quyết các vụ án hành chính, góp phần đảm bảo tính khách
quan, đúng đắn, đảm bảo pháp chế XHCN; tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy
tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành pháp luật, tư pháp và các khóa bồi dưỡng cán
bộ, công chức ngành Tòa án, Viện kiểm sát.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 02 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh trong xét xử
vụ án hành chính;
Chương 2: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện thẩm quyền của VKSND cấp
tỉnh trong xét xử vụ án hành chính.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Xét xử vụ án hành chính
1.1.1. Khái niệm xét xử vụ án hành chính
Quản lý hành chính nhà nước là một hoạt động của nhà nước được thực hiện
trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là bảo đảm
sự chấp hành các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước,
nhằm tổ chức thực hiện pháp luật đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức trên các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính – chính trị. Hoạt động này được thực thi
trên cơ sở pháp luật, đảm bảo các quyền và lợi ích chung của nhà nước và xã hội.
Bởi vậy, trong quá trình thực hiện quản lý hành chính nhà nước khó có thể tránh
khỏi sự xung đột hay tranh chấp về lợi ích, quan điểm áp dụng pháp luật giữa chủ
thể quản lý hành chính nhà nước và đối tượng quản lý hành chính nhà nước.
Những xung đột, tranh chấp này chủ yếu xuất phát từ việc chủ thể quản lý
hành chính nhà nước đơn phương áp đặt ý chí của mình gây ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Khi những xung
7
đột, tranh chấp này bị đẩy lên cao, các bên phải đưa ra Tòa án có thẩm quyền để
giải quyết thì sẽ phát sinh vụ án hành chính.
Theo Từ điển Tiếng Việt, thì “vụ” là việc, sự việc không hay, rắc rối cần
phải giải quyết. Còn “án” là tranh chấp quyền lợi cần được xét xử trước Tòa
án. “Vụ án” là công việc phát sinh trên cơ sở tranh chấp về quyền lợi thuộc nhiệm
vụ xét xử của Tòa án.
Như vậy có thể hiểu khái quát về vụ án hành chính là vụ việc phát sinh trên
cơ sở tranh chấp trong các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.
Vì vậy khi đề cập đến khái niệm vụ án hành chính, ta có thể hiểu như sau
“Vụ án hành chính là vụ việc tranh chấp hành chính phát sinh do cá nhân, tổ chức,
cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi
hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc hoặc do VKS khởi tố theo quy định
của pháp luật TTHC” [13, tr.15].
Toà Hành chính có vai trò đặc biệt trong việc bảo đảm tôn trọng quyền công
dân, quyền con người và tạo ra một cơ chế kiểm tra, giám sát thực hiện quyền lực
nhà nước được thể hiện rõ nét nhất. Vai trò của Toà Hành chính được quyết định
bởi chức năng của Toà Hành chính là xét xử về hành chính, giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước giữa công dân với cơ
quan hành chính nhà nước. Khi xét xử vụ án hành chính, Toà Hành chính có quyền
và nghĩa vụ kiểm tra và ra phán quyết về tính hợp pháp của quyết định hành chính
hoặc hành vi hành chính bị khiếu kiện.
Việc thành lập Toà Hành chính và thực tiễn hoạt động xét xử của Toà Hành
chính trong thời gian qua đã góp phần thúc đẩy quá trình cải cách nền hành chính ở
nước ta, buộc các cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước phải
tự nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm, có những
thay đổi phù hợp trong thủ tục cũng như phương thức điều hành, quản lý xã hội, tạo
điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện đầy đủ các quyền tự do dân chủ của
mình và buộc những người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước phải
chú ý cân nhắc thận trọng hơn khi ra một quyết định hành chính hay khi thực hiện
nhiệm vụ, công vụ.
Đối tượng xét xử của tài phán hành chính là các tranh chấp liên quan đến luật
công. Một bên là nhà nước (mà cụ thể là các cơ quan hành chính nhà nước hoặc
người có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước, nhân danh nhà nước)
thực thi công vụ, vì lợi ích chung và với các phương tiện mang tính quyền lực, tính
cưỡng chế; bên còn lại là các cá nhân công dân với các lợi ích cụ thể, các quyền và
nghĩa vụ được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Nhà nước pháp quyền xã
8
hội chủ nghĩa phải được hoàn thiện, tôn trọng và bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh
trên thực tế. Người dân có quyền và có các điều kiện cần thiết để tham gia giám sát
các hoạt động của bộ máy công quyền, quá trình thực thi công vụ của nhà chức
trách. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, Toà Hành chính ra đời là
nhằm bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong hoạt động hành chính nhà nước, bảo vệ
các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức...
Mục tiêu là như vậy nhưng để đạt được điều đó, các thiết chế, trong đó có
TTHC cần đặc biệt quan tâm đến việc đưa ra các quy định để cân bằng hoá tương
quan giữa các bên trong TTHC. Ở đây không chỉ nói đến nguyên đơn, bị đơn mà
còn bao gồm cả ba mối quan hệ: Toà án và cơ quan công quyền (người bị kiện);
công dân, người kiện với cơ quan công quyền, người bị kiện. Bởi vì tranh chấp
hành chính xuất phát từ mối quan hệ vốn không bình đẳng giữa một bên là người
quản lý và một bên là người bị quản lý. Vì vậy, khi đã ra trước Toà án, trước công
lý nhiệm vụ của Toà án là phải “cân bằng hoá” mối quan hệ này.
Nếu như bình đẳng trong tố tụng dân sự có thể đến một cách tự nhiên thì
trong TTHC, điều này còn phụ thuộc vào Toà án và các quy định tố tụng. Sẽ là điều
bình thường nếu có những điểm nào đó mà người khởi kiện được “ưu tiên” hơn
người bị kiện. Trong khi đó cần có những phương cách để vượt qua những khó
khăn rất có thể gây ra từ phía cơ quan công quyền, bên bị kiện. Hạn chế này càng
lớn hơn khi người thẩm phán phải xét xử các quyết định hay hành vi hành chính của
những người đứng đầu cơ quan công quyền ở địa phương.
Như vậy Luật TTHC ngoài những kỹ thuật thông thường về tố tụng, cần
quan tâm nhiều hơn đến những quy định cho phép Toà án vượt qua những khó
khăn, chủ yếu là từ phía bên bị kiện ở các khía cạnh như có mặt tại phiên toà và
người đại diện của bên bị kiện trong TTHC; trách nhiệm chứng minh… Đồng thời,
cũng cần thấy rằng tất cả những vấn đề liên quan đến TTHC là phục vụ công cuộc
cải cách hành chính đem lại hiệu quả thiết thực.
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền xét xử vụ án hành chính
- Thuật ngữ “thẩm quyền” bắt nguồn từ tiếng La Tinh là “compotentia”, có
hai nghĩa là:
- Phạm vi các quyền hạn của các cơ quan hoặc người có chức vụ nào đó;
- Phạm vi những kiến thức và kinh nghiệm mà ai đó có
Ý nghĩa đầu trong khoa học pháp lý và quản lý thường được biểu thị bằng
thuật ngữ “thẩm quyền pháp lý”, ý nghĩa thứ hai – “thẩm quyền chuyên môn”.
9
- “Thẩm quyền chuyên môn” và “thẩm quyền pháp lý” đều quan trọng đối
với quản lý nhà nước và có quan hệ với nhau rất chặt chẽ.
- Thẩm quyền chuyên môn của cơ quan thực chất được bảo đảm thông qua
việc đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ theo các tiêu chuẩn, yêu
cầu nhất định và cũng dần dần được thể chế hoá thành pháp luật ở một mức độ nào
đấy.
Tuy nhiên trong khoa học, pháp luật và thực tiễn thuật ngữ “thẩm
quyền” thường vẫn được hiểu với nghĩa là thẩm quyền pháp lý
Thẩm quyền với nghĩa thẩm quyền pháp lý cũng không đơn nhất. Do tính
phức tạp và tồn tại nhiều khái niệm gần gũi, quan hệ chặt chẽ với nó, nên có nhiều
quan điểm khác nhau về khái niệm thẩm quyền.
- Thẩm quyền là việc pháp luật cho phép hay qui định bổn phận (trách
nhiệm) cho một cá nhân, một tổ chức được (hay phải) làm một việc gì đó. thẩm
quyền luôn phải được kèm theo một mức độ quyền lực để làm tăng tính thực thi cho
thẩm quyền trước những cản trở có thể.
- Định nghĩa thẩm quyền xét xử vụ án hành chính.
Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân là quyền và nghĩa
vụ của Tòa án nhân dân trong việc thụ lý và giải quyết các vụ án hành chính
- Sự phát triển của thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính.
- Sau 14 năm đi vào hoạt động và giải quyết các vụ án hành chính, Tòa án
các cấp góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Nếu như trước đây, trong
quá trình quản lý, điều hành Nhà nước, cơ quan hành chính chỉ căn cứ vào Luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân một cách chung chung để ban hành
các quyết định hành chính, thì nay đã căn cứ cụ thể vào các văn bản quy phạm pháp
luật có liên quan để ban hành quyết định hành chính theo đúng trình tự, thủ tục,
thẩm quyền mà pháp luật đã quy định. Việc thành lập Tòa Hành chính đã góp phần
thúc đẩy quá trình cải cách nền hành chính Nhà nước, buộc các cơ quan Nhà nước
phải tự nâng cao năng lực quản lý và ý thức trách nhiệm; làm cho các cơ quan quản
lý hành chính phải thận trọng, cân nhắc hơn khi ban hành một quyết định hành
chính hay có hành vi hành chính.
- Tòa Hành chính các cấp đã khẳng định được vị trí của mình trong đời sống
xã hội và là công cụ không thể thiếu được trong công cuộc đổi mới đất nước, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kết quả giải quyết các vụ án hành
chính của Tòa án các cấp đã khẳng định vai trò to lớn của quá trình giải quyết khiếu
kiện hành chính bằng con đường tư pháp.
10
Thông qua hoạt động của Tòa Hành chính các cấp, về phía người dân đã
quan tâm và tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới nói chung và đổi mới pháp luật nói
riêng, xem đây là một bước phát triển của cải cách tư pháp phục vụ công cuộc đổi
mới của đất nước. Sau khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hiệu
lực thi hành, người dân rất hy vọng và tin tưởng vào sự phán xét của Tòa hành
chính. Nhân dân và công luận quan tâm đến tính công khai, minh bạch của phiên
tòa xét xử. Các quyết định của cơ quan hành chính được ban hành không đúng trình
tự, thủ tục, thẩm quyền và nội dung mà pháp luật quy định khi bị Tòa án tuyên xử
hủy bỏ là thực tế minh chứng cho sự cần thiết của phán quyết hành chính. Ngược
lại, khi các yêu cầu khởi kiện của công dân không được Toà án chấp nhận cũng
giúp cho người khởi kiện hiểu biết và nắm vững hơn pháp luật, thông suốt những
quyết định của cơ quan quản lý hành chính Nhà nước, từ đó tự nguyện thực hiện
trách nhiệm, nghĩa vụ của mình. Mặt khác đó cũng là sự cân nhắc, thận trọng của
những người khiếu kiện khác.
- Tuy nhiên trong thời gian qua chất lượng giải quyết các vụ án hành chính
vẫn còn những tồn tại vì việc xét xử các vụ án hành chính là một lĩnh vực rất mới.
Đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức của Tòa Hành chính Tòa án nhân dân các
cấp chưa được đào tạo, bồi dưỡng nhiều về nghiệp vụ giải quyết các vụ án hành
chính cũng như kiến thức về quản lý hành chính Nhà nước có liên quan đến những
lĩnh vực mà Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Vẫn còn có cán bộ Tòa án chưa thực
sự nắm vững các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo, của Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính; một số Thẩm phán chưa quan tâm một cách đầy đủ các
văn bản pháp luật về quản lý hành chính Nhà nước liên quan đến những loại quyết
định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện mà mình đang thụ lý, giải quyết.
Trong công tác chuyên môn còn vi phạm về điều kiện khởi kiện và điều kiện thụ lý,
giải quyết các vụ án hành chính; có nhiều vụ việc chưa phân biệt thẩm quyền loại
việc của cơ quan hành chính Nhà nước và cơ quan Tòa án; thời gian giải quyết các
vụ án chưa đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật. Đường lối giải quyết một số
vụ án không đúng dẫn đến đã bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để xét xử
phúc thẩm, sơ thẩm lại vụ án. Vì vậy, có bộ phận công dân còn nghi ngại trước khi
chọn con đường khởi kiện tại Tòa án.
- Về thẩm quyền xét xử theo loại việc bị khiếu kiện:
Hiện nay theo Luật TTHC, Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với tất cả
các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong mọi lĩnh vực quản lý nhà nước,
loại trừ quyết định hành chính, hành vi hành chính trong các lĩnh vực quốc phòng,
an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và quyết định hành
chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã thể chế hoá những khiếu kiện thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án tại Điều 30, đó là:
11
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định
hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực
quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết
định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
- Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ
Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
- Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh.
-Về thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ:
Nếu vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, trường hợp
người khỏi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt
Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra
quyết định hành chính, có hành vi hành chính.
Đối với khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
đại diện ngoại giao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài
hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khỏi kiện có nơi cư trú
trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án. Trường hợp người khởi kiện
không có nơi cư trú tại Việt Nam, thì tòa án có thẩm quyền là Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Luật TTHC có sự phân biệt rõ ràng trong trường hợp khiếu kiện đối với
quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức, đối với quyết định buộc thôi
việc đối với công chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống
ban hành thì kiện tại Tòa án trên cùng phạm vi địa giới hành chính với cơ quan, tổ
chức của người có thẩm quyền ra quyết định. Đối với quyết định kỷ luật buộc thôi
việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp tỉnh, bộ, ngành trung ương thì kiện
tại Tòa an nơi mà người khởi kiện làm việc.
Việc mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đồng thời cũng đặt trách nhiệm
cao hơn cho VKSND trong việc kiểm sát các hoạt động tư pháp, VKSND có trách
nhiệm tham gia đầy đủ, kiểm sát chặt chẽ việc giải quyết các vụ án hành chính.
Tại Điều 25 Luật TTHC năm 2015 quy định thẩm quyền của VKSND, “VKS
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính nhằm đảm bảo cho việc
giải quyết vụ án hành chính kịp thời đúng pháp luật. VKS kiểm sát vụ án hành
chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc giải quyết vụ án; tham gia các phiên tòa phiên
họp của tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác thi hành bả án,
quyết định của tòa án; thực hiện các quyền yêu cầu kiến nghị, kháng nghị theo quy
định của pháp luật. đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính lien quan đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
12
sự, người hạn chế năng lực hành vi dân sự, người khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi, nếu họ không có người khởi kiện thì Viện kiểm sát kiến nghị UBND
cấp xã nơi người đó cư trú cử người giám hộ đứng ra khởi kiện vụ án hành chính để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháo của người đó”.
1.1.3. Đặc điểm xét xử vụ án hành chính
Đặc điểm của vụ án hành chính; xét xử án hành chính được hiểu là "dân kiện
quan", Tòa án làm trung gian phân xử đúng, sai, Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm
sát tuân theo pháp luật trong việc giải quyết án hành chính của Tòa án. Mặc dù đối tượng
của vụ án hành chính theo Luật TTHC chỉ là các quyết định hành chính và hành vi hành
chính (Luật TTHC mở rộng phạm vi các quyết định hành chính, hành vi hành chính được
(bị) khởi kiện ra rất nhiều so với Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính chỉ liệt
kê 22 loại khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án), nhưng nội dung
các quyết định, hành vi này có phạm vi rất rộng, đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực, ngành nghề
chuyên môn, chuyên sâu khác nhau của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước đang diễn
ra hàng ngày, hàng giờ, như lĩnh vực đất đai, quản lý thị trường, lĩnh vực thuế, hải quan,
cấp phép đầu tư, thành lập Doanh nghiệp... Đa số các vụ án hành chính đều phức tạp, có
tính nhạy cảm, liên quan phần lớn đến các quyền lợi ích thiết thực của công dân, cơ quan,
tổ chức.
Thực tế cho thấy kể từ khi Luật TTHC có hiệu lực đến nay, số vụ án hành
chính do Tòa án thụ lý của cả nước tăng lên rất nhiều, lĩnh vực bị khiếu kiện hành
chính nhiều nhất hiện nay là lĩnh vực đất đai, trong quá trình Nhà nước thực hiện
chính sách giải tỏa, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, việc
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các lĩnh vực khác tỷ lệ khiếu kiện không
nhiều... trong khi đó lĩnh vực này có quá nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh qua
từng thời kỳ, các văn bản liên tục được sửa đổi, bổ sung, chồng chéo, rất khó cho cơ
quan chuyên môn nắm bắt, vận dụng cho chính xác (chứ chưa nói đến người dân thì
việc còn hơn nhiều). Hầu hết các vụ án hành chính đều đã được đương sự khiếu nại
lần 1, lần 2, thậm chí khiếu nại nhiều lần trong thời gian dài, khiếu nại lên cơ quan
hành chính cấp trên, song đương sự vẫn không thỏa mãn, bức xúc hoặc cho rằng
việc giải quyết của cơ quan hành chính có quyết định hành chính hoặc hành vi hành
chính hoặc của cơ quan hành chính cấp trên là không khách quan, bao che, nên
đương sự khởi kiện đến Tòa án yêu cầu giải quyết.
Về thủ tục tố tụng hành chính có nhiều điểm tương đồng với thủ tục tố tụng
dân sự nói chung (bao gồm cả thủ tục tố tụng dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động), theo đó một trong những nguyên tắc tố tụng quan
trọng nhất khi Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết là quyền quyết định, tự định đoạt
đều thuộc về đương sự (đương sự có quyền khởi kiện, thay đổi, bổ sung, rút đơn
13
khởi kiện, hay nói theo cách dân gian là "việc dân sự cốt ở đôi bên"), Tòa án chỉ thụ
lý, giải quyết khi có đơn khởi kiện của đương sự (điều này đều hoàn toàn khác với
án hình sự không phụ thuộc vào quyền định đoạt của người tham gia tố tụng), thủ
tục tố tụng hành chính cũng rất nhiều điểm giống thủ tục tố tụng dân sự, như đều do
Tòa án thụ lý, giải quyết ngay từ giai đoạn tố tụng đầu tiên đến khi xét xử (đều khác
tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra (chủ yếu) thụ lý trong giai đoạn tố tụng đầu tiên
(khởi tố vụ án)...
Tuy nhiên án hành chính có một số đặc thù như sau:
Đặc thù cơ bản nhất là đối tượng tài phán trong tố tụng hành chính có phạm
vi chỉ bao gồm "quyết định hành chính" và "hành vi hành chính" do người có thẩm
quyền trong các cơ quan công quyền ban hành hoặc thực hiện; trong tố tụng hành
chính không có khái niệm "nguyên đơn", "bị đơn" (như tố tụng dân sự và rất dễ bị
nhầm lẫn), mà là "người khởi kiện" và "người bị kiện" và mối quan hệ giữa hai loại
chủ thể này không ngang bằng nhau, một bên chủ yếu là công dân, một bên là các
cơ quan hành chính thực thi quyền lực công (thực tế chủ yếu là Ủy ban nhân dân
các cấp), người khởi kiện có thể khiếu nại đến cơ quan hành chính có thẩm quyền
để xem xét giải quyết trước khi khởi kiện đến Tòa án; tố tụng hành chính không có
"việc" hành chính mà chỉ có "vụ án" hành chính, không sử dụng thuật ngữ "tranh
chấp hành chính" mà sử dụng thuật ngữ "khiếu kiện hành chính"; trong tố tụng hành
chính cũng không có thủ tục "hòa giải", "thỏa thuận", mà chỉ có thủ tục "đối thoại",
vì vậy tố tụng hành chính cũng không thể có "Quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự" như trong tố tụng dân sự; do tính chất phức tạp của loại án hành
chính, nên sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát để kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc giải quyết án hành chính là bắt buộc đối với tất cả vụ án hành chính
ngay từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết án (Điều 25 Luật TTHC 2015)..
Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính; thực tế cho thấy, việc xác định đúng đối
tượng khởi kiện trong vụ án hành chính không phải là chuyện dễ dàng đối với người dân.
Vấn đề này, một mặt do hoạt động quản lý hành chính nhà nước hết sức đa dạng kéo theo
sự đa dạng của các loại quyết định hành chính, hành vi hành chính; mặt khác, do nhận thức
về quyết định hành chính, hành vi hành chính là đối tượng khiếu kiện hành chính, còn có
sự chưa thống nhất; cũng như việc xác định đâu là quyết định hành chính, đâu là hành vi
hành chính cũng gặp nhiều khó khăn.
Quyết định hành chính; “Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành
chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ
quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý
hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể”[14, tr.
9]. Như vậy, quyết định hành chính được hiểu là văn bản được thể hiện dưới hình
14
thức quyết định hoặc dưới hình thức khác như thông báo, kết luận, công văn... do cơ
quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong
các cơ quan, tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội dung của quyết định hành chính
được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ
thể trong hoạt động quản lý hành chính mà người khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm phạm. Như vậy, để có thể là loại việc thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án, quyết định hành chính phải thỏa mãn các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, về hình thức, quyết định hành chính phải thể hiện bằng văn bản.
Quyết định hành chính được hiểu là kết quả của sự thể hiện ý chí quyền lực
đơn phương của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước, được thể hiện dưới
những hình thức nhất định tác động đến các đối tượng nhất định trong quá trình
hành pháp.
Vì thế, quyết định hành chính được ban hành có thể thể hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau như quyết định bằng miệng, bằng tín hiệu, văn bản…Nhưng chỉ có
những quyết định hành chính được ban hành dưới hình thức văn bản mới là đối
tượng xét xử của toà án. Đây là hình thức thể hiện có nhiều ưu thế về tính chính xác
và tính ổn định cao so với các hình thức khác.
Thứ hai, quyết định đó phải là quyết định hành chính cá biệt.
Quyết định cá biệt hay còn gọi là quyết định áp dụng quy phạm pháp luật là
quyết định được ban hành trên cơ sở các quyết định chủ đạo và quy phạm của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có những trường hợp được ban hành trên cơ sở
quyết định cá biệt của cơ quan cấp trên. Quyết định cá biệt là những quyết định chỉ
áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể để giải quyết các trường
hợp cá biệt, cụ thể và có hiệu lực đối với các đối tượng cụ thể trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Vì thế quyết định cá biệt trực tiếp xâm hại đến lợi ích của cá nhân,
tổ chức.
Xét xử hành chính có mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức trước sự xâm hại của các quyết định hành chính, hành vi hành chính
trái pháp luật của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước.
Các quyết định quy phạm thường không đụng chạm trực tiếp đến các quyền lợi của
người dân. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý nhà nước ban hành quyết định chủ đạo
và quyết định quy phạm nhằm giải quyết những vấn đề chung theo yêu cầu quản lý
nhà nước và vì lợi ích chung của cộng đồng. Nếu cho phép khiếu kiện cả văn bản
pháp quy sẽ dẫn đến nguy cơ làm ảnh hưởng đến hoạt động quản lý. Do đó, theo
quy định của pháp luật, chỉ quyết định cá biệt mới thuộc thẩm quyền xét xử của Toà
án.
15
Thứ ba, quyết định hành chính không thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong
các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định
và các quyết định hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
Để đảm bảo bí mật nhà nước trong lĩnh vực phòng, an ninh, ngoại giao, các quyết
định hành chính liên quan đến bí mật nhà nước trong những lĩnh vực này sẽ không
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Chính phủ sẽ quy định danh mục các quyết
định hành chính này.
Nhằm điều hành hoạt động trong các cơ quan nhà nước,các chủ thể quản lý
nhà nước ban hành các quyết định mang tính chất nội bộ. Các quyết định hành
chính này có đặc điểm là đối tượng bị áp dụng và chủ thể ra quyết định có mối quan
hệ về mặt công tác, được dùng nhằm duy trì hoạt động nội bộ trong bộ máy nhà
nước.Để đảm bảo hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, các quyết định
hành chính này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Thứ tư, quyết định hành chính phải là quyết định trong hoạt động quản lý hành
chính nhà nước.
Quyết định hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án có thể do cơ
quan hành chính nhà nước (Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các
cấp, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các cấp ban hành) hoặc các cơ
quan nhà nước khác không phải là cơ quan hành chính nhà nước (TAND, VKSND,
Bảo hiểm xã hội…), nhưng phải là quyết định trong hoạt động quản lý hành chính,
tức là quyết định trong hoạt động chấp hành – điều hành.
Hành vi hành chính: “Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành
chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ
quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định
của pháp luật” [14, tr. 9]. Hành vi hành chính là đối tượng khởi kiện hành chính có
các đặc điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể thực hiện hành vi hành chính.
Có thể là cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của
người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó. Như vậy, hành vi hành chính có thể
là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan khác và hành vi của
người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó.
Các cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của
pháp luật đó là thực hiện hành vi được giao. Ngược lại nếu cơ quan đó không thực
hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật thì đó là không thực hiện hành
vi được giao. Do vậy, hành vi hành chính không chỉ có ở các cá nhân mà có cả ở
các cơ quan hành chính.
16
Hành vi của người có thẩm quyền trong cơ quan, nhà nước: là hành vi của cá
nhân cụ thể thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của
pháp luật.
Thứ hai, về hình thức thể hiện, hành vi hành chính có thể là hành vi thể hiện
dưới dạng hành động hoặc hành vi không hành động.
Hành vi hành chính thể hiện dưới dạng hành động: là hành vi thực hiện nhiệm vụ,
công vụ trái với quy định của pháp luật.
Hành vi hành chính thể hiện dưới dạng không hành động: hành vi không thực hiện
nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, hành vi hành chính là hành vi nhằm thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm
vụ, công vụ được giao.
Như vậy, phạm vi để xác định hành vi hành chính là đối tượng khởi kiện
hành chính với các hành vi khác của cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền
trong cơ quan nhà nước đó là hành vi trong phạm vi nhiệm vụ, công vụ được giao.
1.1.4. Thủ tục giải quyết vụ án hành chính
Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trừ các quyết định
hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực
quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết
định hành chính, hành vi hành chính mang tính chất nội bộ cơ quan, tổ chức.
Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân.
Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng
Cục trưởng và tương đương trở xuống.
Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh. Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thuộc
đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính là quyết định
của Hội đồng cạnh tranh, của Bộ trưởng Bộ Công thương khi giải quyết khiếu nại
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh theo quy định tại mục 7 Chương V của Luật
Cạnh tranh, bao gồm:
Thứ nhất, quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng cạnh tranh đối với
quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh khi xử lý vụ việc cạnh tranh liên
quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh;
Thứ hai, quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Công thương đối
với quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh khi xử lý vụ việc cạnh
tranh liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Quyền khởi kiện vụ án hành chính
17
Thứ nhất, người khởi kiện phải có “năng lực pháp luật TTHC và năng lực hành
vi TTHC của đương sự” [14, tr. 51].
Năng lực pháp luật TTHC là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong TTHC do
pháp luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp luật TTHC như
nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Năng lực hành vi TTHC là khả năng tự mình thực hiện quyền và nghĩa vụ
TTHC hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia TTHC.
Nếu đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên thì có đầy đủ năng lực hành vi
TTHC, trừ trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy
định khác.
Nếu đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự
thì họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ trong TTHC thông qua người đại diện
theo pháp luật.
Nếu đương sự là cơ quan, tổ chức thì thực hiện quyền và nghĩa vụ TTHC
thông qua người đại diện theo pháp luật.
Thứ hai, “quyền khởi kiện vụ án hành chính” [14, tr. 107].
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết
định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong trường
hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó hoặc đã khiếu nại với người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, nhưng hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định
của pháp luật về khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải
quyết, nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi đó.
Cá nhân, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định
giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh trong trường hợp không
đồng ý với quyết định đó.
Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hành chính về danh sách cử tri bầu cử đại
biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân trong trường
hợp đã khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, nhưng hết thời
hạn giải quyết theo quy định của pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết hoặc
đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với cách giải quyết khiếu nại.
Người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành
chính có thể đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại, trong trường hợp này các quy
định của pháp luật về bồi thường thiệt hại của nhà nước và pháp luật tố tụng dân sự
được áp dụng để giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Trường hợp vụ án hành chính có yêu cầu bồi thường thiệt hại mà chưa có
điều kiện để chứng minh thi Tòa án có thể tách yêu cầu bồi thường thiệt hại để giải
quyết sau bằng một vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật.
18
Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính: Thời hiệu khởi kiện đối với từng
trường hợp được quy định như sau:
“Một năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính,
hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc” [14, tr. 108];
Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai mà
người khởi kiện đã thực hiện việc khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
huyện, hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh từ ngày 01/6/2006 đến ngày
01/7/2011 mà không được giải quyết hoặc không đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại thì được quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án trong thời hạn 01
năm từ ngày 01/7/2011 đến ngày 01/7/2012. “30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết
định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh” [14, tr. 108].
Từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập
danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được
thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước
ngày bầu cử 05 ngày.
Trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho
người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại điểm a và điểm b
khoản 2 Điều 116 Luật TTHC thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện “khoản 4 Điều 116 Luật TTHC
2015”.
Thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không
tính vào thời hiệu khởi kiện là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau
đây:
- Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan như thiên tai, địch hoạ,
nhu cầu chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc do lỗi của cơ quan nhà nước làm cho
chủ thể có quyền khởi kiện không thể khởi kiện trong phạm vi thời hiệu khởi kiện;
- Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện chưa
thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
- Chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lý do chính đáng khác mà
không thể tiếp tục đại diện được trong trường hợp người đại diện của người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự chết.
Hồ sơ khởi kiện vụ án hành chính
Đơn khởi kiện có đầy đủ nội dung theo Điều 118 Luật TTHC;
Cam kết của người khởi kiện không khiếu nại đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại;
Các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện;
19
Bản sao quyết định hành chính, quyết định luật buộc thôi việc, quyết định,
giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, bản sao các quyết định
giải quyết khiếu nại (nếu có);
Cung cấp cho Tòa án hồ sơ giải quyết khiếu nại (nếu có) và bản sao các văn
bản, tài liệu trong hồ sơ giải quyết việc hành chính, hồ sơ xét kỷ luật mà căn cứ vào
đó để ra quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, hoặc thực hiện
hành vi hành chính;
Giấy ủy quyền tham gia tố tụng (nếu có);
Bản sao hộ khẩu, giấy chứng minh thư nhân dân (có chứng thực của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền);
Bản thống kê danh mục các tài liệu (ghi rõ bản chính, bản sao).
Xác định Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh: “Thẩm quyền của Toà
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” [14, tr. 27]. Toà án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Toà án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc
hội, Kiểm toán nhà nước, TANDTC, VKSNDTC và quyết định hành chính, hành vi
hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi
cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án;
trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh
thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Toà án nơi cơ quan, người có thẩm
quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan thuộc
một trong các cơ quan nhà nước quy định tại điểm a điều 20 Luật TTHC và quyết
định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong các cơ quan đó
mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa
giới hành chính với Toà án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi
làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Toà án
nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà
nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án và của người có
thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan đại diện
ngoại giao của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc của
người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú trên cùng
phạm vi địa giới hành chính với Toà án. Trường hợp người khởi kiện không có nơi
20
cư trú tại Việt Nam, thì Toà án có thẩm quyền là Toà án nhân dân thành phố Hà Nội
hoặc Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh;
- Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan,
tổ chức cấp tỉnh, bộ, ngành trung ương mà người khởi kiện có nơi làm việc khi bị
kỷ luật trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án;
- Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi
địa giới hành chính với Toà án;
“Trong trường hợp cần thiết, Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết
khiếu kiện thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện”.
Một là, khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban
nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện liên quan đến nhiều đối
tượng, phức tạp.
Hai là, khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án cấp huyện mà các Thẩm phán của Toà án cấp huyện đó
đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.
Ba là, vụ án có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư
pháp cho cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ở nước ngoài hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
Phương thức nộp đơn khởi kiện
Nộp trực tiếp tại Tòa án;
Gửi đơn khởi kiện qua đường bưu điện.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị
về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Toà án phải ra một trong các quyết định sau
đây:
Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện và thông báo cho đương sự, VKS cùng
cấp biết;
Nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
Trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án
Toà án thì trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định giải
quyết khiếu nại, người khởi kiện có quyền khiếu nại, VKS cùng cấp có quyền kiến
nghị với Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị, Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp phải giải
quyết. Quyết định của Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp là quyết định giải quyết
cuối cùng [14, tr. 116].
- “Án phí” [12].
Thứ nhất, các loại án phí trong vụ án hành chính:
21
- Án phí hành chính sơ thẩm (200.000 đồng).
- Án phí hành chính phúc thẩm (200.000 đồng).
- Án phí dân sự sơ thẩm đối với trường hợp có giải quyết về bồi thường thiệt
hại, bao gồm án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch và án phí dân sự sơ thẩm có
giá ngạch.
- Án phí dân sự phúc thẩm đối với trường hợp có kháng cáo về phần bồi
thường thiệt hại.
Thứ hai, nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm trong vụ án hành chính
- Người khởi kiện vụ án hành chính phải nộp tiền tạm ứng án phí hành chính
sơ thẩm, trừ trường hợp không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc được miễn nộp
tiền tạm ứng án phí theo quy định của Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH ngày 27
tháng 02 năm 2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Người yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính không phải nộp
tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm.
- Người có nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí trong vụ án hành chính sơ thẩm
phải nộp tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm bằng mức án phí hành chính sơ
thẩm.
Thứ ba, các trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí:
- Người khởi kiện vụ án hành chính là thương binh; bố, mẹ liệt sỹ; người có
công với cách mạng;
- Người khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp
dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh;
- Cá nhân, hộ gia đình thuộc diện nghèo theo quy định của Chính phủ;
Thứ tư, thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm
Người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm trong thời
hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng
án phí.
“Thời hạn giải quyết” [11].
Thời hạn giải quyết vụ án hành chính từ khi thụ lý vụ án đến khi mở phiên
tòa xét xử sơ thẩm là từ 4 tháng đến 6 tháng.
1.2. Thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong xét xử vụ
án hành chính
1.2.1. Nội dung thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong xét
xử vụ án hành chính
1.2.1.1. Kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ vụ án hành chính
22
Khi thực hiện công tác kiểm sát thông báo thụ lý vụ án, trước hết cần phân
biệt rõ quyết định nào là quyết định hành chính, quyết định nào là quyết định giải
quyết khiếu nại để tránh việc thụ lý sai đối tượng. Trường hợp quyết định giải quyết
khiếu nại có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế,… Quyết định hành chính đã ban
hành trước đó do có đơn khiếu nại, làm ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của
người khởi kiện thì quyết định giải quyết này là quyết định hành chính và sẽ là đối
tượng khởi kiện của vụ án hành chính. Ngược lại nếu quyết định giải quyết khiếu
nại không có sửa đổi, bổ sung, thay thế gì so với quyết định hành chính đã ban hành
trước đó thì quyết định này không phải là đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính.
Khái niệm thụ lý vụ án hành chính: Theo thủ tục sơ thẩm, thụ lý vụ án hành
chinh là việc TAND có thẩm quyền vào sổ thụ lý vụ án sau khi tiếp nhận đơn khởi
kiện của đương sự hoặc quyết định khởi tố của VKSND về vụ án hành chính.
Để thụ lý vụ án hành chính, TAND sơ thẩm phải xem xét những điều kiện
cần và đủ để tiến hành thụ lý vụ án. Nhưng điều kiện đó là:
Một là, tư cách pháp lý của người khởi kiện, quyền khởi kiện.
Hai là, quan hệ tranh chấp, nội dung việc kiện.
Ba là, thủ tục khởi kiện, điều kiện khởi kiện: thủ tục khiếu nại hoặc vụ việc
đã được giải quyết bằng một quyết định có hiệu lực hay chưa?
Bốn là, vụ án có thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án mình hay không?
Cơ sở để Tòa án tiến hành các hoạt động như thu thập tài liệu, chứng cứ, xác
minh nội dung tranh chấp, lập hồ sơ vụ án đó là việc thụ lý vụ án hành chính.
Nếu bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc
kháng nghị thì Tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cùng kháng cáo,
kháng nghị lên Tòa án cấp trên có thẩm quyền. Khi đó, Tòa án cấp phúc thẩm tiếp
nhận, thụ lý để giải quyết vụ án. Những bản án, quyết định giải quyết vụ án hành
chính có hiệu lực pháp luật vẫn có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm. Do đó, vụ án lại có thể được được thụ lý, lập hồ sơ để giải quyết ở
giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm.
Quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC cũng có thể được xem xét lại
nếu có căn cứ xác định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết
quan trọng mới có thể làm thay đổi nội dung cơ bản quyết định. Khi đó, quyết định
của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thụ lý và xem xét theo trình tự, thủ tục của
pháp luật.
Hậu quả của việc thụ lý vụ án là TAND có thẩm quyền đã chính thức xác
định trách nhiệm của mình trong việc giải quyết việc kiện hành chính vụ án hành
chính.
23