Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Quản lý nhà nước về phổ biến pháp luật đối với đồng bào dân tộc thiểu số huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.82 KB, 104 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN ANH DŨNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

ĐẮK LẮK, NĂM 2017




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA



NGUYỄN ANH DŨNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 60 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ VĂN DƯƠNG

ĐẮK LẮK, NĂM 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu tại Học viện Hành chính
quốc gia, với sự tận tình chỉ bảo, truyền đạt kiến thức của quý Thầy, Cô đã
giúp tôi có thêm những kiến thức mới phục vụ cho công tác chuyên môn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Lãnh đạo, quý Thầy, Cô, Khoa Sau Đại
học Học viện Hành chính Quốc gia và Học viện Hành chính phân viện Tây
Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành chương trình.
Với sự kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn TS.
Đỗ Văn Dương đã dành nhiều thời gian và công sức truyền đạt kinh nghiệm,
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Sở Tư pháp Lâm Đồng, Phòng Tư pháp
huyện Di Linh, UBND các thị trấn, xã trên địa bàn huyện Di Linh, Công an

huyện Di Linh, Hạt kiểm lâm và ban quản lý rừng Tân Thượng… bạn bè,
đồng nghiệp đã hỗ trợ, giúp đỡ, động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong quá trình khảo sát, tìm hiểu thực tế nghiên cứu và hoàn thành luận
văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng với khả năng và thời gian còn có
những hạn chế nhất định, nên chắc chắn luận văn sẽ không tránh khỏi những
thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự góp ý của quý Thầy, Cô, bạn bè,
đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!


Tác giả

Nguyễn Anh Dũng


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.


Tác giả luận văn



Nguyễn Anh Dũng



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng, biểu
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHỔ BIẾN
PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ................... 10
1.1. Tổng quan về phổ biến pháp luật đối với đồng bào dân tộc thiểu
số............................................................................................................... 10
1.2. Quản lý nhà nước về phổ biến pháp luật đối với đồng bào dân tộc
thiểu số.......................................................................................................... 27
1.3. Các yếu tố tác động đến hoạt động quản lý nhà nước về phổ biến pháp
luật đối với đồng bào dân tộc thiểu số...................................................... 35
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHỔ BIẾN PHÁP
LUẬT ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ HUYỆN DI LINH,
TỈNH LÂM ĐỒNG TỪ NĂM 2012 - 2016.............................................. 41
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tác động tới quản lý nhà nước
về phổ biến giáo dục pháp luật đối với đồng bào dân tộc thiểu số huyện
Di Linh.................................................................................................... 41
2.2. Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về phổ biến pháp luật đối với
đồng bào dân tộc thiểu số huyện Di Linh từ 2012 - 2016......................... 45
2.3. Một số kinh nghiệm rút ra từ hoạt động quản lý nhà nước về phổ biến
pháp luật cho đồng bào thiểu số giai đoạn 2012 - 2016............................ 62



Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ HUYỆN DI LINH,TỈNH LÂM ĐỒNG
HIỆN NAY............................................................................................... 66
3.1. Phương hướng tăng cường quản lý nhà nước về phổ biến pháp luật đối
với đồng bào dân tộc thiểu số huyện Di Linh........................................... 66
3.2. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về phổ biến pháp luật đối với
đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Di Linh hiện nay................ 67
KẾT LUẬN.............................................................................................. 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 86
PHỤ LỤC................................................................................................ 91


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 2.1: Số lượng vụ vi phạm pháp luật giao thông đường bộ từ năm 2012
đến 2016.................................................................................................. 57


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DTTS
HĐND
PBPL
XHCN
UBND

: Dân tộc thiểu số
: Hội đồng nhân dân
: phổ biến pháp luật

: Xã hội chủ nghĩa
: Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Quản lý nhà nước về phổ biến pháp luật (PBPL) đối với đồng bào dân
tộc thiểu số (DTTS) có tầm quan trọng đối với sự phát triển chung của cả
nước, đặc biệt là giai đoạn hiện nay trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng xã hội dân công bằng, dân chủ, văn minh. Trong
những năm qua hoạt động thông tin, tuyên truyền chủ trương đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước nói chung và các chính sách Dân
tộc luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính
quyền, sự phối hợp của các cơ quan, ban, ngành trong hệ thống chính trị
đã triển khai tích cực qua rất nhiều kênh từ Trung ương đến địa phương,
thông qua các chương trình, kế hoạch, các đợt tổ chức tuyên truyền pháp
luật hàng năm, tuyên truyền qua hệ thống Báo chí, Đài phát thanh, Truyền
hình, các tạp chí, tập san về công tác Dân tộc, chính sách cấp báo tạp chí
không thu tiền cho vùng đặc biệt khó khăn, Biên giới, Hải đảo, chính sách
trợ giúp pháp lý cho người nghèo DTTS, đề án tuyên truyền pháp luật cho
người dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số… theo đó hệ thống thông
tin truyền thanh công cộng, xây dựng các câu lạc bộ pháp luật ở cụm dân cư
và tổ chức các hình thức hoạt động thông qua các diễn đàn với chủ đề dân
tộc miền núi, các hội thi tìm hiểu pháp luật dành cho người dân nông thôn
và đồng bào DTTS với nội dung phong phú đa dạng được nhiều cấp, nhiều
địa phương triển khai… đã  góp phần nâng cao nhận thức cho đồng bào các
DTTS, củng cố lòng tin của đồng bào DTTS vào Đảng, chính quyền, nâng
cao ý thức chấp hành chính sách pháp luật của Nhà nước, đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa khu dân cư, xây dựng nông thôn mới, tiếp cận với các tiến
bộ khoa học kỹ thuật, đưa cây, con giống mới có năng xuất, chất lượng vào

sản xuất, học tập làm theo các gương sản xuất giỏi phấn đấu vươn lên xóa
đói giảm nghèo...
1


Trong thành quả đạt được, hoạt động phổ biến pháp luật đối với đồng
bào DTTS huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng luôn được thực hiện bằng nhiều
hoạt động tập trung hướng về cơ sở, đưa thông tin đến với đồng bào DTTS
thông qua nhiều hình thức như chương trình phát thanh tiếng dân tộc, các
ấn phẩm, báo, tạp chí chuyên đề phản ánh về lĩnh vực công tác dân tộc miền
núi, đưa các hoạt động trợ giúp pháp lý trực tiếp đến cơ sở phục vụ cho
nhân dân, xây dựng các câu lạc bộ tuyên truyền pháp luật, tổ chức tốt các
hội nghị tuyên truyền pháp luật dành cho người dân nông thôn và đồng bào
DTTS theo tiểu đề án 2, Quyết định số 554/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ngày 04/05/2009 về phê duyệt Đề án “Tuyên truyền phổ biến pháp luật
cho người dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số từ năm 2008 đến năm
2012” và Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/04/2012 ban hành Chương
trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW cho phép kéo dài Đề án
đến hết năm 2016, tham gia và đạt giải cao hội thi tìm hiểu pháp luật dành
cho người dân nông thôn và đồng bào DTTS do địa phương tổ chức.
Trong những năm qua, chính quyền và ngành tư pháp của huyện đã
nghiêm túc triển khai thực hiện. Lực lượng cán bộ làm công tác quản lý nhà
nước về PBPL được kiện toàn, củng cố, ngày càng đảm bảo về số lượng và
chất lượng. Hình thức và phương pháp tuyên truyền ngày càng phong phú
không ngừng được cải tiến phù hợp với địa phương. Góp phần đẩy lùi các
tệ nạn xã hội, từng bước ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực hiện thắng lợi mục tiêu: “Xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân”.
Tuy nhiên hoạt động quản lý nhà nước về phổ biến pháp luật đối với

đồng bào DTTS cũng bộc lộ nhiều hạn chế bất cập, do trình độ dân trí thấp,
tình trạng người dân không biết chữ, không thạo tiếng phổ thông ở vùng
2


cao, vùng sâu, vùng xa còn khá phổ biến, do ảnh hưởng của phong tục tập
quán lạc hậu của đồng bào, mặt khác đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên
truyền trong vùng dân tộc còn thiếu và yếu cả về kiến thức, kỹ năng truyền
đạt, chưa am hiểu phong tục tập quán đồng bào và do bất đồng ngôn ngữ…
các hình thức tổ chức tuyên truyền nhiều khi còn cứng nhắc, tài liệu cung
cấp thông tin tuyên truyền nhiều nội dung chưa phù hợp với thực tế từng
vùng, không thu hút được sự quan tâm của đồng bào, kinh phí cho hoạt động
tuyên truyền còn hạn hẹp, điều kiện cơ sở vật chất như tủ sách pháp luật,
nhà văn hóa, hệ thống thông tin truyền thanh công cộng để người dân tiếp
cận với các thông tin ở vùng DTTS còn thiếu thốn và kém hiệu quả. Vì vậy,
việc nghiên cứu về việc phổ biến pháp luật cho đồng bào DTTS mang tính
cấp thiết, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
Với các lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về
phổ biến pháp luật đối với đồng bào dân tộc thiểu số huyện Di Linh, tỉnh
Lâm Đồng” để làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Công tác PBPL là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sự quan trọng đó được thể hiện ở
việc Chính phủ triển khai thành Chương trình PBPL và đã được Thủ tướng
Chính phủ ra Quyết định số 28/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án 02-212 về
“Xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động chấp hành pháp
luật trong cộng đồng dân cư” (2006 - 2008). Tiếp theo đó ngày 12/3/2008
Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết số 37/2008/QĐ-TTg về phê duyệt
chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ 2008 - 2012. Mục tiêu chung
của giai đoạn này là “…đổi mới phương thức tổ chức thực hiện phổ biến,

giáo dục pháp luật và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật; tuyên truyền kịp thời, thường xuyên nội dung
3


pháp luật phù hợp với từng đối tượng, địa bàn…”. Đặc biệt là Quyết định
số 554/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 04/05/2009 về phê duyệt
Đề án “Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân nông thôn
và đồng bào dân tộc thiểu số từ năm 2008 đến năm 2012” và Quyết định số
409/QĐ-TTg ngày 09/04/2012 ban hành Chương trình hành động thực hiện
Kết luận số 04-KL/TW cho phép kéo dài Đề án đến hết năm 2016.
Để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về phổ
biến pháp luật, nhiều địa phương trong cả nước đã có nhiều nghiên cứu và
triển khai hoạt động nghiên cứu dưới nhiều hình thức, như xây dựng các đề
án, đề tài, biên soạn tài liệu phục vụ PBPL cho nhân dân hay các bài nghiên
cứu, trao đổi kinh nghiệm về hoạt động PBPL, cụ thể như:
- Công trình nghiên cứu “Cơ chế phối hợp giữa cơ quan tư pháp và
các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn trong
việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân ở cơ sở” năm 2008 của Sở
Tư pháp tỉnh Tiền Giang.
- Công trình nghiên cứu “Kinh nghiệm tổ chức phổ biến, giáo dục
pháp luật thông qua trợ giúp pháp lý cho nhân dân ở cơ sở tại Quảng Nam”
năm 2008 của Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Quảng Nam.
- Công trình nghiên cứu “Nghiên cứu tình trạng nhận thức của cán
bộ đồng bào dân tộc thiểu số ở Bình Định và giải pháp nâng cao công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân” năm 2008 của Sở Tư pháp Bình
Định.
- Đề tài “Phổ biến, giáo dục pháp luật của xã, phường trên địa bàn
thành phố Thanh Hóa” năm 2009 của tác giả Đỗ Hồng Kỳ, đề tài này tập
trung nghiên cứu đánh giá thực trạng và xác định giải pháp nhằm bổ sung,

hoàn thiện các quy định cũng như xây dựng được đề cương hướng dẫn trong
công tác PBPL [20].
4


- Đề tài cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Luật
Phổ biến, giáo dục pháp luật” năm 2010 của Bộ Tư pháp.
- Đề tài “Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn quận
Đống Đa, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” năm 2010 của tác
giả Lê Thị Thu Giang đi sâu nghiên cứu hoạt động của đội ngũ cán bộ, công
chức làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (phổ biến, giáo dục pháp
luật) trên địa bàn quận Đống Đa để từ đó xây dựng luận cứ cho các giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật và quản lý nhà
nước đối với hoạt động này trên địa bàn quận Đống Đa [14].
- Đề tài “Giáo dục pháp luật ở đô thị qua thực tiễn thành phố Hải
Dương” năm 2011 của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy đi sâu nghiên cứu thực
trạng giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố Hải Dương từ đó đề ra một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục pháp luật trên địa
bàn thành phố Hải Dương trong giai đoạn mới [34].
- Đề tài khoa học cấp cơ sở “Phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng,
chống tham nhũng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam
hiện nay” (năm 2013) do PGS.TS Lê Thiên Hương, Trưởng khoa Nhà nước
và Pháp luật, Học viện Hành chính Quốc gia làm chủ nhiệm. Đề tài đã nêu
lên những nội dung cần giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng như:
Phổ biến, giáo dục về phòng, chống tham nhũng cho sinh viên trong trường
đại học, cao đẳng: khái niệm, nguyên nhân, hậu quả của tham nhũng, ý
nghĩa, tầm quan trong của công tác phòng, chống tham nhũng, trách nhiệm
của công dân, đồng thời đưa ra các phương pháp cụ thể như: giảng viên
thuyết trình chủ đề trên lớp thông qua slide bài giảng; cung cấp những văn
bản quy phạm pháp luật liên quan đến tham nhũng và phòng, chống tham

nhũng cho sinh viên tìm hiểu và nghiên cứu [16].
- Đề tài “Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao
5


công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật trong đồng bào dân
tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2010 - 2020” năm 2013 do Thạc sĩ
Lê Duy An, làm chủ nhiệm, trong đó đi sâu nghiên cứu thực trạng công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số để tìm ra
những nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số [1].
- Nguyễn Quốc Sửu (2014), “Kinh nghiệm từ thực tiễn công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính tỉnh
Đắk Lắk”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 223 (8/2014).
- Đề tài “Quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng” năm 2014 của Nguyễn Văn Khoa, chuyên ngành Quản
lý công, Học viện Hành chính quốc gia.
- Đề tài “Quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho thanh thiếu
niên trên địa bàn tỉnh Đắk Nông” năm 2014 của Châu Ngọc Lương lớp Cao
học 17M chuyên ngành Quản lý công, Học viện Hành chính quốc gia.
- Đề tài “Quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa
bàn thành phố Buôn Ma Thuộc, tỉnh Đắk Lắk” năm 2015 của Chế Vũ Chí
An, chuyên ngành Quản lý công, Học viện Hành chính quốc gia.
- Đề tài “Quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán
bộ, công chức cấp huyện là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk” năm
2015 của Trần Tuấn Anh, chuyên ngành Quản lý công, Học viện Hành chính
quốc gia.
Bên cạnh đó, còn nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, giảng dạy
pháp luật hay các cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các tổ chức,
cơ quan nhà nước… được đăng trên các báo, tạp chí.

Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu để triển khai
thực hiện công tác PBPL cho nhiều đối tượng khác nhau và đạt được những
6


thành tựu khoa học nhất định trong lĩnh vực nghiên cứu của các ngành, các
cấp, các học viện, các địa phương... Song, hiện tại chưa có công trình nào
nghiên cứu vấn đề hoạt động quản lý Nhà nước về phổ biến pháp luật đối
với đồng bào DTTS huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Đây cũng là lý do để
đề tài này được lựa chọn bởi sự không trùng lặp của đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động quản lý nhà nước về
PBPL đối với đồng bào DTTS, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả của quản lý nhà nước về PBPL đối với đồng bào DTTS huyện
Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Phân tích làm rõ các khái niệm, các đặc điểm, mục đích và yêu cầu
của quản lý nhà nước về PBPL nói chung và đặc trưng của công tác quản lý
nhà nước về PBPL đối với đồng bào DTTS nói riêng.
- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng quản lý nhà nước về PBPL
đối với đồng bào DTTS huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Luận văn tập trung
nghiên cứu: những thuận lợi, khó khăn, kết quả đạt được,nguyên nhân của
hoạt động quản lý nhà nước về PBPL đối với đồng bào DTTS huyện Di
Linh, tỉnh Lâm Đồng.
- Trên cơ sở thực trạng, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước về PBPL đối với đồng bào DTTS
huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu hoạt động quản lý nhà
7


nước về phổ biến pháp luật đối với đồng bào DTTS trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: địa bàn huyện Di Linh, tỉnh Lâm
Đồng.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Từ năm 2012 đến 2016.
- Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Xây dựng, ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch về PBPL; chỉ đạo, hướng dẫn và tổ
chức thực hiện hoạt động PBPL; bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ
PBPL; thống kê, tổng kết về PBPL.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn


5.1. Phương pháp luận
Nội dung nghiên cứu của đề tài được xem xét luận giải dựa trên cơ

sở phương pháp luận duy vật biện chứng và lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta
về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân và công tác PBPL, đặc biệt là các đề án về PBPL cho người
dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp: lịch sử, lôgíc, hệ thống, thống
kê, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật, điều tra xã hội...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Đây là đề tài nghiên cứu tương đối có hệ thống những vấn đề lý luận

quản lý nhà nước về PBPL đối với đồng bào DTTS huyện Di Linh, tỉnh Lâm
Đồng.
- Phân tích đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về PBPL, đồng
thời rút ra những kinh nghiệm quản lý nhà nước về PBPL đối với đồng bào
8


DTTS ở huyện Di Linh
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cường
hoạt động quản lý nhà nước về PBPL đối với đồng bào dân tộc ít người ở
huyện Di Linh.
- Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong đề tài có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả tuyên truyền, PBPL
cho người dân nói chung và đồng bào DTTS ở huyện Di Linh nói riêng.
Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác
nghiên cứu, giảng dạy về công tác pháp luật và các cán bộ thực tiễn đang
công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp luật...
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về phổ biến pháp luật đối
với đồng bào dân tộc thiểu số
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về phổ biến pháp luật đối
với đồng bào dân tộc thiểu số huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng từ năm 2012
- 2016
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước
về phổ biến pháp luật đối với đồng bào dân tộc thiểu số huyện Di Linh, tỉnh
Lâm Đồng hiện nay

9



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHỔ BIẾN
PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Tổng quan về phổ biến pháp luật đối với đồng bào dân tộc
thiểu số
1.1.1. Khái niệm phổ biến pháp luật
“Dân tộc thiểu số” dùng để chỉ những dân tộc có số dân ít, chiếm tỷ
trọng thấp trong tương quan so sánh về lượng dân số trong một quốc gia
đa dân tộc. Khái niệm “dân tộc thiểu số” cũng không có ý nghĩa biểu thị
tương quan so sánh về dân số giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi khu
vực và thế giới. Một dân tộc có thể được quan niệm là “đa số” ở quốc gia
này, nhưng đồng thời có thể là “thiểu số” ở quốc gia khác. Chẳng hạn người
Việt (Kinh) được coi là “dân tộc đa số” ở Việt Nam, nhưng lại được coi là
“dân tộc thiểu số” ở Trung Quốc (vì chỉ chiếm tỉ lệ 1/55 dân tộc thiểu số
của Trung Quốc); ngược lại người Hoa (Hán), được coi là “dân tộc đa số”
ở Trung Quốc, nhưng lại là dân tộc thiểu số ở Việt Nam (người Hoa chiếm
tỉ lệ 1/53 dân tộc thiểu số của Việt Nam). Rõ ràng, quan niệm về “dân tộc
thiểu số” và “dân tộc đa số” cũng như nội hàm của chúng hiện nay còn có
những vấn đề chưa thống nhất và nó cũng được vận dụng xem xét rất linh
hoạt trong từng điều kiện cụ thể, tuỳ theo quan niệm và mối quan hệ so sánh
về dân số của mỗi quốc gia dân tộc. Song, những nội dung được quan niệm
như đã phân tích ở phần trên về cơ bản là tương đối thống nhất không chỉ ở
nước ta mà trong cả giới nghiên cứu dân tộc học trên thế giới [40].
Ở Việt Nam, khái niệm DTTS được sử dụng rộng rãi trong các văn
bản pháp luật cũng như trong công tác nghiên cứu, học tập và trong hoạt
động thực tiễn. Thuật ngữ này cũng được sử dụng chính thức trong các bản
Hiến pháp. Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày 14/01/2011 của Chính phủ
10



về công tác dân tộc đưa ra khái niệm tại Khoản 2 - Điều 4 “DTTS là những
dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; Khoản 3 - Điều 4: “Dân tộc đa số
là dân tộc có số dân chiếm trên 50% tổng số dân của cả nước theo điều tra
dân số quốc gia”. Căn cứ vào kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở quốc gia
2009, Việt Nam có 54 dân tộc sinh sống trên lãnh thổ của cả nước, trong đó
có 53 dân tộc thiểu số với số dân 12,253 triệu người (chiếm 14,3%).
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra quan niệm chung về “đồng bào
dân tộc thiểu số như sau: “Đồng bào dân tộc thiểu số là những dân tộc có
số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Phổ biến pháp luật là vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay. Với tư cách là một khái niệm pháp lý, PBPL được hình
thành trong khoa học pháp lý cũng như được tiến hành trong thực tế ở nước
ta rất muộn so với nhiều nước trên thế giới. Vì vậy, ở nước ta hiện nay chưa
có một khái niệm chính thức về PBPL. Và, để làm rõ vấn đề này cần phải
xuất phát từ khái niệm “phổ biến” và khái niệm “giáo dục”.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “phổ biến” là hoạt động truyền đạt rộng
khắp làm cho nhiều người cùng biết [50], còn theo Từ và ngữ Hán Việt thì
“Phổ biến là làm cho đông đảo mọi người biết đến một vấn đề, một tri thức
bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thông qua hình thức nào đó hoặc làm
cho mọi người đều biết đến”. Còn “giáo dục” là sự tác động một cách có hệ
thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con người, để họ dần dần có
được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra [4].
Phổ biến pháp luật có đối tượng tác động rộng rãi, mang ý nghĩa xã
hội và nhân văn sâu sắc, bởi trong lịch sử đã có lúc pháp luật được ban hành
11



nhưng không được phổ biến công khai mà chỉ được coi là một công cụ để
Nhà nước dùng để trị dân. Bên cạnh đó phổ biến pháp luật còn mang tính
tác nghiệp, truyền đạt nội dung pháp luật cho các đối tượng cụ thể. Ở những
mức độ khác nhau, phổ biến pháp luật còn nhằm làm cho các đối tượng cụ
thể hiểu thấu suốt các quy định của pháp luật để thực hiện pháp luật trên
thực tế. Phổ biến pháp luật thường được thực hiện thông qua các hội nghị,
các cuộc tập huấn…
Về giáo dục pháp luật là khái niệm rộng bao gồm cả quá trình nâng
cao tri thức pháp luật cho đối tượng, bằng mọi cách (thuyết phục, nêu gương,
ám thị…) hình thành tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng
cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành của đối tượng [23].
So với phổ biến thì giáo dục cũng nhằm nâng cao nhận thức, tình cảm
song nội dung rộng hơn, phương thức tiến hành chặt chẽ hơn, đối tượng xác
định hơn, mục đích lớn hơn. Xét dưới góc độ nhất định thì phổ biến chính
là các phương thức giáo dục cụ thể.
Trong các tài liệu khoa học về pháp luật ở nước ta hiện nay, các tác
giả đã khá thống nhất với khái niệm giáo dục pháp luật: Giáo dục pháp luật
là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác
động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm
mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù
hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành.
Tóm lại, phổ biến pháp luật hiểu theo nghĩa rộng là quá trình bao gồm
tất cả các công đoạn phục vụ cho việc thực hiện phổ biến giáo dục pháp luật
(xây dựng chương trình, kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật; triển khai
chương trình, kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật thông qua việc áp dụng
các hình thức, biện pháp phổ biến giáo dục pháp luật; hướng dẫn, kiểm tra,
đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện chương trình, kế hoạch phổ biến,
12



giáo dục pháp luật). Hiểu theo nghĩa hẹp là truyền đạt tinh thần, nội dung
pháp luật giúp cho đối tượng tác động hiểu và hình thành ở họ tri thức pháp
luật, tình cảm, hành vi phù hợp với các đòi hỏi của các quy định pháp luật
hiện hành [9].
Từ những phân tích nói trên có thể đưa ra định nghĩa PBPL như sau:
Phổ biến pháp luật bao gồm cả tuyên truyền và giáo dục pháp luật là hoạt
động có tính định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể phổ biến pháp
luật tác động lên đối tượng được phổ biến pháp luật nhằm mục đích hình
thành ở họ tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với các quy định
của pháp luật.
Từ khái niệm về phổ biến pháp luật chúng ta có thể thấy rằng: Phổ
biến pháp luật đối với đồng bào dân tộc thiểu số bao gồm cả tuyên truyền
và giáo dục pháp luật là hoạt động có tính định hướng, có tổ chức, có chủ
định của chủ thể phổ biến pháp luật tác động lên đối tượng là đồng bào
dân tộc thiểu số một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình
thành ở họ tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với các quy định
của pháp luật.
PBPL đối với đồng bào DTTS là một trong những chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước đối với việc chăm lo đời sống của đồng bào
DTTS nhằm giúp họ hình thành tri thức pháp luật, tạo niềm tin vào pháp
luật để họ có đầy đủ khả năng tham gia vào các quan hệ xã hội phù hợp với
quy định của pháp luật hiện hành.
1.1.2. Đặc điểm của phổ biến pháp luật đối với đồng bào dân tộc
thiểu số
1.1.2.1. Đặc điểm chung phổ biến pháp luật
Thứ nhất, phổ biến pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng.
13



Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, bản chất của hoạt động xây dựng
pháp luật là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thể hiện ý chí của
nhân dân. Chính sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước đã xác
lập sự gắn bó hữu cơ giữa đường lối, chính sách của đảng với pháp luật. Vì
vậy, thực hiện pháp luật cũng là góp phần thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng. Có thể thấy rằng, ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức
chính trị. Khi thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ tạo ra khả năng
cho việc giáo dục chính trị, hình thành ở đối tượng giáo dục những hiểu
biết nhất định về chính trị. Ngược lại, trong quá trình giáo dục chính trị, tư
tưởng có sự đan xen những nội dung, quan điểm pháp lý nhất định.
Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân
đã khẳng định: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng” [13].
Thứ hai, phổ biến pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ với công tác xây
dựng pháp luật, thực hiện pháp luật.
Phổ biến pháp luật có quan hệ chặt chẽ với công tác xây dựng pháp
luật. Trong mối quan hệ này, xây dựng pháp luật là cơ sở cho việc hình
thành, đẩy mạnh phổ biến pháp luật; phổ biến pháp luật là một phương tiện
quan trọng để đưa pháp luật vào cuộc sống. Hoạt động phổ biến pháp luật
còn là một “kênh” để các cơ quan xây dựng pháp luật nắm bắt được yêu cầu,
nhu cầu, đề xuất từ phía người dân và các tổ chức trong việc xây dựng, hoàn
thiện pháp luật; đánh giá được tính khả thi, hiệu quả của quy định, văn bản
pháp luật trong đời sống thực tế từ đó góp phần nâng cao chất lượng công
tác xây dựng pháp luật.
14



Thứ ba, phổ biến pháp luật nhằm truyền đạt thông tin, nội dung pháp
luật giúp cho đối tượng tác động có những hiểu biết nhất định về pháp luật,
góp phần nâng cao ý thức pháp luật của đối tượng.
Đối tượng của phổ biến pháp luật là những cá nhân công dân hoặc
những nhóm cộng đồng xã hội cụ thể tiếp nhận tác động của các hoạt động
phổ biến pháp luật. Họ là những người có nhu cầu và cả những người cho
rằng mình không có nhu cầu tìm hiểu pháp luật.
Một trong những đặc điểm không thể thiếu của phổ biến pháp luật là
truyền tải những thông tin, những yêu cầu, nội dung và các quy định pháp
luật đến đối tượng phổ biến pháp luật thông qua các hình thức, phương tiện,
biện pháp thích hợp, giúp cho đối tượng hiểu biết, nắm bắt thông tin, nội
dung pháp luật mà không mất quá nhiều thời gian, công sức cho việc tự tìm
hiểu, tự học tập. Nội dung pháp luật được truyền đạt tới đối tượng thường
là các văn bản pháp luật, các nội dung hướng dẫn công dân thực hiện pháp
luật, các thông tin về xây dựng và thi hành pháp luật.
Phổ biến pháp luật không chỉ thuần túy là truyền tải, cung cấp thông
tin pháp luật mà quan trọng hơn là nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật, từ
đó hình thành ý thức tôn trọng, tự giác chấp hành pháp luật của đối tượng
tác động. Đây là mục đích cuối cùng của phổ biến pháp luật.
Thứ tư, phổ biến pháp luật được tổ chức, thực hiện bởi những chủ thể
xác định.
Chủ thể phổ biến pháp luật được hiểu là cơ quan, tổ chức, cá nhân
tham gia tổ chức thực hiện công tác phổ biến pháp luật tùy thuộc vào nội
dung, hình thức, phương pháp, đối tượng phổ biến pháp luật.
Phổ biến pháp luật có nội dung rộng, hình thức đa dạng, phong phú,
liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đối tượng; do đó, trong các văn
bản của Đảng và Nhà nước đều xác định thực hiện phổ biến pháp luật là
15



trách nhiệm của các ngành, các cấp, của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội
và toàn dân. Hiện nay, các chủ thể tham gia phổ biến pháp luật rất đa dạng;
tuy nhiên, chủ thể có trách nhiệm trực tiếp tổ chức thực hiện phổ biến pháp
luật là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có chức năng trong hoạt động
này, cụ thể:
- Chính phủ: Tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền Hiến pháp và
pháp luật.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ: Chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tácphổ
biến các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý của bộ. Tổ chức
pháp chế của các bộ, các cơ quan ngang bộ có trách nhiệm giúp lãnh đạo bộ,
ngành tổ chức thực hiện công tác phổ biến pháp luật trong phạm vi quản lý
bộ, ngành.
- Ủy ban nhân dân các cấp: Tổ chức thực hiện công tác phổ biến
pháp luật địa phương. Giúp Ủy ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ này là các
cơ quan tư pháp địa phương (Sở Tư pháp ở cấp tỉnh, phòng tư pháp ở cấp
huyện, công chức tư pháp - hộ tịch ở cấp xã).
Ngoài hệ thống các cơ quan trên, các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp; Viện kiểm sát nhân dân; Tòa án nhân dân; các tổ chức
chính trị, xã hội, đoàn thể quần chúng… trong quá trình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình cũng có trách nhiệm tham gia phổ biến pháp luật.
Các chủ thể cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình
tổ chức thực hiện phổ biến pháp luật để không chồng chéo hay bỏ sót đối
tượng, địa bàn, nội dung giáo dục pháp luật nhằm đạt được hiệu quả chung
cao nhất.
PBPL có những đặc điểm chung của nó. Nhưng PBPL cho đối tượng
cụ thể là đồng bào DTTS lại là hình thức PBPL đặc thù, nghĩa là ngoài
những đặc điểm của PBPL nói chung, PBPL cho đồng bào DTTS còn có
16



những đặc điểm riêng. Đặc điểm riêng đó được phản ánh qua các yếu tố chủ
thể, đối tượng, nội dung, hình thức PBPL.
1.1.2.2. Đặc điểm về đối tượng và chủ thể phổ biến pháp luật
- Đối tượng được PBPL chính là đồng bào người dân tộc thiểu số.
huyện Di Linh - tỉnh Lâm Đồng là một địa phương có tới 29 dân tộc anh
em sống đan xen nhau. Ngoài các dân tộc bản địa chiếm số đông trong cộng
đồng các dân tộc như: K’ho, RaGlai, Châu Mạ, Di Linh còn có các dân tộc ít
người khác ở miền Bắc và miền Trung di cư vào như: Tày, Nùng, Mường...
Vì vậy đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán và bản sắc của từng dân tộc
hoàn toàn khác nhau. Tâm lý dân tộc ít người thường hay tự ti, bảo thủ và cả
tâm lý trông chờ, ỷ lại, bao gồm cả tư tưởng cục bộ địa phương, địa phương
chủ nghĩa, các cộng đồng, các cụm dân cư, dòng họ có phong tục tập quán
riêng biệt. Nhân dân các dân tộc ít người vẫn còn sử dụng hệ thống luật tục.
Luật tục có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của đồng bào dân tộc: Có
những luật tục tiến bộ, tích cực được Nhà nước thừa nhận nhưng bên cạnh
đó vẫn còn có những hủ tục nặng nề, lạc hậu cần phải loại bỏ dần như tang
ma, cưới xin…
Những năm gần đây, được sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước,
con em của đồng bào DTTS được đi đào tạo ở nhiều trình độ và các bậc học
khác nhau nhưng nhìn chung trình độ học vấn của đồng bào các dân tộc ít
người là tương đối thấp. Đa số đồng bào các dân tộc ít người đều biết tiếng
Kinh nhưng có người biết không nhiều, thậm chí là không biết. Đây là hạn
chế rất lớn khi tiếp thu những tri thức văn hóa nói chung, trong đó có tri thức
về pháp luật, kinh tế, xã hội, chính trị, quốc phòng, anh ninh, khoa học kỹ
thuật, y tế... Cuộc sống của đồng bào DTTS còn gặp nhiều khó khăn, ít có
điều kiện tiếp xúc, tìm hiểu pháp luật và sử dụng phương tiện, công cụ pháp
luật để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình. Điều đó đòi hỏi
17



×