Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Đề án thương mại: Vấn đề huy động vốn trong công ty cổ phần theo quy định của pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.87 KB, 22 trang )

MỤC LỤC


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết, công ty cổ phần là một trong những loại hình doanh
nghiệp mới ra đời nhưng đang ngày càng phát triển và phổ biến hơn ở Việt Nam
trong những thập kỷ qua. Là một công ty đối vốn nên nó luôn có sức hút đối với
những người kinh doanh ưa chuộng sự hữu hạn trong chế độ trách nhiệm về tài sản.
Đặc biệt, loại hình doanh nghiệp này còn cho phép huy động vốn nhằm mở rộng
quy mô cũng như tạo uy tín trong thị trường các doanh nghiệp hiện nay.
Nói về huy động vốn, đây vừa là một lợi thế nhưng cũng là một khó khăn của công
ty cổ phần. Bên cạnh việc tạo nguồn vốn dồi dào cho công ty - vấn đề có vai trò hết
sức quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì công ty đó cũng sẽ phải đối
mặt với rất nhiều vấn đề trong việc quản lý và tổ chức do không giới hạn về thành
viên của công ty.
Nhận thức được tầm quan trọng của công ty cổ phần trong thời đại ngày nay,
với mong muốn tìm hiểu thêm về huy động vốn trong loại hình công ty này, cũng
như nhận thức được rằng quyền phát hành cổ phần đang là vấn đề hết sức mới mẻ,
tôi quyết định chọn đề tài “Tìm hiểu về các hình thức huy động vốn trong công ty
cổ phần theo quy định của pháp luật hiện hành”. Trên cơ sở dữ liệu thu thập được,
tôi tập trung vào các hình thức huy động vốn, qua đó phân tích và rút ra được những
mặt còn hạn chế của các cách thức này. Qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm đóng
góp để vấn đề về huy động vốn được dễ dàng hơn.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu về các hình thức huy động vốn


trong công ty cổ phần.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những hình thức huy động vốn trên lãnh thổ
Việt Nam và theo quy định của pháp luật Việt Nam bên cạnh việc nghiên cứu một
số thực trạng về tình hình huy động vốn từ năm 2010 tới nay. Qua đó đề xuất giải
pháp cho giai đoạn 2017-2022.

2


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp được sử dụng trong bài là phương pháp nghiên cứu tài liệu (thu
thập tài liệu, phân tích tài liệu tóm tắt các nội dung nghiên cứu trước đó).
Mục đích của phương pháp là thu thập và tổng hợp các thông tin liên quan
đến cơ sở lý thuyết của đề tài, quy định của pháp luật liên quan đến đề tài và tình
hình thực tế của các hình thức huy động vốn hiện nay.
4. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu đề tài này là hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về công
ty cổ phần, nguồn vốn của công ty cổ phần, và huy động vốn của công ty cổ phần
trên thị trường theo pháp luật Việt Nam cũng như một số thực trạng huy động vốn
của công ty cổ phần trên thị trường ở Việt Nam trong thời gian qua. Qua đó đề xuất
các giải pháp tăng cường huy động vốn của công ty cổ phần trên thị trường theo
pháp luật Việt Nam, từ đó tạo điều kiện cho các công ty cổ phần phát triển sản xuất
kinh doanh, thể hiện rõ vai trò vị trí của mình trong nền kinh tế hiện nay của nước
nhà.
Ngoài ra, thông qua đề tài này, tôi cũng muốn nâng cao tầm hiểu biết về các

hình thức huy động vốn cũng như rèn luyện kỹ năng tư duy, phân tích để hoàn thiện
bản thân ngày một tiến bộ hơn.
5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài
kết cấu thành 2 Chương, gồm:
Chương 1: Khái quát về công ty cổ phần và một số vấn đề huy động vốn trong công
ty cổ phần
Chương 2: Một số hình thức huy động vốn trong công ty cổ phần

3


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
HUY ĐỘNG VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Khái quát về công ty cổ phần
Pháp luật hiện hành của Việt Nam không đưa ra định nghĩa cụ thể về công ty cổ
phần mà chỉ đưa ra những dấu hiệu để nhận biết công ty cổ phần 1. Điều 110 Luật
Doanh nghiệp 2014 có quy định:
“1. Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không
hạn chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ

trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật này.
2. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp.
3. Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn.”
Qua đây chúng ta cũng có thể thấy được rõ ràng một số ưu điểm nổi bật của
công ty cổ phần:
Đầu tiên đó là không hạn chế số lượng tối đa cổ đông, bất cứ ai đủ điều kiện
theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty đều có thể góp vốn vào công ty cổ
phần. Không những thế, cổ đông chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi
số vốn góp vào doanh nghiệp. Điều này thể hiện sự tách bạch rõ ràng giữa phần tài
sản của công ty và tài sản cá nhân. Khi có chuyện gì xảy ra với công ty như phá sản,
thua lỗ,… thì cổ đông cũng không bị ảnh hưởng đến tài sản riêng, tạo sự an toàn
trong kinh doanh, mức độ rủi ro không lớn. Ngoài ra, cổ đông công ty cổ phần còn
có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần trừ một số trường hợp, và việc chuyển
nhượng này tương đối dễ dàng.
1 />
4


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

Bên cạnh đó, công ty cổ phần với tư cách pháp nhân của mình, có thể đem
lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp:
Trước hết, nó đem lại cho doanh nghiệp sự ổn định đời sống pháp luật, hoạt động
pháp nhân kéo dài và không bị ảnh hưởng bởi những biến cố xảy ra với thành viên.
Khi có tư cách pháp nhân thì doanh nghiệp được pháp luật thừa nhận là một chủ thể
pháp lý, được nhân danh mình tham gia các quan hệ một cách độc lập.

Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân có tài sản riêng, độc lập với tài sản của tổ chức,
cá nhân khác, có khả năng tự chịu trách nhiệm độc lập bằng tài sản của mình. Một
khi khối tài sản doanh nghiệp được bảo vệ, tách bạch như vậy, doanh nghiệp mới có
thể tự do sử dụng, bán, thế chấp tài sản của mình cho những người vay. Nếu không
có tư cách pháp nhân, doanh nghiệp sẽ rất khó giao kết hợp đồng được, không tạo
lập được nhiều sự tin tưởng ở khách hàng một khi có sự không rõ ràng, minh bạch
trng hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời sự độc lập về tài sản nó cho
phép các chủ nợ của doanh nghiệp quyền ưu tiên siết nợ với tất cả các loại tài sản
của doanh nghiệp. Tư cách pháp nhân góp phần phân biệt với nợ doanh nghiệp và
nợ thành viên, giúp chủ nợ dễ dàng thực hiện quyền đòi nợ.2
1.2. Khái niệm về vốn trong công ty cổ phần
Hiện nay pháp luật Việt Nam không có khái niệm về vốn của công ty cổ
phần. Tuy nhiên, căn cứ vào khái niệm vốn của doanh nghiệp nói chung thì có thể
hiểu vốn của công ty cổ phần là giá trị được tính bằng tiền của những tài sản thuộc
quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp của doanh nghiệp, được sử dụng trong kinh
doanh.
Cũng như các chủ thể kinh doanh khác, để tiến hành các hoạt động kinh doanh,
công ty cổ phần phải có vốn. Là loại hình công ty đối vốn điển hình nên vấn đề vốn
của công ty cổ phần là hết sức phức tạp, được tiếp cận dưới nhiều góc độ, dựa trên
những tiêu chí khác nhau.
Căn cứ vào nguồn gốc hình thành, vốn của công ty cổ phần được chia thành:
vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và vốn tín dụng (vốn vay).

2 />
5


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung


GVHD:

- Vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn thuộc sở hữu của công ty, được hình thành từ nguồn
đóng góp của cổ đông và vốn do công ty cổ phần tự bổ sung từ lợi nhuận của công
ty.
- Vốn tín dụng: là nguồn vốn hình thành từ việc đi vay dưới các hình thức khác
nhau: vay ngân hàng, vay của các tổ chức, cá nhân khác hoặc vay bằng cách phát
hành trái phiếu.
Điều quan trọng là công ty cổ phần phải có một tỉ lệ vốn vay trên vốn cổ phần hợp
lí để phản ánh thế mạnh tài chính của công ty, vừa tạo niềm tin cho các đối tác của
mình.3
1.3. Huy động vốn trong công ty cổ phần
Công ty cổ phần thường có hai cách để huy động vốn: tăng vốn chủ sở hữu
bằng cách phát hành cổ phiếu và tăng vốn vay thông qua các hình thức tín dụng.
Theo Luật doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh “không
được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào” (Khoản 3 Điều 172 và khoản 2 Điều
183). Khả năng huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn có nhiều thuận lợi
hơn nhưng cũng “không được quyền phát hành cổ phần”. Trong khi đó, công ty cổ
phần khẳng định sự vượt trội của loại hình doanh nghiệp này trong khả năng huy
động vốn bằng quyền phát hành trái phiếu và cổ phần.

3 />
6


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:


CHƯƠNG 2: MỘT SỐ HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN TRONG CÔNG TY
CỔ PHẦN
2.1. Phát hành cổ phiếu
2.1.1. Khái niệm cổ phần, cổ phiếu
Cổ phần:
Luật doanh nghiệp hiện hành quy định cụ thể và rõ ràng các loại cổ phần mà
công ty cổ phần được phép phát hành, bao gồm cổ phần phổ thông và cổ phần ưu
đãi.
Cổ phần phổ thông là loại cổ phần do công ty phát hành một cách rộng rãi,
theo đó các chủ thể có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty
đều có quyền mua để trở thành chủ sở hữu của công ty cổ phần.Hay nói cách khác,
đây là loại cổ phần bắt buộc phải có khi thành lập công ty cổ phần . Người sở hữu cổ
phần phổ thông là cổ đông phổ thông. Cổ đông phổ thông được hưởng đầy đủ
quyền và lợi ích theo quy định tại Điều 114 Luật Doanh nghiệp 2014.
Ngoài cổ phần bắt buộc là cổ phần phổ thông ra, công ty cổ phần có thể có
cổ phần ưu đãi. Cổ phần ưu đãi cho phép người nắm giữ sở hữu một phần của công
ty với những quyền lợi ưu tiên hơn so với cổ đông phổ thông. Thông thường, cổ
phần ưu đãi được công ty sử dụng để tăng vốn khi tỉ trọng nợ đã quá cao làm giảm
vị thế tín dụng của công ty4. Theo khoản 2 Điều 113 Luật Doanh nghiệp 2014, cổ
phần ưu đãi gồm: Cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi
hoàn lại và cổ phần ưu đãi khác. Trong đó:
Cổ phần ưu đãi biếu quyết là cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so
với cổ phần phổ thông. Chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng
lập được quyền nắm giữ cổ phần này. Luật Doanh nghiệp cũng quy định cổ phần ưu
đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong 03 năm, kể từ ngày công
ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu
đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông.

4 />
7



Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

Cổ phần ưu đãi cổ tức là cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn so với
mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hằng năm. Cổ tức được chia
hằng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng, cổ tức cố định không phụ thuộc vào
kết quả kinh doanh của công ty. Qua đó cho thấy cổ phần ưu đãi cổ tức tạo ra sự an
toàn cho chủ đầu tư vì khi doanh nghiệp có lỗ thì cũng không ảnh hưởng đến cổ tức
cố định.
Cổ phần ưu đãi hoàn lại cho thấy khả năng rút vốn trong công ty cổ phần dễ
dàng, thuận lợi. Đây là loại cổ phần sẽ được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ lúc nào
nếu người sở hữu chúng có yêu cầu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu
của cổ phần ưu đãi hoàn lại.
Cổ phiếu:
Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành, bút toán ghi sổ hoặc dữ
liệu điện tử xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Theo
quy định tại Điều 120 Luật Doanh nghiệp 2014, cổ phiếu phải có các nội dung chủ
yếu sau đây:
- Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính của công ty;
- Số lượng cổ phần và loại cổ phần;
- Mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ phiếu;
- Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh
nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của cổ đông là cá nhân;
tên, mã số doanh nghiệp hoặc số quyết định thành lập, địa chỉ trụ sở chính của cổ
đông là tổ chức;
- Tóm tắt về thủ tục chuyển nhượng cổ phần;

- Chữ ký của người đại diện theo pháp luật và dấu của công ty (nếu có);
- Số đăng ký tại sổ đăng ký cổ đông của công ty và ngày phát hành cổ phiếu;
- Các nội dung khác theo quy định tại các Điều 116, 117 và 118 của Luật này đối
với cổ phiếu của cổ phần ưu đãi.
Trường hợp có sai sót trong nội dung và hình thức cổ phiếu do công ty phát
hành thì quyền và lợi ích của người sở hữu nó không bị ảnh hưởng. Người đại diện
8


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

theo pháp luật công ty chịu trách nhiệm về thiệt hại do những sai sót đó gây ra.
Trường hợp cổ phiếu bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng dưới hình thức khác thì cổ
đông được công ty cấp lại cổ phiếu theo đề nghị. Điều này nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu cổ phiếu cũng như của công ty, với tư cách là một
tổ chức phát hành cổ phiếu.
2.1.2. Phát hành cổ phiếu và quy định của pháp luật về phát hành cổ phiếu
Phát hành cổ phiếu là việc chào bán cổ phần của công ty cổ phần cho người
đầu tư nhằm đáp ứng yêu cầu về vốn của công ty. Kết quả của việc chào bán cổ
phần sẽ đảm bảo huy động vốn điều lệ trong quá trình thành lập công ty hoặc sẽ làm
tăng vốn điều lệ của công ty trong trường hợp công ty đang hoạt động. Việc phát
hành cổ phiếu có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông hiện có trong công
ty hay có thể dẫn đến thay đổi vị thế của từng cổ đông 5. Đặc trưng của hình thức
này là tăng vốn những không tăng nợ của doanh nghiệp bởi những người sở hữu cổ
phiếu sẽ trở thành thành viên công ty. Kết quả của việc bán cổ phiếu sẽ làm tăng
vốn điều lệ của công ty. Do vậy, việc quyết định loại cổ phần, tổng số cổ phần của
từng loại được chào bán sẽ do Đại hội đồng cổ đông quyết định còn Hội đồng quản

trị quyết định thời điểm, phương thức và giá chào bán cổ phần trong số cổ phần
được quyền chào bán.
Chào bán cổ phần được quy định tại khoản 1 Điều 122 Luật Doanh nghiệp
2014, cụ thể là việc công ty tăng thêm số lượng cổ phần được quyền chào bán và
bán các cổ phần đó trong quá trình hoạt động để tăng vốn điều lệ. Giá bán cổ phần
cũng như thời điểm, phương thức bán do Hội đồng quản trị quyết định. Giá bán cổ
phần không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán hoặc giá trị được
ghi trong sổ sách của cổ phần tại thời điểm gần nhất, trừ một số trường hợp nhất
định.
Người mua cổ phần trở thành cổ đông của công ty kể từ thời điểm cổ phần được
thanh toán đủ và những thông tin về người mua được ghi đúng, ghi đủ vào sổ đăng
kí cổ đông. Sau khi cổ phần được bán, công ty phải phát hành và trao cổ phiếu cho
người mua.
5 />
9


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

Tại điều 128 Luật Doanh nghiệp 2014, cổ phần của công ty có thể được mua bằng
Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị
quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác quy định tại
Điều lệ công ty và phải được thanh toán đủ một lần.
Theo pháp luật Việt Nam, phát hành cổ phiếu có thể thực hiện qua ba hình
thức:
- Chào bán cho các cổ đông hiện hữu: là trường hợp công ty tăng thêm số lượng cổ
phần được quyền chào bán và bán toàn bộ số cổ phần đó cho tất cả cổ đông theo tỷ

lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty.
- Chào bán ra công chúng: là phương thức phát hành trong đó cổ phiếu được bán
rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn nhà đầu tư với khối lượng cổ phiếu
phát hành đạt được một tỉ lệ quy định nhất định và phải dành một tỉ lệ nhất định cho
các nhà đầu tư nhỏ.
- Chào bán cổ phần riêng lẻ: là hình thức phát hành trong đó cổ phiếu có thể được
bán cho phạm vi một số người nhất định với số lượng hạn chế, thông thường bán
cho những người trong công ty.
Các quy định về hồ sơ, thủ tục chào bán của ba hình thức trên được thực hiện theo
Điều 123, 124, 125 và 126 Luật Doanh nghiệp 2014.
Cổ phiếu là một loại chứng khoán. Công ty cổ phần muốn phát hành cổ
phiếu ra công chúng phải đáp ứng các yêu cầu về vốn, thời gian hoạt động, đội ngũ
quản lí, hiệu quả sản xuất kinh doanh và tính khả thi của dự án sản xuất trong tương
lai6 được quy định rõ trong Khoản 1 Điều 12 Luật chứng khoán 2006 sửa đổi bổ
sung năm 2013:
“Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng bao gồm:
a) Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ mười
tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
b) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi,
đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán;
6 />
10


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

c) Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán

được Đại hội đồng cổ đông thông qua.
d) Công ty đại chúng đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng phải cam kết
đưa chứng khoán vào giao dịch trên thị trường có tổ chức trong thời hạn một năm,
kể từ ngày kết thúc đợt chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua.”
Việc quy định như trên nhằm đảm bảo chất lượng và số lượng cổ phiếu phát hành
của công ty cổ phần để có thể giao dịch trên thị trường chứng khoán. Nếu công ty
cổ phần có số vốn điều lệ quá nhỏ, làm ăn không có lãi thì không tạo niềm tin cho
người đầu tư và cổ phiếu của công ty niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng
khoán sẽ không có tính thanh khoản cao.
Sau khi công ty cổ phần đã hội đủ các điều kiện trên thì công ty lập hồ sơ gửi
Ủy ban chứng khoán Nhà nước để xin được cấp giấy phép phát hành. Hồ sơ thủ tục
căn cứ theo khoản 1 Điều 14 Luật chứng khoán 2006 sửa đổi bổ sung 2013. Trong
thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước xem xét và cấp Giấy chứng nhận chào bán cổ phiếu ra công chúng.
Trường hợp từ chối, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phải trả lời bằng văn bản và
nêu rõ lý do. Tiếp đó, trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày Giấy chứng nhận chào
bán cổ phiếu ra công chúng có hiệu lực, tổ chức phát hành phải công bố Bản thông
báo phát hành trên một tờ báo điện tử hoặc báo viết trong ba số liên tiếp. Cổ phiếu
chỉ được chào bán ra công chúng sau khi đã công bố.
Sau đó công ty cổ phần sẽ tiến hành phân phối chứng khoán theo quy định
tại Điều 21 Luật Chứng khoán 2013.
2.2. Huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng
2.2.1. Phát hành trái phiếu

Khái niệm trái phiếu:
Căn cứ theo khoản 3 Điều 6 Luật chứng khoán 2013 quy định, trái phiếu
là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với
một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. Trái phiếu của công ty cổ phần là trái phiếu
do các công ty cổ phần phát hành (có đủ điều kiện của Ủy Ban Chứng khoán Nhà
nước) để vay vốn dài hạn.

11


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

Như vậy, khác với cổ phiếu (là chứng từ xác nhận cổ phần trong công ty), trái phiếu
chỉ xác nhận quyền của người sở hữu trái phiếu được trả nợ gốc và lãi suất ấn định
trong trái phiếu. Quan hệ giữa người sở hữu trái phiếu với công ty là quan hệ giữa
chủ nợ với con nợ. Với tư cách là một loại chứng chỉ xác nhận lợi ích tài sản, trái
phiếu là phần thứ hai trong cơ cấu vốn của công ty có liên quan đến việc hình thành
thị trường chứng khoán.7
Phát hành trái phiếu:
Phát hành trái phiếu là cách thức vay vốn, theo đó người vay phát hành một
chứng chỉ thường là với một mức lãi suất xác định, đảm bảo thanh toán vào một
thời hạn xác định trong tương lai. Người mua trái phiếu sẽ trở thành chủ nợ của
công ty, nhận được một mức lãi suất cố định và thanh toán khoản vay khi đáo hạn.
Phát hành trái phiếu là một trong những cách thức vay vốn quan trọng của công ty
cổ phần8. Đặc trưng cơ bản của hình thức này là tăng vốn gắn liền với tăng nợ cho
công ty. Với hình thức này, công ty cổ phần có thể huy động được một lượng vốn
cần thiết, chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp hơn và không bị người cho vay kiểm
soát chặt chẽ so với các hình thức vay vốn khác như ngân hàng, doanh nghiệp.
Nguyên tắc phát hành trái phiếu:
Theo điều 4 Nghị định 90/2011/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp
(sau đây gọi tắt là NĐ 90/2011), nguyên tắc phát hành trái phiếu như sau:
- Danh mục phát hành trái phiếu theo nguyên tắc tự vay, tự trả và tự chịu trách
nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn.
- Các hoạt động phát hành trái phiếu phải đảm bảo công khai, minh bạch, công

bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư.
- Việc phát hành trái phiếu để cơ cấu lại nợ phải đảm bảo nguyên tắc không phát
hành trái phiếu ra thị trường quốc tế để cơ cấu lại nợ bằng đồng Việt Nam.
- Đối với phát hành trái phiếu để đầu tư cho các chương trình, dự án, doanh nghiệp
phát hành phải đảm bảo duy trì tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu là hai mươi phần trăm
(20%) trong tổng mức đầu tư của chương trình, dự án.
7 />8 />
12


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

- Đối với trường hợp doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, ngoài
việc tuân thủ quy định của Nghị định này còn phải tuân thủ quy định của pháp luật
về vay và trả nợ nước ngoài.
Điều kiện phát hành trái phiếu:
Công ty cổ phần vừa thuộc đối tượng được phát hành trái phiếu không
chuyển đổi có kèm chứng quyền, vừa thuộc đối tượng được phát hành trái phiếu
chuyển đổi. Trái phiếu được phát hành dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ
hoặc dữ liệu điện tử.
Điều 13 NĐ 90/2011 quy định Doanh nghiệp phát hành trái phiếu khi có đủ các điều
kiện sau:
“1. Đối với trái phiếu không chuyển đổi
a) Doanh nghiệp có thời gian hoạt động tối thiểu là một (01) năm kể từ ngày doanh
nghiệp chính thức đi vào hoạt động;
b) Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành
phải có lãi theo báo cáo tài chính được kiểm toán bởi Kiểm toán Nhà nước hoặc tổ

chức kiểm toán độc lập được phép hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Báo cáo tài
chính được kiểm toán của doanh nghiệp phát hành phải là báo cáo kiểm toán nêu ý
kiến chấp nhận toàn phần. Trường hợp doanh nghiệp phát hành trái phiếu trước
ngày 01 tháng 4 hàng năm chưa có báo cáo tài chính năm của năm liền kề được
kiểm toán thì phải có:
- Báo cáo tài chính được kiểm toán của năm trước năm liền kề với kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh có lãi;
- Báo cáo tài chính quý gần nhất với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi
được kiểm toán (nếu có);
- Báo cáo tài chính của năm liền kề với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có
lãi được Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty phê duyệt
theo Điều lệ hoạt động của công ty.
c) Đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn và các hạn chế khác về đảm bảo an toàn
trong hoạt động đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện quy định tại pháp
luật chuyên ngành;
13


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

d) Có phương án phát hành trái phiếu được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và
chấp thuận quy định tại Điều 14, Điều 15 Nghị định này.
2. Đối với phát hành trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm chứng quyền, doanh
nghiệp phát hành ngoài việc đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này
còn phải đáp ứng các điều kiện sau:
a) Thuộc đối tượng được phát hành trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm theo
chứng quyền;

b) Đảm bảo tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam
theo quy định của pháp luật hiện hành;
c) Các đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi phải cách nhau ít nhất sáu (06) tháng.”
Sau khi công ty cổ phần đã hội đủ các điều kiện trên thì công ty lập hồ sơ gửi
Ủy ban chứng khoán Nhà nước để xin được cấp giấy phép phát hành. Hồ sơ thủ tục
căn cứ theo khoản 2 Điều 14 Luật chứng khoán 2006 sửa đổi bổ sung 2013. Việc
cấp Giấy chứng nhận chào bán trái phiếu, công bố thông tin, chào bán và phân phối
giống như quy định về chào bán cổ phiếu.
2.2.2. Tín dụng ngân hàng
Việc huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng là một hình thức
huy động vốn phổ biến thường được các công ty cổ phần áp dụng. Nguồn vốn này
quan trọng không chỉ đối với Công ty cổ phần mà còn với toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Trong hoạt động của mình, công ty cổ phần luôn phải sử dụng nguồn vốn vay
ngân hàng phục vụ nhu cầu tài chính thường xuyên và cho các dự án đầu tư. Việc
tạo quan hệ với nhiều ngân hàng rất có lợi trong cách thức huy động vốn này. Một
trong những ưu điểm có thể thấy rõ ràng là khi vay vốn ngân hàng, nếu như chưa
thể trả nợ thì có thể xin gia hạn nợ. Đây là điều mà khi phát hành trái phiếu không
thể gia hạn được. Vốn vay ngân hàng có thể dài hạn (thường từ 5 năm trở lên), trung
hạn (từ 1 đến 5 năm), ngắn hạn (dưới 1 năm).
Điều kiện tín dụng: công ty cổ phần muốn vay được của ngân hàng thương
mại phải đáp ứng được những yêu cầu an toàn tín dụng của ngân hàng. Thông
thường công ty cổ phần phải xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết
mà ngân hàng yêu cầu. Ngân hàng sẽ tự phân tích tình hình tài chính công ty cổ
14


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:


phần đi vay, thẩm định tính khả thi của phương án sử dụng vốn vay. Từ đó, ngân
hàng mới đưa ra quyết định cho vay vốn, công ty cổ phần phụ thuộc hoàn toàn vào
sự phân tích chủ quan của ngân hàng.9
Điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi công ty cổ phần có nhu cầu vay vốn ngân
hàng, ngân hàng thường yêu cầu công ty đó phải có các bảo đảm tiền vay. Theo
Nghị định 163/2006/NĐ-CP thì công ty cổ phần có thể thực hiện giao dịch bảo đảm
bằng cách cầm cố, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh bằng tài sản
của bên thứ ba.
Khi vay vốn có các biện pháp bảo đảm bằng tài sản trên, công ty và ngân hàng phải
lập hợp đồng bảo đảm. Hợp đồng bảo đảm có chứng nhận của Công chứng nhà
nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Việc kiểm tra tính
hợp pháp và điều kiện của tài sản đảm bảo tiền vay do ngân hàng thực hiện.
Sự kiểm soát của ngân hàng: Công ty cổ phần chịu sự kiểm soát của ngân
hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay ngân hàng. Thông qua sự kiểm soát
đó, ngân hàng đảm bảo tiền của mình sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Trong
một số trường hợp, công ty cổ phần có thể mất đi quyền tự chủ trong kinh doanh
của mình, ngân hàng có thể tham gia quá sâu vào việc ra các quyết định của công
ty.10
2.2.3. Tín dụng thuê mua
Trên thực tế nhiều doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng khó
tiếp cận vốn vay ngân hàng. Sự ra đời của các công ty cho thuê tài chính là một giải
pháp để tài trợ vốn trung hạn và dài hạn cho các doanh nghiệp.
Cho thuê tài chính là hình thức cấp tín dụng được pháp luật lần đầu tiên ghi
nhận tại Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990
với tên gọi là hoạt động thuê mua tài chính. Cho đến nay, sau khi Luật các tổ chức
tín dụng 2010 được ban hành, hoạt động cho thuê tài chính ngày càng được điều
chỉnh một cách chi tiết và hệ thống (tại Điều 4, Điều 112 đến Điều 116).
9 />10 />
15



Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

Đối với hình thức tín dụng này, doanh nghiệp ký các hợp đồng về thuê tài sản để sử
dụng và có thể mua từng phần tài sản đó với những điều kiện thích hợp và có lợi
cho doanh nghiệp. Đây là dạng sử dụng nguồn lực bên ngoài đang ngày càng phổ
biến trong kinh doanh hiện nay.
Cho thuê tài chính là một hoạt động ngân hàng của công ty cho thuê tài
chính. Hoạt động cho thuê tài chính là việc cấp tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ
sở hợp đồng cho thuê tài chính và phải có một trong các điều kiện tại điềm 113 Luật
các tổ chức tín dụng 2010, bao gồm:
“1. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được nhận chuyển
quyền sở hữu tài sản cho thuê hoặc tiếp tục thuê theo thỏa thuận của hai bên;
2. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua
tài sản cho thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản cho thuê
tại thời điểm mua lại;
3. Thời hạn cho thuê một tài sản phải ít nhất bằng 60% thời gian cần thiết để khấu
hao tài sản cho thuê đó;
4. Tổng số tiền thuê một tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất
phải bằng giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.”
Qua đó có thể thấy cho thuê tài chính có một số đặc trưng sau:
- Cho thuê tài chính là một dạng cho thuê tài sản, nhưng khác về căn bản so với các
loại cho thuê tài sản khác là có sự chuyển dịch về cơ bản các rủi ro và các lợi ích
gắn liền với quyền sở hữu tài sản thuê.
- Xét dưới hình thức cấp vốn, cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung
hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản (tài sản này có thể là máy móc,

thiết bị, phương tiện vận chuyển, động sản khác...) giữa bên cho thuê là công ty cho
thuê tài chính (tổ chức tín dụng phi ngân hàng) với khách hàng thuê (khách hàng có
nhu cầu thuê thường là các doanh nghiệp, các bên đối tác trong liên kết kinh tế).
Trong trường hợp này khách hàng thuê là các công ty cổ phần.
- Trong thời hạn thuê, các bên không được đơn phương hủy bỏ hợp đồng.
- Công ty cho thuê tài chính giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê, bên thuê có nghĩa vụ
nộp tiền thuê (tiền trích khấu hao tài sản cho thuê) cho công ty cho thuê tài chính.
16


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các
thỏa thuận trong hợp đồng thuê.
- Loại hình cho thuê tài chính có lợi thế là người thuê không cần bỏ toàn bộ số tiền
ra một lúc để có máy móc, thiết bị, đồng thời cũng không cần phải thế chấp tài sản
như trong các giao dịch vay vốn khác; bên đi thuê tài chính không phải chịu những
rủi ro do sự mất giá của tài sản, hao mòn tự nhiên...11
Công ty cổ phần khi sử dụng hình thức này được hưởng các quyền ghi trong hợp
đồng thuê tài chính, ngoài ra theo Nghị định 39/2014 của Chính phủ quy định công
ty cổ phần cũng có quyền nhận và sử dụng tài sản thuê theo quy định của hợp đồng
cho thuê tài chính, quyết định việc mua tài sản hoặc tiếp tục thuê sau khi kết thúc
thời hạn thuê, và yêu cầu bên cho thuê bồi thường thiệt hại khi bên cho thuê vi
phạm các điều khoản, điều kiện theo quy định của hợp đồng cho thuê tài chính. Bên
cạnh đó công ty cổ phần cũng phải tuân thủ theo quy định của pháp luật về nghĩa vụ
của bên thuê tài chính (Điều 20 Nghị định 39/2014)
Các sản phẩm cho thuê tài chính hiện nay cũng đa dạng và phát triển theo

nhu cầu thực tế của doanh nghiệp; bao gồm:
- Cho thuê tài chính đơn thuần: khi khách hàng có nhu cầu đầu tư máy móc thiết bị,
phương tiện có thể tự mình đi tìm và lựa chọn những phương tiện sao cho phù hợp
nhất với kế hoạch sản xuất. Đồng thời có thể tìm đến các công ty cho thuê tài
chính để trình phương án đầu tư tìm kiếm tài trợ. Việc mua máy sẽ được tiến hành
nhanh chóng và thuận lợi, đáp ứng tiến độ kế hoạch theo yêu cầu. Doanh nghiệp
không phải lo lắng nhiều về nguồn vốn thanh toán và các thủ tục phát sinh. Sau khi
đã chấp thuận, công ty cho thuê tài chính sẽ thực hiện các thủ tục cần thiết để mua
và chuyển giao máy móc thiết bị, phương tiện sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp
có nhu cầu.
- Cho thuê tài chính bán và thuê lại: Trong hoạt động kinh doanh hàng ngày, doanh
nghiệp có thể sẽ gặp phải tình trạng thiếu hụt nguồn vốn lưu động cần thiết. Để đảm
bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, doanh nghiệp có thể
lựa chọn bán máy móc thiết bị, phương tiện đó cho công ty cho thuê tài chính và tái
11 />
17


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

thuê lại chính số tài sản này với công ty cho thuê tài chính. Việc bán và thuê lại diễn
ra thật nhanh chóng và tiện lợi. Sau đây là một số lưu ý về tài sản tham gia hình
thức bán và thuê lại:






Phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của Bên bán và thuê lại
Không có tranh chấp
Không được sử dụng để đảm báo thực hiện các nghĩa vụ khác
Đang hoạt động bình thường.
Ngày nay, doanh nghiệp có thể tìm kiếm thông tin về các công ty cho thuê tài

chính một cách nhanh chóng. Các công ty cho thuê tài chính với đội ngũ nhân viên
chuyên nghiệp, tận tình và am hiểu về thị trường cam kết mang lại cho doanh
nghiệp sự hài lòng và hơn hết là tính hiệu quả trong các quyết định đầu tư của mình,
đảm bảo cho một sự đồng hành tin cậy trên con đường phát triển của doanh nghiệp
và cả công ty cho thuê tài chính.
2.3. Một số bất cập và giải pháp về cách thức huy động vốn trong công ty cổ
phần
2.3.1. Về vốn chủ sở hữu
Bên cạnh những mặt lợi ích về vốn chủ sở hữu mà công ty cổ phần có được
thì còn có những mặt hạn chế, bất cập mà các nhà đầu tư không thể tránh khỏi.
Việc phát hành cổ phiếu cũng có nghĩa là bán một phần quyền sở hữu công ty cho
người mua cổ phiếu. Điều này có thể dẫn đến thay đổi vị thế của từng cổ đông trong
công ty và vì vậy có thể thay đổi cơ cấu quản lí và kiểm soát công ty.
Tại điều 113 Luật Doanh nghiệp 2014, nên nêu rõ, cụ thể hoặc bao quát các loại cổ
phần ưu đãi khác là những cổ phần ưu đãi gì hay tính chất như thế nào. Việc thêm
các loại cổ phần ưu đãi nhằm thu hút nhà đầu tư từ các nước trên thế giới, trong giai
đoạn Việt Nam là chủ nhà của diễn đàn APEC, cũng như đang là một nước thành
viên của hiệp định TPP… Một số nước châu Á hiện nay còn có các cổ phần ưu đãi
như cổ phần ưu đãi dồn lãi, cổ phần ưu đãi mua lại…
2.3.2. Về vốn tín dụng
Trái phiếu:

18



Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

Cũng giống như cổ phiếu, các loại trái phiếu có lẽ vẫn chưa thực sự thu hút các
nhà đầu tư. Trong quy định về phát hành trái phiếu của Luật doanh nghiệp 2014 tại
Khoản 3 Điều 127 "Việc phát hành trái phiếu cho các chủ nợ là tổ chức tài chính
được lựa chọn không bị hạn chế bởi quy định tại khoản 2 Điều này." nhưng hiện
nay chưa có khái niệm chính thức về tổ chức tài chính. Văn bản hướng dẫn cần có
những giải thích và quy định rõ hơn về vấn đề này.
Và với hình thức vay vốn bằng phát hành trái phiếu này, yêu cầu công ty cần phải
nắm chắc kỹ thuật tài chính để tránh được áp lực nợ khi đến hạn và vẫn có lợi
nhuận khi kinh tế suy thoái và lạm phát cao xảy ra. Chi phí kinh doanh phát hành
trái phiếu cao vì công ty cần phải có sự trợ giúp của ngân hàng thương mại. Công ty
cổ phần phải đáp ứng đủ 2 điều kiện sau thì mới được phát hành trái phiếu: tài sản
cố định nhỏ hơn tổng sốn vốn và nợ dài hạn của doanh nghiệp.12
Tín dụng ngân hàng:
Đây là một hình thức huy động vốn khá phổ biến và được không chỉ công ty
cổ phần mà các doanh nghiệp khác áp dụng. Tuy nhiên, để có thể vay tín dụng ngân
hàng, các chủ doanh nghiệp cần phải biết cách tạo các mối quan hệ với các ngân
hàng để có thể dễ dàng vay tín dụng hơn. Đặc biệt là thủ tục cho vay rất phức tạp và
mất rất nhiều thời gian nên sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc huy động vốn của
công ty. Thông thường công ty cổ phần phải xuất trình hồ sơ vay vốn, cung cấp
những thông tin cần thiết và phải có các đảm bảo tiền vay là thế chấp, cầm cố, bảo
lãnh… mà ngân hàng yêu cầu, do đó nhiều khi công ty cổ phần không thể đáp ứng
được yêu cầu này và không thể vay được tiền. Việc ngân hàng quyết định cho vay
vốn phụ thuộc hoàn toàn vào sự phân tích chủ quan của ngân hàng.

Hình thức này cũng tồn tại những hạn chế không tránh khỏi như hệ thống văn bản
pháp luật còn chồng chéo. Hơn nữa khi doanh nghiệp vay vốn thì khoản vay thường
lớn nên lãi suất cao, mặt khác, nguồn vốn của ngân hàng thương mại là nguồn tài
trợ ngắn hạn nên doanh nghiệp chỉ được vay tối đa là 12 tháng. Điều này gây khó
khăn rất lớn cho các doanh nghiệp khi đi vay vốn ngân hàng là phải chịu áp lực trả
lãi và thời hạn trả.
12 />
19


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

Tín dụng thuê mua:
Mặc dù cho thuê tài chính là loại hình cấp tín dụng trung và dài hạn khá phổ
biến trên thế giới và có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các
doanh nghiệp Việt Nam không mấy quan tâm đến loại hình dịch vụ này, nguyên
nhân có thể là vì:
Doanh nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ cho thuê tài chính còn hạn chế;
Hợp đồng thua mua khá phức tạp; hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ này đến
doanh nghiệp còn yếu;
Chi phí thuê mua (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm...) hiện nay
còn khá cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu thấp... thì cho đến
hết thời hạn thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê sẽ phải thanh toán tổng
số tiền đối với tài sản thuê cao hơn so với đi vay từ các nguồn khác như ngân hàng.
Như vậy, nếu tính ra lãi suất thì lãi suất thuê tài chính cao hơn lãi suất vay ngân
hàng, bởi vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm các chi phí về lắp đặt, vận
hành, bảo hiểm... của bên cho thuê phải bỏ ra.

Một nguyên nhân rất đáng được quan tâm là hành lang pháp lý về cho thuê tài chính
chưa hoàn thiện đồng bộ, nhiều quy định cần phải được luật hóa. Vì vậy phải từng
bước sửa đổi, bổ sung các quy định đặc biệt là các quy định về hoạt động liên quan
đến dịch vụ cho thuê tài chính trong Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản
hướng dẫn thi hành.

20


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

KẾT LUẬN
Pháp luật doanh nghiệp luôn là một hệ thống mở, vận động theo tình hình
phát triển kinh tế ở từng giai đoạn khác nhau. Việc các công ty cổ phần ngày nay
được hình thành một cách nhanh chóng, số lượng ngày càng tăng đòi hỏi phải hoàn
thiện hơn về quy định các cách thức huy động vốn, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp
dụng vào thực tiễn.
Tìm hiểu về cách thức huy động vốn trong công ty cổ phần nhằm mục đích biết
thêm các quy định để áp dụng thực tiễn được chính xác, tránh làm trái quy định
pháp luật.
Hi vọng rằng, đây sẽ là một bài nghiên cứu tương đối đầy đủ về vấn huy động vốn
trong công ty cổ phần, góp phần làm phong phú thêm hệ thống các công trình
nghiên cứu về luật doanh nghiệp, cụ thể là trong công ty cổ phần, qua đó mở ra
được các hướng phát triển sâu sắc hơn. Đồng thời, người viết cũng hi vọng đây sẽ là
tài liệu tham khảo bổ ích cho các độc giả sinh viên trong công tác học tập và nghiên
cứu khoa học. Đặc biệt, nếu sau này chúng ta có làm việc cho công ty cổ phần hay
tương lai xa hơn sẽ cùng hợp tác với các đối tác khác mở một công ty cổ phần thì

những vấn đề về huy động vốn sẽ thực hiện dễ dàng, rõ ràng hơn.

21


Đề án môn Luật Thương mại
Đào Thị Nhung

GVHD:

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành:
1. Luật doanh nghiệp 2014
2. Luật chứng khoán 2006 sửa đổi bổ sung năm 2013
3. Nghị định 90/2011/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp
4. Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm
5. Luật các tổ chức tín dụng 2010
6. Nghị định 39/2014/NĐ-CP về hoạt động của công ty tài chính và công ty cho
thuê tài chính
Luận văn, luận án, bài viết, bài báo đã tham khảo:
1. Tiểu luận huy động vốn trong công ty cổ phần.
/>2. Tổ chức có tư cách pháp nhân có những ưu điểm gì.
/>3. Tiểu luận văn giải pháp tăng cường huy động vốn của công ty cổ phần trên thị
trường chứng khoán Việt Nam.
/>4. Khái niệm cho thuê tài chính
/>5. Cách thức huy động vốn của công ty cổ phần
/>6. Công ty cổ phần có thể huy động vốn bằng những cách nào?
/>7. Thực trạng huy động vốn trong công ty cổ phần hiện nay
/>22




×