Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.68 KB, 24 trang )

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với toàn xã hội đang thực hiện CNH – HĐH đất nước, chúng ta
phải luon luôn không ngừng phát triển giáo dục – đào tạo những con người có
vốn tri thức khoa học, kĩ thuật. Do đó việc đẩy mạnh công tác giáo dục trong tất
cả các nhà trường là rất quan trọng. Đặc biệt là ở các trường Tiểu học, cấp học
nền tảng cho những cáp học tiếp theo. Tròng công tác giáo dục này “nghề thầy
giáo rất quan trọng và rất vẻ vang” người giáo viên chúng ta không những chỉ
truyền đạt cho học sinh những tri thức khao học để học sinh có thể vạn dụng khi
các em bước vào đời và giáo dục cho các em phẩm chất, đức hạnh đó là tính
khiêm tốn, thật thà, cẩn thận, lòng kiên trì, dũng cảm….Đức tỉnh đó thể hiện
qua “Nét chữ - Nết người”.
Như chúng ta đã biết, chữ viết là hệ thống kí hiệu bằng đường nét đặt ra
để ghi tiếng nói và có những quy tắc, quy định riêng. Chức năng của chữ viết là
đại diện cho lời nói, cố định hóa lời nói. Cho nên trong những năm gần đây,
nhiều công trình nghiên cứu của ngôn ngữ học thường trở lại vấn đề lịch sử chữ
Quốc ngữ và dường như muốn góp thêm những suy nghĩ tích cực làm giảm
gánh nặng về việc dạy và học cách viết đúng, không những cho học sinh mà
còn cho cả người lớn nữa. Các “mẹo” luật chính tả, từ điển chính tả ra đời rất
nhiều nhưng hiện tượng học sinh (và cả người lớn) viết sai lối chính tả vẫn còn
tồn tại.
Vấn đề chữ viết ngày càng là một vấn đề đang được chú trọng hơn. NÓ là
một trong ba nội dung của vấn đề giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Đây là
nhiệm vụ của môn chính tả gánh một phần trách nhiệm không nhỏ trong
chương trình Tiểu học. Mà chính tả là môn học vừa rèn luyện kĩ năng chữ viêt,
vừa rèn luyện năng lực tưu duy, phẩm chất đạo đức hco học sinh Tiểu học. Học
sinh biết sử dụng Tiếng Việt, viết đúng chính tả, chữ viết đẹp, rõ ràng thì hiệu

1



quả học tập sẽ cao. Có thể khẳng định rằng: Với học sinh tiểu học, chính tả là
môn học khó bởi vì để được điểm mười môn toán dễ bao nhiêu thì điểm mười
về phân môn chính tả khó bấy nhiêu.
Song với hoàn cảnh thực tại, trình độ giáo viên và học sinh còn có hạn,
điều kiện dạy và học ở trường cũng hạn chế nhiều. Giáo viên trong giờ dạy còn
dùng nhiều tiếng địa phương, phát âm chưa chuẩn chính tả dẫn đến học sinh
viết sai nhiều. Bên cạnh đó rất nhiều học sinh không nắm chắc luật chính tả. Mà
chúng ta biết rằng: Thuật ngữ “chính tả” hiểu theo nghĩa gốc là “phép tính
đúng” hoặc lối viết “hợp với chuẩn”. Cụ thể, chính tả là hệ thống các quy tắc về
cách viết thống nhất cho các từ của một ngôn ngữ. Nói cách khác, chính tả là
một chuẩn mực của ngôn ngữ viết được thừa nhận trong ngôn ngữ toàn dân,
mục đích của nó làm phương tiện thuận lợi cho việc giao tiếp bằng chữ viết,
đảm bảo cho người viết và người đọc điều hiểu thống nhất những điều đã viết.
Chính tả trước hết là sự quy định có tính chất xã hội, một sự quy định có tính
chất bắt buộc gần như tuyệt đối, nó không cho phép vận dung quy tác một cách
linh hoạt có tính chất sáng tạo cá nhân. Một ngôn ngữ không thể không có
chính tả thống nhất. Chính tả có thống nhất thì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ
viết mới không bị trở ngại giữa các địa phương trong cả nước cũng như giữa
các thế hệ đời trước với đời sau. Chính tả thống nhất là một trong những biểu
hiện của trình độ văn hóa phát triển ở một dân tộc.
Chính tả cùng với tập viết, tập đọc, tạp nói giúp cho người học chiếm lĩnh
được tiếng việt văn hóa công cụ để giao tiếp, tư duy học tập. Đối người sử dụng
Tiếng Việt, viết đúng chính tả chứng tỏ người có trình độ văn hóa về mặt ngôn
ngữ, viết đúng chính tả giúp cho học sinh có điều kiện để sử dụng Tiếng Việt
đạt hiệu quả cao trong trong việc học tập các bộ môn văn hóa, trong việc viết
văn bản, thư từ…Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi nhận thấy việc sửa lỗi sai chính
tả cho học sinh là cần thiết nhàm nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh
Tiểu học nói chung học và sinh lớp 3 nói riêng nên tôi mạnh dạn nêu lên một

2



vài kinh nghiệm nhỏ để “Khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 3” trong
mỗi giờ học chính tả.
II. THỰC TRẠNG VIỆC DẠY VÀ HỌC PHÂN MÔN CHÍNH TẢ
LỚP 3 CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH LỚP 3.
Qua khảo sát, nghiên cứu thực tế dạy – học chính tả trong trường tôi thấy
có những ưu, nhược điểm sau:
1. Ưu điểm
Trong mấy năm gần đây, Nhà trường đã tạo điều kiện cho giáo viên được
tham gia tiếp thu chuyên đề thay sách lớp 3 và cung cấp đầy đủ trang thiết bị
như sách giáo khoa, sách giáo viên, đồ dùng dạy học khác.
- Trong trường đã có một số giáo viên nghiên cứu, tìm hiểu kĩ chương
trình và hệ thống các bài tập của phân môn chính tả. Thấy được cấu trúc của
chương trình hiểu ý đồ của tác gia rbieen soạn.
- Một số giáo viên đã nắm vững phương pháp dạy học, có hình thức tổ
chức tổ chức phù hợp với từng kiểu bài. Chính vì thế mà tiết dạy của họ thường
đạt hiệu quả cao.
- Một số đồng chí đã có cách xử lí tình huống nhanh nhạy, gần gủi với
học sinh nên tạo cho các em một tâm lí thoải mái khi học bài.
2. Tồn tại.
2.1 Đối với giáo viên.
- Bản thân tôi và một số đồng chí giáo viên trong trường thực sự chưa chịu khó
tìm hiểu kĩ chương trình và hệ thống các bài tập trong phân môn chính tả.
Chúng tôi chưa nhìn thấy được mức độ cần thiêt của công việc này mà hầu hết
mới chỉ đi theo đường mòn mà chưa có sự sáng tạo. Điều này đã ảnh hưởng rất
lớn đến chất lượng giảng dạy phân môn chính tả.
- Một số giáo vien vẫn chưa hiểu hết dụng ý trong sách giáo khoa nói
chung và phân môn Chính tả nói riêng. Giáo viên còn phụ thuộc vào sách giáo
viên nhiều, ngoài ra trong giờ dạy còn dùng nhiều tiếng địa phương, phát âm

3


chưa chuẩn chính tả dẫn đến việc hướng dẫn học sinh viết sai. Không những thế
mà giáo viên còn không dự kiến được các lỗi mà học sinh mắc phải, cũng
không tìm ra được cách khắc phục các lỗi đó như thế nào.
- Phân môn Chính tả chưa thực sự được giáo viên quan tâm, họ vẫn còn
xem nhẹ phân môn chính tả, coi trọng cách làm toán làm văn hơn.
2.2 Đối với học sinh
- Lớp 3A là một lớp học duy nhất trong khối, địa bàn cư trú của học sinh
trải rộng khắp xã, học sinh đa phần là con em nhà nông, vì mãi lo “miếng cơm
manh áo” mà hình như một số gia đình đã hình như lãng quên việc học hành
của con cái, chỉ được một số rất ít là con gia đình cán bộ có điều kiện quan tâm
của bố mẹ, còn lại các em do đặc điểm tâm lí lứa tuổi, do thiếu sự quan tâm của
cha mẹ. Hơn nữa có một số phụ huynh đi làm ăn xa gửi con nhờ ông bà nuôi
hoặc do trình độ còn hạn chế việc dạy bảo con cái học hành là rất khó khăn.
- Một số học sinh khi viết chính tả chưa có ý thức rèn luyện chữ viết mà
chỉ cần viết nhanh để xong việc cô giao. Các em không nắm vững được quy tắc
viết chính tả mà chỉ viết theo cách nhớ máy móc và cũng chưa kiên trì luyện
viết. Chính vì thế mà chữ viết của nhiều em rất xấu, viết không đúng chính tả
hoặc mắc nhiều lỗi chủ yếu là lỗi về phụ âm đầu tr/ch; s/x; r/d/gi, thanh hỏi,
thanh ngã, nguyên âm đôi hoặc tiếng địa phương.
- Kĩ năng nghe – viết của các em còn hạn chế, các em thường không nghe
cô đọc hết câu nghe chính xác rồi mới viết mà chỉ nghe thoáng qua là viết ngay.
- Một số học sinh còn có ý nghĩ bây giờ máy tính nhiều cần gì phải luyện
viết kể cả luyện viết đúng chính tả.
3. Kết quả khảo sát chất lượng về lõi sai trên vở viết chính tả của học sinh trong
lớp.
3.1 Khảo sát chất lượng về lỗi sai trên vở viết chính tả của học sinh
Ngay tuần thứ 4 tôi đã tiến hành khảo sát chính tả ở lớp xem mức độ cá

em viết thế nào. Khi chấm bài cho các em tôi mới nhận ra rằng “Bao nhiêu lỗi

4


chính tả của cá em là bấy nhiêu lối chính bản thân mình”. Tỉ lệ học sinh viết sai
chủ yếu những lỗi sau:
Bảng thống kê lỗi sai – Tổng số học sinh 26 em.
Lỗi không phân biệt được các phụ âm đầu tr/ch; s/x; r/d/gi.

9 em = 34,6%

Lỗi không phân biệt được thanh hỏi, thanh ngã.

5 em = 19.2%

Lỗi không phân biệt được các nguyên âm đôi

5 em = 19,2%

Lỗi do ảnh hưởng của tiếng địa phương

7 em = 27 %

3.2 Nguyên nhân dẫn đến việc viết sai chính tả của học sinh là:
Giáo viên:
Giáo viên chưa nắm vững yêu cầu cần đạt cỉa một tiết chính tả lớp 3.
Chưa hiểu hết ý đồ của sách giáo khoa, chưa khai thác hết nội dung yêu cầu bài
tập. Giáo viên chưa giúp học sinh nắm vững quy tắc chính tả hay những “mẹo”
cần thiết khi viết chính tả.

Học sinh:
1. Do ảnh hưởng của tiếng địa phương, đây là tình trạng sai chính tả hầu hết cá
lớp, các vùng, tiếng địa phương đã được các em đưa vào bài viết của mình rất
nhiều, song điều này vẫn chưa khắc phục được. Điển hình là các cặp vần iêu/iu
và uya/ia; ươu/ưu; uyêt/iêt; iên/uyên và các phụ âm đầu.
Ví dụ: tr/ch; s/x …thanh hỏi; thanh ngã…..
2. Do không năm được nghĩa của từ dẫn đến viết sai chính tả, người đọc sẽ hiểu
sai.
Ví dụ: - sinh (đẻ)
- xinh (đẹp)
Hai từ này chỉ khác nhau ở âm đầu s/x
- chữa (sửa)
- chửa (có mang)
Hai từ này chỉ khác nhau ở dấu thanh ?/
- dâu (cô dâu)
- râu (chòm râu)
5


Hai từ này chỉ khác nhau ở âm đầu d/r
3. Do không nắm vững cấu trúc âm tiết tiếng việt, vì không hiểu cấu trúc nội bộ
của âm tiếng việt, chưa nắm vững luật chính tả như là dùng nhiều tổ hợp, nhiều
chữ cái để ghi lại một âm dẫn đến học sinh viết thừa, viết sai.
Ví dụ: qoanh co; khúc khủy, ngoằn ngèo, lời ngền….
4. Trong giờ chính tả học sinh chưa nghiêm túc, chưa có thói quen nghe giáo
viên đọc hết câu mới viết mà hầu như các em chỉ nghe vài tiếng đầu rồi cúi đầu
viết ngay, điều này dẫn đến việc không phân biệt được khi viết.
5. Thời gian để dành cho môn chính tả nhà quá ít, các em chưa đầu tư cho việc
rèn luyện chữ viết. Những quy tắc chính tả không dược khắc sâu dẫn đến không
phân biệt được khi viết là điều tât yếu.

Tóm lại: Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc viết sai lỗi chính tả của học
sinh. Khi đã xác định được yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung chương trình môn
chính tả và xác định được nguyên nhân dẫn đến việc viết sai lỗi chính tả của
học sinh, tôi bắt đầu dành thời gian cho việc nghiên cứu tìm ra những biện pháp
sửa chữa và rèn viết đúng chính tả cho học sinh để hạn chế dàn và khắc phục
những lỗi mà học sinh thường mắc phải.

PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Các giải pháp thực hiện
1. Nắm vững yêu cầu, kiến thức kĩ năng của phân môn chính tả.
2. Nắm vững nội dung chương trình sách giáo khoa.
3. Một số yêu cầu của giáo viên khi dạy chính tả.
4. Giúp học sinh chữa được một số lỗi chính tả thường mắc.

II. Các biện pháp tổ chức thực hiện.
Biện pháp 1: Nắm vững yêu cầu, kiến thức kĩ năng của phân môn chính tả.
Về cơ bản, chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm, nghĩa là mỗi âm vị
được ghi bằng một con chữ. Nói cách khác, giữa cách đọc và cách viết thống
6


nhất với nhau. Đọc như thế nào sẽ viết như thế đấy. Trong giờ chính tả, học sinh
sẽ xác định được cách viết đúng bằng việc tiếp nhận chính xác âm thanh của lời
nói. (Ví dụ: Hình thức chính tả nghe đọc). Cơ chế của cách viết đúng là xác
nhận được mối liên hệ giữa âm thanh và chữ viết, giữa đọc và viết, giữa tập đọc
và viết chính tả (chính tả nghe – đọc) có mối liên hệ mật thiết với nhau, nhưng
lại có quy trình hoạt động trái ngược nhau. Nếu tập đọc là sự chuyển hóa văn
bản viết thành âm thanh thì chính tả là sự chuyển hóa văn bản dưới dạng âm
thanh thành văn bản viết. Tập đọc có cơ sở chuẩn mực là chính âm, còn tập viết
có cơ sở là chính tự (sự biểu hiện của quy tắc chính tả ở một đơn vị từ cụ thể).

Mục đích dạy chính tả là rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết thành thạo,
thuần thục chữ tiếng Việt theo các chuẩn chính tả, nghĩa là giúp cho học sinh
hình thành kĩ xảo chính tả. Khái niệm kĩ xảo trong Tâm lí học được hiểu là “
những yếu tố tự động có ý thức được tạo ra trong quá trình thực hiện hoạt động
đó”. Định nghĩa này bao hàm cả kĩ xảo vận động, kĩ xảo trí tuệ, trong đó có kĩ
xảo chính tả.
Hình thành cho học sinh kĩ xảo chính tả có nghĩa là giúp cho học sinh viết
đúng chính tả một cách tự động hóa, không cần phải trực tiếp nhớ tới các quy
tắc chính tả, không cần đến sự tham gia của ý chí. Để đạt được điều này, có thể
tiến hành theo 2 cách: có ý thức và không có ý thức. Cách không có ý thức (còn
gọi là phương pháp máy móc) chủ chương dạy chính tả không cần biết đến sự
tồn tại của các quy tắc chính tả, không cần hiểu mối quan hệ giữa ngữ pháp âm
và chữ viết, những cơ sở từ vựng và ngữ pháp của chính tả mà chỉ đơn thuần là
việc viết đúng từng trường hợp, từng từ cụ thể. Cách dạy này tốn nhiều thì giờ,
công sức và không thúc đẩy sự phát triển của tư duy, chỉ củng cố trí nhớ máy
móc ở một mức độ nhất định. Cách có ý thức (còn gọi là phương pháp có ý
thức, có tính tự giác) chủ trương cần phải bắt đầu từ việc nhận thức các quy tắc,
các mẹo luật chính tả. Trên cơ sở đó, tiến hành luyện tập và từng bước đạt tới
các kĩ xảo chính tả. Việc hình thành các kĩ xảo bằng con đường có ý thức sẽ tiết
kiệm được thời gian, công sức. Đó là con đường ngắn nhất và có hiệu quả cao
7


nhất. Đối với học sinh tiểu học cần vận dụng cả 2 cách nói trên. Trong đó cách
có ý thức được sử dụng thích hợp chủ yếu ở các lớp cuối cấp.
Trong nhà trường giáo viên cần sử dụng, khai thác tối đa phương pháp có
ý thức, muốn vậy giáo viên phải được trang bị những kiến thức về ngữ âm học
Tiếng Việt vào việc phân loại lỗi chính tá, phát hiện đặc điểm của từng loại lỗi,
nhất là việc xây dựng các quy tắc chính tả, các “mẹo” chính tả giúp học sinh ghi
nhớ cách viết một cách khái quát, có hệ thống.

Biện pháp 2: Nắm vững nội dung chương trình sách giáo khoa.
a. Nội dung:
Phân môn chính tả trong nhà trường Tiểu học giúp học sinh nắm vững
quy tắc chính tả và hình thức, kĩ năng, kĩ xảo chính tả. Nói cách khác giúp học
sinh hình thành năng lực và thói quen viets dũng chính tả. Phần chính tả ở Tiểu
học chủ yếu là viết lại một số bài Tập đọc đã học, viết các cặp từ dễ lẫn lộn phụ
âm đầu, vần, thanh.
Việc dạy chính tả được tiến hành theo một số nguyên tắc: Dạy chính tả
theo khu vực, kết hợp chính tả có ý thức với chính tả không có ý thức, phối hợp
giữa phương pháp tích cực với phương pháp tiêu cực, xây dựng cái đúng loại bỏ
cái sai.
Giống như các phân môn khác trong chương trình, tính chất nổi bật của
phân môn chính tả là tính thực hành. Bởi lẽ chỉ có thể thực hành các kĩ xảo
chính tả thông qua việc thực hành, luyện tập. Do đó trong phân môn này, các
quy tắc chính tả, các đơn vị kiến thức mang tính chất lí thuyết không được bố trí
trong tiết dạy riêng mà dạy lồng trong hệ thống bài tập chính tả.
b. Chương trình dạy chính tả ở lớp 3.
* Chương trình phân môn chính tả ở lớp 3 gồm:
- Tập chép (nhìn – viết), áp dụng trong nửa đầu học kì 1.
- Nghe – viết (Hình thức luyện tập chủ yếu). Ở lớp 3 có thêm hình thức chính
tả nhớ - viết, áp dụng từ giữa học kì 1.
- Chính tả âm, vần: Luyện viết các từ có âm, vần dễ viết sai chính tả.
8


* Các mức độ rèn luyện và chỉ tiêu cần đạt ở lớp 3 là:
Yêu cầu: Viết chữ đúng mẫu, đúng chính tả, không mắc quá 5 lỗi/bài. Tốc độ
viết 65 chữ/15 phút
c. Sách giáo khoa
Trong hệ thống SGK cải cách giáo dục hiện hành không có SGK riêng để dạy

chính tả. Phần chính tả trong SGK lớp 3 được bố trí xen kẽ với phần Tập đọc,
Luyện từ và câu, Tâp làm văn theo từng tuần.
Biện pháp 3: Một số yêu cầu của giáo viên khi dạy chính tả.
1. Trước tiên người giáo viên cần nghiên cứu toàn bộ chương trình phân
môn chính tả đặc biệt là môn chính tả của lớp 3, mỗi tuần có 2 tiết chủ yếu là
viết các bài tập đọc đã học và chính tả âm,vần. Việc học chính tả ở lớp 3 được
nâng cao dần và đều có mục đích chung là rèn luyện chữ viết cho học sinh.
+ Về nội dung: Trong tất cả các tiết chính tả ở lớp 3 đều có 2 nội dung chính đó
là: chính tả đoạn, bài và chính tả âm, vần. Với bài chính tả đoạn, bài thì bài viết
được trích hoặc tóm tăt từ nội dung bài tập đọc trước đó hay nội dung biên soạn
mới. Còn chính tả âm, vần hầu hết đều có các phần bài tập lựa chọn được đặt
trong ngoặc đơn. Mỗi bài tập lựa chọn gồm 2-3 bài tập nhỏ dành cho các vùng
phương ngữ nhất định. Giáo vien căn cứ vào đặc điểm địa phương và thực tế
phát âm của học sinh để lựa chọn bài tập hoặc tự biên soạn bài tập mới cho
thích hợp.
+ Về hình thức: Có 3 hình thức chính tả đoạn, bài được sử dụng là chính tả tập
chép (ở lớp 3 có 4 tiết thuộc các tuần 1; 3; 5; 7), chính tả nghe – viết và chính tả
nhớ - viết (sách chú trọng hình thức chính tả nghe – viết) ình thức chính tả nhớ viết được áp dụng từ tuần 8 học kì 1. Còn chính tả âm vần có hình thức rất
phong phú và đa dạng. Nội dung bài tập mang tính tình huống và thể hiện rõ
quan điểm giao tiếp trong dạy học. Có thể kể đến một số hình thức bài tập chính
tả âm vần mới xuất hiện ở lớp 3 như:
- Tìm tiếng có nghĩa điền vào ô trong trong bảng cho phù hợp.

9


- Tự rút ra quy tăc chính tả qua các bài tập thực hành.
- Đặt câu để phân biệt các từ có hình thức chính tả dễ lẫn.
- Giải đố để phân biệt từ ngữ có âm vần, thanh dễ lẫn.
- Nối tiếng hoặc từ ngữ đã cho để tạo thành từ ngữ hoặc câu đúng.

- Tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý về nghĩa của từ.
2. Song song với việc nắm nội dung chương trình phân môn chính tả lớp
3 tôi đã đọc và nghiên cứu một số giáo trình hướng dẫn dạy chính tả, phương
pháp dạy các kiểu bài chính tả. Trong đó giáo viên phải là người nắm vững quy
tắc dạy chính tả, nắm chắc các phương pháp dạy chính tả. Từ đó giáo viên biets
tổ chức phối hợp các phương pháp, lấy ưu diểm của phương pháp này khắc
phục nhược điểm của phương pháp kia và lựa chọn phương pháp phù hợp với
đối tượng học sinh khu vực.
3. Trước khi dạy giáo vien cần tiến hành điều tra cơ bản để nắm lối chính
tả phổ biến của học sinh, từ đó lựa chọn nội dung giảng dạy thích hợp, giáo viên
cần tăng cường sự linh hoạt, sáng tạo trong giảng dạy. Cụ thể trong việc xây
dựng nội dung bài sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh của lớp mình
dạy. Ở một chừng mực nào đó có thể lược bớt nội dung giảng dạy trong SGK
xét thấy không phù hợp với học sinh lớp mình, đồng thời bổ sung những nội
dung cần thiết mà SGK chưa đề cập đến.
4. Giờ học chính tả phải được xem như giờ luyện chính tả. Cần có những
yêu cầu cao hơn khi viết chính tả. Cụ thể trong khi nghe đọc để viết, học sinh
cần phải nghe chọn vẹn cả câu rồi mới viết, không yêu cầu viết tốc độ quá
nhanh. Đây không phải là công việc vủa nagyf một ngày hai mà phải là cả một
quá trình rèn luyện thường xuyên, và phải có tính tự ý thức học tập vả rèn
luyện.
5. Phải hiểu được mục tiêu, nội dung bài dạy, giáo viên không chỉ sử
dụng một phương pháp mà phải phối hợp 2 phương pháp chính tả có ý thức và
chính tả không có ý thức một cách hợp lí nhằm đạt tới một hiệu quả dạy học
cao. Trong điều kienj nhà trường, việc sử dụng phương pháp có ý thức được coi
10


là chủ yếu. Phương pháp không có ý thức được sử dụng, khai thác khi cần thiết,
phương pháp không có ý thức còn phát huy tác dụng khi giáo viên hướng dẫn

học sinh ghi nhớ các hiện tượng chính tả có tính chất võ đoán, không gắn với
một quy luật, quy tắc nào.
Biện pháp 4: Giúp học sinh chữa được một số lỗi chính tả thường mắc.
4.1 Rèn luyện cho HS viết đúng các tiếng có phụ âm đầu s/x; r/d/gi; tr/ch
Khi dạy những bài này trước hết tôi yêu cầu học sinh tìm những tiếng có
các âm đó và ghi thành hệ thống trên bảng rồi hướng dẫn học sinh đọc đúng.
Giáo viên đọc mẫu rồi phân tích để học sinh viết đúng: Khi đọc các tiếng có
phụ âm tr; s; r (đọc uốn lưỡi), còn khi đọc các tiếng có phụ âm ch; x; gi ta đọc
không uốn lưỡi ( đọc nhẹ hơn). Sau khi học sinh đọc chuẩn, trên cơ sở đó giáo
viên phân tích so sánh để học sinh viết đúng ra giấy nháp, bảng con hoặc bảng
lớp trước khi viết bài chính tả vào vở. Ví dụ: Tiết chính tả (nghe – viết) Tuần 3
(tiết 1) Bài: Chiếc áo len, trong bài có tiếng “ trong” trong cụm từ “nằm cuộn
tròn trong chiếc chăn bông” khi các em viết “trong” là chỉ vị trí còn “chong” là
“chong chong” “chong đèn” ….
Tiếng “trong”: phụ âm đầu tr + nguyên âm o + âm cuối ng.
Còn tiếng “chong”: phụ âm đầu ch + nguyên âm o + âm cuối ng.
Hay “chăn bông” các em viết sai là “trăn bông” trong bài chính tả phân
biệt ch hay tr này giáo viên hướng dẫn cho các em có thể dùng “mẹo” sau:
Những từ chỉ người trong gia đình hoặc chỉ đồ dùng trong gia đình như: chăn,
chiếu, chảo, chậu, chum, chỉnh, chạn, cha, chú, cháu….thì khi viết ta thường
dùng ch hoặc phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ gắn liền với hình thức chữ
viết. Sang phần bài tập phân biệt ch/tr tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi
Tìm đúng phụ âm đầu diền vào chỗ trống:
Ví dụ: Bài tập 2a (SGK-trang 22) Điền vào chỗ trống ch/tr?
Cuồn …òn;

…ân thật;

chậm ….ễ.


Giáo viên chuẩn bị sẵn phụ âm đầu tr/ch đủ cho 2 nhóm chơi, sau đó học
sinh lên bảng tìm đúng phụ âm đầu và gắn vào chỗ chấm. Sau khi kết thúc trò
11


chơi, học sinh nhận xét chấm điểm thi đua để học sinh hào hứng khi đọc bài còn
giáo viên tổng kết nhận xét giúp học sinh nắm vững bài.
Hoặc khi viết “chú, bác” chỉ người trong quan hệ gia đình, họ hàng thì viết
“chú”.
Còn “trú ẩn” chỉ nơi mình đang sống và làm việc (không phải là quên
quán) thì viết là “trú”.
Ngoài ra tôi lưu ý đến học sinh một số tình huống chính tả đặc biệt.
Ví dụ: Bài tập 3 (SGK – trang 87 – Tập 1) Phân biệt s/x: Thi tìm nhanh
viết đúng từ ngữ có phụ âm đầu s/x: Có em viết “sum xuê”, có em lại viết “xum
suê”. Tôi phải uốn nắn ngay cho học sinh: Với trường hợp này các em phải viết
“sum suê” âm đầu là “s”, hoặc “xum xuê” âm đầulà “x”. Vì tôi đã tìm trong các
tài liệu có liên quan đến chính tả. Tài liệu “Sổ tay chính tả học sinh” phần cách
viết (x/s). Tất nhiên: khi viết “xum xuê” hai âm đầu đều là “x”. Hoặc khi viết
“sum suê” hai âm đầu đều là “s” vì chúng đều là những từ láy âm đầu chỉ cây
cối tốt tươi dày đặc lá cành.
Tương tự có thể viết “sệ” má hoặc “xệ” má.
“sều” bọt hoặc “xều” bọt

Đều được.

chổi “sễ” hoặc chổi “xể”
Hoặc tình huống mà lâu nay học sinh chúng ta vẫn tiện tay viết sai mà
không biết như: xổ số lại viết là sổ số.
Đối với lỗi r/d/gi cách làm như “tr và ch”. Khi đọc các tiếng có phụ âm
đầu viết “r” thì đọc uốn lưỡi còn “d; gi” thì đọc bình thường và tôi cũng cho học

sinh hiểu đũng nghĩa của từ.
Ví dụ: Bài Chính tả (nghe – viết) Tuần 8 – Tiết 1 bài: Các em nhỏ và cụ
già có cụm từ “các cháu không giúp gì được”. Mặc dù giáo viên đọc đúng
nhưng học sinh vẫn viết sai “gì” thành “dì” hoặc “rì” nên tôi phải hướng dẫn để
học sinh hiểu bằng cách cho học sinh tìm tiếng ghép với các tiếng đó để nhận
biết nghĩa cho dễ dàng như:

12


- Cô, dì – “dì” là em gái mẹ (danh từ)
- Cái gì, việc gì – “gì” là từ đi kèm với câu hỏi
- Rì, rì rào, xanh rì… - từ “rì” mô phỏng tiếng gió thổi (động từ)
Hay trong trường hợp “gia” thì học sinh viết: gia; ra; da cũng hướng dẫn tương
tự như vậy.
Nếu như các em mà viết sai chính tả thì nghĩa từ đó sé khác đi,
người nghe hiểu sai lệch đi. Ngoài ra tôi còn giúp các em dựa vào quy tắc chính
tả phân biệt giữa “r/d/gi”. Khi nào dùng “d” và trường hợp nào thì dùng “gi”: “r
và gi” không kết hợp với vần có âm đệm, vần có âm đệm luon đi với “d”.
Ví dụ: doanh nghiệp, dọa nạt, duyên nợ, duy trì, duyệt binh.
- Những tiếng có từ Hán – Việt mang thanh ngã, thanh nặng với “d”.
Ví dụ: diễn biến, diện tích, diệu kì, dũng cảm….
- Còn những tiếng mang thanh hỏi, thanh sắc viết với “gi”.
Ví dụ: giải thích, gián tiếp, giám sát, giáo sư….
Vậy nó rất cần có cái tâm của người thày và nặng nề với trọng trách này
phải là giáo viên dạy chính tả.
Do sự lẫn lộn của học sinh nên giáo viên cần phân tích tỉ mĩ để học sinh
hiểu rõ nghĩa, cách phát âm để phân biệt đúng.
Giáo viên đọc cho HS luyện viết vào bảng con cho thành thạo rồi mới
viết vào vở. HS phải có ý thức tự rèn luyện trong mọi lúc nếu có thể.

4.2 Rèn luyện cho học sinh viết đúng các nguyên âm đôi.
Trong những giờ chính tả, trước khi viết kiểu bài phân biệt các nguyên
âm đôi uôn/un; iên/in…. tôi yêu cầu học sinh tìm những tiếng có nguyên âm
đôi (dành riêng luyện chính tả hay luyện viết đó chỉ thiên về sửa chữa cho học
sinh những tiếng có nguyên âm đôi). Sau khi học sinh tìm giáo viên ghi bảng và
yêu cầu học sinh đọc đúng. Lưu ý đọc các em không thiên về âm chính hoặc âm
đệm mà trọng tâm phải được rãi đều cả âm chính và âm đệm. Sau khi HS phát
âm, giáo viên phân tích so sánh để học sinh viết đúng cả về ngữ nghĩa.

13


Ví dụ: Bài Chính tả (nghe – viết) Tuần 6 – tiết 2 bài: Nhớ lại buổi đầu đi
học có từ “muốn bay” mặc dù giáo viên đọc đúng nhưng học sinh vẫn viết tiếng
“muốn” thành “mún”. Tôi hướng dẫn để giúp học sinh phân biệt được nguyên
âm đôi với các nguyên âm khác bằng cách cho học sinh phát âm đúng tiếng đó
và phân tích. Ví dụ:
Tiếng “muốn” gồm: phụ âm đầu m + nguyên âm đôi uô + âm cuối n +
thanh sắc. Tiếng “mún” gồm: phụ âm đầu m + nguyên âm u + âm cuối n +
thanh sắc.

Phân tích xong cho HS viết bảng để luyện rồi mới viết vào vở.

Giáo viên theo dõi sửa chữa cho HS ngay tại lớp, thường xuyên chấm bài để
theo dõi sự tiến bộ của HS. Luôn nhắc nhở HS rèn luyện ngay cả khi nói, viết
bình thường, phải rèn luyện ở nhà dưới sự kiểm tra của giáo viên.
4.3 Rèn cho học sinh viết đúng thanh hỏi, thanh ngã.
Những giờ luyện viết về tiếng có thanh hỏi, thanh ngã, tôi thường phát
âm lên cho HS nhận dạng. Tiếng có thanh hỏi khi đọc ta đọc nhẹ, còn tiếng có
thanh ngã khi đọc ta đọc nhấn mạnh hơn. Các em chú ý đọc đúng để khi nghe

đọc hay tự đọc, tự viết các em viết đúng.
Ví dụ: Viết tiếng “mãi” khác với tiếng “mải” ….Tiếng “mãi” dùng trong trường
hợp “mãi mãi; nhớ mãi không quên”. Còn tiếng “mải” là “mải mê, mải miết”
Ví dụ: Giáo viên đọc là (củ) thì học sinh viết là (cũ)
Giáo viên đọc là (nghĩ) thì học sinh viết là (nghỉ)
Cho học sinh tìm tiếng ghép với tiếng (củ); (nghĩ) như: củ khoai, củ
sắn….; cái áo cũ.
(củ) ở đâu là loại rễ phình to nằm dưới lòng đất
(cũ) có nghĩa là không mới.
Các em lưu ý để viết sao cho đúng, viết sai sẽ sai nghĩa của tiếng. Tôi lưu ý phát
âm chuẩn để yêu cầu học sinh viết đúng. Không những chỉ căn cứ vào việc phát
âm phải chú ý về nghĩa của tiếng trong từ văn cảnh để viết đúng.

14


Ví dụ: Khi viết “cuốn sổ điểm” thì khác với “ăn nói sỗ sàng”., Ngoài các biện
pháp trên để xác định viết dấu hỏi dấu ngã tôi còn dùng biện pháp khác như
trong từ láy, thanh điệu thuộc về 2 nhóm:
+ Dấu sắc, dấu hỏi, không dấu (là một nhóm)
Ví dụ: nghỉ ngơi, mở mang, rửa ráy, củng cố….
+ Các thanh huyền, ngã, nặng kết hợp với nhau (thành một nhóm)
Ví dụ: sạch sẽ, sặc sở, cũng làm, cũng đành…..
4.4 Lưu ý học sinh không dùng tiếng địa phương khi viết.
Trong khi viết bài, nhất là viết Tập làm văn, các em thường dùng tiếng
địa phương vào bài viết. Tôi cần giải thích để học sinh sửa chữa. Những từ,
tiếng như: bữa mô, cửa bỉn, biểu em….là những từ, tiếng của địa phương,
những từ, tiếng đó không phổ biến nhiều người nghe hay đọc rất khó hiểu. Mà
trong học tập giao tiếp hàng ngày chúng ta phải dùng tiếng phổ thông, ngay cả
chữ viết nếu các em dùng tiếng địa phương sẽ gây khó khăn cho người nghe,

người đọc. Chính vì thế trong bất cứ môn học nào khi viết yêu cầu các em cũng
phải viết đúng tiếng phổ thông, muốn viết đúng trước tiên em phải đọc đúng và
vấn đề này phải được giáo viên sửa lỗi cho các em liên tục và thường xuyên.
Ví dụ: Cô đọc “cửa biển”, các em viết “cửa bỉn”.
Cô đọc “ngày xưa”, các em viết “ngày xư”.
Tóm lại: Để sửa lỗi cho HS tôi đã xác định đúng những lỗi HS thường mắc.
Tìm những biện pháp phù hợp với các em, khích lệ động viên để các em có
hứng thú rèn luyện, hướng cá em từ việc nói đọc chuẩn tiếng phổ thông để viết
đúng chính tả, phải tùy theo văn cảnh mà dùng từ, bởi vì có nhiều tiếng, từ phát
âm thì giống nhau chữ viết cũng gần giống nhau nhưng nghĩa hoàn toàn khác
nhau nên HS hay nhầm lẫn.
Ngoài ra trong quá trình giảng dạy người giáo viên cần lưu ý:
1. Sử dụng, khai thác tối đa các phương pháp tổ chức dạy học. Muốn vậy
giáo viên cần trang bị những kiến thức về ngữ âm học, về từ vựng - ngữ nghĩa
học có liên quan đến chính tả. Cụ thể, phải vận dụng những kiến thức về ngữ
15


âm học vào việc phân loại lỗi chính tả, phát hiện đặc điểm của từng loại lỗi;
nhất là việc xây dựng các quy tắc chính tả, các “mẹo” chính tả giúp học sinh
ghi nhớ cách viết một cách khái quát, có hệ thống.
Ví dụ:
Khi đứng trước các nguyên âm i; e; ê:

Âm “cờ” viết là “k”
Âm “gờ” viết là “gh”
Âm “ngờ” viết là “ngh”

Khi đứng trước các nguyên âm còn lại : Âm “cờ” viết là “c”
Âm “gờ” viết là “g”

Âm “ngờ” viết là “ng”
Riêng âm “cờ” khi đứng trước âm đệm viết bằng chữ cái “u” thì viết là “q”.
Ngoài ra người ta còn dựa vào những kiến thức về từ vựng, ngữ nghĩa để lập
các quy tắc, các “mẹo” chính tả.
Cần phải cho HS nắm nghĩa một số từ cần thiết, nắm một số luật chính tả.
Ví dụ: Cho HS nắm nghĩa của từ “chân” trong: chân người, chân gà, chân
tường, chân giường, chân bàn….
Từ “chân” chỉ bộ phận của đồ vật có tác dụng nâng đỡ các bộ phận khác
thì viết là “chân” còn từ “trân” trong: trân trọng chỉ thái độ thì viết là “trân”.
2. Để sửa các lỗi do không nắm vững cấu trúc âm tiết tiếng Việt. Để sửa
loại lỗi này, học sinh cần hiểu âm tiết tiếng Việt được cấu thành bởi mấy thành
phần, là những thành phần nào, vị trí của từng thành phần trong âm tiết.
Những từ khó viết giáo viên cần phải giải thích trước cho HS để các em
hiểu và xác định cách viết đúng khi nghe giáo viên đọc.
Ví dụ: Trường hợp một kí hiệu biểu thị nhiều âm khác nhau tùy thuộc vào
nó đứng trước hay đứng sau âm này hay âm kia như chữ “g” khi đứng trước các
nguyên âm không phải là i/e/ thì biểu thị âm “g” nhưng khi đứng trước /i/ mà
sau /i/ là các nguyên âm không phải là /i/e/ “g” lại cùng với “i” biểu thị âm z
(dờ): giữ, gia, cùng với “h” biểu thị âm /g/: ghi, ghế,….còn khi đứng trước /i/
hoặc trước nguyên âm đôi “iê” thì “g” lại một mình biểu thị âm (z): gì, giờ,
16


giết…..Sau viết bài xong cần phải cho các em đổi vở của bạn để dò xem dùng
bút chì gạch chân, chữa lại những lỗi đó.
3. Ở khâu luyện viết chữ khó tôi đặc biệt tập trung chú ý tới một số em
viết sai. Khi viết tôi thường xuyên gọi 2 em lên bảng viết (1 em khá, 1 em yếu),
còn cả lớp viết vào giấy nháp. Ngoài ra tôi còn sửa lõi chính tả cho HS thông
qua trò chơi như: Hôm thì đọc đúng viết đúng, hôm thì chơi trò chơi ô chữ.
Ví dụ: Chia lớp thành các tổ, yêu câu các tổ tìm tiếng, từ chứa các âm vần khó

đó.Tổ nào tìm được nhiều tiếng từ đúng là tổ đó thắng cuộc hoặc giáo viên đọc
to các từ tiếng có âm vần khó. Sau đó yêu cầu HS: Em nào cảm thấy cô phát âm
từ thứ nhất là đúng thì đồng ý bằng cách giơ thẻ đỏ, em nào không đồng ý thì
giơ thẻ màu xanh, em nào lưỡng lự thì giơ thẻ màu vàng. Sau đó giáo viên phân
tích các từ tiếng chỉ ra luật chính tả cho các em đang còn lưỡng lự.
4. Việc đọc mẫu của giáo viên phải chuẩn, chính xác, đúng với chính âm.
Thầy đọc đúng thì HS viết đúng và ngược lại thầy đọc sai thì HS sẽ viết sai. Khi
đọc nên đọcthong thả, rõ ràng, ngắt nghỉ hợp lí. Sau mỗi cụm từ, mối câu văn
nên nhắc lại để HS theo dõi. Tốc độ phải phù hợp, tương ứng với tốc độ viết của
HS theo quy định của chương trình.
Trong bài chính tả nghe – viết HS thường phải qua 3 hoạt động: Tai nghe,
miệng đọc, tay viết, những lời học sinh đọc của giáo viên phải một lần thông
qua lời đọc của học sinh mới thành chữ viết trong bài chính tả. Nếu giáo viên
đọc đúng mà trò nhận sai thì vẫn cứ viết sai. Từ những điều trên có thể nói rằng:
Dạy chính tả phải kết hợp với dạy cho học sinh học cách phát âm đúng.
5. Dựa vào bài tập phần luyện tập để khắc sâu kiến thức (hiện tượng)
chính tả được học như bài tập điền âm, điền vần dễ lẫn lộn vào các âm tiết, các
câu hoặc đoạn, phân biệt, dùng các từ có vấn đề chính tả để đặt câu…
Ví dụ: Bài tập 3 của tiết 1 tuần 2 có nội dung:
Em hãy chọn chữ nào trong ngoặc đơn để điền vào chỗ trống?
a. (xấu hay sấu):
(xẻ hay sẻ) :

cây…….; chữ……..
san…….; ……..gỗ
17


(xắn hay sắn) :


tay áo…….; cũ……..

b. (căng hay căn ):
(nhằn hay nhằng):

kêu…….; ……..dặn
nhọc…….; lằng……..

(vắn hay vắng):

….mặt; …….tắt

Qua hướng dẫn học sinh phân biệt điền đúng vào bài. Từ đó HS sẽ khắc sâu
được khi viết bài.
6. Giáo viên phải chấm bài thường xuyên để nắm được những lỗi mà HS
mắc phải rồi phân tích giải thích để HS thấy được cái sai, cái bất lợi và cái tác
hại của việc viết sai lỗi chính tả.
Ví dụ: Khi các em viết một bài văn hay một bài thơ, một lời giải bài toán trong
đó có tiếng “liên” lại viết là “lin”. Vậy “liên” và “lin” là hoàn toàn khác nhau
hay tiếng “mã” viết là “mả”. Việc sai đó làm cho người đọc khó hiểu hoặc hiểu
sai nghĩa của từ là một điều tai hại.
Ví dụ: Khi viết một bức thư em lại viết:
“Lan thân mến!
Từ ngày sa trường tớ lun lun nhớ tới các bạn, hôm nay, tớ viết thư tham bạn
và ra đình”.
“xa” viết thành “sa”
“luôn” viết thành “lun”
“gia đình” viết thành “ra đình”
Chỉ trong hai câu ngắn mà mắc lỗi quá nhiều như thế, liệu em có đạt
điểm cao không? Giáo viên giải thích như vậy để HS nhận thức được cái sai

của mình như vậy là ảnh hưởng tới học tập và cuộc sống hằng ngày. Các em cần
thấy được nguyên nhân của việc viết sai đó là do em không chú ý rèn luyện khi
viết bài.
Ví dụ: Trong lớp ta có bạn Hà Phương, bạn Hải Linh, bạn Nguyệt khi đọc
bài các bạn đọc đúng tiếng phổ thông, ngoài ra các bạn còn thường xuyên luyện
viết nên các bạn luôn luôn viết đúng chính tả, bài làm thường được điểm cao
(đọc bài của em Hà Phương, em Hải Linh, em Nguyệt cho cả lớp nghe), còn
18


những bạn như bạn Tân, bạn Tuấn, bạn Đức ý thức rèn viết chữ chưa tốt và khi
đọc bài toàn đọc tiếng địa phương nên chữ các bạn viết sấu và sai lỗi chính tả
nhiều, những bài văn của các bạn không hay, có những câu vô nghĩa và buồn
cười nữa (tôi đọc bài của em Tân, em Tuấn, em Đức cho cả lớp nghe). Học sinh
nhận xét và so sánh xem em thích bài viết của ai hơn? Như vậy các em khác
phải có ý thức rèn luyện để được như các bạn.
7. Giáo viên tôt chức thi đua ở HS để rèn chữ tốt. Qua các giờ Tập đọc
giáo viên lưu ý rèn cách phát và nhắc nhở các em rèn luyện thêm ở nhà. Bởi vì
muốn viết chính tả đúng thì các em phải đọc đúng, trong các giờ ngoại khóa
giáo vien tổ chức cho các em thi đua giữa các cá nhân. Đôi lúc còn tổ chức các
trò chơi liên quan đến bài học để các em nắm bài nhanh hơn và không nhàm
chán.
Ví dụ: Cứ hai HS lên bảng, mỗi em một bên viết cùng một câu, sau đó cả lớp
nhận xét, tìm ra lỗi còn mắc, cho điểm khuyến khích các em.
“Mẹ Hòa ra chợ mua xe đạp”
Em Trung viết: “Mẹ Hò ra chợ mua xe đạp”
Em Huyền viết: “Mẹ Hòa ra chợ mu xe đạp”
Vậy sau khi HS nhận xét, giáo viên phải phân tích sửa chữa. Các em sai lỗi này,
có em sai lỗi khác. Đa số các em viết tiếng sai ở tiếng có nguyên âm đôi, có phụ
âm đầu tr/ch; x/s; r/d/gi, tiếng có thanh hỏi thanh ngã và dùng tiếng địa phương

khi viết.
8. Nâng cao chất lượng môn Chính tả cho HS lớp 3 bằng bài soạn, bài
dạy bằng phương pháp sư phạm, bằng lòng nhiệt tình của bản thân tại lớp chưa
đủ, bản thân tôi còn thường xuyên thăm hỏi các gia đình HS, tìm hiểu quá trình
học tập và rèn luyện viết ở nhà. Những HS mắc lỗi sai từ 3 lỗi trở lên, tôi yêu
cầu HS về viết lại cả bài cho đúng, đến giờ học hôm sau tôi chấm điểm tuyên
dương những HS đó có tiến bộ, tôi thông báo cho phụ huynh biết chất lượng về
môn Chính tả của HS để phụ huynh rõ, từ đó đề xuất với phụ huynh đôn đốc em

19


luyện viết ở nhà nhiều hơn, sau đó các em đem bài đến lớp để chấm, chữa lỗi
sai kịp thời cho các em và tôi cũng luôn luôn lưu ý khen nhiều hơn chê, động
viên nhiều hơn khiển trách nhằm đưa chất lượng chữ viết nói chung và chất
lượng học tập nói riêng của các em ngày càng một đi lên.
Hàng tháng tôi liên hệ với phụ huynh một lần vào đầu tháng. Bằng hình
thức này tôi thấy rất nhiều phụ huynh phấn khởi và chuyên biến rõ rệt trong quá
trình quan tâm đôn đốc HS học tập ở nhà và chất lượng học tập của các em
được nâng lên rõ rệt.
Như vậy để nâng cao chất lượng học Chính tả cho HS, người giáo viên
phải thực sự yêu nghề, mến trẻ, kiên trì bền bỉ lên lớp giảng dạy nhiệt tình. Cô
thật sự là “người mẹ hiền thứ hai của học sinh”

III. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC
Bằng những suy nghĩ và việc làm như trên, sau sáu tháng ( từ tháng 10 năm
2010 đến hết thang 3 năm 2011) tìm hiểu HS và áp dụng suy nghĩ của mình vào
việc rèn luyện chữ viết cho HS môn Chính tả của học sinh lớp 3A do tôi phụ
trách đã được nâng lên rõ rệt. Từ một lớp đầu năm có tớ trên 34,6% HS viết sai
lỗi chính tả đến nay chỉ còn 7,69% các em mắc lỗi. Cụ thể là:

Lỗi

Tỉ lệ

Lỗi về các phụ âm đầu.

Không còn

Lỗi về thanh hỏi, thanh ngã.

1/26 em = 3.85%

Lỗi về nguyên âm đôi

1/26 em = 3.85%

Lỗi về tiếng địa phương

2/26 em =7,69 %

So với chất lượng đầu năm chất lượng đạt trong 6 tháng qua của lớp 3A
đã là một thành tích đáng mừng. Song so với mục tiêu yêu cầu đào tạo mới của
Đảng, của ngành, chỉ tiêu phấn đấu của Nhà trường, bản thân tôi còn phải tiếp
20


tục nhiệt tình tìm tòi phương pháp giảng dạy. Áp dụng những hiểu biết của
mình để nâng cao chất lượng học tập môn chính tả cho học sinh lớp 3 hơn nữa.
Phấn đấu trong 3 tháng cuối toàn lớp đạt tỉ lệ 100 % học sinh, đúng, viết đẹp
chính tả.


PHẦN III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ
I.

BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học nói chung và môn chính tả nói riêng, có khả

năng rèn cho học sinh thói quen viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp, được thừa
nhận trong ngữ toàn dân, làm phương tiện thuận lợi cho việc giao tiếp, đảm bảo
cho người viết, người đọc, người nghe hiểu và thống nhất những điều đã viết,
đá qui định trong xã hội.
Tiểu học là cấp học nền tảng. Đặc biệt là cơ sở ban đầu cho việc hình
thành và phát triển trí thức, nhân cách của con người, đặt nền tảng vững chắc
cho giáo dục phát triển và cho toàn bộ hệ thống giáo dục. Để dạy một bài chính
tả đạt kết quả tốt người giáo viên phải cần:
1. Phải xách định tầm quan trọng, cấu trúc, nộ dung, phương pháp trình
toàn cấp nói chung và của lớp 3 nói riêng để từ đó đề ra mục đích, yêu cầu cụ
thể.
2. Dạy phân môn chính tả có tầm quan trọng đặc biệt, nhằm hình thành
năng lực viết đúng chính tả cho học sinh. Chuẩn chính tả được qui định rõ ràng
chi tiết từng từ một của Tiếng Việt và mọi người phải tuân theo.
3. Người giáo viên khi dạy chính tả phải biết sáng tạo trong cách phát
âm, phát âm đúng thì sẽ viết đúng, giữa cách đọc và cách viết thống nhất với
nhau. Dạy chính tả ( nhất là ở tiểu học) cần phải kết hợp với việc rèn luyện phát
âm, trước hết là thầy giáo cô giáo cần phải đọc đúng để học sinh noi theo.
21


4. Hiểu nghĩa của từ là một trong những cơ sở giúp người học viết đúng
chính tả. Đây là một đặc trưng rất quan trọng của chính tả tập viết, vì vậy giáo

viên cần cho các em tìm các tiếng ghép với từ cần phân biệt để làm cơ sở, làm
chổ dực cho học sinh dựa vào đó để viết đúng chính tả các từ này.
5. Để viết đúng chính tả, học sinh cần vận dụng một số qui tắc chính tả
làm căn cứ để có thể viết đúng tất cả các từ ( các chữ) nằm trong phạm vi qui
tắc mà không cần gắng sức ghi nhớ cách viết của từng từ một, rút gắn được thời
gian rèn luyện để hình thành và phát triển kỹ năng, kĩ xảo chính tả.
6. Trong quá trình dạy học người giáo viên cần phát huy tính chủ động
tích cực của học sinh, giúp học sinh tìm ra những chỗ sai để tự sửa chữa và
khắc sâu kiến thức, HS chủ động tìm hiểu để tự ý thức được lỗi, giúp HS được
“nhìn” nhiều hơn là “nghe”, được “viết” nhiều hơn là “nói” để HS viết đúng
Chính tả không những trong giờ Chính tả mà còn ở cả những môn học khác.
Ngoài ra giáo viên còn phải kiên trì và có quyết tâm cao, biết rút kinh nghiệm
qua thực tế và học hỏi đồng nghiệp để rèn luyện cho HS đạt kết quả.
7. Hiểu được tâm lí lứa tuổi HS và hoàn cảnh của từng em, biết lắng nghe
ý kiến hoặc tâm sự của từng em, để từ đó có biện pháp đúng đắn cho từng đối
tượng HS. Luôn phát hiện những em có tư chất tốt để bồi dưỡng kịp thời.
8. Phải tìm đúng những cái sai thiết yếu của HS để từ đó áp dụng những
biện pháp phù hợp gây hứng thú cho HS tự giác rèn luyện.
9. Giáo viên phải không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo và rèn luyện
mình là chuẩn mực để HS noi theo. Luôn lấy HS làm trung tâm và giáo viên là
nhân tố quyết định chất lượng.
10. Giáo viên cần xây dựng hệ thống câu hỏi, việc trả lời câu hỏi để HS
rút ra kết luận về những đặc điểm khác nhau cần phân biệt trước khi viết.
11. Biết thay đổi các hình thức rèn luyện như: có thể cho HS thảo luận,
hoặc làm việc theo nhóm, theo phiếu học tập, thực hiện thông qua các “mẹo”
của giáo viên. Từ đó vận dụng vào thực tiến làm cho không khí tiết học trở nên
sôi động và có kết quả cao.
22



12. Phải tác động đến HS bằng toàn bộ kiến thức vốn có của mình, có
tinh thần trách nhiệm cao, cần chú ý đến năng lực của từng đối tượng HS. Từ đó
hình thành cho học sinh thái độ đúng đắn, hứng thá học môn học này.
13. Khi bắt tay vào soạn bài cần đặt câu hỏi 15443250sau khi học song
bài học sinh biết làm gì và cảm thấy gì ( mà trước khi học, học sinh không biết,
không làm được).
14. Trong quá trình dạy học người giáo viên cần chú ý đến nguyên tắc
giáo dục gắn liền với thực tế, kết hợp với công tác sư phạm của người giáo viên
với tính độc lặp sáng tạo của học sinh để đưa chất lượng môn học nói chung và
mỗi bài chính tả nói riêng đạt kết quả cao, đáp ứng với yêu cầu của công cuộc
xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới, góp phần đáp ứng mục tiêu đào tạo
của Đảng, của ngành.

II. KIẾN NGHỊ:
1. Về quản lý:
- Tạo điều kiện cho GV xem và dự những giờ dạy mẫu
- Tổ chức nhiều hình thức để nâng cao trình độ chyên môn nghiệp vụ
cho GV.
2. Về giáo viên:
- Không gừng nâng cao trình độ chuyên môn bằng cách tự học, tự bồi
dưỡng.
- Thường xuyên cập nhật những kiến thức, phương pháp mới, biết cách tổ
chức dạy học, không ngừng đổi mới phương pháp để nâng cao chất lượng giảng
dạy. Có như vậy thì chất lượng giáo dục ngày đạt một kết quả cao hơn.

23


Chọn đề tài này với sự tổng kết nhỏ bé những kinh nghiệm sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót, để bổ sung cho đề tài được phong phú và có tác dụng thiết

thực. Rất mong được sự góp ý chân thành của ban lãnh đạo nhà trường và các
bạn đồng nghiệp để sự nghiệp giáo dục đạt kết quả tốt hơn.

Thọ Xuân, ngày…tháng….năm 2013

24



×