Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế và sử dụng Giáo án điện tử môn âm nhạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 18 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm:
Ứng dụng công nghệ thông tin
trong thiết kế và sử dụng Giáo án điện tử môn âm nhạc.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Âm nhạc là một loại hình nghệ thuật phản ánh hiện thực khách quan bằng
những hình tượng có sức biểu cảm của âm thanh. Khơng giống với loại hình
nghệ thuật nào khác, hình tượng âm thanh của âm nhạc không mang ý nghĩa cụ
thể, rõ rệt như từ ngữ trong nghệ thuật văn chương và cũng khôn g tái hiện thế
giới khách quan bằng những bức tranh có đường nét, bố cục chặt chẽ, có mảng
màu phong phú như hội họa. Đặc trưng diễn tả của âm nhạc mang tính ước lệ,
khái qt cao. Vì vậy âm nhạc có sức mạnh vơ cùng to lớn trong việc thể hiện
một cách tinh tế về thế giới nội tâm của con người. Dạy âm nhạc ở phổ thông là
dạy cho tất cả học sinh, chưa đặt ra mục tiêu đào tạo chuyên nghiệp cho những
người làm nghề âm nhạc, ca sĩ, nhạc sĩ... Cùng với một số môn học khác, mơn
Âm nhạc góp phần hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn,
lâu dài về mặt thẩm mĩ, truyền đạt một số kiến thức cơ bản, cần thiết, mang tính
phổ thơng nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, đồng thời phát hiện
những học sinh có năng khiếu, tạo điều kiện cho các em tiếp tục phát triển năng
khiếu âm nhạc.
Công nghệ thông tin ngày nay đóng một vai trị rất quan trọng trong cuộc
sống. Nó được khai thác và áp dụng có hiệu quả trong tất cả các lĩnh vực, ngành
nghề từ vi mơ đến vĩ mơ. Và có thể nói cơng nghệ thông tin thật sự là một trợ
thủ đắc lực cho nhân loại. Nó giúp ích cho chúng ta từ cơng việc đến cuộc sống
hằng ngày. Trước sự phát triển mạnh mẽ và những ưu điểm của công nghệ thông
tin mang lại, những năm gần đây ngành Giáo dục nước ta đã triển khai đồng loạt
việc áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học nhằm đổi mới phương pháp giáo
dục, phát huy được vai trị tích cực học tập của học sinh, mang lại sự thích thú,
ham học hỏi, tìm hiểu của học sinh qua từng tiết học cụ thể.

1



Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp giảng
dạy đang được phát triển mạnh ở nhiều trường học không kể thành phố hay
nông thôn. Việc áp dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong các tiết học
đã và đang trở thành một việc làm không thể thiếu đối với mỗi người giáo viên
thời đại mới. Trong nhà trường phổ thông, Âm nhạc là mơn học cịn mới so với
nhiều mơn học truyền thống khác nhưng ngược lại phụ trách bộ môn âm nhạc tại
các trường phổ thơng là các giáo viên trẻ, có năng lực chuyên môn và khả năng
nắm bắt, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học khá tốt đã phần nào thúc
đẩy và phát huy được việc áp dụng công nghệ thông tin vào đổi mới phương
pháp giáo dục. Một trong các ứng dụng đơn giản nhưng hiệu quả mà công nghệ
thông tin mang lại cho bộ môn âm nhạc đó chính là “ Giáo án điện tử” và các
phần mềm hỗ trợ, liên quan như là: PowerPoint, Flash, Dream wave, Violet,
Encore 4.5.6, Finale 2009, Cubase, Silebus...Giảng dạy bằng giáo án điện tử hay
nói cách khác là việc sử dụng các thiết bị công nghệ thông tin như máy tính,
máy chiếu, bảng điện tử trong giảng dạy mang lại hiệu quả rất lớn, các phương
tiện hiện đại sẽ tạo ra khả năng để giáo viên trình bày bài giảng sinh động hơn,
dễ dàng cập nhật; các phương tiện sẽ hỗ trợ, chuẩn hoá các bài giảng.
Cái được lớn nhất ở mỗi tiết giảng bằng giáo án điện tử chính là một
lượng lớn kiến thức, hình ảnh trực quan sinh động được chuyển tải đến các học
sinh, sự tương tác hai chiều được thiết lập. Giáo án điện tử không những giúp
tiết học trở nên lơi cuốn hơn mà cịn hạn chế việc giáo viên bị cháy giáo án vì
thời gian được kiểm soát bằng máy.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào trong thiết kế bài soạn và giảng dạy trên lớp nhằm nâng cao chất lượng dạy
học môn âm nhạc, tôi mạnh dạn tìm tịi, nghiêm cứu cách thức “ứng dụng cơng
nghệ” trong q trình giảng dạy để góp phần nâng chất lượng bộ môn đồng thời
cuốn hút tất cả học sinh ham mê học mơn âm nhạc trong nhà trường nói chung
và biết ứng dụng trong cuộc sống nói riêng.


B. GIẢI QUYẾTVẤN ĐỀ
2


I. Cơ sở lý luận:
Trải qua chiều dài lịch sử trong công tác giáo dục và đào tạo của đất nước
nền giáo dục của chúng ta đã trải qua 2 hình thái dạy học cơ bản và đang trong
giai đoạn tiến tới hình thức dạy học thứ 3. Nếu ở hai hình thức dạy học cũ với
chủ trương lấy người thầy là hạt nhân, trung tâm của mơ hình giáo dục với hình
thức “ Thầy giáo chỉ đạo tồn diện học tập của học sinh” thì ở hình thái thứ 3
này chúng ta đã tiến một bước và thay đổi trung tâm giáo dục là đối tượng học
sinh như Luật Giáo dục điều 28.2 đã nêu “ Phương pháp giáo dục phổ thơng
phải phát huy tính tính cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp
với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn
luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” .
Điều này sẽ dẫn đến vấn đề nảy sinh là buộc các nhà giáo phải thay đổi
phương pháp giáo dục sao cho phù hợp với nhu cầu học tập của học sinh, đáp
ứng được yêu cầu xu thế phát triển của thời đại, góp phần xây dựng, đào tạo con
người đảm bảo được ba mặt Đức - Trí -Thể, xây dựng đất nước với nền kinh tế
phát triển theo chủ trương công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Nếu ở hình thái giáo dục cổ điển, một giáo viên lên lớp giảng giải cho
một số đơng học sinh thì việc giao tiếp, truyền thụ kiến thức và nắm bắt tín hiệu
ngược giữa thầy và trị sẽ bị hạn chế vì khơng đủ thời gian dành cho học sinh và
công tác triển khai bài học nếu hai công việc này cùng làm song song chưa kể
đến phải tiến hành các thí nghiệm, thực hành với các vật dụng lỉnh kỉnh, các mơ
hình tĩnh, các loại tranh ảnh cồng kềnh hoặc quá nhỏ để học sinh có thể quan sát
thì đối với hình thái giáo dục hiện đại ( đổi mới phương pháp dạy học bằng việc
vận dụng công nghệ thông tin) lại là một việc làm hết sức nhẹ nhàng, mang lại
hiệu quả, thu hút đựoc sự chú ý, làm tăng hứng thú học tập, phát huy tối đa việc

học của học sinh, qua đó người thầy có nhiều thời gian hơn trong việc nắm bắt
tín hiệu ngược và cái lớn nhất đó là lượng kiến thức mở rộng luôn được bổ sung
và cập nhật thông qua việc khai thác công nghệ thông tin đối với cả thầy và trị.
Cơng nghệ thơng tin có vai trị hỗ trợ rất lớn cho giáo dục. Máy tính và
phần mềm máy tính đóng vai trị trung tâm và rất quan trọng để giải quyết các
3


khủng hoảng giáo dục hiện nay. Máy tính giúp ta học được ở mọi nơi, mọi lúc,
linh hoạt, thích ứng cho mọi cá nhân, cho đối tượng học sinh giỏi cũng như cho
học sinh cá biệt. Học sinh chủ động tương tác với chương trình, kiến thức thơng
qua việc hội thoại với phần mềm. Với máy tính, học sinh có thể được học tất cả
các loại kiến thức, kỹ năng cần có theo yêu cầu mà trên lớp học thực tế khơng
thể đáp ứng nổi.
Thơng qua máy tính và các phần mềm hỗ trợ, các hình ảnh đẹp, âm thanh
sống động, mơ phỏng các hiện tượng tự nhiên chính xác tạo cảm giác học tập
chủ động, hấp dẫn, dễ dàng tiếp thu kiến thức, khơng cần học thuộc lịng, có thể
tra cứu thông tin nhanh và rộng lớn. Học sinh có khả năng trao đổi kiến thức với
bạn học hoặc với giáo viên không hạn chế không gian và thời gian.
Nhiệm vụ trung tâm cơ bản nhất của mọi nền giáo dục là truyền đạt kiến
thức cho học sinh. Kiến thức được giáo viên lĩnh hội trước và đã nằm trong đầu
của giáo viên trước khi dạy. Nhiệm vụ chính của giáo viên là truyền tải các kiến
thức này đến học sinh, bằng phương tiện nào không quan trọng, điều quan trọng
nhất là kiến thức phải truyền tải được.
Giáo viên có nhiệm vụ truyền đạt kiến thức, được phép sử dụng bất cứ
hình thức và loại phương tiện nào có thể được để đạt được mục đích của mình.
Phương tiện sử dụng có thể là bảng đen, phấn, thước kẻ, các dụng cụ thí nghiệm,
các vật mẫu. Như vậy các phương tiện được giáo viên sử dụng đóng vai trị như
một phương tiện trợ giúp giáo viên giảng dạy hay cịn có tên gọi là thiết bị giáo
dục.

Ngồi chức năng phương tiện hỗ trợ giảng dạy, phần mềm cịn có thể
đóng các vai trị quan trọng khác nữa trong q trình giảng dạy, truyền đạt kiến
thức như sách giáo khoa, giáo viên hướng dẫn, quản lý giảng dạy, đánh giá kiến
thức, Ta chủ yếu nhắc đến vai trò như một phương tiện hỗ trợ giảng dạy của giáo
viên của phần mềm giáo dục. Đây là một trong những định hướng chính của các
phần mềm giáo dục trên thế giới cũng như Việt Nam.
II- Cơ sở thực tiễn:
Bộ môn âm nhạc được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào học ở bậc THCS đã
nhiều năm. Như chúng ta biết Sư phạm Âm nhạc là ngành sư phạm nghệ thuật
4


không chỉ đơn thuần là năng khiếu ca hát, mà bên cạnh đó chúng ta phải được
đào tạo có bài bản với thời gian qui định của mơn học thì lúc đó chúng ta mới có
đủ các kĩ năng để làm tốt công tác giảng dạy. Nhiều giáo viên chuyên biệt nhưng
không sử dụng, áp dụng được phương tiện giảng dạy đặc trưng của bộ môn và
không khai thác, kết hợp các ưu điểm của CNTT vào bài dạy dẫn đến không thu
hút được sự quan tâm, hứng thú học tập của các em. Tiết dạy cũng chỉ dừng lại ở
mức độ truyền khẩu, nhàm chán.
Về chủ trương thực hiện u cầu “ đi tắt, đón đầu” trong cơng tác đẩy mạnh
việc áp dụng công nghệ thông tin trong dạy học nhằm đổi mới phương pháp dạy
học bắt kịp với yêu cầu của thời đại, ngay từ năm 2006 các trường THCS đã
khuyến khích vận động giáo viên, cơng nhân viên học và tự học về vi tính để áp
dụng cho công tác và giảng dạy. Từ năm học 2007 -2008 hưởng ứng nội dung
chủ đề năm học “ Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới quản lý tài
chính và triển khai phong trào xây dựng trường học thân thiện” của Bộ giáo dục
và đào tạo, các trường THCS đã đẩy mạnh công tác thúc đẩy giáo viên áp dụng
công nghệ thông tin trong các môn học thơng qua các chương trình bồi dưỡng
nghiệp vụ tin học do nhà trường tổ chức, giáo viên tự học qua các lớp đào tạo
văn bằng tin học chính qui, qua các tài liệu, sách tham khảo...đây cũng chính là

nhiệm vụ trọng tâm của mỗi giáo viên và là tiêu chí để các giáo viên trong
trường phấn đấu.
Về thực trạng của đơn vị: sự phát triển cơ sở vật chất nhà trường có máy
chiếu Projector, Overhead, phịng học tin với nhiều máy tính cấu hình mạnh, nối
mạng Internet . Học sinh được học vi tính tồn khố từ lớp 6 đến lớp 9, các em
rất hứng thú với các môn học có áp dụng cơng nghệ thơng tin.
Bên cạnh những thuận lợi đó việc nâng cao chất lượng mơn Âm nhạc cịn
gặp phải một số khó khăn nhất định:
Điều kiện nhà trường còn thiếu thốn về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học
(TBDH) đặc biệt là chỉ có 1 máy chiếu Projector và 1 máy Overhead thì với cơ
số tiết học tồn trường trong một buổi thì khơng thể ln chuyển để sử dụng
chưa kể đến việc 2, 3 giáo viên cùng dạy trùng tiết nên chỉ sử dụng giáo án điện
tử trong một số tiết như thao giảng, dự giờ.
5


Quy trình soạn 1 giáo án điện tử, kết hợp với sử dụng các phần mềm hỗ trợ
cho tiết dạy tốn nhiều thời gian đầu tư, từ việc xây dựng các hiệu ứng đến nội
dung bài dạy, những kiến thức bổ sung, các file multimedia hỗ trợ.
Dạy bài giảng điện tử u cầu phải có phịng học chuẩn từ vị trí để máy
projector đến màn hình, hệ thống dây điện, máy tính, điều kiện ánh sáng của
phịng học.
Từ thực trạng trên, trong q trình thực hiện giảng dạy bộ mơn, tơi quan tâm
tìm đến sự đổi mới trong thiết kế và phương pháp lên lớp. Một trong những vấn
đề cần đổi mới đó là cần thiết phải “ứng dụng cơng nghệ thông tin” trong soạn
bài và giảng dạy trên lớp cho học sinh. Tìm kiếm và thay đổi phương pháp giảng
dạy mới phù hợp hơn với nhu cầu và môi trường giáo dục hiện đại. Định hướng
chung của các phương pháp giảng dạy mới là chuyển từ mơ hình “bảng đen” với
vai trị độc diễn của giáo viên sang mơ hình “ Cộng tác ” thân thiện giữa giáo
viên và học sinh với sự trợ giúp đắc lực của máy tính và phần mềm giáo dục.

Thấy được vai trị, tăng cường vai trị của các cơng cụ hỗ trợ giảng dạy, trong đó
đặc biệt chú ý đến vai trị của máy tính và các cơng cụ đặc trưng phục vụ của bộ
môn trong lớp học mới.
III- Giải pháp thực hiện:
Từ tình hình thực tế trên thì bản thân mỗi giáo viên phải tìm cho mình
một giải pháp, một phương pháp dạy học mới để khắc phục tình trạng trên. Đối
với tơi một người tiếp xúc, tìm hiểu khá nhiều về CNTT nên tơi lựa chọn
phương pháp giảng dạy mới đó là ứng dụng CNTT vào trong tiết dạy, nội dung
được lựa chọn đầu tư ứng dụng CNTT là thiết kế giáo án điện tử cho các tiết
dạy. Tuy nhiên để ứng dụng một cách có hiệu quả việc đưa máy tính, CNTT vào
bài giảng trên lớp là một việc khơng dễ dàng. Có rất nhiều cách, nhiều đường đi,
cách tiếp cận khác nhau khi sử dụng giáo án điện tử. Để thực hiện một giờ dạy
học với sự hỗ trợ của máy tính, người thầy cần thực hiện một giáo án điện tử để
thiết kế toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học của mình. Tuy vậy, dựa vào thiết kế
trình diễn này, giáo viên có thể tổ chức các hoạt động dạy học được thiết kế từng
bước hợp lý trong một cấu trúc chặt chẽ, trong đó sử dụng các công cụ đa
phương tiện (multimedia) bao gồm văn bản, hình ảnh, âm thanh, phim minh họa
6


để chuyển tải tri thức và điều khiển người học. Khi lên lớp với “giáo án điện tử”,
người thầy sẽ thực hiện một bài giảng điện tử với toàn bộ hoạt động giảng dạy
đó, được chương trình hóa một cách uyển chuyển, sinh động nhờ sự hỗ trợ của
các công cụ đa phương tiện đã được thiết kế trong giáo án điện tử. Như vậy, giáo
án điện tử được coi là phần quan trọng thể hiện kịch bản của tiết học. Giáo án
điện tử hay bài giảng điện tử là hai cách gọi khác nhau của một hoạt động cụ
thể, đó là: thực hiện dạy-học với sự hỗ trợ của máy tính ở mức độ dạy học đồng
loạt.
Với bài giảng điện tử, người thầy được giảm nhẹ việc thuyết giảng, có
điều kiện tăng cường đối thoại, thảo luận với người học, qua đó kiểm sốt được

người
học; Người học được thu hút, kích thích khám phá tri thức, có điều kiện quan sát
vấn đề, chủ động nêu câu hỏi và nhờ vậy quá trình học tập trở nên hứng thú, sâu
sắc hơn.
Tơi lấy ví dụ: khi dạy
Lớp 7, Tết 14: có 3 nội dung:
- Ôn tập bài hát: Khúc hát chim sơn ca
- Tập đọc nhạc số 5
Em là bông hồng nhỏ
“Trích” Nhạc và lời: Trịnh Cơng Sơn
- Âm nhạc thường thức: Giới thiệu nhạc sĩ Bét-tơ-ven
Phần bài cũ: GV trình chếu hình ảnh chú chim Sơn ca cho hs xem và hỏi: ?Nhìn
vào hình ảnh trên gợi cho các em nhớ đến bà hát nào? Do ai sang tác?
* Phần ôn tập bài hát: Thay vì phải treo bảng phụ chép bản nhạc lên thì GV chỉ
cần clik chuột và 1 bản nhạc được hiện ra với màu sắc bắt mắt, HS sẽ thích thú
hơn rất nhiều.

7


* Phần TĐN, thay vì chép nhạc vào bảng phụ thì gv cũng trình chiếu bản nhạc,.

8


HS quan sát và tìm hiểu bài TĐN

9



* Phần Âm nhạc thường thức: Giới thiệu nhạc sĩ Betoven:

Những điều cần biết về nhạc sĩ thiên tài người Đức.
10


Hay là nhắc lại nội dung bài học.

Tạo khơng khí vui vẻ cho tiết học bằng cách tạo ra một trò chơi âm nhạc.

11


Khi dạy: Tiết 24 (Lớp 6): Phần Âm nhạc thường thức: “Giới thiệu nhạc sĩ
Mo-Da”
Ngịai việc tìm những hình ảnh về nhạc sĩ thiên tài, thần đồng âm nhạc người Áo
này, tơi cịn tìm và trình chiếu cho hs xem những đoạn clip ngắn về cuộc đời và
sự nghiệp của Ông.

MODA bịt mắt chơi đàn.mp4

Đám tang MODA(1).mp4

12


13


Từ những ví dụ trên, chúng ta có thể thấy: Bài giảng điện tử có những nét

phức hợp với bài dạy học truyền thống. Tuy nhiên cần phải thấy được sự khác
biệt rõ nhất và là ưu điểm của bài giảng điện tử đó là : ngồi khả năng trình bày
lý thuyết, nó cho phép thực hiện phần minh họa và thực hiện kiểm tra tại từng
vấn đề nhỏ, điều mà trong bài giảng truyền thống khó thực hiện. Thơng qua cấu
trúc này, một bài giảng điện tử cần thể hiện được:
- Tính đa phương tiện: là sự kết hợp của các phương tiện khác nhau dùng
để trình bày thơng tin thu hút người học, bao gồm văn bản, âm thanh , hình ảnh
đồ họa , phim minh họa, thực nghiệm. Tính tương tác: Sự trợ giúp đa phương
tiện của máy tính cho phép người thầy và người học khai thác các đối thoại, xem
xét, khám phá các vấn đề, đưa ra câu hỏi và nhận xét về câu trả lời.
1.1 Các yêu cầu đối với một bài giảng điện tử
- Yêu cầu về phần nội dung :
Cần trình bày nội dung với lý thuyết cô đọng được minh họa sinh động và
có tính tương tác cao rõ nét mà phương pháp giảng bằng lời khó diễn tả. Để thực
hiện yêu cầu này, người thầy phải hiểu rất rõ vấn đề cần trình bày, phải thể hiện
các phương pháp sư phạm truyền thống và đồng thời phải có kỹ năng về tin học
để thực hiện các minh họa, mô phỏng hoặc tận dụng chọn lọc từ tư liệu điện tử
có sẵn.
14


- Yêu cầu về phần câu hỏi - giải đáp :
Bài giảng điện tử cần thể hiện một số câu hỏi, với mục đích:
- Giới thiệu một chủ đề mới.
- Kiểm tra đánh giá người học có hiểu nội dung (từng phần, tồn bài) vừa
trình bày khơng ?
- Liên kết một chủ đề đã dạy trước với chủ đề hiện tại hay kế tiếp.
Câu hỏi cần được thiết kế sử dụng tính đa phương tiện để kích thích người
học vận động trí não để tìm câu trả lời. Phần giải đáp cũng được thiết kế sẵn
trong bài giảng điện tử nhằm mục đích :

+ Với câu trả lời đúng: Thể hiện sự tán thưởng nồng nhiệt cổ vũ và kích
thích lòng tự hào của người học.
+ Với câu trả lời sai:
-Thơng báo lỗi và gợi ý tìm chỗ sai bằng cách nhắc nhở và cho quay lại
phần đề mục bài học cần thiết theo quy trình sư phạm để người học chủ động
tìm tịi câu trả lời.
- Đưa ra một gợi ý ý, hoặc chỉ ra điểm sai của câu trả lời, nhắc nhở chọn đề
mục đã học để người học có cơ hội tìm ra câu trả lời.
- Cuối cùng đưa ra một giải đáp hoàn chỉnh.
- Yêu cầu về phần thể hiện khi thiết kế :
Các nội dung chuẩn bị của hai phần trên khi thể hiện trình bày, cần đảm
bảo các yêu cầu:
- Đầy đủ : Có đủ yêu cầu nội dung bài học.
- Chính xác: Đảm bảo khơng có thơng tin sai sót .
- Trực quan: Hình vẽ, âm thanh, bảng biểu trực quan, sinh động hấp dẫn
người học.
2. Các bước xây dựng bài giảng điện tử
2.1. Lựa chọn chủ đề dạy học thích hợp
Khơng phải chủ đề dạy học nào cũng cần tới bài giảng điện tử. Chủ đề dạy
học thích hợp là những chủ đề có thể dùng bài giảng điện tử để hỗ trợ dạy học
và tạo ra hiệu quả dạy học tốt hơn khi sử dụng các thiết bị dạy học truyền thồng.
15


2.2. Bước đầu xây dựng kịch bản
Bước 1: Xây dựng mơ hình thể hiện các thành tố của nội dung dạy học
Bước 2: Mơ hình hố q trình dạy học, thể hiện các yếu tố HS và các đối
tượng khác trong môi trường tương tác, hoạt động tương tác trong từng pha dạy
học.
Bước 3: Hình dung việc thể hiện các thành tố trên màn hình vi tính, cách

thể hiện các thông tin, thể hiện các hiệu ứng phản hồi trong từng pha dạy học;
thứ tự của các pha dạy học.
Bước 4: Mơ tả tồn bộ các pha dạy học theo trật tự tuyến tính hố.
2.3. Tham khảo ý kiến
Tham khảo ý kiến bạn bè đồng nghiệp có ý nghĩa quan trọng. Trên cơ sở ý
kiến mà ta có thể điều chỉnh kịch bản sư phạm, điều chỉnh chiến lược dạy học và
thậm chí có thể thay đổi cơng cụ xây dựng giáo án. Bước này hết sức cần thiết
đối với những GV bắt đầu bắt tay vào xây dựng giáo án điện tử của mình.
2.4. Thử nghiệm ở hiện trường lớp học cụ thể
Tổ chức thử nghiệm với lớp học cụ thể, tiết học cụ thể và HS, GV thực.
Các tiết học với bài giảng điện tử này được thực hiện với điều kiện đã dự kiến
cách sử dụng thích hợp. Việc đánh giá hiệu quả của các tiết học này sẽ là cơ sở
quan trọng nhất để sửa lại kịch bản.
Sau khi xây dựng và áp dụng bài giảng điện tử vào giảng dạy trên lớp tôi
thấy rằng:
1. Về học sinh:
Sự hứng thú học âm nhạc ở các em thay đổi rõ rệt, tâm lý học phấn khởi,
các em đã thực sự chăm chú và bị cuốn hát vào bài giảng sinh động. Dẫn các em
đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác với những minh họa rõ ràng, hệ thống
các bài hát, bài TĐN được thể hiện rõ và tự động chạy trên phần mềm, lượng
kiến thức được thể hiện chính xác và mở rộng.
2. Về giáo viên:
Có nhiều thời gian để theo dõi và thu hồi tín hiệu ngược từ học sinh. Khi sử
dụng phần mềm dạy hát và TĐN , GV có thời gian để chấn chỉnh những thiếu
sót hoặc chưa kịp thời trong việc lĩnh hội kiến thức của các em.
16


Các bài hát mẫu được sử dụng mà không cần băng đĩa nhưng vẫn đảm bảo
tính chính xác , phong phú, lôi cuốn.

Các bản nhạc, TĐN được thiết kế rõ nét, đẹp không cần bảng phụ nhỏ bé
không rõ ràng.
Kỹ năng sử dụng CNTT được nâng lên rõ rệt góp phần chủ yếu trong nâng
cao chất lượng dạy học bộ môn.
Qua kết quả trên tôi thấy rằng:
Yêu cầu kiến thức và kỹ năng làm việc của người giáo viên ngày một cao,
mơ hình lớp học cũ khơng đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội nói chung và
của mơn âm nhạc nói riêng. Vận dụng ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong đổi
mới thiết kế bài soạn có hỗ trợ của phần mềm vi tính đã là cơng cụ tích cực nâng
cao chất lượng bộ mơn. Đến nay, khơng cịn học sinh khơng thích học mơn âm
nhạc nữa, tỉ lệ học sinh học yếu bộ môn giảm hẳn, đa số học sinh thích thú hơn
khi đến tiết học âm nhạc tại phịng học bộ mơn.
Từ khơng khí học tập được thay đổi của học sinh càng kích thích sự khám
phá của bản thân về công nghệ thông tin nhằm hỗ trợ cho khâu thiết kế và giảng
dạy. Tôi tin rằng nếu giáo viên nào cũng có tâm huyết đổi mới trong ứng dụng
cơng nghệ thơng tin thì khơng những môn âm nhạc mà tất cả các bộ môn đều có
kết quả khả quan trong giai đoạn giáo dục mới hiện nay.
Giảng dạy bằng giáo án điện tử hay nói cách khác là việc sử dụng các thiết
bị công nghệ thơng tin như máy tính, máy chiếu, bảng điện tử trong giảng dạy
mang lại hiệu quả rất lớn giúp học sinh nắm kiến thức nhanh hơn, tốt hơn.

C. KẾT LUẬN
Công nghệ thơng tin ngày nay đóng một vai trị rất quan trọng đối với mọi
lĩnh vực trong đó có cả Âm nhạc: Sáng tác, chế bản, phối khí, biên tập âm thanh.
Trong dạy học nếu khai thác, áp dụng công nghệ thơng tin có hiệu quả thì việc
dạy học sẽ đạt đến một kết quả tốt nhất.
Dạy học là một nghệ thuật, giáo viên là một nghệ sĩ, với sự trợ giúp của
cơng nghệ thơng tin, giáo viên có thể thay đổi, đổi mới phương pháp, công nghệ
dạy học với mục đích cuối cùng là làm cho học sinh chủ động hơn , giảng dạy
bằng giáo án điện tử trong nhà trường mang lại hiệu quả rất lớn. Mỗi tiết dạy

17


bằng giáo án điện tử chính là một lượng lớn kiến thức, hình ảnh trực quan sinh
động được chuyển tải đến học sinh. Đẩy lùi tình trạng “thầy đọc trị chép”. Bản
thân là một giáo viên giảng dạy môn Âm nhạc, với sự khám phá và ham học hỏi
về công nghệ thơng tin tơi đã tiếp xúc và tìm hiểu rất nhiều về việc áp dụng công
nghệ thông tin vào việc giảng dạy. Thực tế đã chứng minh là chất lượng các giờ
học Âm nhạc có sử dụng cơng nghệ thông tin đều đem lại hiệu quả rất cao. Sự
hứng thú trong học tập của học sinh thể hiện rất rõ nét, người giáo viên có nhiều
cơ hội để nâng cao và mở rộng lượng kiến thức cần cung cấp cho học sinh. Các
dẫn chứng, minh họa chính xác và hiệu quả hơn, cuối tiết học bên cạnh việc dạy
và học mơn Âm nhạc thì một việc quan trọng hơn đó là học sinh cũng đã một
phần nào được giáo dục về thẩm mỹ, thái độ cảm thụ và thưởng thức âm nhạc.
Quá trình xây dựng và áp dụng CNTT vào bài dạy cụ thể là giáo án điện
tử là một q trình khép kín, cần phải có sự chuẩn bị về tư liệu bài giảng,
phương án và phương pháp truyền đạt phù hợp với giáo án. Phải có cơng tác
chuẩn bị điều kiện: Dây điện, ổ cắm, dây nối Projector và đặc biệt ln phải có
phương án 2 đề phịng “mất điện”.
Lĩnh vực thơng tin rất rộng lớn và phức tạp. Tuy nhiên để sử dụng trong
dạy học nếu chịu khó đầu tư thời gian thì các Gv cũng có thể sử dụng được để
hỗ trợ trong giảng dạy bộ môn Âm nhạc ở nhà trường được tốt hơn.
* KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT:
- Sở, Phòng GD nên tổ chức các đợt chuyên đề để giáo viên học hỏi lẫn
nhau về chuyên môn cũng như kĩ năng sử dụng các phần mềm trên máy tính.
-Nhà trường nên mua sắm thêm trang thiết bị như máy chiếu, phòng học
chức năng để tạo điều kiện cho giáo viên chủ động trong việc giảng dạy có sử
dụng giáo án điện tử.
Trên đây là một kinh nghiệm mà tôi đã rút ra qua thời gian giảng dạy rất
mong sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn!

Thạch Hà, tháng 10 năm 2016

18



×