Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng và vận dụng vào xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.95 KB, 35 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành
đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại
có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một
trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách
mạng. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách
mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải
có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng
vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì
dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo
ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành
công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ
Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng
có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm
việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng
vấn đề đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người cách
mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ bàn một cách sâu sắc, cô đọng, thấm thía
về vấn đề đạo đức mà chính bản thân Người, trong suốt cuộc đời, đã thực hiện một
cách mẫu mực những tư tưởng và khác vọng đạo đức do mình đặt ra. Rất nhiều
điều Bác nói về đạo đức đã qua hàng bốn, năm mươi năm hay lâu hơn nữa nhưng
Trang 1


nay vẫn còn nóng hổi tính thời sự. Bác nói về những trường hợp cụ thể song ai


nghe cũng cảm nhận đó là lời dạy cho mình. Nhìn lại và nhớ từng cử chỉ, từng hành
động, từng lời nói và việc làm của Bác trong đời sống thường ngày. Lúc sinh thời,
ai mà không xúc động, ai mà không cảm thấy có một cái gì đó không phải khi làm
sai những điều Bác dạy.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn luôn quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đội ngũ đảng viên.
Ngay từ năm 1925, bài giảng đầu tiên của Người cho những cán bộ cách mạng trẻ
tuổi của Việt Nam là vấn đề “tư cách một người cách mệnh”.
Người căn dặn mỗi đảng viên "không một phút nào được quên lý tưởng cao
cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập cho chủ nghĩa xã hội hoàn
toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới"; phải biết đặt lợi ích của giai
cấp, của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, luôn vững vàng trước mọi khó khăn,
vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết; nếu khi
"lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân thì phải quyết hy
sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng". Người chỉ rõ: suốt đời phục vụ
Đảng, phục vụ nhân dân "là phẩm chất cao quý của người cách mạng. Đó là đạo
đức cách mạng. Đó là tính Đảng, tính giai cấp, nó bảo đảm cho sự thắng lợi của
đảng, của giai cấp, của nhân dân". Người đánh giá rất cao những đảng viên luôn
luôn trung thành với sự nghiệp cách mạng của giai cấp và của dân tộc, suốt đời hy
sinh phấn đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản, đồng thời phê phán nghiêm khắc những kẻ lợi dụng địa vị để mưu cầu lợi ích
cá nhân làm tổn hại đến lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lạo động.
Ngày nay, chúng ta càng thấm thía lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc
Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm

Trang 2


chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn “Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là

người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Tuy nhiên, hiện nay nước ta cũng đang đứng trước nhiều thử thách, yếu kém
cần phải vượt qua. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nhận
định một trong những thách thức đó là: “ Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức
còn diễn ra nghiêm trọng”. Những suy thoái này đang là nguy cơ lớn liên quan đến
sự sống còn của Đảng, của chế độ.
Là một đảng viên đang công tác trong ngành giáo dục, tôi nhận thức rõ ý
nghĩa và tầm quan trọng của đạo đức cách mạng. Với những hiểu biết về tư tưởng
Hồ Chí Minh và qua thực tiễn nơi bản thân đang công tác, tôi mạnh dạn chọn đề tài
“ Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vận dụng vào xây dựng
đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên ở ” để làm bài tiểu luận cuối khóa lớp
trung cấp chính trị tại .
2. Mục đích, yêu cầu của đề tài.
Thông qua đề tài nhằm nâng cao kỹ năng tổng kết thực tiễn, nắm vững thêm
về lý luận đạo đức cách mạng đáp ứng yêu cầu mới của người cán bộ đảng viên
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời tìm ra
những giải pháp đúng đắn, khoa học định hướng xây dựng đạo đức cách mạng cho
bản thân góp phần làm cho tổ chức Đảng nơi đang công tác ngày càng trong sạch,
vững mạnh.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài.

Trang 3


Đề tài phân tích, đánh giá thực trạng về đạo đức cách mạng của người cán
bộ, đảng viên ở xã Phước Chánh, , . Từ đó xác định những mặt đạt được, những
mặt còn hạn chế, tìm ra nguyên nhân khắc phục hạn chế, rút kinh nghiệm và đề
xuất, kiến nghi, giải pháp để đẩy mạnh việc xây dựng đạo đức cách mạng cho cán

bộ, đảng viên trên địa bàn xã.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp duy vật biện chứng.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
- Phương pháp điều tra xã hội học.
5. Kết cấu đề tài.
Ngoài lời mở đầu và kết luận bài tiểu luận này gồm có 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.
- Chương II: Thực trạng việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây
dựng đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Đảng bộ .
- Chương III: Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đẩy mạnh việc
xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên trong thời gian tới.

Trang 4


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG.
1. Những quy định chung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng.
1.1.

Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là hệ thống những quan điểm
toàn diện và sâu sắc của Người về những chuẩn mực và những nguyên tắc xây
dựng về đạo đức mới, khác về chất so với nền đạo đức cũ, nhằm phát triển toàn
diện con người trong thời đại mới.

Hồ Chí Minh xây dựng về đạo đức cách mạng với hai nội dung cơ bản:
Một là, xây dựng hệ thống những chuẩn mực của nền đạo đức mới. Tổng hợp
những chuẩn mực đó thành phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân, tập thể…
Hai là, xây dựng những nguyên tắc trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức mới.
Hai nội dung này nhằm mục đích phát triển con người một cách toàn diện, hướng
tới các giá trị cao đẹp Chân- Thiện- Mỹ.
1.2. Vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng.
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách
mạng. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc “tư
cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể
hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ: với mình, với người và với công việc.
Trang 5


Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự
nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh
rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển
con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì
dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong
mọi thử thách. Người viết : “có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất
bại không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần
gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; “lo hoàn
thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần,
không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.

Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức mà người đảng viên
phải giữ gìn cho đúng, đó là:
+ Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
+ Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn luôn
cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu.
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết.

Trang 6


+ Hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần
chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.
Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng
Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc
lại ý của V. I. Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm
của dân tộc và thời đại.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người nêu
yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh
vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ
của con người: đối với mình, đối với người, đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh
đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi
Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng
ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.
2. Những chuẩn mực đạo đức cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.1. Trung với nước, hiếu với dân.
Trung, hiếu là những chuẩn mực đạo đức truyền thống : trung với vua và
hiếu với cha mẹ. Trên tinh thần phủ định biện chứng, Hồ Chí Minh vẫn sử dụng

khái niệm trung, hiếu nhưng nội hàm đã đổi mới: tận trung với nước, tận hiếu với
dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tận trung với nước là chuẩn mực có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu. Đó là lẽ phải, là chân lí. Nước mất thì nhà tan, mỗi người dân
sẽ thành nô lệ. Do đó, là người công dân thì phải tận trung với nước, tức là phải tận
tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc: suốt đời phấn đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc, Vì chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt
Trang 7


qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, dù ở bất
cứ hoàn cảnh nào cũng không phản bội, quy hoàng kẻ địch…Tận trung với nước
cũng chính là tận trung với Đảng, với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo,quyết
tâm đưa Đất nước phát triển theo con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Bởi vì, Đảng là đại diện cho nước, cho dân, “ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân
dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, với Đảng và hiếu với dân là
hai mặt thống nhất của một vấn đề, gắn bó chặt chẽ, hữu cơ với nhau. Theo Người,
nước ta là nước dân chủ, dân là chủ nhân của Đất nước. Vì vậy, đã tận trung với
nước thì phải tận hiếu với dân. Dân là gốc của nước, là những người sáng tạo nên
lịch sử. Do đó, phải gắn bó với dân, kính trọng và lắng nghe ý kiến của dân, hòa
mình với dân; tổ chức, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước; phải thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí; bất cứ việc gì có lợi
cho dân thì ta phải làm; bất cứ việc gì có hại cho nhân dân thì phải tránh; phải làm
hết sức mình để nhân dân hiểu được quyền cũng như trách nhiệm của người dân
Đất nước.
Từ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” chuyển thành “tận trung với nước, tận
hiếu với dân”, Hồ Chí Minh đã thực hiện một cuộc cách mạng về đạo đức. Nhân
dân từ chỗ là kẻ nghèo hèn, bị thống trị, cần được chăn dắt, sai khiến đã trở thành

lực lượng làm nên lịch sử. Trước quan lại là “phụ mẫu” của dân, thì nay có cán bộ,
đảng viên “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân”…Với ý nghĩa ấy, Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống
đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới
đất, đầu ngửng lên trời”.
2.2. Yêu thương và giúp đở con người, sống có nghĩa, có tình.
Những chuẩn mực này bắt nguồn từ quan niệm về con người của Hồ Chí
Minh. Người viết: “chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn.
Trang 8


Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”. Đó là những con
người cụ thể, có đời sống tình cảm riêng và do đó “mỗi con người đều có thiện và
ác trong lòng”. Con người là văn minh hay dã man, thiện hay ác, tốt hay xấu cũng
đều có tình. Đó chính là mẫu số chung để Hồ Chí Minh kêu gọi con người cần phải
yêu thương nhau, thực hành hai chữ “bác ái” và chúng ta cần “làm cho phần tốt
trong mỗi con người này nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất đi dần”.
Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh không chung chung, trừu tượng
mà rất cụ thể, sâu sắc và bao dung. Hồ Chí Minh chẳng những yêu thương tất cả
những người lao động , mà còn đặc biệt yêu thương những người bị áp bức, bóc lột,
bị đọa đầy đau khổ, bị nô dịch giai cấp và dân tộc. Tình thương yêu thương con
người của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở lòng “trắc ẩn”, mà còn được nâng lên
ở tầm cao của nhận thức tư tưởng. Người muốn tìm rõ nguyên nhân xã hội gây ra
cảnh đau khổ, bất hạnh cho con người và đã tìm thấy. Đó chính là bọn tà – ác, bọn
“Việt gian bán nước”, “phát xít, thực dân”… mà Người vô cùng căm ghét, gọi
chúng là lũ ác quỷ và kêu gọi phải tiêu diệt chúng để cứu giúp con người thoát khỏi
cảnh cơ cực, lầm than.
Sống có nghĩa, có tình, giúp người, cứu người, hướng tới giải phóng triệt để
con người là động cơ mạnh mẽ, là mục tiêu lý tưởng cao cả của Hồ Chí Minh.
Người nói rõ: “chúng ta đấu tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết

rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì”. Do đó, để giải phóng triệt để con người
thì không chỉ đánh đổ bọn thực dân xâm lược, giải phóng dân tộc mà còn xóa bỏ
tình trạng người bóc lột người. Theo Hồ Chí Minh, để thực hiện được mục tiêu đó
thì “không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Khi mà chủ nghĩa xã hội – giai đoạn đầu của chủ nghĩa vô sản – còn là mục
tiêu phấn đấu, Hồ Chí Minh dành hết tâm trí của mình vào việc chăm lo đời sống,
hạnh phúc của nhân dân. Người yêu cầu Đảng và Chính phủ phải chịu trách nhiệm
trước nhân dân : “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và
Trang 9


Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và
Chính phủ có lỗi”. Trước khi phải từ giã cõi đời, Hồ Chí Minh vẫn không quên “Để
lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân”.
2.3. cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Cần là thường xuyên cố gắng, luôn chăm chỉ, trong suốt cả cuộc đời. Cần
còn là biết chủ động và sắp xếp công việc có kế hoạch, sáng tạo, biết nuôi dưỡng
tinh thần và lực lượng để có thể làm việc lâu dài, đạt kết quả cao. Cần còn được
hiểu là tăng năng suất trong công tác, bất kỳ đó là công việc gì; làm việc phải đến
đúng giờ, chớ đến trễ, về sớm; làm cho chu đáo, việc ngày nào nên làm xong ngày
ấy, chớ để ngày mai… Cần là phải chống bệnh chay lười, biếng nhác, ỷ lại, vô kỷ
luật…
Kiệm là tiết kiệm công sức, tiền của và thời gian, sử dụng chúng sao cho có
ích nhất, hiệu quả nhất. Kiệm cũng là không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi
trong sản xuất và đời sống. Tiết kiệm theo Hồ Chí Minh hoàn toàn trái ngược với
bủn xỉn. Bủn xỉn là việc đáng chi tiêu cũng không chi, là một thói xấu cần phải loại
bỏ. Người nói: “khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cùng không cũng không
nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, Tổ quốc, thì dù hao bao
nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng”.
Theo Hồ Chí Minh, liêm là “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà

nước, của nhân dân”, “không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung
sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà vinh quang chính đại, không
bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”, không
đem của công vào việc tư và luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của nhân nhân.
Người nói: “những người ở các công sở, từ làng đến Chính phủ Trung ương, đều dễ
tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ, hoặc khoét đục nhân dân. Đến khi
lộ ra, bị phạt, thì mất hết cả danh giá, mà của phi nghĩa đó cũng không được

Trang 10


hưởng”. Vì vậy, cán bộ, công chức trong các công sở trước hết phải giữ gìn lấy chữ
liêm làm đầu.
Chính là không tà, là thẳng thắn và đúng đắn. Theo Hồ Chí Minh: “Trong xã
hội, tuy có trăm công, nghìn việc. Song những công việc ấy có thẻ chia ra làm 2
thứ: việc CHÍNH và việc TÀ. Làm việc CHÍNH, là người THIỆN, làm việc TÀ là
người ÁC”.
Như vậy, chính tức là việc gì có lợi cho dân thì dù nhỏ hết sức cũng làm, việc
gì có hại cho dân thì dù nhỏ hết sức cũng tránh. Cán bộ, công chức là những người
làm việc công cho nên chính còn là sự công tâm, công đức khi giải quyết công việc.
Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công bình, chính trực, không
nên vì tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng
người có tài năng, làm được việc. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài
năng hơn mình. Người còn nhấn mạnh, cán bộ, công chức phải tự mình “chính”
trước mới giúp được người khác “chính”, nếu mình không “chính” mà muốn người
khác “chính” là vô lý.
Chí công vô tư: cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn tới chí công vô tư và ngược lại.
Chí công vô tư là khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng
thụ thì mình nên đi sau, tức là lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Người nhấn mạnh,
thực hành chí công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá

nhân.
2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung.
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những đặc trưng của đạo đức cộng sản, bắt
nguồn từ vai trò của giai cấp công nhân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế chính là quan hệ hữu nghị,
hợp tác, giúp đỡ, tương trợ với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động cả
nước, với những yêu hòa bình, công lý và tiến bộ trên thế giới. Chủ nghĩa quốc tế
Trang 11


chỉ có thể tốt đẹp khi mỗi quốc gia phải phát huy tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường
và phải hoàn thành nghĩa vụ quốc tế của mình, chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi,
nước lớn. Đó chính là tinh thần quốc tế cao đẹp mà Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán
bộ, đảng viên đều phải thấm nhuần và rèn luyện trong công cuộc đấu tranh chung
vì hòa bình, phát triển và tiến bộ trên toàn thế giới.
Theo Hồ Chi Minh, chủ nghĩa quốc tế trong sáng phải gắn liền, thống nhất
với chủ nghĩa yêu nước chân chính. Người cho rằng, không thể có tinh thần quốc tế
trong sáng nếu không có tinh thần yêu nước chân chính. Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi,
nước lớn, biệt lập, kỳ thị chủng tộc đều là những khuynh hướng cản trở việc thực
hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phá vỡ khối đoàn kết quốc tế,
thậm chí dẫn đến tình trạng đối đầu giữa các quốc gia, dân tộc.
Trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã đề ra
đường lối, chủ trương đúng đắn, định hướng lâu dài cho việc bồi dưỡng tinh thần
đoàn kết quốc tế trong sáng ở mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân.
3. Những nguyên tắc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.
3.1. Tu dưỡng đạo đức bền bỉ suốt đời, chủ yếu trong thực tiễn cách
mạng.
Theo Hồ Chí Minh, đã tham gia vào đời sống cộng đồng thì mỗi người –
không phải là thánh nhân – ít nhiều đều mắc sai lầm, khuyết điểm. Người nói:
“Người nào không mắc khuyết điểm mới là lạ”. Nhất là cán bộ đều có ít nhiều chức

quyền, nếu không tự giác giáo dục mình theo hướng thiện thì dễ đi vào hướng ác.
Người so sánh sự tu dưỡng đạo đức cách mạng giống như người trồng lúa, phải có
công chăm bón, diệt cỏ, trừ sâu lúa mới tốt; còn cái ác giống như cỏ dại, nếu không
diệt thì nó mọc tràn lan, lu bù, sinh sôi nảy nở rất dễ. Do đó, phải phấn đấu, tu
dưỡng, đạo đức bên bỉ suốt đời, sao cho phần thiện ngày càng nảy nở như hoa mùa
xuân, còn phần ác thì ngày càng ít đi.
Trang 12


Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng rất khó khăn gian khổ. Phương pháp
quan trọng nhất, hiệu quả nhất là “luôn luôn biết sửa lỗi mình”, biết “tự phê bình và
phê bình” theo lý tưởng cộng sản. Hồ Chí Minh đã lấy hình ảnh lên dốc và xuống
dốc để so sánh với việc tu dưỡng đạo đức và không tu dưỡng đạo đức. Người cũng
ví dụ việc tu dưỡng đạo đức như “gạo đem vào giã”, như “ngọc mài, vàng luyện”.
Tu dưỡng đạo đức cách mạng tốt nhất là trong hoạt động thực tiễn. Chỉ trong
thực tiễn cách mạng mới rõ thiện, ác, tốt, xấu. Nhờ đó mới biết rõ phải tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức, hành động đạo đức như thế nào? Đấu tranh chống phi đạo đức
ra sao? Vì vậy, không rèn luyện trong thực tiễn thì nói đến đạo đức chỉ là nói
suông. Tóm lại, thực tiễn chỉ ra những vấn đề đạo đức cần tu dưỡng, chỉ ra kết quả
của tu dưỡng đạo đức để đấu tranh khắc phục. Đấu tranh chống các hiện tượng phi
đạo đức cũng là tu dưỡng đạo đức. Hồ Chí Minh kết luận: “Đạo đức cách mạng
không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát
triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
3.2. Nêu gương đạo đức, nói đi đôi với làm.
Hồ Chí Minh coi trọng sự gương mẫu trong thực hành đạo đức, nói đi đôi
với làm, nói phải làm được. Đó là một nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới.
Người viết: “ nói chung thì các dân tộc Phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với
họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
Người nhấn mạnh: “ trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ
“cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư

cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta
bắt chước… Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã”. Người dạy: “đảng
viên đi trước”., để cho ‘làng nước theo sau”.
Đạo làm gương, nói đi đôi với làm phải được quán triệt trong tất cả mọi đối
tượng, mọi lĩnh vực: từ Đảng, Nhà nước, các đoàn thể đến nhà trường, gia đình, xã
hội…
Trang 13


3.3. Để xây dựng đạo đức mới phải luôn đấu tranh với những hiện tượng
phi đạo đức, nhất là chống chủ nghĩa cá nhân.
Xây dựng đạo đức cách mạng là để giải phóng dân tộc và xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Thế nhưng, như Hồ Chí Minh đã nhiều lần
nhắc nhở: chúng ta sinh trưởng trong xã hội cũ, nên ít nhiều ai cũng mang trong
mình những dấu vết xấu xa của xã hội cũ về tư tưởng, nhất là những tiêu chuẩn đạo
đức cũ đã lỗi thời và cả cái ác, cái xấu, cái vô đạo đức. Chúng đang là “kẻ địch ở
trong lòng” ngăn trở to lớn đến việc xây dựng nền đạo đức mới. Vì vậy, phải luôn
đấu tranh chống lại những trở lực to lớn đó mới có thể xây dựng đạo đức cách
mạng. Cho nên, xây phải đi đôi với chống, chống là để xây và xây là để chống,
nhưng xây là mục đích chính. Nguyên nhân sâu xa của những cái ác, cái xấu, cái
phi đạo đức là chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy, phải tập trung vào chống chủ nghĩa cá
nhân.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân, khi
làm bất cứ việc gì cũng chỉ đặt lợi ích của cá nhân lên trên hết, trước hết; không
muốn mình vì mọi người, chỉ muốn mọi người vì mình, chỉ muốn mình béo, mặc
thiên hạ gầy. Nó là một thứ vi trùng rất độc hại, Người chỉ rõ: “chủ nghĩa cá nhân
đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham
ô, lãng phí”, óc hẹp hòi, xa hoa, tham danh trục lợi, thích đại vị quyền hành, tự cao
tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, cơ hội
chủ nghĩa… Tóm lại, “chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mỗi

người chúng ta. Nó chờ dịp – hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi – để ngóc đầu
dậy”. Nó là bạn dồng minh của những kẻ địch khác. Vì vậy, vô luận trong hoàn
cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống chủ nghĩa cá nhân. “Chủ nghĩa cá
nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa
cá nhân”.
Trang 14


Tuy nhiên, cần có nhận thức về sự thống nhất giữa lợi ích chung và lợi ích
riêng, cần phiên biệt giữa chủ nghĩa cá nhân và lợi ích cá nhân. Đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều có
lợi ích của bản thân và lợi ích của gia đình mình. “Nếu những lợi ích cá nhân đó
không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu”. Hồ Chí Minh khẳng định,
chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời
sống riêng của mình, phát huy tính cách và sở trường riêng của mình.
Theo Hồ Chí Minh, để xây dựng đạo đức cách mạng chống những hiện
tượng phi đạo đức, chống chủ nghĩa cá nhân cần phải sử dụng nhiều giải pháp thích
hợp. Trước hết, Người nhấn mạnh phải thành thật và thường xuyên thực hiện tự phê
bình và phê bình. Mấu chốt của tự phê bình và phê bình là “phê bình việc chớ
không phải phê bình người” để giúp nhau tiến bộ. Đồng thời, Hồ Chí Minh rất đề
cao vai trò của dư luận xã hội trong quá trình giáo dục đạo đức cách mạng, chống
chủ nghĩa cá nhân. Theo Người, cách tốt nhất là kết hợp giáo dục đạo đức ở gia
đình, nhà trường và xã hội; nêu cao tấm gương người tốt, việc tốt và phê bình kỷ
luật nghiêm minh, công khai; kết hợp giáo dục đạo đức với tăng cường pháp chế…
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG
XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG
VIÊN Ở ĐẢNG BỘ .
1. Khái quát chung về tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ .

1.1.

Đặc điểm tình hình chung của địa phương.

Phước Chánh là xã vùng cao của , cách trung tâm huyện khoảng 19 km về
phía Bắc.
- Phía Đông giáp xã Phước Kim- ;
- Phía Tây giáp xã Phước Mỹ, Phước Năng- ;
- Phía Nam giáp xã Phước Công, Phước Lộc- ;
Trang 15


- Phía Bắc giáp Thị trấn Khâm Đức- .
Địa hình tương đối phức tạp, thấp dần về hướng Đông-Bắc và được chia
thành 03 dạng chính:
- Dạng núi cao: Phân bổ chủ yếu ở hướng Nam, tiêu biểu có ngọn núi
Ngokjo cao 1.016m, ngọn núi Ngok KơNol cao 880m;
- Dạng núi thấp và đồi gò: Chủ yếu khu vực hướng Đông và Thôn 1 của xã,
độ cao trung bình 300-500m;
- Thung lũng và đất bằng: Nằm ven sông suối với diện tích nhỏ tập trung
nhiều ở khu vực phía Bắc của xã ( Rừng 48), dọc hạ lưu suối Nước non, Tà Dê và
bãi đất đồi ven sông Nước Mỹ.
Hệ thống sông, suối trên địa bàn nhiều, lòng dốc, thường kiệt vào mùa khô,
lưu lượng thấp, mùa mưa nước lên nhanh, thường gây lũ lụt, sạt lở đất đai hai bên
bờ.
Ngoài ra, trên địa bàn xã còn có các suối nhỏ nằm rải rác là nguồn nước
tương đối quan trọng, góp phần điều hòa khí hậu, cung cấp nước cho sản xuất nông
nghiệp, sinh hoạt của nhân dân.
Tổng diện tích đất tự nhiên là 4.723ha. Là một xã có điều kiện kinh tế đặc
biệt khó khăn, nghèo nàn, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân còn nhiều

thiếu thốn, trình độ dân trí thấp. Dân số toàn xã hiện nay có 639 hộ với 2.897 nhân
khẩu và được chia thành 7 thôn với các thành phần dân tộc đang sinh sống, chủ yếu
là dân tộc Gié-Triêng chiếm tỷ lệ 98%, dân tộc Kinh khoảng 1.5%, các dân tộc còn
lại chiếm khoảng 0.5%. Hiện nay hệ thống giao thông tương đối hoàn chỉnh, có
đường bê tông đến khắp các thôn bản tạo điều kiện thuận lợi trong việc đi lại của
người dân, 100% hộ dân đã có điện thắp sáng. Đa số người dân sống bằng nghề
nương rẫy, buôn bán nhỏ, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động thiếu việc làm còn cao
nên đời sống gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn rất cao trên 66%. An ninh trật
Trang 16


tự tương đối đảm bảo, tuy nhiên với điều kiện tự nhiên khá thuận lợi: Diện tích đất
rừng khá nhiều, hệ thống sông, suối trên địa bàn nhiều, có tiềm năng khoáng sản
cho nên trong những năm qua còn diễn ra nạn khai thác lâm, khoáng sản trái phép,
tệ nạn nảy sinh đã thâm nhập vào một số khu dân cư.
1.2. Về tình hình số lượng, chất lượng, thành phần đảng viên của Đảng
bộ .
1.2.1. Về số lượng.
Đảng bộ có 11 chi bộ trực thuộc Đảng bộ xã, trong đó có 07 chi bộ thôn, 02
chi bộ Giáo dục, 01 chi bộ Y tế và 01 chi bộ Quân sự. Toàn Đảng bộ có 86 đảng
viên, trong đó : có 75 đảng viên chính thức, chiếm tỷ lệ 87.2% và 11 đảng viên dự
bị, chiếm tỷ lệ 12.8%; đảng viên nữ: 13 đồng chí, chiếm tỷ lệ 15.1%; đảng viên là
người dân tộc thiểu số: 68 đồng chí, chiếm tỷ lệ 79% ( tính đến thời điểm hiện tại).
1.2.2. Về chất lượng, thành phần đảng viên.
* Về thời gian vào Đảng:
- Từ tháng 8/1954 đến tháng 4/1975: 06 đồng chí, chiếm tỷ lệ 7.0%
- Từ tháng 5/1975 đến tháng 12/1986: 11 đồng chí, chiếm tỷ 12.8%
- Từ tháng 01/1987 đến nay: 69 đồng chí, chiếm tỷ lệ 80.2%
- Đảng viên có tuổi Đảng nhiều nhất: 56 tuổi
- Đảng viên có tuổi Đảng ít nhất: 01 tuổi.

* Về độ tuổi:
- Dưới 30 tuổi: 09 đồng chí, chiếm tỷ lệ 10.5%
- Từ 30-45 tuổi: 29 đồng chí, chiếm tỷ lệ 33.7%
- Trên 45 tuổi: 48 đồng chí, chiếm tỷ lệ 55.8%
- Đảng viên cao tuổi nhất là 94 tuổi; đảng viên nhỏ tuổi nhất là 23 tuổi.
Trang 17


* Về trình độ học vấn:
- Cấp I: 38 đồng chí, chiếm tỷ lệ 44.2%
- Cấp II: 13 đồng chí, chiếm tỷ lệ 15.1%
- Cấp III: 35 đồng chí, chiếm tỷ lệ 40.7%.
* Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ:
- Đại học: 09 đồng chí, chiếm tỷ lệ 10.5%
- Cao đẳng: 04 đồng chí, chiếm tỷ lệ 4.7%
- Trung cấp: 13 đồng chí, chiếm tỷ lệ 15.1%
- Sơ cấp: 04 đồng chí, chiếm tỷ lệ 4.7%
- Chưa qua đào tạo: 56 đồng chí, chiếm tỷ lệ 65.1%.
* Về trình độ chính trị:
- Cao cấp: 02 đồng chí, chiếm tỷ lệ 2.3%
- Trung cấp: 13 đồng chí, chiếm tỷ lệ 15.1%
- Sơ cấp: 04 đồng chí, chiếm tỷ lệ 4.7%
- Chưa qua đào tạo: 67 đồng chí, chiếm tỷ lệ 77.9%
* Về thành phần giai cấp bản thân trước khi vào Đảng:
- Nông dân: 48 đồng chí, chiếm tỷ lệ 55.8%
- Cán bộ, công chức: 38 đồng chí, chiếm tỷ lệ 44.2%
* Về chức vụ tham gia các cấp ủy đảng:
- Huyện ủy viên: 01 đồng chí, chiếm tỷ lệ 1.2%
- Đảng ủy viên: 12 đồng chí, chiếm tỷ lệ 13.9%.
* Về tham gia theo lĩnh vực hoạt động:

Trang 18


- Công tác khối Đảng có: 04 đồng chí, chiếm tỷ lệ 4.7%
- Công tác khối Nhà nước có: 29 đồng chí, chiếm tỷ lệ 33.7%
- Công tác khối Mặt trận và các đoàn thể có: 06 đồng chí, chiếm tỷ lệ 7.0%
- Lĩnh vực khác có: 47 đồng chí, chiếm tỷ lệ 54.6%.
2. Quá trình triển khai học tập và tổ chức thực hiện cuộc vận động “
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
2.1. Đặc điểm tình hình chung.
Bước vào thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14 tháng 5 năm 2011 và các
Văn bản Hướng dẫn tiếp tục thực hiện đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh 6 tháng đầu năm 2015, có những thuận lợi và khó
khăn như sau:
2.1.1. Thuận lơi:
Cấp ủy Đảng và cả hệ thống chính trị từ xã đến thôn đã gắn việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp với việc tổ chức thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng các cấp. Đảng bộ và nhân dân luôn phát huy truyền thống
đoàn kết, thống nhất cao đã góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, kế hoạch theo
tinh thần Nghị Quyết Đảng bộ đề ra. Cán bộ, đảng viên tin tưởng tuyệt đối vào sự
lãnh đạo của Đảng, có phẩm chất chính trị vững vàng, thường xuyên tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng, tập trung xây dựng Đảng bộ trong sạch vững.
2.1.2. Khó khăn:
Là xã vùng cao, địa bàn rộng nên ảnh hưởng không ít đến hoạt động của
Đảng ủy; nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân không đồng đều; trình độ
cán bộ ở thôn còn hạn chế; tư tưởng của một bộ phận nhân dân còn trông chờ, ỷ lại
vào cấp trên, lối sống đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn hạn chế;
Trang 19



trình độ của đa số đảng viên ở thôn còn ở mức độ nên việc nắm bắt tư tưởng, quan
điểm, Nghị quyết, Chỉ thị còn hạn chế ảnh hưởng đến tiến độ triển khai, thực hiện
Chỉ thị 03 của Bộ chính trị.
2.2. Kết quả của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng
đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ đảng viên ở Đảng bộ.
2.2.1. Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện cuộc vận động “
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Từ khi có Chỉ thị 03-CT/TW ngày 14 tháng 5 năm 2011 của Bộ chính trị,
Đảng ủy tiếp thu các văn bản hướng dẫn của cấp trên như: Hướng dẫn số 13HD/TG ngày 07 tháng 9 năm 2011 của Ban tuyên giáo Trung ương; Kế hoạch số
17-KH-TU ngày 17 tháng 8 năm 2011 của Tỉnh ủy ; Kế hoạch số 40-KH/HU ngày
27 tháng 3 năm 2013 của Huyện ủy và Hướng dẫn số 01-HD/BPGV ngày 22 tháng
4 năm 2013 của Bộ phận giúp việc 03 Huyện ủy về tổ chức học tập, triển khai thực
hiện các chuyên đề về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh năm 2015.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, Đảng ủy đã xây dựng Kế hoạch số 02KH/ĐU ngày 27 tháng 5 năm 2013 và hướng dẫn số 02-HD/BPGV ngày 27 tháng 5
năm 2013 của Bộ phận giúp việc Đảng ủy về tổ chức học tập, triển khai thực hiện
các chuyên đề về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh năm 2015, đến đầu tháng 6 năm
2015 đã hoàn thành kế hoạch tổ chức học tập trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Trên cơ sở Hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Huyện ủy, Đảng ủy xã tiếp tục
thực hiện Quyết định số 01-QĐ/ĐU ngày 20 tháng 6 năm 2012 về thành lập Bộ
phận giúp việc của Đảng ủy và Quyết định số 02-QĐ/ĐU ngày 25 tháng 6 năm
2012 về việc Ban hành Quy chế làm việc của Bộ phận giúp việc; Quy chế tổ chức
và hoạt động của Bộ phận giúp việc. Đảng ủy kịp thời đề ra Thông báo số 02TB/ĐU ngày 25 tháng 6 năm 2013 về việc phân công công tác các đồng chí Đảng
Trang 20


ủy viên phụ trách địa bàn, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc của Cấp ủy
về thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị.
2.2.2. Về tổ chức học tập, quán triệt, triển khai thực hiện cuộc vận động
“ Học tập và lamg theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Kết quả triển khai học tập trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về nội dung
chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về phong cách
quần chúng, dân chủ, nêu gương, nêu cao trách nhiệm gương mẫu của cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, tổ chức học tập vào ngày 05 tháng 6
năm 2013, có mời đồng chí Võ Tấn Liêm- Trưởng Ban tuyên giáo Huyện ủy triển
khai. Số lượng người tham gia học tập đối với quân dân chính Đảng có 96/109
người, tỷ lệ 88%, trong đó đảng viên có 81/86 người, tỷ lệ 94.1%; cán bộ chủ chốt
có 27/33 người, tỷ lệ 81.1%.
Đảng bộ đã hoàn thành đăng ký tập thể và có 11/11 chi bộ hoàn thành đăng
ký, về cá nhân đảng viên có 81/86 đồng chí đăng ký, đạt tỷ lệ 94.1%.
Để thực hiện tốt việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng ủy
xây dựng chuẩn mực đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên phù hợp với tình hình
thực tế từng lĩnh vực công tác được phân công. Đến nay hầu hết cán bộ, đảng viên,
công chức chấp hành thực hiện tốt, nhiều chi bộ thực hiện tốt việc làm theo như:
Chi bộ Giáo dục, chi bộ Y tế, chi bộ 3.
Song song với việc thực hiện học tập, Đảng ủy gắn liền với việc triển khai
thực hiện Nghị quyết TW 4( khóa XI) “ Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay”. Đảng ủy có hướng chỉ đạo các chi bộ tiến hành kiểm điểm, tự phê bình
và phê bình. Qua kiểm tra, đánh giá đã thể hiện tính tiên phong gương mẫu, thực
hiện tốt những điều đảng viên không được làm, chấp hành tốt các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đồng thời kịp thời phát
Trang 21


hiện, chỉ rõ những khuyết điểm, tồn tại để có hướng sửa chữa, phấn đấu hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao.
2.3. Nhận xét đánh giá chung.
2.3.1. Ưu điểm:
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy được triển khai kịp thời và đồng bộ
từ xã đến thôn. Thực hiện nghiêm túc các Quy định, văn bản hướng dẫn của các

cấp, phát huy được vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện ở cơ sở.
Việc tổ chức học tập, thực hiện chuyên đề về tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh nghiêm túc, bám sát các Hướng dẫn, chỉ đạo của cấp trên để tổ chức thực
hiện; nội dung, hình thức phù hợp với tình hình thực tế, với từng đối tượng nên tỷ
lệ tham gia học tập đạt khá cao; cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm được những giá
trị to lớn của tư tưởng, tấm gương đạo đức của Bác, nhận thức rõ hơn về tầm quan
trọng của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Qua học tập chuyển biến từ nhận thức đến hành động cụ thể của từng cán bộ,
đảng viên và nhân dân thể hiện qua đạo đức, lối sống, phong cách làm việc, quan
hệ với quần chúng nơi cư trú cũng như trong cộng đồng làm đẩy lùi các tệ nạn xã
hội, tình trạng suy thoái về đạo đức và lối sống.
Nhìn chung, việc tuyên truyền, triển khai học tập tư tưởng tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh đã được triển khai rộng khắp trên địa bàn, thực sự đã đi vào lòng
dân
2.3.2. Khuyết điểm:
- Việc tổ chức thực hiện chưa thực sự đồng bộ, kịp thời, còn chậm so với kế
hoạch, chương trình đề ra.
Trang 22


- Thành viên Bộ phận giúp việc chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm, còn
kiêm nhiệm nhiều công việc nên ít có thời gian tập trung việc nghiên cứu tài liệu,
văn bản chỉ đạo để tham mưu đề xuất kịp thời.
- Bản đăng ký phấn đấu của tập thể còn chung chung, chưa đề ra phương
hướng cụ thể để phấn đấu trong từng lĩnh vực công tác.
- Công tác biểu dương khen thưởng chưa kịp thời nên chưa động viên, phát
huy được phong trào.
2.3.3. Nguyên nhân ưu khuyết điểm:
2.3.3.1. Nguyên nhân ưu điểm:
Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của Ban Thường vụ

Huyện ủy, Bộ phận giúp việc 03 Huyện ủy, sự giúp đỡ của Ban xây dựng Đảng và
tinh thần trách nhiệm cao của cán bộ, đảng viên tham gia học tập và góp ý xây
dựng kế hoạch, chương trình sát thực tế địa phương.
Cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
được hưởng ứng nhiệt tình của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong
toàn xã.
2.3.3.2. Nguyên nhân khuyết điểm:
Nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc vận động chưa cao, sự lãnh
đạo, chỉ đạo của một vài đồng chí trong Cấp ủy chưa thường xuyên, thiếu liên tục,
bên cạnh đó trình độ của cán bộ, đảng viên không đồng đều dẫn đến việc tiếp thu
học tập cũng như đăng ký phấn đấu đạt yêu cầu chưa cao.
2.4. Bài học kinh nghiệm.
Trang 23


- Vai trò lãnh đạo của Cấp ủy Đảng, chính quyền phải có nhận thức đúng đắn
về tầm quan trọng nội dung cuộc vận động để phát huy vai trò tiên phong, gương
mẫu, thường xuyên quan tâm theo dõi đến cơ sở, từng khu dân cư để có được kết
quả cao nhất.
- Cấp ủy, cơ quan, đơn vị địa phương chủ động, sáng tạo gắn việc thực hiện
Chỉ thị 03 về việc đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
với việc thực hiện tốt nhiệm vụ Chính trị, chuyên môn thì ở đó có phong trào mạnh,
đạt kết quả tốt.
- Thường xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức của Bác, nêu gương người tốt, việc tốt, cách làm hay,
sáng tạo trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm
kịp thời; kịp thời biểu dương khen thưởng để thúc đẩy động viên phong trào.
CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY

MẠNH VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, ĐẢNG
VIÊN Ở ĐẢNG BỘ .
1. Phương hướng nhiệm vụ.
1.1. Phương hướng chung.
- Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán
bộ, đảng viên. Coi trọng việc giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối quan điểm của Đảng và tình hình nhiệm vụ cách mạng cho cán bộ,
đảng viên, trước hết là cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước,
mặt trận, đoàn thể các cấp theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội IX.
- Xây dựng môi trường rèn luyện, tu dưỡng phấn đấu của cán bộ, đảng viên,
tạo điều kiện cho họ thường xuyên làm tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, chấp
Trang 24


hành nghiêm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó xây dựng cơ
quan, đơn vị trong sạch, vững mạnh và làm cho cán bộ, đảng viên có nếp sống kỷ
luật, lành mạnh, có đạo đức cách mạng trong sáng; cấp trên làm gương cho cấp
dưới, cán bộ, đảng viên nêu gương cho quần chúng, nói đi đôi với làm. Đồng thời,
“tích cực phòng ngừa và cương quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí, thực hành tiết kiệm”.
- Nêu cao tính tự giác tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên, động
viên họ nêu cao tinh thần tự lực, khắc phục khó khăn, dám nghĩ dám làm, dám chịu
trách nhiệm; bám sát thực tiễn cuộc sống, quan hệ mật thiết và gắn bó chặt chẽ với
nhân dân lao động; chủ động và sáng tạo trong công tác, góp phần cùng toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu:
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Làm tốt công tác thi đua khen thưởng, kịp thời nêu gương người tốt việc
tốt, có chính sách thỏa đáng với những người có công trong phát hiện và đấu tranh
chống tham nhũng, tiêu cực; kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời đúng pháp luật
đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, hoặc có biểu hiện sa đọa về đạo

đức, lối sống, tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính.
- Tạo mọi điều kiện cho nhân dân tham gia giám sát hoạt động, công tác của
cán bộ, đảng viên. Đảng ta từ nhân dân mà ra. Cán bộ, đảng viên là con em của
nhân dân. Có thể khẳng định rằng nếu không có nhân dân thì không có cách mạng,
không có Đảng. Cán bộ, đảng viên có thực hiện hết lòng phục sự nhân dân thì mới
được dân tin, dân phục, dân yêu, mới lãnh đạo được nhân dân thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ của cách mạng. Muốn vậy, phải không ngừng nâng cao trình độ dân trí,
hoàn thiện hệ thống pháp luật, thực hiện nghiêm quy chế dân chủ ở cơ sở đồng
thời, mọi cán bộ, đảng viên phải luôn gắn bó với quần chúng, phải luôn xứng đáng
với người lãnh đạo đồng thời là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Trang 25


×