Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên đồng bằng sông Cửu Long hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.63 KB, 15 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN THỊ HÀ

GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
CHO SINH VIÊN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
HIỆN NAY

Chuyên ngành: Đạo đức học
Mã số: 62 22 03 06

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TS. Hồ Sĩ Quý
TS. Đỗ Hương Giang

Hà Nội - 2017


CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Phản biện 1:…………………………….
Phản biện 2: ……………………………
Phản biện 3: …………………………...


Luận án đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện
Khoa học Xã hội
vào hồi … giờ …. phút, ngày …. tháng ….. năm …..

CÓ THỂ TÌM HIỂU LUẬN ÁN TẠI THƯ VIỆN:
Thư viện Quốc gia
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Trang
1

1.1. Những công trình nghiên cứu về đạo đức, giá trị đạo đức truyền thống và giáo dục giá
trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam nói chung, sinh viên ĐBSCL nói riêng

5

1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho sinh viên Việt Nam nói chung, sinh viên Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng

6

1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến quan điểm định hướng và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam nói chung và sinh

6


viên Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng hiện nay
1.4. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu và xác định một số vấn đề đặt ra mà luận án
cần tiếp tục giải quyết

6

Chương 2: GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO SINH VIÊN
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. Một số quan niệm chủ yếu về đạo đức, giá trị và giá trị đạo đức

7

2.2. Giá trị đạo đức truyền thống và tầm quan trọng của việc giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống cho sinh viên ĐBSCL hiện nay

8

2.3. Một số giá trị đạo đức truyền thống cơ bản cần giáo dục cho sinh viên Đồng bằng sông
Cửu Long hiện nay

10

Chương 3: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
CHO SINH VIÊN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
ĐẶT RA
3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên
Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay

11


3.2. Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Đồng bằng sông Cửu
Long hiện nay

13

3.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên
Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay

16

Chương 4: QUAN ĐIỂM CÓ TÍNH ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO
SINH VIÊN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
4.1. Quan điểm có tính định hướng nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay

18

4.2. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
sinh viên Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

19
22
23


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xưa nay, ở xã hội nào cũng vậy, đạo đức là một chiều cạnh quan trọng của sự tồn tại và phát triển.
Không chú ý thỏa đáng tới giá trị đạo đức, xã hội không phát triển được. Thiếu hụt giá trị đạo đức truyền
thống, con người có thể sẽ trở nên thiếu nhân văn, xã hội sẽ đứt đoạn với quá khứ, văn hóa sẽ mất bản sắc.
Vấn đề là ở chỗ, kể từ khi đổi mới, nền kinh tế thị trường trong khi đã đem lại nhiều điều “kỳ diệu” cho
sự phát triển kinh tế - xã hội, thì cũng đồng thời cũng là mảnh đất làm nảy sinh lối sống ích kỷ, vụ lợi, những
thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội và điều đó không tránh khỏi làm tha hóa, băng hoại những giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc, phá vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống. Khi Việt Nam đẩy mạnh hội nhập
quốc tế, với sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường, nhiều giá trị đạo đức truyền thống đã ngày càng bị
mai một. Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30/10/2016, Đảng Cộng sản
Việt Nam nhận định:
“Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng
viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực
vẫn còn nghiêm trọng” 1.
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của lối sống ngoại lai du nhập vào Việt Nam nói chung và các tỉnh Đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng cũng đã làm nảy sinh không ít tệ nạn xã hội. Báo chí và các phương tiện
truyền thông đại chúng gần như hàng ngày đều ít nhiều đưa tin về các hiện tượng xuống cấp đạo đức cả trong
toàn bộ đời sống xã hội và cả trong các các mối quan hệ nhà trường, gia đình. Trong gia đình, hiện tượng con
cái ngược đãi cha mẹ, anh chị em vì mâu thuẫn lợi ích, bất chấp các chuẩn mực đạo đức, đã không còn là hiếm
gặp. Tại trường học, tình trạng bạo lực học đường gần như thường xuyên được post lên mạng xã hội làm các
bậc phụ huynh lo ngại, thầy cô giáo bị tổn thương, cơ quan quản lý lúng túng. Ngoài xã hội, những hiện tượng
như tham nhũng, lợi ích nhóm, lừa đảo, mâu thuẫn quyền lực… liên tục làm cho dư luận xã hội bức xúc. “Môi
trường văn hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm
và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh, thiếu niên, rất
đáng lo ngại”2.
Trong những năm qua, việc phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc cho sinh
viên cả nước nói chung và khu vực ĐBSCL nói riêng đã có những chuyển biến tích cực với nhiều hình thức đa
dạng và phong phú. Tuy nhiên, những thay đổi nhanh chóng về kinh tế - xã hội, nhất là quá trình phát triển
kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, ở khu vực này đã tạo nên những biến động mạnh mẽ trong đời sống tinh

thần của thế hệ trẻ, làm thay đổi các quan niệm và thái độ đối với giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, ảnh
hưởng không tốt đến lối sống của một bộ phận sinh viên.
Hơn nữa, dưới sự tác động của quá trình đô thị hoá và sự giao thoa văn hóa rộng mở, sinh viên ĐBSCL
do chịu ảnh hưởng bởi những đặc điểm của văn hóa vùng Tây Nam Bộ, nên rất dễ dung nạp sự đa dạng về xã
hội và văn hóa, đồng thời cũng dễ tiếp nhận những hiện tượng văn hóa ngoại lai. Từ đó trong một bộ phận
không nhỏ sinh viên ĐBSCL đã xuất hiện lối sống thực dụng, chạy theo trào lưu thời thượng, thậm chí xa hoa
lãng phí, mắc vào các tệ nạn xã hội. Không ít sinh viên chưa xác định rõ mục tiêu, động cơ học tập dẫn đến
thiếu ý chí phấn đấu, rèn luyện, ảnh hưởng đến năng lực làm việc khi ra trường, xa rời truyền thống tích cực
của dân tộc, mất niềm tin vào những điều tốt đẹp và xu thế tích cực của sự phát triển.
Ngoài ra, khu vực ĐBSCL hiện nay lại đang đối mặt với các nguy cơ liên quan đến môi trường như vấn
đề nguồn nước, sự xâm nhập mặn và những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Sự mai một của các giá trị
truyền thống cũng chịu ảnh hướng đáng kể từ sự tác động này.
Sự vận động đa dạng, phức tạp của đời sống xã hội đang làm cho vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc đối với sinh viên ĐBSCL hiện nay trở nên bức xúc và hết sức cấp thiết.
Hơn thế nữa, ở ĐBSCL, trình độ học vấn của người dân lại thuộc loại thấp nhất trong cả nước, nhận
thức và tâm lý của người dân về vai trò học tập chưa cao. Điều này khiến vấn đề vốn đã bức xúc lại trở nên
bức xúc hơn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng.
Với những điều nói trên, việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên khu vực ĐBSCL hiện
nay, giúp cho các em nhận thức được, có thái độ đúng và có hành vi đúng đối với vấn đề này, nhằm nâng cao
lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, phẩm chất hiếu học…, góp phần xây dựng khu vực ĐBSCL ngày càng phát
triển hơn đang là nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với xã hội nói chung và đối với nhà trường nói riêng.
1

Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 ban chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng trung
ương Đảng, Hà Nội, tr. 22.

2

Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, tr.169.



2
Với môi trường giáo dục, để nâng cao chất lượng giáo dục và góp phần tạo ra những chuyển biến tích
cực trong bản thân lv giáo dục, thì việc phát huy những giá trị đạo đức truyền thống, tăng cường giáo dục giá
trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên tại các trường cao đẳng, đại học khu vực ĐBSCL là việc làm vô
cùng quan trọng và mang nhiều ý nghĩa.
Đó chính là lý do mà “Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên đồng bằng sông Cửu Long
hiện nay” được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận án này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
a. Mục đích:
Luận án nghiên cứu thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên ĐBSCL giai đoạn
hiện nay. Đánh giá những điểm mạnh và những hạn chế của quá trình này. Trên cơ sở phát hiện những vấn đề
bức xúc cần giải quyết, luận án xác định quan điểm định hướng và các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên ĐBSCL, đáp ứng nhu cầu mới về xây dựng và bảo vệ đất nước.
b. Nhiệm vụ:
Với mục đích trên, từ góc độ triết học, nhiệm vụ của luận án gồm:
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Hệ thống hóa và làm rõ những nội dung lý
luận về giá trị đạo đức và giáo dục giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam, làm cơ sở lý luận cho việc nghiên
cứu.
2. Xác định những nét đặc thù của văn hóa vùng quy định việc giáo dục đạo đức sinh viên ĐBSCL.
3. Nghiên cứu thực trạng việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên ĐBSCL trong thời
gian qua. Đánh giá những kết quả tích cực và xác định những vấn đề cấp bách cần tìm giải pháp khắc phục.
4. Xác định quan điểm có tính định hướng, đề xuất giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên ở ĐBSCL trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng:
Đối tượng nghiên cứu của luận án là giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên khu vực
ĐBSCL giai đoạn hiện nay.
b. Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian chủ yếu được nghiên cứu: 1995 – 2017

- Không gian: Khu vực ĐBSCL
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
a. Cơ sở lý luận
- Cơ sở lý luận của luận án là Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Cơ sở phương pháp luận của luận án là Phép biện chứng duy vật.
Luận án được thực hiện dựa trên các chỉ dẫn lý luận và phương pháp luận về con người và đạo đức, về
tồn tại xã hội và ý thức xã hội của C.Mác - Ph.Ăngghen, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong các văn kiện có liên quan trực tiếp đến đạo đức và giáo dục đạo đức.
b. Phương pháp nghiên cứu
Phù hợp với phương pháp luận biện chứng duy vật, luận án sử dụng các phương pháp logic - lịch sử,
quy nạp - diễn dịch, tổng hợp - phân tích, so sánh - đối chiếu, thống kê,…
Luận án chú trọng sử dụng các tài liệu triết học và ngoài triết học có liên quan đến chủ đề, kể cả các kết
quả nghiên cứu định lượng. Trong chừng mực có liên quan, luận án có sử dụng các tài liệu thống kê, các báo
cáo chuyên môn của các tổ chức kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, đặc biệt các số liệu từ các báo cáo của
Đoàn, Hội sinh viên các trường Cao đẳng, Đại học khu vực ĐBSCL...
Luận án có tham khảo và sử dụng lại một số nghiên cứu khảo sát thực địa, điền dã và phỏng vấn sâu tại
một số trường Đại học, Cao đẳng khu vực ĐBSCL. Luận án cũng sử dụng những thông tin của một số báo chí
chuyên ngành.
Luận án có tổ chức nghiên cứu định lượng với 1000 phiếu điều tra tại các trường Đại học Cần Thơ, Đại
học Trà Vinh, Đại học Đồng Tháp, Đại học Tiền Giang, Đại học An Giang, Đại học xây dựng Miền Tây, Đại
học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long, Đại học Cửu Long, Cao đẳng Kinh Tế - Tài chính Vĩnh Long, Cao Đẳng Sư
phạm Vĩnh Long.
5. Đóng góp khoa học của luận án
Luận án đã góp phần hệ thống hóa và làm rõ được cơ sở lý luận của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống đối với sinh viên khu vực ĐBSCL hiện nay.
Luận án đã chỉ ra được đặc thù của sinh viên của các trường cao đẳng và đại học ĐBSCL gắn liền với
đặc điểm văn hóa vùng và đặc điểm kinh tế - xã hội khu vực này.
Luận án đã phân tích và làm rõ thực trạng đạo đức và thực trạng giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các
trường cao đẳng và đại học ĐBSCL giai đoạn 1995-2017; đã xác định được 3 mâu thuẫn bao gồm các vấn đề
cấp thiết đặt ra đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên ĐBSCL hiện nay.



3
Luận án đề xuất một số quan điểm có tính định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống trong sinh viên ĐBSCL hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Góp phần cung cấp luận cứ khoa học về một số vấn đề lý luận liên quan đến giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống cho sinh viên ĐBSCL.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy… về triết học và về các lĩnh vực
có liên quan đến giáo dục giá trị đạo đức. Luận án cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, giảng
dạy những vấn đề về truyền thống và hiện đại, về sinh viên và các trường đại học, cao đẳng khu vực ĐBSCL.
7. Kết cấu của luận án: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm 4 chương 12 tiết
NỘI DUNG
Chương 1.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Những công trình nghiên cứu về đạo đức, giá trị đạo đức truyền thống và giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam nói chung, sinh viên ĐBSCL nói riêng
Đạo đức và giá trị đạo đức, truyền thống và giá trị truyền thống, giá trị đạo đức truyền thống và việc
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống... là những nội dung lý luận và thực tiễn đã được nghiên cứu nhiều, từ
các góc độ khác nhau và kết quả đã đạt được phải nói là nhiều về số lượng và có một số công trình đã đạt tới
trình độ sâu sắc, đáng trân trọng và kế thừa.
Trong luận án, chúng tôi đã tổng quan các tác phẩm có giá trị (gồm cả các chuyên khảo đã xuất bản và
các bài báo khoa học trên các tạp chí chuyên ngành) của các tác giả thuộc nhiều thế hệ như A.Sixkin,
G.Bandzeladze, Trần Văn Giàu, Phan Huy Lê, Trần Đình Hượu, Trần Hậu Kiêm, Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm
Văn Đức, Hồ Sĩ Quý, Đỗ Huy, Nguyễn Văn Phúc, Trịnh Duy Huy, Nguyễn Thế Kiệt, Trần Ngọc Thêm, Trần
Sỹ Phán, Nguyễn Văn Huyên, Cao Thu Hằng …
Một số luận án tiến sĩ trực tiếp bàn đến giá trị đạo đức, giá trị văn hoá truyền thống và xây dựng nhân
cách sinh viêncũng đã được chúng tôi chú ý khai thác; chẳng hạn như luận án của các tác giả Nguyễn Lương
Bằng, Võ Văn Thắng, Lương Gia Ban và Nguyễn Thế Kiệt, Mai Thị Dung, Phan Văn Ba, Nguyễn Thị Thanh.

Trong số các tác giả nói trên, nhiều tác giả đã có những tác phẩm bàn đến vấn đề theo hướng đối chiếu
với nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm phục vụ mục tiêu xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực. Với luận án, đây là những công trình rất có giá trị, xác lập nền móng quan trọng về mặt lý luận, gợi ý
nhiều quan niệm sâu, bức xúc, cập nhật để tác giả kế thừa và hoàn thành luận án.
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh
viên Việt Nam nói chung, sinh viên đồng bằng sông Cửu Long nói riêng
Với nội dung này, luận án đã tổng quan và chú ý khai thác tác phẩm của các tác giả như Vũ Minh Giang,
Trần Ngọc Thêm, Phạm Kim Anh, Phan Thảo, Nguyễn Thị Minh Hạnh, Nguyễn Văn Hiệu, Cao Thu Hằng
LêThị Hoài Thanh, Nguyễn Thị Loan… Các tác giả này đã có những công trình trực tiếp nghiên cứu về đạo
đức người Việt Nam nói chung và sinh viên nói riêng; hầu hết đề có mô tả và đánh giá thực trạng truyền thống
và đạo đức hiện nay. Một số ít tác giả trong số đó đã nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa vùng
ĐBSCL, đặc điểm tính cách của người Nam Bộ. Đây là những công trình gợi mở nhiều ý tưởng để tác giả thực
hiện luận án.
1.3. Những công trình nghiên cứu về phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục giá
trị đạo đức truyền thống cho sinh viên cho sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên đồng bằng sông
Cửu Long nói riêng hiện nay
Thực ra hầu hết các tác giả đều không trực tiếp đề cập đến nội dung này. Luận án chủ yếu tham khảo và
khai thác từ các gợi ý gần gũi của các tác giả như Nguyễn Văn Lý, Lê Quý Đức, Hoàng Chí Bảo, Phạm Thái
Bình, Lưu Phước Lượng, Lê Thị Hoài Thanh, Đoàn Thế Hùng, Phạm Huy Thành… để luận án đề xuất 3 quan
điểm có tính định hướng và 6 giải pháp cụ thể nhằm giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên
ĐBSCL.
1.4. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu và một số vấn đề đặt ra mà luận án cần tiếp tục giải
quyết
Kế thừa những thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, luận án đặt mục tiêu tiếp tục giải quyết những
vấn đề như sau:
- Một là, hệ thống hóa và làm rõ thêm các luận điểm lý luận về đạo đức và đạo đức truyền thống, giá trị
và giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam làm cơ sở cho việc nghiên cứu đạo đức sinh viên ĐBSCL.
- Hai là, một lần nữa xác định tầm quan trọng và ý nghĩa của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên nói chung và sinh viên ĐBSCL nói riêng.



4
- Ba là, nghiên cứu thực trạng đạo đức và việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên
ĐBSCL trong thời gian qua. Đánh giá những kết quả tích cực, những hạn chế và xác định những vấn đề cấp
bách cần tìm giải pháp khắc phục.
- Bốn là, đề xuất quan điểm có tính chất định hướng và những giải pháp cơ bản nhằm giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống cho sinh viên ở ĐBSCL trong thời gian tới.
Chương 2.
GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO SINH VIÊN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU
LONG HIỆN NAY: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. Một số quan niệm cơ bản về đạo đức, giá trị và giá trị đạo đức
2.1.1. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
2.1.1.1. Các quan niệm khác nhau về đạo đức
Luận án đã cố gắng phân tích sâu thêm chỉ dẫn lý luận của các quan niệm về Khái niệm đạo đức và về
Nguồn gốc và sự hình thành của đạo đức.
Tổng hợp các quan niệm khác nhau thì, Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm hệ thống những
nguyên tắc, quy tắc và những chuẩn mực xã hội… có chức năng điều chỉnh thái độ, hành vi và hoạt động của
mỗi người, mỗi cộng đồng trong giao tiếp và xử sự đối với các quan hệ xã hội, bao gồm cả quan hệ giữa con
người với tự nhiên, con người với chính mình, theo hướng đảm bảo sự thống nhất lợi ích giữa cá nhân, tập thể
với cộng đồng. Về nguồn gốc, đạo đức xuất hiện rất sớm khi hình thành xã hội loài người. Đạo đức có vai trò
đặc thù đối với sự hình thành và phát triển ý thức cộng đồng trong quá trình chinh phục tự nhiên và cải tạo xã
hội. Từ những tư tưởng đầu tiên về đạo đức khoảng hơn 26 thế kỷ trước đây đến thời đại ngày nay, đạo đức
vẫn có vị trí quan trọng như vậy trong đời sống tinh thân nhân loại.
2.1.1.2. Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Khảo cứu các tài liệu đã tổng quan, luận án khẳng định, từ cổ đại đến hiện đại, từ phương Đông đến
phương Tây, sự hiện diện của đạo đức luôn luôn là cần thiết, tất yếu với chức năng là những chuẩn mực điều
chỉnh tư tưởng, hành vi và hoạt động của con người. Đạo đức có vai trò không thể thay thế: Thứ nhất, đạo đức
là một trong những phương thức cơ bản để điều chỉnh tư tưởng, hành vi và hoạt động của con người. Thứ hai,
đạo đức có khả năng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội. Thứ ba, đạo đức quy định tính nhân đạo
của sự tồn tại người và ý nghĩa của xã hội loài người.

2.1.2. Giá trị và giá trị đạo đức
2.1.2.1. Khái niệm Giá trị
Giá trị là khái niệm không dễ hiểu đúng. Dựa vào các tác giả đi trước luận án xác định, Giá trị là một
phạm trù triết học, phản ánh ý nghĩa của sự vật, hiện tượng và những thuộc tính của chúng đối với con người,
bao gồm cả cá nhân, cộng đồng và xã hội. Giá trị là phương thức thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần phong
phú của con người. Bằng cách đó, giá trị thể hiện mục đích sống của con người và xã hội loài người.
2.1.2.2. Khái niệm giá trị đạo đức
Khái quát các quan niệm đã có, luận án phân tích và xác định, Giá trị đạo đức là bộ phận quan trọng cấu
thành hệ giá trị tinh thần của đời sống xã hội. Giá trị đạo đức là ý nghĩa xã hội của những chuẩn mực, những
khuôn mẫu, những qui tắc ứng xử được lựa chọn bởi con người và cộng đồng nhằm điều chỉnh và đánh giá
hành vi ứng xử giữa con người với con người, con người với xã hội. Điều đó thể hiện: 1). Giá trị đạo đức là là
cái xác định ý nghĩa tích cực của sự phát triển, sự tiến bộ thuộc xã hội và bản thân con người - cái thỏa mãn
ngày càng cao hơn, phong phú hơn nhu cầu và lợi ích của con người. 2). Giá trị đạo đức là ý nghĩa xã hội của
những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng. Do vậy, giá trị đạo đức không chết cứng mà luôn vận động
biến đổi do sự vận động, biến đổi chung của đời sống kinh tế - xã hội quy định. 3). Giá trị đạo đức được hình
thành ở mỗi cá nhân và cộng đồng, nhưng luôn phụ thuộc vào việc cộng đồng, xã hội chấp nhận được ở mức
nào những vận động biến đổi của đạo đức cá nhân.
2.2. Giá trị đạo đức truyền thống và tầm quan trọng trong việc giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho sinh viên ĐBSCL hiện nay
2.2.1. Khái niệm truyền thống, giá trị truyền thống, giá trị đạo đức truyền thống và giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống
2.2.1.1. Truyền thống và giá trị truyền thống
Truyền thống không phải là khái niệm có nhiều khác biệt cần tranh cãi. Điều khác biệt nhiều nhất chỉ là
có hay không “truyền thống tiêu cực”. Từ quan niệm của các nhà nghiên cứu đi trước, luận án xác định,
“truyền thống là hiện tượng xã hội, được hình thành trong lịch sử (có thể không thật dài lâu) trở thành những
khuôn mẫu văn hóa, bao gồm cả những đức tính, thói quen, phong tục tập quán, lối sống và cách ứng xử của
con người. Truyền thống mang tính ổn định và được chuyển giao từ thế hệ này qua thế hệ khác”. Đặc trưng
của truyền thống là có tính ổn định, tính cộng đồng và tính lưu truyền. Nói đến truyền thống là nói đến một
cộng đồng người nhất định, phản ánh bản sắc của cộng đồng. Truyền thống có thể đi sâu vào tâm lý, vào nếp
cảm, nếp nghĩ và phong tục tập quán của mỗi người, cộng đồng. Giá trị truyền thống, do vậy có ý nghĩa và tác



5
dụng rất bền vững đối với cộng đồng. Với dân tộc Việt Nam, hệ giá trị truyền thống là hệ giá trị mạnh, được
đúc kết hàng ngàn năm trong lịch sử dân tộc, nên luôn đóng vai trò là hành trang tinh thần, là vũ khí sắc bén để
các thế hệ sau đảm được sứ mệnh xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
2.2.1.2. Giá trị đạo đức truyền thống và giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam được hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước, là sự kết
tinh từ những phẩm chất tích cực nhất của các quan hệ xã hội trong lịch sử. Ý nghĩa xã hội của các chuẩn mực,
khuôn mẫu, cách thức quan hệ của con người được hun đúc trong suốt tiến trình lịch sử của dân tộc, khi được
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác đã trở thành những định hướng sáng suốt và nhân văn, đày tiềm năng
dẫn tới thành công.
Trên cơ sở phân tích đặc trưng của khái niệm giáo dục, truyền thống, luận án xác định và phân tích các
vấn đề lý luận về giáo dục giá trị đạo đức truyền thống. Nếu truyền thống là cái được hình thành trong lịch sử
đã trở thành những thói quen, phong tục, phong cách ứng xử… đóng vai trò là khuôn mẫu văn hóa cho quan hệ
của con người, thì giáo dục giá trị đạo đức truyền thống là quá trình đưa những những giá trị quý báu, những
phẩm chất tốt đẹp, những khuôn mẫu đạo đức điển hình… của đạo đức truyền thống dân tộc thâm nhập vào
đối tượng được giáo dục, tức là vào các cá nhân, biến những nét tốt đẹp truyền thống thành những định hướng
hành vi cho thế hệ đương thời. Bản chất của giáo dục giá trị đạo đức truyền thống là làm cho mọi hành vi của
con người hiện đại đều có sự thẩm thấm của tính nhân văn trong giá trị truyền thống.
2.2.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên ĐBSCL hiện nay
2.2.2.1. Một số đặc điểm của sinh viên nói chung và sinh viên ĐBSCL nói riêng
Sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, là lực lượng kế tục và phát huy nguồn lực trí tuệ của đất nước. Sinh
viên các trường Đại học, Cao đẳng khu vực ĐBSCL đa số xuất thân từ nông thôn, ở những vùng quê đời sống
kinh tế còn nhiều khó khăn. Chỉ một số ít xuất thân từ thành thị và thường là con em của cán bộ, công chức nhà
nước. Sinh viên ĐBSCL có tất cả những đặc điểm chung của sinh viên Việt Nam như: có tinh thần yêu nước,
có truyền thống hiếu học, v.v.. Bên cạnh đó, sinh viên ĐBSCL còn có những đặc điểm tương đối đặc thù như:
đa số các em ngoan, hiền, trung thực, thật thà, chăm chỉ và trong sáng - đặc trưng của người Nam Bộ.
2.2.2.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên
Các tài liệu đều khẳng định, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên luôn có ý nghĩa vô cùng

quan trọng. Tuy vậy, việc phân tích tầm quan trọng và ý nghĩa không thay thế được của giá trị đạo đức truyền
thống, thường được các tác giả lý giải khác nhau. Luận án một lần nữa phân tích và khẳng định rằng:
Một là, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống trực tiếp tác động làm hoàn thiện nhân cách cho sinh
viên.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác chăm sóc, bồi dưỡng, giáo dục cho thanh
niên. Người đặc biệt chú trọng đến vấn đề giáo dục đạo đức để hình thành nhân cách cho sinh viên. Trong giai
đoạn hiện nay, trước xu thế hội nhập, phát triển và bùng nổ thông tin, thì vấn đề giáo dục đạo đức, hình thành
và phát triển nhân cách sinh viên càng trở nên phức tạp, khó khăn và cần thiết hơn bao giờ hết.
Hai là, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống là phương thưc tự nhiên giúp sinh viên thêm yêu quê
hương, đất nước, tăng cường trách nhiệm, bản lĩnh và lập trường chính trị trước mọi diễn biến của đời sống
xã hội.
Sinh viên là những người thuộc lớp chủ nhân của tương lai, kế tục sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát
triển đất nước. Trên thực tế, họ không tránh khỏi trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực thù địch. Chúng
lợi dụng sinh viên là tầng lớp suy nghĩ còn bồng bột, dễ mắc các sai phạm về đạo đức, tệ nạn xã hội, nên có thể
lợi dụng, kích động, lôi kéo vào các hành vi gây rối, vi phạm pháp luật, nhằm làm xói mòn niềm tin của sinh
viên đối với Đảng và đất nước. Chính vì vậy, bên cạnh việc dạy chữ, rèn luyện nghề nghiệp, thì việc dạy “làm
người”, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên hiện nay đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ
hết.
Ba là, giá trị đạo đức truyền thống trên thực tế là nền tảng tinh thần để sinh viên tự điều chỉnh tư tưởng
và tâm hồn mình trước mọi tác động của đời sống, đặc biệt trước sự tác động từ mặt trái của kinh tế thị
trường, từ sự tấn công của các giá trị ngoại sinh không phù hợp
Trước sự tác động của mặt trái của kinh tế thị trường, của những phản giá trị trong mở cửa hội nhập,
một số giá trị truyền thống của dân tộc đã vô tình bị xem nhẹ hoặc bị coi thường. Ngày nay, chủ nghĩa cá nhân
và lối sống thực dụng đang lây lan, quan hệ thực dụng giữa người với người đang làm mai một dần những giá
trị tốt đẹp của đạo đức truyền thống. Trong tình hình đó, việc khơi dậy tình người, lòng yêu thương và tinh
thần giúp đỡ lẫn nhau có ý nghĩa nhất định. Việc nhận thứcmột cách sâu sắc giá trị đạo đức truyền thống, do
vậy, là yêu cầu quan trọng đối với việc giáo dục giá trị đạo đức cho sinh viên.
2.3. Một số giá trị đạo đức truyền thống cơ bản cần giáo dục cho sinh viên Đồng bằng sông Cửu
Long hiện nay



6
Phù hợp với mục tiêu và sứ mệnh của nền giáo dục đại học ở nước ta hiện nay, luận án xác định nội
dung các giá trị đạo đức truyền thống mà hiện nay cần được chú trọng giáo dục cho sinh viên đồng bằng sông
Cửu Long bao gồm: Yêu nước; Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng; Lòng nhân ái, khoan dung, yêu
thương con người; Tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo; và Yêu lao động, cần cù, tiết kiệm. Trong bảng giá trị
tinh thần dân tộc, đó là các giá trị đa tầng, nhiều mặt. Nhưng trong khuôn khổ của chương trình giáo dục đạo
đức truyền thống thì đó trước hết là các giá trị đạo đức, hay nói cách khác, chúng tồn tại với tính cách là các
giá trị đạo đức.
Kết luận chương 2
Chương 3.
THỰC TRẠNG VIỆC GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO SINH VIÊN ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên đồng
bằng sông Cửu Long hiện nay
3.1.1. Ảnh hưởng của điều kiện địa lịch sử, tự nhiên đến việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
ĐBSCL nằm trên địa hình bằng phẳng, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch dày đặc, thuận lợi cho ngư
nghiệp, trồng lúa nước và giao thông thủy vào bậc nhất Việt Nam. Tuy quá trình chinh phục cũng đầy rẫy gian
khổ, hy sinh, nhưng một đồng bằng rộng lớn, trù phú, khí hậu tốt, và hầu như không có thiên tai… đã ghi dấu
ấn vào đời sống con người và lịch sử cộng đồng.
Từ cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, cư dân Việt Nam đã đến khai thác vùng đất Nam Bộ. Đó là những
dân nghèo nhưng đầy ý chí từ nhiều vùng khác nhau từ miền bắc và miền trung đến để tìm chốn nương thân,
lập nghiệp. Tiếp đó là binh lính, viên chức nhà Nguyễn đi khai hoang lập ấp tìm vùng đất mới. Chính những
điều kiện lịch sử khai phá thiên nhiên, tạo dựng quan hệ xã hội, tiếp thu văn hóa mới… đã tác động đến tư duy,
lối sống, quan điểm của con người khu vực ĐBSCL, tạo thành đặc trưng phẩm cách người Nam Bộ. Thứ nhất,
đó là đức tính dũng cảm, táo bạo. Thứ hai, người Nam Bộ cần cù, năng động, sáng tạo… sẵn sàng thích ứng
với mọi hoàn cảnh. Thứ ba, tính cách Nam Bộ là đoàn kết, nghĩa hiệp, đùm bọc nhau. Thứ tư, người Nam Bộ
tự do, bao dung, phóng khoáng.
Tuy vậy, chính vì được thiên nhiên ưu đãi nên người dân vùng đất này dễ rơi vào lối sống dễ dãi, hoang

phí... Tính phóng khoáng nên dễ tiếp thu cái mới, cái tiến bộ nhưng cũng có thể dễ tiếp thu cả cái phản giá trị,
cái không tích cực từ bên ngoài.
3.1.2. Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh
viên Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
Từ khi đổi mới, mở cửa, kinh tế ĐBSCL có sự khởi sắc đáng kể, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tích cực, đời sống người dân ngày càng được nâng cao. Đến nay kinh tế ĐBSCL đã đạt tới tốc độ tăng trưởng
cao hơn cả nước (năm 2015 tăng 7,8% trong khi cả nước tăng 6,8%). 56% sản lượng lúa cả nước với 90% sản
lượng xuất khẩu gạo của cả nước là thuộc về ĐBSCL.
Tuy thế ĐBSCL dù sản xuất lúa nhiều nhất, nhưng nông dân lại không giàu, giá trị xuất khẩu gạo thấp
khiến cho lợi nhuận đôi khi tỷ lệ nghịch với lao động. Nhiều sản phẩm thủy sản, cây ăn quả… của ĐBSCL
cũng tương tự. Tại vùng này, tuy hệ thống giao thông đã được đầu tư nhưng chưa hoàn thiện, hạ tầng ứng phó
với biến đổi khí hậu còn nhiều bất cập… Về thu nhập, ĐBSCL nghèo hơn cả nước (40,2 triệu đồng
đồng/người/năm, trong khi cả nước là 47,9 triệu).
Tất cả những thực trạng kinh tế đó đã gây nhiều khó khăn cho đời sống người dân, trong đó có sinh
viên, tác động ít nhiều tiêu cực đến đời sống tinh thần và cản trở việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
sinh viên khu vực này.
3.1.3. Ảnh hưởng của tôn giáo, văn hóa, giáo dục đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
Nằm ở ngã tư giao nhau giữa các luồng văn hóa, dân cư ĐBSCL đa dạng về chủng tộc và văn hóa, tín
ngưỡng... Suốt ba thế kỷ nay, các dân tộc khu vực này sống với nhau trong sự chấp nhận sự đa dạng văn hóa
đã tạo thành phong cách sống bao dung, hòa thuận trong một khối văn hóa thống nhất. Sinh hoạt tín ngưỡng,
tôn giáo của người dân ĐBSCL có tính hỗn dung và hòa hợp tôn giáo khá rõ.
Xuyên qua những đặc điểm văn hoá nổi bật, ĐBSCL là khu vực của các giá trị thống nhất cộng đồng:
yêu nước, thương người, trọng nghĩa; sẵn sàng xả thân vì sự công bằng bình đẳng; thông minh, cần cù, đoàn
kết... Đây chính là những giá trị đạo đức - văn hoá đặc thù Nam Bộ trong “nền văn hoá thống nhất mà đa
dạng” của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Về nguồn lực lao động của ĐBSCL: so với cả nước thì thực trạng giáo dục đào tạo và đào tạo nguồn
nhân lực khu vực ĐBSCL còn nhiều yếu kém và hạn chế. Cơ cấu đào tạo bất hợp lý dẫn đến tình trạng “thừa
thầy, thiếu thợ”. Nội dung chất lượng đào tạo chưa cao, chưa sát với nhu cầu thực tế. Nhiều lao động trẻ sau
khi tốt nghiệp các trường nghề, cao đẳng, thậm chí đại học, vẫn không có cả kỹ năng lẫn kiến thức để làm việc.



7
Điều này đã dẫn đến tình trạng, nhiều doanh nghiệp tại các tỉnh trong vùng vẫn thiếu lao động dù vẫn có một
tỷ lệ đáng kể người thất nghiệp. Lao động phổ thông thừa nhưng khó tìm được việc làm với thu nhập lương
thỏa đáng.
Ở ĐBSCL có tình trạng tương phản giữa nhu cầu phát triển kinh tế ngày càng cao với trình độ học vấn,
khoa học công nghệ còn thấp. Hiện tại ĐBSCL vẫn có từ 10% đến 12% dân số từ 7 tuổi trở lên không biết chữ,
người có học vấn cao trong nông thôn chiếm một tỷ lệ hết sức nhỏ.
Những đặc điểm này tác động trực tiếp và trở thành những thách thức đáng kể đối với việc giáo dục giá
trị đạo đức cho sinh viên khu vực ĐBSCL hiện nay.
3.2. Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống đối với sinh viên Đồng bằng sông Cửu Long
nói riêng hiện nay
Sinh viên các trường đại học, cao đẳng khu vực ĐBSCL đa số xuất thân từ nông thôn, ở những vùng
quê đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn. Sự đa dạng về văn hóa của người dân nơi đây đã tạo ra lớp sinh viên
đa dạng về cách ăn mặc, ngôn ngữ, sinh hoạt, các lễ nghi, tín ngưỡng.
3.2.1. Những thành tựu đạt được từ phía chủ thể trong việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống của
sinh viên Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
Luận án đã khảo sát thực tế (với 1000 phiếu điều tra tại các trường Đại học Cần Thơ, Đại học Trà Vinh,
Đại học Đồng Tháp, Đại học Tiền Giang, Đại học An Giang, Đại học xây dựng Miền Tây, Đại học Sư phạm
Kỹ thuật Vĩnh Long, Đại học Cửu Long, Cao đẳng Kinh Tế - Tài chính Vĩnh Long, Cao Đẳng Sư phạm Vĩnh
Long). Kết quả thu được như sau:
Về vai trò của gia đình trong việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên ĐBSCL hiện
nay: Số liệu cho biết, gia đình ở khu vực này vẫn luôn chú trọng giáo dục cho thế hệ trẻ những quy tắc ứng xử,
những giá trị đạo đức truyền thống. Các giá trị yêu nước, đoàn kết, cần cù, tiết kiệm, yêu thương con người,
hiếu học… đều là những giá trị được chú ý giáo dục. Không ngẫu nhiên, sinh viên khu vực này luôn xem gia
đình là quan trọng nhất với mỗi người và luôn có trách nhiệm với ông bà, cha mẹ, anh, chị em trong gia đình.
Về trách nhiệm của phía lãnh đạo nhà trường và các tổ chức đoàn thể các trường đại học, cao đẳng khu
vực ĐBSCL đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên hiện nay: Số liệu cho thấy: Đảng
uỷ, Ban giám hiệu, Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên các trường đại học và cao đẳng khu vực ĐBSCL ở tất cả

các trường được khảo sát đã có sự phối hợp triển khai tổ chức các hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo
đức lối sống văn hóa và thể thao ngoại khóa cho sinh viên. Công tác giáo dục về lòng yêu nước, lòng nhân ái
yêu thương con người hay đức tính cần cù, tiết kiệm, đoàn kết, giáo dục pháp luật, giáo dục lối sống cho sinh
viên được triển khai và hoạt động có với nhiều hình thức rất đa dạng.
3.2.2. Những kết quả đạt được từ phía sinh viên khu vực ĐBSCL trong việc giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống hiện nay
Về việc giáo dục đạo đức truyền thống, tác giả luận án đã tiến hành khảo sát theo 5 giá trị cụ thể 1).
Lòng yêu nước; 2). Lòng nhân ái, nhân nghĩa, tình yêu thương con người; 3). Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng
đồng; 4). Đức tính cần cù, tiết kiệm, sáng tạo; 5). Tinh thần hiếu học. Kết qủa điều tra cho thấy, đa số sinh
viên các trường đại học, cao đẳng khu vực này đều nhận thức được sự cần thiết và xác định được tầm quan
trọng của việc giáo dục đạo đức lối sống trong điều kiện hiện nay. Tất cả đều thừa nhận, 5 giá trị đạo đức nói
trên nói chung đã được các trường bằng cách này hay bằng cách khác chú trọng đưa vào kế hoạch giáo dục.
Kết quả nhận thức không thể nói là không tích cực. Tuy nhiên, hạn chế và yếu kém cũng tồn tại thực tế và rất
phổ biến.
3.2.3. Hạn chế trong công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống của sinh viên khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long
3.2.3.1. Những hạn chế từ phía Đảng ủy, Ban giám hiệu, Giáo viên giảng dạy, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên các trường đại học, cao đẳng khu vực ĐBSCL đối với việc giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống cho sinh viên hiện nay.
Đảng ủy, BGH, lãnh đạo các Phòng Khoa Bộ môn và các tổ chức đoàn thể của nhà trường đôi lúc có
cách nhìn đơn giản, đặc biệt là công tác nắm bắt tình hình tư tưởng trong sinh viên thường chưa kịp thời, chỉ
mang tính hình thức mà chưa đi sâu sát và trực tiếp giáo dục cho sinh viên cho có hiệu quả. Sự phối hợp giữa
các tổ chức trong các trường về giáo dục tri thức nói chung, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nói riêng
chưa đồng bộ. Chính vì thế nên chưa có biện pháp, cách thức phù hợp để định hướng cho sinh viên về mặt tư
tưởng và hành động. Nguồn lực, phương tiện, tài liệu phục vụ cho công tác truyên truyền giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống còn nhiều thiếu và chưa phù hợp với yêu cầu.
Công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên, nói chung còn mang nặng tính phong trào,
chưa chú trọng đến chất lượng. Các tổ chức đoàn thể trong công tác giáo dục đạo đức còn lúng túng, thiếu giải
pháp sáng tạo. Nói chung rất khó kết luận về tác dụng thực sự của công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống trong việc xây dựng nhân cách và lý tưởng sống cho sinh viên.

Do cấu trúc gia đình các dân tộc sinh sống trên khu vực ĐBSCL đang có sự biến đổi. Kinh tế thị trường
đã làm cho sự thay đổi trong đời sống gia đình của người dân nơi đây theo hướng Tây hoá, Kinh hoá. Nhiều


8
gia đình tập trung vào kiếm tiền mà phần nào quên đi việc học hành của con cái, thậm chí có gia đình khi được
hỏi không biết con mình học lớp mấy. Tính cách “mở và thoáng” của người dân nơi đây đã khiến cho văn hóa
ngoại lai, tiêu cực rất dễ xâm nhập vào vùng đất này.
3.2.3.2. Những hạn chế của sinh viên Đồng bằng sông Cửu Long đối với việc giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống trong giai đoạn hiện nay
Thứ nhất, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam như “lòng nhân ái, nhân nghĩa, yêu
thương con người”; “tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng”; “đức tính cần cù, tiết kiệm, sáng tạo”; “tinh thần
hiếu học”; ngày càng bị mai một do ảnh hưởng từ mặt trái của kinh tế thị trường và từ những tiêu cực trong xã
hội. Các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc bị mai một và đôi khi trở thành sự bất lực trước thực tế. Một
bộ phận sinh viên sống thiếu mục đích, lý tưởng, thiếu bản lĩnh, vô trách nhiệm với gia đình, với xã hội. Các tệ
nạn xã hội ở sinh viên ĐBSCL ngày càng nhiều. Quan hệ tình bạn, tình yêu trong một bộ phận sinh viên có
những xu hướng thực dụng, phóng túng thiếu trách nhiệm. Hiện tượng “sống thử” trong sinh viên diễn ra ngày
càng tăng, quan hệ tình dục và nạo phá thai trước hôn nhân trong một số nữ sinh đã tạo ra dư luận không tốt.
Thứ hai, vẫn còn một số sinh viên có nhận thức chưa đúng đắn về đường lối của Đảng, chính sách của
nhà nước, dễ bị lôi kéo kích động, bị các thế lực thù địch lợi dụng. Khả năng đề kháng của sinh viên trước các
vấn đề xã hội thực sự là yếu. Một bộ phận thanh niên lười học, lười lao động, ham chơi, sống đua đòi... Đây là
điều kiện dẫn đến tệ nạn, phạm pháp. Hơn nữa, các thế lực thù địch trong và ngoài nước những năm gần đây
đã tăng cường lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng, chia rẽ khối đoàn kết dân
tộc.
Thứ ba, bên cạnh đại đa số sinh viên chăm chỉ học tập, tham gia các hoạt động xã hội và ý thức cộng
đồng vẫn còn một bộ phận sinh viên chưa có ý thức chấp hành kỷ luật trong học tập, còn một số sinh viên vi
phạm quy chế như đi học trễ, về sớm hoặc bỏ học không lý do, nghỉ học quá tiết quy định, không có bài kiểm
tra giữa môn. Số sinh viên không đủ điều kiện để dự thi kết thúc môn học, có thái độ gian lận trong thi cử, cờ
bạc, uống rượu trong ký túc xá…. ngày càng tăng, làm ảnh hưởng đến công tác quản lý sinh viên.
3.2.4. Nguyên nhân

3.2.4.1. Nguyên nhân của những thành tựu
Thứ nhất, được sự quan tâm của các chủ thể giáo dục. Thứ hai, đa phần sinh viên các trường đại học,
cao đẳng có lòng yêu nước và tự hào dân tộc. Truyền thống văn hoá và đạo đức tốt đẹp của dân tộc nói chung
đã hình thành một cách tự nhiên và được xác lập trong sinh viên ĐBSCL. Thứ ba, Sinh viên về cơ bản là
những người sống có mục đích, có lý tưởng tốt đẹp. Thứ tư, đa số sinh viên có ý thức chủ động, tích cực học
tập, nghiên cứu khoa học vì “ngày mai lập thân, lập nghiệp”. Thứ năm, phần lớn sinh viên hiện nay năng động,
nhạy cảm với cái mới, biết hướng hoạt động sống của mình về một tương lai tốt đẹp, nhiệt tình với các hoạt
động của xã hội, có tinh thần tương thân tương ái vì cộng đồng, dễ thích nghi trước những biến đổi về kinh tế,
văn hoá xã hội của đất nước. Thứ sáu, được sự quan tâm, động viên và chỉ đạo kịp thời của và sự hỗ trợ và
hướng dẫn kịp thời của tổ chức đoàn, hội cấp trên. Sự linh hoạt phối hợp với Đoàn thanh niên và các phòng
khoa, chức năng, tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của tổ chức Hội sinh viên các trường bạn và sự nhiệt tình tham
gia hưởng ứng của đông đảo sinh viên.
3.2.4.2. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan, luận án chú trọng
đến mấy nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất, trong nhận thức, thực ra nhà trường chưa thấy hết tính cấp thiết và tầm quan trọng của công
tác giáo dục đạo đức truyền thống (dù về lý thuyết thì ngược lại). Thông thường các trường đều vô tình xem
nhẹ công tác giáo dục văn hoá lối sống cho sinh viên mà chỉ quan tâm chú trọng vào việc khác, tạo ra sự phát
triển thiếu đồng bộ. Thứ hai, quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế đã làm xuất hiện nhiều vấn đề mà xã
hội chưa lường hết được. Sự tác động tiêu cực của quá trình phát triển đã đến làm nảy sinh các vấn đề đạo đức.
Thứ ba, với nhiều lý do khác nhau, không ít gia đình phó thác việc giáo dục con em mình cho nhà trường, cho
xã hội. Thứ tư, nguyên nhân từ sự chống phá của các thế lực thù địch. Hiện nay các thế lực thù địch đang tìm
mọi cách tấn công lớp trẻ về văn hoá, đạo đức, lối sống. Thứ năm, ý thức chấp hành nội quy quy chế của một
số ít sinh viên chưa cao, tình trạng vi phạm nội quy phòng thi, vi phạm nội quy ký túc xá.... khá phổ biến. Thứ
sáu, các hoạt động của Đoàn, Hội còn nhiều hạn chế. Một số hoạt động rất hình thức, chưa thu hút được sự
quan tâm thực sự của hội viên, sinh viên; nội dung hoạt động chưa đi vào chiều sâu, hiệu quả chưa cao.
3.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Đồng
bằng sông Cửu Long hiện nay.
Bằng sự phân tích định tính và định lượng, luận án cho rằng, những hạn chế trong việc giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống cho sinh viên ĐBSCL trong giai đoạn hiện nay thể hiện trong những mâu thuẫn:

3.3.1. Mâu thuẫn giữa việc giữ gìn bản sắc dân tộc với nhu cầu mở cửa, hội nhập, giao lưu quốc tế.
3.3.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên
khu vực ĐBSCL hiện nay với thực tế còn nhiều hạn chế và bất cập, nhất là từ phía chủ thể giáo dục.


9
3.3.3. Mâu thuẫn giữa yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại trong giáo dục đạo đức giá trị đạo đức
truyền thống cho sinh viên hiện nay.
Những mâu thuẫn này trong thực tế được biểu hiện thành những vấn đề đang gây bức xúc đối với sự
nghiệp giáo dục nói chung và đối với công tác giáo dục giá trị đạo đức nói riêng:
1) Một số giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc đang có nguy cơ mai một.
2) Lòng yêu nước, giá trị cao nhất trong hệ giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam đang bị một bộ phận
sinh viên ĐBSCL nhận thức một cách mơ hồ, sai lệch.
3) Xu hướng xem nhẹ, phủ nhận các giá trị đạo đức truyền thống, chạy theo lối sống thực dụng, cá
nhân chủ nghĩa… là có thực.
4) Có hiện tượng tuyệt đối hóa, áp đặt máy móc một số giá trị đạo đức truyền thống.
5) Quan niệm sống lệch lạc về giá trị đã xuất hiện; ngày càng nhiều những hiện tượng phản giá trị xuất
hiện trong đời sống xã hội.
6) Đã xuất hiện hiện tượng sùng ngoại, lai căng, mất gốc, xa rời những giá trị đạo đức truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu một cách mù quáng những sản phẩm văn hoá không lành mạnh, lối sống
không phù hợp. Một bộ phận không nhỏ thanh niên có biểu hiện đề cao quá mức cái cá nhân, có thái
độ bàng quan, vô cảm đối với cộng đồng.
7) Một số phong trào có ý nghĩa đối với giáo dục đạo đức sinh viên còn mang tính chất thời vụ, chủ
yếu chỉ thu hút được sinh viên nội trú.
8) Lòng yêu thương con người, đùm bọc, giúp đỡ nhau lúc khó khăn đôi khi bị lạm dụng thành hành vi
che giấu những biểu hiện sai trái, thậm chí phạm pháp của người thân, bạn bè.
Kết luận chương 3
Chương 4.
QUAN ĐIỂM CÓ TÍNH ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG

CHO SINH VIÊN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
4.1. Quan điểm có tính định hướng để nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
sinh viên ĐBSCL hiện nay
Nhằm giải quyết các vấn đề cấp thiết đặt ra từ thực tế, luận án mạnh dạn đề cuất một số quan điểm có
tính định hướng như sau:
4.1.1. Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên ĐBSCL là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu
dài.
Xuất phát từ đặc thù của việc giáo dục giá trị đạo đức và thực trạng của việc sinh viên ĐBSCL tiếp thu,
kế thừa, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, luận án cho rằng giáo giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên là công việc đặc thù, rất cần phải làm ngay nhưng lại không thể nóng vội đốt cháy giai đoạn.
Trong chương trình giáo dục của các trường đại học hiện nay thực tế vẫn còn nặng về dạy chữ, mà nhẹ về dạy
người, dạy đạo đức. Do đó, nếu không coi là nhiệm vụ cấp bách thì sự nghiệp giáo dục có thể chịu hậu quả.
Mặc dù vậy, để thực hiện mục tiêu giáo dục nói chung, mục tiêu giáo dục đại học nói riêng, nếu quá máy móc,
nóng vội trong giáo dục đạo đức thì hiệu quả cũng sẽ không cao, thậm chí thất bại.
Tác giả luận án cho rằng: giáo dục đạo đức cho sinh viên là nhiệm vụ cấp bách vì tính thời sự, vì độ
“nóng” của vấn đề; còn là nhiệm vụ lâu dài vì đây là nhiệm vụ rất căn bản đối với mọi chiến lược phát triển
bền vững.
Giáo dục đạo đức cho sinh viên, trên thực tế, đòi hỏi các cấp, các ngành và toàn xã hội phải có sự quan
tâm thỏa đáng và có trách nhiệm, trong đó nhà trường đóng vai trò quan trọng, quyết định đối với sự thành
công hay thất bại của việc thực hiện nhiệm vụ có tính chất chiến lược này.
4.1.2. Cốt lõi của giáo dục giá trị đạo đức truyền thống là giáo dục các giá trị nhân văn
Trong vấn đề giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên, vấn đề là ở chỗ, biểu hiện của các
giá trị đạo đức truyền thống có thể thay đổi. Bản thân một số giá trị cũng có thể thay đổi. Nhưng tính nhân văn
của các giá trị đạo đức truyền thống là cái cần được giữ gìn, bảo vệ và phát huy trong bối cảnh mới. Đó cũng
là một trong những định hướng cơ bản trong công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho sinh
viên Việt Nam nói chung, sinh viên ĐBSCL nói riêng.
4.1.3. Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống không tách rời với giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh
Giáo dục tư tưởng, đạo đức lối sống không tách rời với giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh – quan điểm có tính định hướng này nhằm xây dựng bản lĩnh chính trị cho sinh viên, giúp sinh viên

có thể ứng phó với mọi biến đổi phức tạp của cuộc sống. Mục đích của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
cho sinh viên là truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyên truyền chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, qua đó làm hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa
học nhân sinh quan cho sinh viên, có lối sống lành mạnh.


10
4.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
sinh viên ĐBSCL hiện nay
4.2.1. Nâng cao phẩm chất nhà giáo, chất lượng giảng dạy lý luận chính trị các trường đại học, cao
đẳng tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
Công tác giảng dạy lý luận chính trị là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng lý luận của
Đảng, thông qua giảng dạy lý luận chính trị giúp từng bước nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ,
giữ vững bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp cho sinh viên. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh giúp cho sinh viên định hướng và xử lý các tình huống chính trị trong thực tiễn công tác
và trong đời sống.
4.2.2. Tăng cường vai trò của các tổ chức đoàn thể đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên Đồng bằng sông Cửu Long
Môi trường giáo dục trong nhà trường tác động trực tiếp đến sự hình thành, phát triển nhân cách, lối
sống sinh viên. Vì thế cần phải nâng cao vai trò của các tổ chức Đảng, Ban giám hiệu, Đoàn thanh niên và Hội
sinh viên trong việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống nhằm xây dựng lối sống mới cho sinh viên hiện nay.
Để nâng cao nhận thức về công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên hiện nay chúng
tôi cho rằng, cần phải thực hiện một số vấn đề: 1). Xác định rõ trách nhiệm của Đảng uỷ, Ban giám hiệu, các
khoa đào tạo, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên và giáo viên trong việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
sinh viên. Vì vậy, đưa nhiệm vụ giáo dục giá trị đạo đức truyền thống vào nghị quyết của các cấp uỷ Đảng, vào
kế hoạch đào tạo của từng khoa, vào chương trình hành động của Đoàn, Hội sinh viên. 2). Nâng cao nhận thức
của cán bộ, đảng viên, sinh viên về vị trí, vai trò, yêu cầu của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống. 3).
Các Chi bộ sinh viên đang dần khẳng định vai trò của mình là hạt nhân lãnh đạo chính trị trong các lĩnh vực
học tập, hoạt động phong trào của sinh viên. Mỗi đảng viên sinh viên là hạt nhân kiên định về chính trị, tư
tưởng, gương mẫu trong học tập, sinh hoạt và rèn luyện đạo đức, gần gũi và đồng đẳng với sinh viên để có ảnh

hưởng tích cực đến sinh viên trong lớp, trong trường. 4). Cần phải xác định một cách rõ ràng, chính xác, đúng
đắn những nội dung truyền thống cần phải giáo dục cho sinh viên hiện nay phù hợp với điều kiện kinh tế, xã
hội, văn hoá, truyền thống của trường, của địa phương và của cả khu vực.
4.2.3. Đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục giá trị đạo đức truyền thống bằng các
hoạt động mang ý nghĩa chính trị thực tiễn
Để công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên qua các hình thức hoạt động mang ý
nghĩa chính trị - xã hội - thực tiễn đạt hiệu quả cao, các trường và Đoàn thanh niên, Hội sinh viên cần phải đa
dạng hóa về hình thức, phong phú về nội dung, sâu sắc về ý nghĩa tư tưởng phải được coi là mục tiêu hàng đầu
của các hình thức hoạt động giáo dục này. Để làm được điều đó đạt hiệu quả cao, Nhà trường cần chú ý giải
quyết tốt các vấn đề sau: 1). Thông qua tuần học giáo dục công dân cho sinh viên đầu khoá. 2). Tổ chức nhiều
cuộc thi tìm hiểu lịch sử truyền thống về lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung và những tấm gương tiêu biểu
của khu vực ĐBSCL nói riêng.3). Sinh hoạt văn nghệ truyền thống thông qua các ngày lễ lớn của đất nước. 4).
Phong trào sinh viên tình nguyện kết hợp với phòng trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”. 5). Tổ
chức du lịch tham quan các di tích lịch sử.
4.2.4. Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống thông qua phương pháp nêu gương
Trong giai đoạn hiện nay, khi những biểu hiện tiêu cực trong đời sống xã hội đang là vấn đề nhức nhối,
khi sự tác động của các trào lưu từ bên ngoài có ảnh hưởng không nhỏ tới ý thức và hành vi đạo đức của sinh
viên thì hiệu quả của phương pháp giáo dục đạo đức bằng nêu gương thật sự có ý nghĩa. Phương pháp nêu
gương sẽ tác động vào ý thức con người bằng chính những tấm gương người tốt, việc tốt. Những tấm gương
này là tiêu biểu, hiện thân của các giá trị, chuẩn mực đạo đức cao đẹp.
ĐBSCL là vùng đất sản sinh ra nhiều người con ưu tú của dân tộc. Đó là những người thông minh, tài
trí, luôn năng động sáng tạo và đi đầu trong mọi lĩnh vực; là tấm gương sáng cho thế hệ sau, đặc biệt lớp người
sinh ra và lớn lên tại ĐBSCL. Trương Vĩnh Ký, Trần Đại Nghĩa, Lương Định Của, Tràn Văn Giàu, Nguyễn
Thị Định… là nhưng tấm gương như vậy.
4.2.5. Nâng cao ý thức tự giác, tích cực, chủ động học tập các giá trị đạo đức truyền thống của sinh
viên
Sinh viên với những nét đặc thù về tâm sinh lý lứa tuổi, với một trình độ nhận thức và năng lực tư duy
nhất định, có thế mạnh của thế hệ trẻ: năng động, sáng tạo, dễ tiếp thu cái mới, dám nghĩ, dám làm... Chính đặc
điểm đó, cho phép khơi dậy ở lớp người này tiềm năng tiềm năng “tự ý thức” đáng kể ở họ. Đánh thức năng
tiềm năng “tự ý thức” này, quá trình giáo dục và tự giáo dục sẽ giúp cho sinh viên không chỉ nắm vững những

kiến thức cơ bản, mà còn thấm nhuần được những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Nhờ thế, sinh viên
sẽ chuyển những kiến thức thu được nơi học đường thành niềm tin cá nhân, thành những tình cảm đạo đức và
thể hiện đặc điểm ưu trội của thế hệ ngay trong những hành vi ứng xử hàng ngày.
Kết luận chương 4


11
KẾT LUẬN
Việt Nam có bề dày lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Điều kiện thiên nhiên có nhiều
thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, lại luôn phải đương đầu liên tục với các cuộc chiến tranh xâm lược.
Chính quá trình gian khổ đó đã hun đúc cho con người Việt Nam nhiều truyền thống tốt đẹp và được các thế hệ
kế tiếp nhau gìn giữ, phát huy, làm cho hệ giá trị của người Việt Nam trường tồn. Nhờ có những truyền thống
quý báu ấy, dân tộc Việt Nam đã đứng vững trước mọi thử thách khắc nghiệt của lịch sử.
Ngày nay, các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, trong đó có những giá trị đạo đức truyền thống khu
vực ĐBSCL, vẫn tiếp tục được thực tế đời sống khẳng định là cơ sở, là nền tảng trong việc xây dựng, bảo vệ
và phát triển đất nước.
Thực ra, trong nghiên cứu khoa học, giá trị, giá trị đạo đức truyền thống và giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống từ lâu đã không phải là những vấn đề mới. Nhưng gần đây, dưới sức ép của nhu cầu phát triển,
các vấn đề này đã thu hút nhiều hơn sự quan tâm nghiên cứu của giới khoa học và của các nhà hoạt động xã
hội. Cả từ phía lý luận và cả từ phía thực tiễn, nhiều vấn đề bức xúc đã nảy sinh, trong đó vấn đề giáo dục giá
trị đạo đức truyền thống cho sinh viên, đặc biệt ở những khu vực đặc thù của đất nước như ĐBSCL. Nhiều
công trình, đề tài nghiên cứu khoa học đã được thực hiện, nhiều kết quả khảo cứu các khía cạnh, lĩnh vực khác
nhau của vấn đề đã được công bố. Tuy vậy, tính cấp thiết của vấn đề không vì thế mà giảm bớt. Rất nhiều câu
hỏi vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng và nhất là vẫn chưa có được những giải pháp thực tiễn hữu hiệu để giải
quyết dứt điểm vấn đề.
Về lý thuyết, việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên, chưa bao giờ và chưa ở đâu bị
xem nhẹ. Sinh viên là một bộ phận ưu tú trong tầng lớp thanh niên được học tập và rèn luyện để trở thành
những trí thức tương lai – lớp người có khả năng tiếp thu những thành tựu của khoa học - công nghệ tiên tiến,
được kỳ vọng sẽ là chủ nhân đưa đất nước đến tầm cao mới, sánh vai với khu vực và quốc tế. Đây là lớp người
có trách nhiệm kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Tuy vậy trên thực tế, tình hình

giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên không thực sự được như kỳ vọng.
Việc giáo dục đạo đức để sinh viên ngày nay thực sự chú trọng rèn luyện tu dưỡng và kế thừa các giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc, cần phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong hệ thống giáo dục hiện nay. Bởi,
nền đạo đức xã hội những năm gần đây đang được cảnh báo là xuống cấp nghiêm trọng. Tình trạng này cần
được khắc phục không thể chậm trễ.


12
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Phan Thị Hà (2012) “Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay”,
Tạp chí Dạy và học ngày nay, (5), tr.20-23.
2 . Phan Thị Hà (2013) “Một số nội dung cơ bản về giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho HSSV trong
giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Giáo dục và Xã hội , (23), tr.61-67.
3. Phan Thị Hà, Hồ Trần Hùng (2014) “Một số phương hướng cơ bản nhằm xây dựng con người Việt
Nam trong bối cảnh hiện nay”, Tạp chí Dạy và học ngày nay , (4), tr.20-22.
4. Phan Thị Hà, Lê Thị Hiền (2014) “Mối quan hệ giữa công nghiệp hóa – hiện đại hóa với vấn đề xây
dựng con người Việt Nam”, Tạp chí Dạy và học ngày nay , (6), tr.52-54.
5. Phan Thị Hà (2015) “Một số biện pháp nhằm phát huy hiệu quả tự học môn Đường lối cách mạng của
Đảng cộng sản Việt Nam cho sinh viên trường Cao đẳng kinh tế - tài chính Vĩnh Long”, Tạp chí Dạy và học
ngày nay , (5), tr.49-51.
6. Phan Thị Hà (2015) “Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Đồng bằng sông Cửu Long
hiện nay”, Tạp chí Giáo dục và Xã hội , (9), tr.68-71.
7. Phan Thị Hà (2015) “Một số suy nghĩ về hệ giá trị của người Việt Nam”, In trong cuốn Một số vấn đề
về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Nxb Đại học Quốc gia TPHCM, tr.333-343.
8. Phan Thị Hà (2016) “Yêu nước – giá trị đạo đức truyền thống cao nhất cần giáo dục cho sinh viên
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Triết học, (12), tr.83-88.
9. Phan Thị Hà (2017) “Tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12”, Kỷ
yếu hội thảo khoa học cấp Quốc gia: “Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá môn giáo dục công
dân ở trường trung học”, Nxb Đại học Huế, tr.148-153.

10. Phan Thị Hà (2017) “Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Đồng bằng
sông Cửu Long hiện nay”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, (2), tr. 31-39



×