Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Thảo luận hình sự lần 1 CỤM 2: CÁC TỘI XÂM PHẠM CON NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.09 KB, 10 trang )

THẢO LUẬN LUẬT HÌNH SỰ - PHẦN CÁC TỘI PHẠM LẦN 1
CỤM 2: CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM CON NGƯỜI
________________
I. TRẮC NGHIỆM TỰ LUẬN:
1. Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật không gây ra hậu quả chết
người thì không cấu thành Tội giết người (Điều 123, BLHS).
Nhận định này là sai.
Vì hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật không gây ra hậu quả chết người
thì vẫn cấu thành Tội giết người. Tội giết người được quy định tại Điều 123 BLHS 2015 là tội phạm có
cấu thành vật chất. Căn cứ vào Điều 123 BLHS thì hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng của người
khác sẽ cấu thành Tôi giết người cho dù hậu quả không xảy ra. Một người có hành vi cố ý trực tiếp tước
bỏ tính mạng của người khác trái pháp luật thì trong cấu thành tội phạm này dấu hiệu hậu quả không
phải là dấu hiệu mang ý nghĩa định tội. Hậu quả có chết người hay không trong trường hợp này có ý
nghĩa giúp cho việc xác định tội phạm đã hoàn thành hay chưa hoàn thành. Vì vậy, khi người phạm tội có
hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng của người khác trái pháp luật mà không gây ra hậu quả thì vẫn
cấu thành Tội giết người.
2. Động cơ đê hèn là dấu hiệu định tội của Tội giết người (Điều 123 BLHS).
Nhận định này là sai.
Động cơ đê hèn không là dấu hiệu định tội của Tội giết người (Điều 123 BLHS). Tội giết người có dấu
hiệu định tội là hành vi tước đoạt trái phép tính mạng của người khác. Theo quy định tại Điểm q, Khoản
1, Điều 123, BLHS thì động cơ đê hèn là dấu hiệu định khung tăng nặng của loại tội phạm này nó phản
ánh anh mức độ nguy hiểm hơn cho xã hội của tội phạm tăng lên đáng kể.
3. Mọi hành vi cố ý tước bỏ tính mạng của người khác đều cấu thành Tội giết người theo Điều 123
BLHS.
Nhận định này là sai.
Không phải mọi hành vi cố ý tước bỏ tính mạng của người khác đều cấu thành Tội giết người theo
Điều 123 BLHS. Vì trong một số ít trường hợp như làm chết người trong giới hạn phòng vệ chính đáng,
trong phạm vi yêu cầu của tình thế cấp thiết, thi hành án tử hình thì không xem là hành vi tước đoạt tính
mạng của người khác trái pháp luật. Cho nên những trường này sẽ không cấu thành Tội giết người.
4. “Giết phụ nữ mà biết là có thai” là trường hợp giết 02 người trở lên.
1




Nhận định này là sai.
Đối tượng tác động của tội phạm liên quan đến con người phải là con người đang sống. Thời điểm bắt
đầu sự sống của con người dưới góc độ pháp lý hình sự là kể từ lúc họ được sinh ra và tồn tại độc lập với
người mẹ.
(thời điểm kết thúc sự sống của con người là thời điểm chết sinh học đã xảy ra – Trong y học phân biệt
chết lâm sang và chết sinh học, dưới góc độ pháp lý hình sự, sự sống của con người kết thúc khi chết
sinh học xãy ra. Pháp luật Hình sự bảo vệ con ngừoi trong suốt thời gian sự sống bắt đầu và chưa kết
thúc).
Hành vi giết người mẹ làm chết thai nhi thì không phải là hành vi khách quan của Tội giết từ 02 người
5. Tình tiết “giết 02 người trở lên” luôn đòi hỏi phải có hậu quả hai người chết trở lên.
Nhận định này là sai.
Vì không phải trong mọi trường hợp, tình tiết “giết 02 người trở lên” đòi hỏi phải có hậu quả hai người
chết trở lên. Tình tiết “giết 02 người trở lên” đòi hỏi phải có hậu quả hai người chết trở lên đối với hành
vi phạm tội cố ý gián tiếp, còn đối với trường hợp cố ý trực tiếp thì không bắt buộc phải có hậu quả 2
người chết trở lên, mà người này có hành vi cố ý giết hai người trở lên thì vẫn áp dụng tình tiết “ giết hai
người trở lên”, không bắt buộc phải có hậu quả xảy ra trên thực tế.
6. Sử dụng điện trái phép làm chết người là hành vi chỉ cấu thành Tội vô ý làm chết người (Điều
128 BLHS).
Nhận định này là sai.
Không phải mọi hành vi sử dụng điện trái phép làm chết người đều là hành vi chỉ cấu thành Tội vô ý
làm chết người (Điều 128 BLHS).
Trong trường hợp người sử dụng điện mắc điện ở nơi có nhiều người qua lại (cho dù có làm biển báo
hiệu), biết việc mắc điện trong trường hợp này là nguy hiểm đến tính mạng con người, nhưng vẫn mắc
hoặc có thái độ bỏ mặc cho hậu quả xảy ra và thực tế có người bị điện giật chết, thì người phạm tội bị xét
xử về Tội giết người (Điều 123, BLHS).
Trong trường hợp người sử dụng điện mắc điện ở nơi họ tin rằng không có người qua lại, có sự canh
gác cẩn thận, có biển báo nhưng hậu quả có người bị điện giật chết thì người phạm tội bị xét xử về Tội
vô ý làm chết người (Điều 128, BLHS).


2


7. Hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi thì chỉ cấu thành Tội giết con mới đẻ (Điều
124, BLHS).
Nhận định này là sai.
Theo Khoản 1, Điều 124, BLHS 2015 về Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ:
“1. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc
biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Theo quy định trên ta thấy, không phải hành vi giết trẻ sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi thì cũng cấu
thành Tội giết con mới đẻ (Điều 124, BLHS). Chủ thể của loại tội phạm này là chủ thể đặc biệt - người
mẹ do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khác quan đặc biệt mà có hành vi
giết con do mình đẻ ra trong vòng 7 ngày tuổi thì mới là chủ thể của tội giết con mới đẻ quy định tại
Điều 124, BLHS. Do vậy, nếu là chủ thể thường mà thực hiện hành vi giết trẻ sinh ra trong vòng 7 ngày
tuổi thì không cấu thành Tội giết con mới đẻ mà cấu thành Tội giết người (Điều 123, BLHS).
8. Mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đều cấu thành Tội giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125, BLHS).
Nhận định này là sai.
Theo quy định của Điều 125, BLHS về Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh:
“1. Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù
từ 06 tháng đến 03 năm”.
Theo quy định trên, không phải mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
đều cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125, BLHS). Giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh khi có các dấu hiệu sau:
- Phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trạng thái người phạm tội không hoàn toàn tự
chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình, không thấy hết được tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi của mình. Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh thường phát sinh tức thì ngay

sau khi có sự kích động và tồn tại trong thời gian ngắn. Đây là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.
- Nguyên nhân dẫn đến trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là do hành vi trái pháp luật nghiệm trọng
của nạn nhân.
- Hành vi trái pháp luật của người bị hại phải là hành vi đối với người phạm tội hoặc đối với người thân
thích hoặc hoặc đối với người khác có quan hệ thân thiết với người phạm tội.
3


Như vậy, nếu không có đủ các dấu hiệu thì không thể coi là phạm vào Tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125, BLHS).
9. Mọi hành vi làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép trong
khi thi hành công vụ đều cấu thành Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127,
BLHS).
Nhận định này là sai.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 127 BLHS 2015 thì:
“1. Người nào trong khi thi hành công vụ mà làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp
pháp luật cho phép, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm”.
Theo đó chủ thể của tội phạm là người thi hành công vụ ( là những người có chức vụ, quyền hạn trong
cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Và cũng có thể là công
dân được huy động làm nhiệm vụ theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền. Ngoài ra còn có những
người thực hiện nghĩa vụ công dân vì lợi ích chung của xã hội mà đã sử dụng những công cụ để giúp sức
người thi hành công vụ mà đã xâm phạm tính mạng sức khỏe của người khác thì cũng được coi là phạm
tội giết người trong khi thi hành công vụ.
Vì thế những trường hợp làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép
trong khi thi hành công vụ mà người phạm tội không thuộc các trường hợp trên thì không thể cấu thành
tội làm chết người trong khi thi hành công vụ.
Động cơ thi hành công cụ là một dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. nếu người thi hành công vụ do hống
hách, coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác mà dùng vũ khí một cách bừa ẩu hoặc do tư thù cá
nhân, thì cấu thành tội phạm khác, không áp dụng Điều 127 BLHS.
10. Không phải mọi hành vi vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp đều cấu thành

Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp (Điều 129 BLHS).
Nhận định này là đúng.
Vì trong một số lĩnh vực nghề nghiệp, hành vi vi phạm quy tắc nghề nghiệp làm chết người là hành vi
khách quan của một số tội phạm khác như các Tội xâm phạm an toàn công cộng trong lao động sản xuất
(Điều 295); Trong lĩnh vực Y tế (Điều 315),… mà không phải chỉ là Tội vô ý làm chết người do vi phạm
quy tắc nghề nghiệp (Điều 129 BLHS).
11. Nạn nhân tử vong là dấu hiệu định tội của Tội bức tử (Điều 130, BLHS).
4


Nhận định này là sai.
Theo Khoản 1, Điều 130 BLHS về Tội bức tử có quy định:
“1. Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm
người đó tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Nạn nhân tử vong không phải là dấu hiệu định tội của Tội bức tử mà chỉ quy định là hậu quả từ những
hành vi của người phạm tội là việc khiến nạn nhân tiến hành hành vi tự tử, hậu quả sau đó tức là việc nạn
nhân tử vong hay không thì không có dấu hiệu trong việc định tội.
Vì vậy, việc nạn nhân tử vong hay không thì không là dấu hiệu định tội của tội bức tử.
12. Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của chính họ thì cấu
thành Tội bức tử (Điều 130 BLHS).
Nhận định này là sai.
Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của chính họ không là hành vi
khách quan của Tội bức tử (Điều 130 BLHS). Theo quy định tại Điều 130, BLHS thì hành vi khách quan
cấu thành Tội này là hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ
thuộc mình làm người đó tự sát. Còn trong đối với hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước
đoạt tính mạng của chính họ thì là hành vi khách quan cấu thành Tội xúi giục người khác tự sát (Điều
131).
13. Cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu cầu của người bị hại là hành vi cấu thành
Tội giúp người khác tự sát (Điều 131, BLHS).
Câu nhận định này là sai.

Theo Điều 131, BLHS về Tội giúp người khác tự sát:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
b) Tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ”.
Hành vi cấu thành Tội giúp người khác tự sát là hành vi khách quan tạo điều kiện về vật chất và tinh
thần cho người bị hại sử dụng điều kiện đó để tự sát. Như vậy, hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của
người khác theo yêu cầu của người bị hại không là hành vi cấu thành Tội giúp người khác tự sát mà cấu
thành Tội giết người (Điều 123, BLHS).

5


14. Hành vi đối xử tàn ác đối với người bị lệ thuộc nếu không dẫn đến hậu quả nạn nhân tự sát thì
không cấu thành tội phạm.
Giống câu 11.
15. Dùng gạch đá tấn công trái phép người khác gây thương tích cho họ với tỷ lệ tổn thương cơ thể
dưới 11% thì cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS).
Câu nhận định này là sai.
Không phải mọi hành vi tấn công trái phép người khác gây thương tích cho họ với tỷ lệ tổn thương cơ
thể dưới 11% thì cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS). Theo quy định của BLHS trường
hợp gây thương tích cho người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% thì phải thuộc các trường hợp
được quy định từ Điểm a đến Điểm k, Khoản 1, Điều 134, BLHS thì mới đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm
này.
16. Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% thì không
cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134, BLHS).
Nhận định này là sai.
Không phải mọi trường hợp hành vi cố ý gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ tổn thương co thể
dưới 11% đều không cấu thành Tội cố ý gây thương tích. Theo quy định của BLHS, hành vi cố ý gây
thương tích cho người khác mà tỉ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp từ Điểm a
đến Điểm k, Khoản 1, Điều 134, BLHS thì cũng cấu thành Tội cố ý gây thương tích.

17. Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác không chỉ cấu thành Tội cố ý gây thương
tích (Điều 134 BLHS).
Nhận định này là đúng.
Trong trường hợp hành vi cố ý gây thương tích còn là hành vi khách quan của các Tội khác như: Tội cố
ý gây thương tích cho người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135); Tội cố ý gây
thương tích cho người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết
khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136).
18. Gây cố tật nhẹ được hiểu chỉ là trường hợp gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới
11% nhưng đã làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân.
Nhận định này là sai.
6


Gây cố tật nhẹ được hiểu không chỉ là trường hợp gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11%
nhưng đã làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân. Theo quy định Khoản 1, Phần I, Nghị quyết
02/2003/NQ-HĐTP thì ngoài trường hợp làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân thì còn có các
trường hợp khác như: làm mất chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm giảm chức năng hoạt
động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân.
19. Hành vi vô ý gây thương tích cho người khác không chỉ cấu thành Tội vô ý gây thương tích
được quy định tại Điều 138 BLHS.
Tương tự câu 17.
II. BÀI TẬP:
Bài tập 1: Khoảng 19 giờ, T ra sân kho HTX xem biểu diễn ca nhạc. Khi đi, T dắt một lưỡi lê tự tạo
(lưỡi lê dài 15 cm rộng 2 cm). Chưa tới giờ biểu diễn nên một số thanh niên túm lại với nhau nói chuyện
ở phía cổng vào khu vực biểu diễn, khiến một số cháu nhỏ không thể đi qua được. Thấy vậy, T liền nói:
“Sao các anh đứng ngang thế?”. Hai bên va chạm, chửi nhau. A và B trong tốp thanh niên đó đã chạy
gọi thêm bạn bè để gây sự. Cả bọn quay trở lại gặp T thì ngay lập tức C túm áo T và thúc gối vào bụng
của T, còn A và B đấm vào mặt T làm môi T bị sưng. Các trật tự viên đã kịp thời ngăn cản và chấm dứt
sự va chạm. Một lát sau, T lại đến gần chỗ đứng của A, B và C để đôi co dẫn đến tiếp tục xô xát. Trong
lúc xô xát, T rút lưỡi lê ở thắt lưng đâm một nhát vào ngực C rồi bỏ chạy. Kết luận giám định pháp y xác

định: “C chết do vết thương sắc gọn, thấu ngực trái, rách phổi, thấu lách, đứt động mạch, mất máu cấp
tính”. Hãy xác định tội danh đối với hành vi của T.
Hành vi của T cấu thành tội giết người theo quy định tại Điều 123 BLHS.
Hành vi của T đã có đủ các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội giết người (Điều 123, BLHS):

Khách thể

Dấu hiệu
- Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của C.
- Đối tượng tác động: C – con người đang sống.
- Hành vi: T đâm C với vết thương sắc gọn, thấu ngực trái.
- Hậu quả: T chết do vết thương sắc nhọn, thấu ngực trái, rách phổi, thấu lách, đứt

Mặt khách
quan

động mạch, mất máu cấp tính.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Việc T đâm C với vết thương sắc
gọn, thấu ngực trái, rách phổi, thấu lách, đứt động mạch, mất máu cấp tính là

Chủ thể

nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của C.
T thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực
7


Mặt chủ
quan


trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi quy định).
T thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp, việc này thể hiện qua việc T biết
hành vi đâm vào ngực trái nạn nhân là nguy hiểm, có thể khiến nạn nhân tử vong
nhưng vẫn thực hiện đâm nạn nhân.

Bài tập 2: Chị N sinh con nhưng đứa bé sinh ra bị dị tật bẩm sinh, không có chân tay. Lần đầu nhìn thấy
con, chị N đã bị sốc và ngất xỉu. 10 ngày sau khi sinh, do không làm chủ được mình, chị N lấy tay chùm
chăn, bịt mặt đứa bé cho đến khi không còn thấy nhịp tim đập nữa mới bỏ ra. Hậu quả đứa bé chết.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của N có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì? Tại sao?
Tội danh đối với hành vi của N là Tội giết người quy định tại Điều 123, BLHS.
Hành vi của N đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của tội danh này:

Khách thể

Dấu hiệu
- Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của đứa bé.
- Đối tượng tác động: đứa bé – con người đang sống.
- Hành vi: Chị N lấy tay chùm chăn, bịt mặt đứa bé cho đến khi không còn thấy
nhịp tim đập nữa mới bỏ ra. Đứa bé lúc này đã được 10 ngày tuổi do vậy, không đủ

Mặt khách
quan

cấu thành Tội giết con mới đẻ (Điều 124) (đứa bé phải trong vòng 07 ngày tuổi).
- Hậu quả: đứa bé tử vong.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Việc chị N lấy tay chùm chăn, bịt

Chủ thể
Mặt chủ
quan


mặt đứa bé là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc anh thanh niên tử vong.
N thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi quy định).
N thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp, việc này thể hiện qua việc A
biết hành vi chị N lấy tay chùm chăn, bịt mặt đứa bé là nguy hiểm, có thể khiến đứa
bé tử vong nhưng vẫn thực hiện.

Bài tập 3: A và B là vợ chồng. Trước khi cưới, B đã có người yêu, nhưng do gia đình ép gả nên phải lấy
A. Vì thế, dù đã có chồng nhưng B vẫn gặp C - người yêu cũ của B. Biết vậy, nên gia đình B khuyên A
đưa vợ lên làm ăn ở thành phố Hồ Chí Minh. A nghe lời đem vợ lên sống ở thành phố. Dù vậy, B vẫn lén
lút quan hệ với C bằng cách viện lý do đi khám bệnh và lưu lại bệnh viện để điều trị ít ngày, nhưng thực
chất là 2 người hẹn hò nhau tại một khách sạn và sống với nhau. Gia đình B biết được nên đã báo cho A
biết mối quan hệ giữa B và C, đồng thời cho A biết số xe Honda của C. Một hôm, vì mất điện nên A về
nhà sớm hơn thường lệ thì thấy B chuẩn bị quần áo nói là đi chữa bệnh tại bệnh viện. A không tin nên
chạy nhanh ra đường cái, cách nhà khoảng 200m thì thấy một thanh niên đang ngồi trên một chiếc xe
8


Honda có biển số như gia đình B đã báo trước. Quá tức giận, A nhặt một khúc gỗ bên lề đường to bằng
cổ tay, dài 60cm, phang thẳng vào đầu anh thanh niên đang ngồi trên xe gắn máy nhiều nhát cực mạnh
khiến anh thanh niên nọ bị chấn thương sọ não, chết trên đường cấp cứu tới bệnh viện. Khi kiểm tra căn
cước của người bị hại thì mới xác định được nạn nhân không phải là C mà chính là bạn của C. Do
không biết mặt C nên A đã đánh nhầm người. Lúc đó, C đang mua thuốc lá gần đó. Hãy xác định tội
danh đối với hành vi của A.
Tội danh đối với hành vi của A là Tội giết người quy định tại Điều 123, BLHS.
Hành vi của A đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của tội danh này:

Khách thể


Dấu hiệu
- Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của anh thanh niên.
- Đối tượng tác động: anh thanh niên bạn của C – con người đang sống.
- Hành vi: A đã nhặt một khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60cm, phang thẳng
vào đầu anh thanh niên đang ngồi trên xe gắn máy nhiều nhát cực mạnh.

Mặt khách
quan

- Hậu quả: anh thanh niên nọ bị chấn thương sọ não, chết trên đường cấp cứu tới bệnh
viện.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Việc A nhặt một khúc gỗ bên lề
đường phang thẳng vào đầu anh thanh niên nhiều nhát cực mạnh khiến anh thanh niên

Chủ thể
Mặt chủ
quan

bị chấn thương sọ não là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc anh thanh niên tử vong.
A thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi quy định).
A thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp, việc này thể hiện qua việc A
biết hành vi cầm khúc gỗ phang vào đầu nạn nhân là nguy hiểm, có thể khiến nạn
nhân tử vong nhưng vẫn thực hiện và phang nhiều lần vào đầu nạn nhân.

Bài tập 4: Hai gia đình là hàng xóm của nhau. Trong một gia đình có bà mẹ là K và cậu con trai tên là
H. Gia đình bên kia có ông cụ là A cùng hai con trai tên là B và C. Ban ngày các con đều đi làm nên ông
A thường hay qua nhà bà K chơi. Sau một thời gian, ông A mang gạo góp với bà K nấu cơm chung. B và
C không đồng ý vì cho là cha mình bị bà K dụ dỗ, đem tài sản cho bà K nên yêu cầu cha mình chấm dứt
quan hệ với bà K nhưng ông A không nghe và vẫn tiếp tục làm theo ý mình. B và C cho là sự bất đồng

trong gia đình mình là do bà K gây ra nên quyết định gây án.
Vào 3 giờ sáng, B cầm đuốc và C cầm một con dao lớn đến trước sân nhà bà K. B và C châm lửa đốt
nhà, đồng thời chặn cửa đón đầu hai mẹ con bà K. Bà K và H chạy ra đến cửa thì thấy B đang quơ đuốc
xông tới, C cầm dao lao vào tấn công H. H xông tới C, giành được con dao từ tay C và chém đứt bàn tay
9


C. Ngay lúc đó, B dùng đuốc xông tới gần H. H nhanh chóng chém tiếp vào đầu C khiến C chết tại chỗ,
đồng thời H quay sang đối phó với B thì bà con vừa kịp đến. Hãy xác định hành vi của H có phạm tội
không? Nếu có thì phạm tội gì?
Hành vi của H có phạm tội và hành vi này đã cấu thành Tội giết người (Điều 123, BLHS).
Hành vi của H đã có đủ các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội giết người (Điều 123, BLHS):

Khách thể

Dấu hiệu
- Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của C.
- Đối tượng tác động: C – con người đang sống.
- Hành vi: Trước đó C đã chém đứt bàn tay của C và sau đó H chém tiếp vào đầu C.
Xét về điều kiện phát sinh quyền phòng vệ của H:
 Hành vi tấn công của C đối với H là nguy hiểm đáng kể (bằng con dao và đuốc
cháy) và trái pháp luật.
 Sự tấn công đó không còn hiện hữu khi H đã chém đứt bàn tay của C. Trước
đó, H đã giật được con dao từ tay C thì sự nguy hiểm lúc này đã không còn hiện

Mặt khách

hữu, do vậy, việc H chặt tay C đã là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Lúc

quan


sau, B dùng đuốc xông tới gần H và H nhanh chóng chém tiếp vào đầu C khiến C
chết tại chỗ. Ngay lúc này, quyền phòng vệ của H đã không phát sinh. Bởi trong lúc
này, nguồn nguy hiểm đã không còn đến từ C mà đến từ B nhưng H lại chém chết
C, do vậy không phát sinh quyền phòng vệ của H đối với C.
- Hậu quả: C chết tại chỗ.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Việc H chém vào đầu của C là

Chủ thể
Mặt chủ
quan

nguyên nhân trực tiếp khiến cho C chết tại chỗ.
H thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi quy định).
H thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp, việc này thể hiện qua H biết
hành vi cầm dao chém đầu nạn nhân là nguy hiểm, có thể khiến nạn nhân tử vong
nhưng vẫn thực hiện.

10



×