Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Thảo luận hình sự lần 2 Cụm 2: CÁC TỘI XÂM PHẠM CON NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.8 KB, 21 trang )

THẢO LUẬN LUẬT HÌNH SỰ - PHẦN CÁC TỘI PHẠM LẦN 2
CỤM 2: CÁC TỘI XÂM PHẠM CON NGƯỜI
__________________
I. TRẮC NGHIỆM TỰ LUẬN:
20. Mọi trường hợp đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình đều cấu thành Tội hành hạ người khác
được quy định tại Điều 140 BLHS.
Nhận định sai.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 140 BLHS về Tội hành hạ người khác
“1. Người nào đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình nếu không thuộc các trường hợp quy
định tại Điều 185 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03
tháng đến 02 năm”.
Theo quy định trên cho thấy, không phải mọi trường hợp đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình đều
cấu thành Tội hành hạ người khác được quy định tại Điều 140 BLHS. Trường hợp đối xử tàn ác với
người lệ thuộc mình nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 185 BLHS thì sẽ cấu thành Tội
hành hạ người khác theo Điều 140 BLHS. Do đó để xét cấu thành tội phạm này phải là các trường hợp
không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 185 BLHS.
21. Mọi hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được
của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ đều cấu thành
Tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS).
Nhận định sai.
Không phải mọi hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ
được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ đều cấu thành Tội
hiếp dâm (Điều 141 BLHS). Trong trường hợp, dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình
trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của
họ mà chủ thể từ đủ 16 tuổi trở lên thì mới cấu thành Tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS). Còn trong
trường hợp tội phạm thực hiện hành vi trên với nạn nhân là người dưới 16 tuổi họ sẽ phạm Tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142, BLHS).
22. Mọi hành vi dùng thủ đoạn khiến người dưới 16 tuổi lệ thuộc mình phải miễn cưỡng giao
cấu đều cấu thành Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều
144 BLHS.
1




Nhận định này là sai.
Căn cứ vào Khoản 1, Điều 144, BLHS Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
“1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng
lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm”.
Đối tượng tác động của tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi là đối tượng đặc biệt - dưới
16 tuổi nhưng phải đủ 13 tuổi. Nên trong trường hợp dùng thủ đoạn khiến người dưới 16 tuổi lệ thuộc
mình phải miễn cưỡng giao cấu với mình nhưng người đó lại dưới 13 tuổi thì lúc này hành vi trên sẽ
không cấu thành Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 mà cấu thành tội hiếp dâm người dưới
mười sáu tuổi theo điểm b khoản 1 Điều 142 BLHS 2015.
23. Mọi hành vi giao cấu thuận tình với người dưới 16 tuổi đều cấu thành Tội giao cấu hoặc thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS).
Nhận định này là sai.
Không phải mọi hành vi giao cấu thuận tình với người dưới 16 tuổi đều cấu thành Tội giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS).
Hành vi giao cấu thuận tình với người dưới 16 tuổi cấu thành Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan
hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS) khi chủ thể thực hiện hành
vi giao câu thuận tình với người dưới 16 tuổi là người thành niên (đủ 18 tuổi trở lên) và đối tượng tác
động là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Còn trường hợp dưới 13 tuổi (cũng dưới 16 tuổi) mà Người phạm tội có hành vi như trên thì sẽ bị kết
tội tại điểm b khoản 1 Điều 142 Tội hiếp dân người dưới 16 tuổi, dù có thuận tình hay không thuận
tình.
24. Mọi trường hợp giao cấu trái pháp luật là giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân.
Nhận định này là sai.
Không phải mọi trường hợp giao cấu trái pháp luật chỉ là giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân.
Trong trường hợp giao cấu thuận tình với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (theo Khoản 1, Điều 145,
BLHS) hoặc giao cấu với người dưới 13 tuổi (dù thuận tình hay trái ý muốn) (theo Điểm b, Khoản 1,
Điều 142, BLHS) thì vẫn là giai cấu trái pháp luật.

25. Mọi trường hợp biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho người khác đều cấu
thành Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 148 BLHS).
2


Nhận định này là sai.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 148 quy định về Tội lây truyền HIV cho người khác:
“1. Người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người khác, trừ trường hợp nạn
nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị HIV và tự nguyện quan hệ tình dục, thì bị phạt tù từ
01 năm đến 03 năm”.
Theo đó, không phải mọi trường hợp biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho người
khác đều cấu thành Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 148 BLHS). Trong trường hợp nạn nhân
đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị HIV và tự nguyện quan hệ tình dục thì hành vi cố ý lây
truyền bệnh cho người khác của người nhiễm HIV không bị cấu thành tội lây truyền HIV cho người
khác.
26. Mọi hành vi mua bán người đều cấu thành Tội mua bán người (Điều 150 BLHS).
Nhận định này là sai.
Không phải mọi hành vi mua bán người đều cấu thành Tội mua bán người (Điều 150 BLHS). Theo
quy định tại Khoản 3, Chương 4, NQ 04/NQ-HĐTP ngày 29/11/1986, Pháp luật hình sự đã loại trừ đi
một số trường hợp mà cha mẹ vì đông con hoặc vì khó khăn đặc biệt mà phải bán con mình (dưới hình
thức cho làm con nuôi và nhận một số tiền giúp đỡ) cũng như trường hợp vì hiếm muộn mà mua chính
người có con đem bán để về làm con nuôi thì không phạm tội.
27. Hành vi bắt cóc người dưới 16 tuổi làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản thì cấu thành Tội
chiếm đoạt người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 153 BLHS.
Nhận định này là sai.
Hành vi bắt cóc người dưới 16 tuổi làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản không cấu thành Tội chiếm
đoạt người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 153 BLHS. Theo quy định tại Điều 153 BLHS, Tội chiếm
đoạt người dưới 16 tuổi cấu thành khi có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác
chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi mà trong hành vi khách quan không
có mục đích nhằm chiếm đọat tài sản. Còn hành vi bắt cóc người dưới 16 tuổi làm con tin nhằm chiếm

đoạt tài sản sẽ cấu thành Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169, BLHS).
28. Mọi trường hợp bán con đẻ dưới 16 tuổi đều cấu thành Tội mua bán người dưới 16 tuổi theo
Điều 151 BLHS.
Nhận định này là sai. Giải thích như câu 26.
3


29. Mọi hành vi bịa đặt, lan truyền những điều biết rõ là bịa đặt đều cấu thành Tội vu khống
(Điều 156 BLHS).
Nhận định này là sai.
Không phải mọi hành vi bịa đặt, lan truyền những điều biết rõ là bịa đặt đều cấu thành Tội vu khống
(Điều 156 BLHS). Theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 156, BLHS thì hành vi bịa đặt, lan truyền
những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người khác là dấu hiệu khách quan của Tội Tội vu khống (Điều 156
BLHS). Do vậy, nếu trong trường hợp bịa đặt, lan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhưng không xúc
phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác
thì sẽ không là dấu hiệu khách quan của Tội Tội vu khống (Điều 156 BLHS).
30. Chỉ có nam giới mới là chủ thể của Tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS) .
Nhận định này là sai.
Căn cứ vào Khoản 1, Điều 141, BLHS về Tội hiếp dâm:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của
nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn
của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Theo quy định của BLHS 2015, chủ thể của tội hiếp dâm có thể là nam giới và nữ giới bởi xử lý cả
các hành vi quan hệ tình dục khác, đây là các hành vi không bị trói buộc bởi quan điểm về hành vi giao
cấu thông thường giữa nam giới và nữ giới. Như vậy người đủ năng lực trách nhiệm hình sự, dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ
đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân thì đều
có thể trở thành chủ thể của tội phạm đối với tội hiếp dâm.
31. Hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu định tội của Tội vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 BLHS).

Nhận định này là đúng.
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 124, BLHS, người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc
hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến
hậu quả đứa trẻ chết thì cấu thành Tội vứt bỏ con mới đẻ. Do vậy, hậu quả nạn nhân bị tử vong đây là
dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm, nếu hậu quả chết người này chưa xảy ra thì chưa cấu thành tội
phạm này.

4


32. Hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể của người khác chỉ được quy định là tình tiết định khung
của Tội giết người tại điểm h khoản 1 Điều 123 BLHS.
Nhận định này là sai.
Căn cứ vào quy định tại Điều 154, BLHS về Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người
“1. Người nào mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người khác, thì bị phạt tù từ 03 năm đến
07 năm”.
Như vậy, hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể người khác không chỉ được quy định là tình tiết định
khung của Tội giết người tại điểm h khoản 1 Điều 123,BLHS. Hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể
người khác còn cấu thành một tội phạm riêng biệt đó là Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ
thể người (Điều 154, BLHS).
33. Hành vi bắt, giữ, giam người trái pháp luật mà làm nạn nhân chết thì không cấu thành Tội
bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 157 BLHS).
Nhận định này là sai.
Không phải mọi hành vi bắt, giữ, giam người trái pháp luật mà làm nạn nhân chết thì không cấu thành
Tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 157 BLHS). Xét trong 2 trường hợp:
- Nếu chủ thể thực hiện hành vi cố ý tước đoạt trái phép tính mạng của nạn nhân thì không cấu thành
Tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 157 BLHS) mà có thể là chuyển hoá qua các Tội phạm
tương ứng: Tội giết người (Điều 123, BLHS),…
- Nếu chủ thể thực hiện hành vi bắt, giữ, giam người trái pháp luật nhưng vô ý với làm nạn nhân chết
thì vẫn cấu thành Tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 157 BLHS) với tình tiết định khung tăng

nặng là làm người bị bắt, giữ, giam chết theo điểm a khoản 3 Điều 157 BLHS.
34. Hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật chỉ là hành vi của người không có thẩm
quyền mà thực hiện việc bắt, giữ hoặc giam người.
Nhận định này là sai.
Không phải mọi hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật chỉ là hành vi của người không có
thẩm quyền mà thực hiện việc bắt, giữ hoặc giam người. Hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp
luật là hành vi của người không có thẩm quyền mà thực hiện việc bắt, giữ hoặc giam người khi nó là
dấu hiệu chủ thể của Tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 157 BLHS). Còn trong trường hợp
phạm vào Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 377, BLHS) thì
hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là hành vi của chủ thể đặc biệt - người có chức vụ,
quyền hạn mà thực hiện việc bắt, giữ hoặc giam người.
5


35. Hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật không chỉ là dấu hiệu định tội của Tội bắt,
giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157 BLHS).
Nhận định này là đúng.
Hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là dấu hiệu định tội của Tội bắt, giữ hoặc giam người
trái pháp luật (Điều 157 BLHS) khi đối tượng tác động là người từ 16 tuổi trở lên và chủ thể phải là
chủ thể thường. Trong trường hợp cũng thực hiện hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
nhưng đối tượng tác động là người dưới 16 tuổi thì cấu thành Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều
153, BLHS) hoặc chủ thể là chủ thể đặc biệt - người có chức vụ, quyền hạn mà thực hiện việc bắt, giữ
hoặc giam người thì cấu thành Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật
(Điều 377, BLHS).
36. Hành vi cưỡng bức, buộc người lao động đang làm việc ở các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội, các doanh nghiệp phải thôi việc trái pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng thì cấu thành Tội
buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật (Điều 162 BLHS).
Nhận định này là sai.
Không phải mọi hành vi cưỡng bức, buộc người lao động đang làm việc ở các cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội, các doanh nghiệp phải thôi việc trái pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng thì cấu thành Tội

buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật (Điều 162 BLHS). Theo
quy định tại Khoản 1, Điều 162, BLHS hành vi cưỡng bức, buộc người lao động đang làm việc ở các
cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, các doanh nghiệp phải thôi việc trái pháp luật, gây hậu quả nghiêm
trọng nhưng phải vì vụ lợi hoặc mục đích cá nhân khác thì mới cấu thành tội này. Do vậy, trong trường
hợp có hành vi nêu trên nhưng không vì vụ lợi hoặc mục đích cá nhân khác thì không cấu thành tội này.
37. Đối tượng tác động của Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động
trái pháp luật (Điều 162 BLHS) chỉ là công chức, viên chức hoặc người lao động của các cơ quan
Nhà nước.
Nhận định này là sai.
Căn cứ vào quy định của Khoản 1, Điều 162, BLHS về Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc
sa thải người lao động trái pháp luật:
“1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà thực hiện một trong các hành vi sau đây gây
hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không
giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
6


a) Ra quyết định buộc thôi việc trái pháp luật đối với công chức, viên chức;
b) Sa thải trái pháp luật đối với người lao động;
c) Cưỡng ép, đe dọa buộc công chức, viên chức, người lao động phải thôi việc”.
Theo quy định của Điều 162, đối tượng của Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải
người lao động trái pháp luật không chỉ là công chức, viên chức hoặc người lao động của các cơ quan
Nhà nước. Theo quy định trên, đối tượng của tội phạm này còn là người lao động, tức người lao động
làm việc hay không làm việc trong cơ quan nhà nước đều là đối tượng tác động của tội phạm này.
38. Chủ thể của Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 166 BLHS) phải là người có thẩm
quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Nhận định này là sai.
Chủ thể của Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 166 BLHS) không chỉ là người có thẩm
quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 166, BLHS, có 2 loại
chủ thể có thể là chủ thể của tội phạm này:

- Đối với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc thi hành quyết định của cơ quan có thẩm
quyền xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo thì chủ thể sẽ là
người có chức vụ, quyền hạn.
- Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi khác cản trở việc khiếu nại, tố cáo, việc xét và giải
quyết khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo thì chủ thể trong trường hợp này có
thể là chủ thể thường.
39. Hành vi trả thù người khiếu nại, tố cáo là hành vi khách quan của Tội xâm phạm quyền
khiếu nại, tố cáo (Điều 166 BLHS).
Nhận định này là sai.
Căn cứ vào Khoản 1, Điều 166, BLHS về Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi khác cản trở việc khiếu nại, tố cáo, việc xét và
giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc thi hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền xét và
giải quyết khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo”.
Theo điểm a khoản 1 Điều 166 nếu là chủ thể thường thì hành vi khách quan của tội phạm này phải
nhằm mục đích cản trở việc khiếu nại, tố cáo, việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý
7


người bị khiếu nại, tố cáo, tức là hành vi này nếu nhằm vào người khiếu nại, tố cáo thì hành vi đó phải
xảy ra trong lúc hành động khiếu nại tố cáo đang diễn ra còn hành vi trả thù người khiếu nại, tố cáo là
hành vi diễn ra sau khi khiếu nại, tố cáo đã kết thúc nên đây không phải là hành vi khách quan của tội
phạm này.
40. Mọi hành vi cưỡng ép kết hôn đều cấu thành Tội cưỡng ép kết hôn được quy định tại Điều
181 BLHS.
Nhận định này là sai.
Không phải mọi hành vi cưỡng ép kết hôn đều cấu thành Tội cưỡng ép kết hôn được quy định tại
Điều 181 BLHS. Theo quy định tại Điều 181, BLHS, hành vi cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự

tự nguyện của họ nhưng phải đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì mới
cấu thành Tội này.
41. Mọi trường hợp đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác đều cấu thành Tội vi phạm
chế độ một vợ, một chồng (Điều 182 BLHS).
Nhận định này là sai.
Không phải mọi trường hợp đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác đều cấu thành Tội vi
phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 182 BLHS). Theo quy định tại Điều 182, BLHS, trường hợp
đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác cấu thành tội này khi thuộc một trong các trường hợp:
- Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm;
- Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
- Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ
chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
42. Chỉ giao cấu với người có cùng dòng máu về trực hệ mới cấu thành Tội loạn luân được quy
định tại Điều 184 BLHS.
Nhận định này là sai.
Không phải chỉ hành vi giao cấu với người có cùng dòng máu về trực hệ mới cấu thành Tội loạn luân
được quy định tại Điều 184 BLHS. Theo quy định tại Điều 184, BLHS ngoài hành vi giao cấu với
người có cùng dòng máu về trực hệ thì còn cấu thành tội này khi giao cấu với người là anh chị em cùng
cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Bên cạnh đó, hành vi giao cấu trên chỉ
cấu thành tội này khi người thực hiện hành vi giao cấu biết rõ người đó là người có cùng dòng máu về
8


trực hệ, là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Do vậy,
trường hợp giao cấu nhưng không biết rõ người đó cùng dòng máu trực hệ thì không cấu thành Tội này.
43. Giao cấu thuận tình với người có cùng dòng máu về trực hệ là hành vi chỉ quy định trong cấu
thành Tội loạn luân được quy định tại Điều 184 BLHS.
Nhận định này là sai.
Giao cấu thuận tình với người có cùng dòng máu về trực hệ không chỉ là hành vi quy định trong cấu

thành Tội loạn luân được quy định tại Điều 184 BLHS, mà còn được quy định trong tội phạm khác.
Đối với người thực hiện hành vi giao cấu thuận tình với người có cùng dòng máu về trực hệ nhưng
người đó dưới 13 tuổi thì cấu thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142, BLHS) hoặc người đó
từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì có thể cấu thành Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145, BLHS).
44. Mọi hành vi hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình
đều cấu thành Tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng
mình (Điều 185 BLHS).
Nhận định này là sai.
Không phải mọi hành vi hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng
mình đều cấu thành Tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng
mình (Điều 185 BLHS). Theo quy định tại Điều 185, BLHS, hvi hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng,
con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình cấu thành tội phạm này khi thuộc một trong các trường hợp:
- Thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần;
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm;
- Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
- Đối với người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người mắc bệnh hiểm nghèo.
II. BÀI TẬP:
Bài tập 5: A là đối tượng không có việc làm ổn định, thường uống rượu, gây gổ, đánh nhau và bị cha
mẹ rầy la.
Khoảng 17 giờ 30 phút, sau một chầu nhậu về, A bắt đầu chửi ông Th (bố đẻ của A) với những lời lẽ
hết sức hỗn láo: “Ngày trước tao còn nhỏ mày đánh tao, bây giờ tao đã lớn, thằng nào há miệng tao
bóp cổ chết tươi”. Đúng lúc đó, B (anh ruột của A) đi làm về nghe A chửi cha nên rất bực tức, đã chỉ
mặt A răn đe: “Nếu còn hỗn láo với cha mẹ, có ngày tao đánh chết”.
9


Dù vậy, A vẫn tiếp tục chửi ông Th. Thấy A hỗn láo quá mức, không coi lời nói của mình ra gì nên B
chạy ngay vào bếp rút con dao lưỡi bầu mũi nhọn (kích thước 25 cm x 7 cm) đâm liên tiếp 4 nhát vào
bụng A khiến A gục chết tại chỗ.

Khi định tội cho vụ án có 2 quan điểm:
a. B phạm tội “giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” (Điều 125 BLHS);
b. B phạm tội “giết người” (Điều 123 BLHS).
Theo anh (chị), B đã phạm tội gì? Tại sao?
B đã phạm tội Giết người theo Điều 123 BLHS chứ không phải tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh theo Điều 125 vì ở đây không tồn tại hành vi trái pháp luật nghiệm trọng của A
(nạn nhân) ở đây việc A chửi cha mẹ là hành vi vì phạm đạo đức chứ không vi phạm pháp luật nên dù
B có bị lâm vào trang thái tinh thần bị kích động mạnh thì hành vi của B cũng không thể cấu thành tội
ở Điều 125.
Thêm vào đó Hành vi của B có đầy đủ các dấu hiệu Pháp lý đặc trưng của Tội giết người theo Điều 123,
BLHS:

Khách thể

Dấu hiệu
- Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của A.
- Đối tượng tác động: A – con người đang sống.
- Hành vi: đã có hành vi tước đoạt tính mạng của người khác, hành vi đó là hành
động B cầm dao đâm liên tiếp 4 nhát vào bụng A. Thêm vào đó công cụ mà A sử
dụng để thực hiện hành vi đâm B là một con dao lưỡi bầu mũi nhọn (25cm x 7cm) -

Mặt khách
quan

một công cụ có tính sát thương cao. Hành động đâm liên tiếp 4 nhát của B cho thấy
độ quyết liệt của mình trong hành động, từ đó ta có thể nhận thấy ý chí của B lúc này
là muốn đâm chết B.
- Hậu quả: A tử vong.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: hành động B cầm dao đâm liên tiếp


Chủ thể

Mặt chủ
quan

4 nhát vào bụng A là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả A tử vong.
B thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định).
B thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp, việc này thể hiện qua hành vi
chạy vào bếp rút giao, đâm liên tiếp 4 nhát vào A. B biết hành vi cầm dao đâm liên
tiếp vào bụng của A là nguy hiểm, hành vi này sẽ làm A tử vong nhưng vẫn thực
hiện.

10


Bài tập 6: S là một đối tượng hay rượu chè, đã nhiều lần say rượu và gây gổ, đập phá đồ đạc của gia
đình. Trong một lần say, S đến nhà anh rể (tên là N) đập phá nhiều tài sản (01 máy cassette, 01 TV, 01
tủ kính, 4 két bia…). Bố mẹ S đến can, khuyên bảo nhưng vô hiệu. S còn hùng hổ hơn, hai tay cầm hai
dao xẻ thịt đuổi chém bất kỳ ai. Bà Hai là mẹ S biết H là du kích và có súng nên sang nhờ H can thiệp
giúp ngăn chặn S. H nói là phải có ý kiến của chính quyền và ấp đội chứ không tự can thiệp được. Bà
Hai tìm đến nhà ông M (ấp đội trưởng) và ông Đ (phó công an ấp) báo cáo đề nghị giúp đỡ. Ông M và
Đ đã huy động H và một công an viên nữa tới nhà anh N để làm nhiệm vụ. Cả 2 người tới nơi đã
khuyên ngăn và ra lệnh cho S bỏ dao xuống, S không chấp hành lại dùng cả 2 dao đuổi chém các cán
bộ. Để tránh hậu quả xấu, anh ruột S (tên là Đ) đã lấy 1 khúc cây so đũa bất ngờ đánh vào tay S cho
rớt dao ra nhưng chỉ là cây gỗ mục nên càng làm cho S hung hăng hơn. Tất cả mọi người đều bỏ chạy,
chỉ còn H và anh công an viên kia đứng lại. Thấy H cầm súng thì S càng hùng hổ xông tới. H ra lệnh S
bỏ dao xuống nhưng S vẫn tiếp tục chạy tới với cả 2 dao vung lên. H lùi lại sau nhưng vì phải đi giật
lùi nên S đã đứng trước mặt H cách chừng 2 mét, H chúc nòng súng xuống, bắn vào chân làm S ngã
xuống. S đã chết trên đường đi cấp cứu vì mất quá nhiều máu. Hãy xác định TNHS của H trong vụ án

này.
Trong vụ án này H không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ nhất, đã có hành vi trái pháp luật của S - dùng dao đuổi chém H nên việc H bắn vào chân S khi S
đang vung cả 2 con dao và đứng trước mặt H cách chừng 2 mét, chỉ là hành vi phòng vệ chính đáng của
H nhằm thoát khỏi sự tấn công đến từ phía S.
Thứ hai, H đã cố tình chốc nòng súng xuống để bắn vào chân S chứ không bắn ở những chỗ khác
điều này giúp ta càng thấy rõ là H chỉ muốn ngăn chặn sự tấn công từ S chứ không có ý muốn giết
người. Ngoài ra, H cũng là người đang thi hành công vụ và đã được cho phép sử dụng súng, nên hành
vi dùng súng của H không phải là hành vi trái pháp luật nên H cũng không thể bị kết vào tội làm chết
người trong khi thi hành công vụ ở Điều 127 BLHS.
Bài tập 7: Bà X cho các con cất nhà ở riêng trên phần đất của nhà bà, cụ thể là: A (con ruột) ở cuối
hẻm, B (con rể) cất nhà ở phía trước nhà A. Tất cả sử dụng con hẻm chung rộng 1,2m để làm lối đi vào
nhà. Do B thường để bếp lò trong đường hẻm nướng đồ nhậu gây vướng đường đi lại, nên bà X nhiều
lần kêu B dọn bếp vào trong nhà. Ngày 14/8, bà X lại nhắc nhở B, B cho rằng A xúi bà X đến nói, B hét
to: “Tao đâm chết mẹ mày rồi về ngoài quê ở, xem ai làm gì tao”. Lúc này, A ở trong nhà đang cầm
con dao Thái Lan gọt cắt trái xoài ăn. B cầm khúc cây tầm vông (dài 1m, đường kính 3,5cm, một đầu
vót nhọn) xông vào nhà đập A một cái từ trên xuống nhưng A đưa tay trái lên đỡ nên trúng cổ tay bị
thương nhẹ phần mềm. Ngay sau đó, B cầm chiếc ấm nhôm ném trúng vào vai A rồi lao vào dùng tay
11


chân đấm đá vào người A. A chụp được con dao trên bàn, đâm một nhát trúng vào ngực của B, rồi vứt
con dao bỏ chạy. B chết trên đường đi cấp cứu. Anh (chị) hãy xác định hành vi của A có phạm tội hay
không? Nếu có thì phạm tội gì? Tại sao?
Tội danh mà A đã phạm là Tội giết người theo Điều 123 BLHS 2015.
Hành vi của A đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội giết người:

Khách thể

Mặt khách

quan

Chủ thể
Mặt chủ
quan

Dấu hiệu
- Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của B.
- Đối tượng tác động: B – con người đang sống.
- Hành vi: A chụp được con dao trên bàn, đâm một nhát trúng vào ngực của B, rồi
vứt con dao bỏ chạy.
- Hậu quả: B chết trên đường đi cấp cứu.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của A là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến hậu quả B tử vong.
A thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định).
A thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp, việc này thể hiện qua A biết
hành vi của mình là nguy hiểm cho tính mạng của B nhưng vẫn mong muốn thực
hiện.

Bài tập 8: Một năm trước, P được tuyển vào làm bảo vệ cho nông trường X chuyên trồng thơm xuất
khẩu. P đã được trang bị một khẩu súng trường và được học cách sử dụng súng trong thời gian 2 tuần.
Một buổi sáng chủ nhật, P phát hiện có 3 em (gồm A-17 tuổi, B-15 tuổi, và C-11 tuổi) đang hái trộm
thơm của nông trường. P khoác súng lên vai và lấy xe đạp chạy theo đường đá đón đầu 3 em nhỏ. Tới
nơi, P bỏ xe chạy bộ đuổi bắt. Khi đó, A và B đã vứt bao tải đựng thơm và chạy thoát. C do cố mang
theo bao thơm nên bị P bắt được và bị dẫn về Ban quản lý để xử lý.
Trên đường đi, P dùng một tay giữ bao thơm (tang vật), tay kia nắm chặt tay của C. Khi vượt qua một
cây cầu khỉ thì C đã vùng chạy thoát, còn đẩy làm P mất thăng bằng và té xuống nước. Khi C chạy
được chừng 30m thì P kê súng lên bờ mương, nhắm về phía C lên đạn và bóp cò. Súng nổ và viên đạn
xuyên qua cuống tim làm cho C chết ngay tại chỗ. P liền đến công an tự thú. Anh (chị) hãy cho biết

quan điểm về tội danh trong vụ án này.
Tội danh mà P đã phạm là Tội giết người theo Điều 123 BLHS 2015.
Hành vi của P đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội giết người:
Khách thể

Dấu hiệu
- Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của C.
12


- Đối tượng tác động: C – con người đang sống.
- Hành vi: Khi C chạy được chừng 30m thì P kê súng lên bờ mương, nhắm về phía C
lên đạn và bóp cò.
Mặt khách
quan

- Hậu quả: Súng nổ và viên đạn xuyên qua cuống tim làm cho C chết ngay tại chỗ. P
liền đến công an tự thú.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của P là nguyên nhân trực

Chủ thể
Mặt chủ
quan

tiếp dẫn đến hậu quả C tử vong.
P thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định).
P thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp, việc này thể hiện qua P biết hành
vi của mình là nguy hiểm cho tính mạng của C nhưng vẫn mong muốn thực hiện.


Bài tập 9: Chị V sinh con đầu lòng ở trạm y tế xã. Người đỡ đẻ là bác sĩ N. Đây là ca đẻ ngược. Do
có những sai sót về chuyên môn và kỹ thuật của bác sĩ N nên khi lọt lòng mẹ, cháu bé đã bị gãy xương
cánh tay trái, tình trạng rất yếu, thở thoi thóp và không khóc được. Điều đó khiến cho N luống cuống
nên cắt rốn của bé quá sát da, gây mất máu khá nhiều. Ngay lúc đó N dùng vải màn quấn quanh người
đứa bé, để nằm trên bàn và không cho ai trong số người nhà vào nhìn mặt. N nói với người nhà chị V
là đứa bé đã chết.
Khoảng 10 phút sau bà T (mẹ của chị V) tông cửa xông vào thì thấy cháu bé hãy còn thở. Bà kêu N
tới nhưng N nói: "Chỉ còn thoi thóp, cứu sao được nữa!”. Bất chấp lời N, bà T vẫn đưa cháu lên bệnh
viện tuyến trên cấp cứu. Tại bệnh viện này các bác sĩ có kết luận: cháu bị gãy kín xương cánh tay do
sang chấn sản khoa, cuống rốn bị cắt sát da, chỉ buộc rốn bị tuột ra, mất nhiều máu. Dù được các bác
sĩ cấp cứu tận tình nhưng qua ngày thứ 5 thì bé chết. Hãy định tội danh đối với hành vi của N trong vụ
án này?
Tội danh mà N đã phạm là Tội giết người theo Điều 123 BLHS 2015.
Hành vi của N đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội giết người:

Khách thể

Dấu hiệu
- Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của cháu bé – con chị V.

Mặt khách

- Đối tượng tác động: cháu bé – con người đang sống.
- Hành vi: Bác sĩ N là người đỡ đẻ cho chị V. Do có những sai sót về chuyên môn và

quan

kỹ thuật của bác sĩ N nên khi lọt lòng mẹ, cháu bé đã bị gãy xương cánh tay trái, tình
trạng rất yếu, thở thoi thóp và không khóc được. Sau đó, N cắt rốn của bé quá sát da,
gây mất máu khá nhiều. Ngay lúc đó N dùng vải màn quấn quanh người đứa bé, để

nằm trên bàn và không cho ai trong số người nhà vào nhìn mặt. N nói với người nhà
chị V là đứa bé đã chết nhưng trên thực tế thì cháu bé vẫn còn sống và N không cứu
13


chữa.
- Hậu quả: cháu bé tử vong sau 5 ngày điều trị
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của N là nguyên nhân trực

Chủ thể

tiếp dẫn đến hậu quả cháu bé tử vong.
N thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định).
N thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý gián tiếp, việc này thể hiện qua việc N biết

Mặt chủ

hành vi của mình là nguy hiểm cho cháu bé nhưng vẫn bỏ mặc cho hậu quả xảy ra

quan

(cố ý không cứu chữa cho cháu bé mặc dù biết cháu bé còn sống và che giấu người
nhà về việc này).

Bài tập 10: Chị H là người mồ côi mẹ từ nhỏ. Bố chị lấy vợ khác là bà Y. Trong cuộc sống thường
ngày, bà Y thường có hành vi ngược đãi, ức hiếp đối với chị H. Vì vậy, H đã sớm yêu một thanh niên.
Do nhẹ dạ nên H đã có thai với anh thanh niên này. Khi biết được tình trạng trên, người yêu của H
lánh mặt không gặp H nữa và tìm cách chối bỏ trách nhiệm làm cha. Quá thất vọng vì bị bội tình, H
viết thư tuyệt mệnh rồi tự sát. Trong vụ việc này có hành vi phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì và

ai phải chịu TNHS?
Không có tội phạm trong vụ việc này.
Trong cuộc sống thường ngày, bà Y thường có hành vi ngược đãi, ức hiếp đối với chị H nhưng hành vi
của bà Y không là nguyên nhân dẫn đến việc chị H tự sát. Do vậy, bà Y không phạm tội này.
Nguyên nhân chị H tự sát là do bị bội tình, khi người yêu của H lánh mặt không gặp H nữa và tìm
cách chối bỏ trách nhiệm làm cha. Tuy nhiên đây không là hành vi khách quan của Tội phạm tại Điều
130 hoặc Điều 131, nên anh thanh niên này không phạm tội.
Bài tập 11: A dùng dây điện trần giăng xung quanh luống mía ở trong vườn mía trước nhà mình để
diệt chuột vì mía đã lên cao khoảng 0,80m–1m, nhưng bị chuột cắn phá rất nhiều ở phần ngọn. Xung
quanh ruộng mía có tường bao quanh cao 1m40 đến 1m50 và không có lối đi tắt, đi qua cho hàng xóm.
Thường thường, A cắm điện vào lúc 22giờ đêm và ngắt điện vào 5giờ sáng. Việc cắm điện đã được A
thông báo cho bà con trong xóm biết. Những con chuột bị chết do điện giật, A thường đem cho những
người trong xóm nấu cho heo ăn. Khoảng 24giờ, có một thanh niên khác xã trèo qua tường để vào
vườn mía và bị điện giật chết. Hãy xác định tội danh đối với hành vi gây chết người của A.
Tội danh mà A đã phạm là Tội vô ý làm chết người theo Điều 128 BLHS 2015.

14


Hành vi của A đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội vô ý làm chết người theo Điều 128
BLHS 2015:

Khách thể

Dấu hiệu
- Khách thể: tính mạng, quyền được sống của thanh niên khác xã bị chết.
- Đối tượng tác động: thanh niên khác xã (con người đang sống).
- Hành vi: A dùng dây điện trần giăng xung quanh luống mía ở trong vườn mía
trước nhà mình. Hành vi giăng dây điện bản chất là nguy hiểm và có khả năng
làm chết người. Tuy nhiên, xung quanh ruộng mía có tường bao quanh cao 1m40

đến 1m50 và không có lối đi tắt, đi qua cho hàng xóm. Thường thường, A cắm
điện vào lúc 22giờ đêm và ngắt điện vào 5giờ sáng (khoảng thời gian ít người qua

Mặt khách
quan

lại). Việc cắm điện đã được A thông báo cho bà con trong xóm biết. Khoảng
24giờ, có một thanh niên khác xã trèo qua tường để vào vườn mía và bị điện giật.
- Hậu quả: thanh niên khác xã bị điện giật chết.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: hành vi dùng dây điện trần
giăng xung quanh luống mía ở trong vườn mía trước nhà mình là hành vi vi phạm
quy tắc chung dẫn đến hậu quả làm thanh niên xã bên chết vì điện giật. Hậu quả

Chủ thể

làm chết người là dấu hiệu bắt buộc của Tội vô ý làm chết người.
A thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này – chủ thể thường (có năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định).
A có lỗi vô ý (lỗi vô ý vì quá tự tin). A giăng dây điện trần xung quanh vườn mía
nhà mình là hành vi nguy hiểm, ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe con người. A

Mặt chủ

thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng

quan

cho rằng hậu quả không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được vì A nghĩ rằng xung
quanh luống mía có tường bao quanh, không có lối đi tắt, đi qua cho hang xóm và
A đã thông báo cho bà con trong xóm biết việc mình cắm điện.


Bài tập 12: A, B và H là ba người bạn kết thân từ thời còn học ở Đại học Cảnh sát nhân dân. Khoảng
13giờ 30 phút ngày 25/8, A, B, C và D (đã uống rượu) rủ nhau ra Nhà Bè nhậu tiếp. Trên đường đi, A
và B ghé vào cơ quan để rủ H cùng đi. D và C đứng ngoài cổng trông xe, còn A và B lên phòng để tìm
H. Gặp H ở hành lang, A liền đùa, rút súng K54 mang theo và cười lớn. H cũng đùa lại, vờ nấp vào
cánh cửa. Anh T ở cùng phòng thấy vậy bảo: “Không được đùa với súng”. A tháo băng đạn, kéo quy
lát, lấy nốt viên đạn trong nòng súng ra. B đi vào phòng H. A lắp lại băng đạn vào nòng súng rồi cũng
đi vào phòng theo. A và B rủ H đi chơi nhưng H từ chối vì đã có hẹn. Nghe vậy, B bảo A: “Đưa súng
đây để tao ép nó đi”.
15


A lấy súng đưa cho B. Vì nghĩ rằng súng không có đạn (B đã thấy A lấy viên đạn ra ở hành lang) nên
B cầm súng bằng tay trái, kéo quy lát rồi rê nòng súng về phía H, ngón tay vẫn còn đặt trong vòng cò
thì bất ngờ súng nổ. Viên đạn bắn trúng vào trán H làm H chết ngay tại chỗ. Hãy xác định tội danh đối
với hành vi của B trong vụ án.
Tội danh mà B đã phạm là Tội vô ý làm chết người do vi phạm nguyên tắc nghề nghiệp theo Điều
129 BLHS 2015.
Hành vi của B đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội vô ý làm chết người do vi phạm
nguyên tắc nghề nghiệp:

Khách thể

Dấu hiệu
- Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của H.
- Đối tượng tác động: H – con người đang sống.
- Hành vi: nên B cầm súng bằng tay trái, kéo quy lát rồi rê nòng súng về phía H,
ngón tay vẫn còn đặt trong vòng cò thì bất ngờ súng nổ vì nghĩ rằng súng không có
đạn (B đã thấy A lấy viên đạn ra ở hành lang). Quy tắc nghề nghiệp là súng không sử


Mặt khách
quan

dụng thì phải khoá, tháo đạn, không được đùa giõn với súng… nhưng B vân chĩa
súnn vào người H và cũng không kiểm tra trong súng còn đạn hay không nên dẫn
đến nổ súng chết người.
- Hậu quả: Viên đạn bắn trúng vào trán H làm H chết ngay tại chỗ.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của B là nguyên nhân trực

Chủ thể
Mặt chủ
quan

tiếp dẫn đến hậu quả H tử vong.
B thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định).
B thực hiện hành vi của mình với lỗi vô ý (do cẩu thả).

Bài tập 13: A, B, C và D chơi bài tại nhà ông T. Cả bọn chơi bài đến khoảng 12 giờ thì chị L (vợ của
B) đến gọi B về. Thấy chồng đang đánh bài, chị L đã nói lời xúc phạm khiến B nổi cáu, đứng lên đá chị
L. Thấy B đánh vợ, chị A vội vào can ngăn thì bị B đá 1 cái. Chị A té ngửa xuống sân nhà và ngất xỉu.
Mọi người đưa chị A đi cấp cứu nhưng chị A đã chết sau đó. Biên bản giám định kết luận: A chết là do
chấn thương sọ não. Hãy định tội danh đối với hành vi của B.
Tội danh mà B đã phạm là Tội vô ý làm chết người theo Điều 128 BLHS 2015.
Hành vi của B đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội vô ý làm chết người:
Khách thể

Dấu hiệu
- Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của chị A.
16



- Đối tượng tác động: A – con người đang sống.
- Hành vi: Thấy B đánh vợ, chị A vội vào can ngăn thì bị B đá 1 cái. Chị A té ngửa
xuống sân nhà và ngất xỉu. Mọi người đưa chị A đi cấp cứu nhưng chị A đã chết sau
Mặt khách
quan

đó.
- Hậu quả: A chết là do chấn thương sọ não.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của B là nguyên nhân trực

Chủ thể
Mặt chủ
quan

tiếp dẫn đến hậu quả A tử vong.
B thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định).
B thực hiện hành vi của mình với lỗi vô ý việc này thể hiện qua B có hành vi đá chị
A nhưng không ý thức được hành vi của mình nguy hiểm cho chị A và hậu quả xảy
ra.

Bài tập 14: A và B cùng đi săn. A nhìn thấy một con gà rừng liền giơ súng lên ngắm bắn. B thấy gần
đó có một người đang bẻ măng nên ngăn đừng bắn và nói rằng: “Thôi đừng bắn nữa, nhỡ trúng người
ta thì chết”. A tiếp tục rê súng theo con gà rừng và đáp lại: “Mày chưa biết tài bắn của tao à! Chưa
bao giờ tao bắn trượt cả”. Nói xong, A bóp cò, không ngờ đạn trúng vào người bẻ măng.
Hãy xác định A phạm tội gì nếu:
a. Nếu nạn nhân chết:
Tội danh mà A đã phạm là Tội vô ý làm chết người theo quy định tại Điều 128 BLHS.

Hành vi của A đã có đủ các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội vô ý làm chết người theo quy định tại
Điều 128 BLHS:

Khách thể

Mặt khách
quan

Chủ thể

Dấu hiệu
- Khách thể: tính mạng, quyền được sống của người hái măng.
- Đối tượng tác động: Người hái măng – con người đang sống.
- Hành vi: A bóp cò súng và đạn đã trúng vào người hái măng.
- Hậu quả: Người hái măng chết.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Việc A bóp cò súng và đã bắn trúng
vào người hái măng làm cho nạn nhân tử vong.
A thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định).
A có lỗi vô ý (vô ý vì quá tự tin): A ý thức được việc bắn súng gần người hái măng là

Mặt chủ

hành vi nguy hiểm, ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe người đó. A thấy trước hành

quan

vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm nhưng cho rằng hậu quả không xảy ra
vì A tự tin vào tài bắn súng của mình.
17



b. Nếu nạn nhân bị thương nặng:
Giả sử lúc này tỉ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân từ 31% trở lên.
Lúc này A phạm vào Tội vô ý gây thương tích cho người khác theo quy định tại Điều 138 BLHS
2015.
Hành vi của A đã có đủ các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội vô ý gây thương tích cho người khác theo quy
định tại Điều 138 BLHS 2015:

Khách thể

Mặt khách
quan

Chủ thể

Mặt chủ quan

Dấu hiệu
- Khách thể: sức khoẻ của người hái măng.
- Đối tượng tác động: Người hái măng – con người đang sống.
- Hành vi: A bóp cò súng và đạn đã trúng vào người hái măng.
- Hậu quả: Người hái măng bị thương nặng (tỉ lệ tổn thương trên 31%).
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Việc A bóp cò súng và đã bắn trúng
vào người hái măng làm cho nạn nhân bị thương nặng (tỉ lệ tổn thương trên 31%).
A thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định).
A có lỗi vô ý (vô ý vì quá tự tin): A ý thức được việc bắn súng gần người hái măng là
hành vi nguy hiểm, ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe người đó. A thấy trước hành
vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm nhưng cho rằng hậu quả không xảy ra

vì A tự tin vào tài bắn súng của mình.

c. Nếu nạn nhân bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể 21%:
Căn cứ vào Khoản 1, Điều 138, BLHS về Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác
“1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng
hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm”.
Theo quy định trên, chỉ khi người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% thì mới phạm vào tội này. Trong trường hợp này, tỉ lệ
tổn thương cơ thể của người hái măng là 21% - tức dưới 31% nên theo quy định trên A không phạm
vào tội này.
Bài tập 15: Ông M và bà H lấy nhau đã được 30 năm nhưng hai người không có con chung. Ông M
thường xuyên vắng nhà, có khi nhiều ngày không hề về nhà. Quan hệ của M và H cứ như thế đã nhiều
18


năm. Cuộc sống tẻ nhạt của bà H thật sự trở thành địa ngục khi bà biết ông M lừa dối bà: ông M đang
có vợ bé và đang có một con chung với người vợ này.
Đúng vào ngày sinh nhật thứ 53 của bà H, ông M trở về nhà chìa vào mặt bà H tờ đơn xin ly hôn. Bà
H buồn rầu nói qua hai hàng nước mắt: “Ông thật tàn ác, hôm nay là sinh nhật tôi cơ mà! Tôi hận ông
đã lừa dối tôi suốt bấy nhiêu năm. Không cần đơn chi hết. Tôi sẽ chết cho ông rảnh nợ mà đi lấy người
ta. Ông đừng có cản tôi, tôi đã quyết vậy rồi”.
Ông M buông lời lạnh lùng: "Bà làm gì mặc xác bà. Tôi cần một chữ ký của bà vô tờ đơn gửi tòa
thôi".
Nghe vậy bà H leo lên thành cửa sổ (đang mở sẵn), ông M vẫn ngồi yên ở ghế salon mà không nói gì
thêm. Khoảng cách giữa chỗ ông M ngồi và thành cửa sổ là 5m. Bà H nhảy xuống, đầu đập xuống nền
xi măng, vỡ hộp sọ và chết. (Nhà ông M và bà H ở tầng 5 chung cư T). Theo tin báo của nhân dân,
công an đã tạm giữ ông M để làm rõ cái chết của bà H. Hãy xác định ông M có tội không? Nếu có là
tội gì?

Tội danh mà M đã phạm là Tội bức tử theo Điều 130 BLHS 2015.
Hành vi của M đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội bức tử:

Khách thể

Dấu hiệu
- Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của bà H.
- Đối tượng tác động: H – con người đang sống.
- Hành vi: ông M lừa dối bà H (ông M đang có vợ bé và đang có một con chung với
người vợ này). Đúng vào ngày sinh nhật thứ 53 của bà H, ông M trở về nhà chìa vào
mặt bà H tờ đơn xin ly hôn. Ông M buông lời lạnh lùng, bỏ mặc bà H. Bà H leo lên
thành cửa sổ (đang mở sẵn), ông M vẫn ngồi yên ở ghế salon mà không nói gì thêm.

Mặt khách

Như vậy, ông M đã vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng là yêu thương chăm sóc, sống

quan

chung nên ông M có hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp ngược đãi người lệ
thuộc mình.
- Hậu quả: bà H tử vong.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của ông M là nguyên nhân

Chủ thể
Mặt chủ
quan

trực tiếp dẫn đến hậu quả H tự sát, dẫn đến tử vong.
M thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực

trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định).
M thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp.

19


Bài tập 16: H và B là chiến sĩ công an nghĩa vụ công tác tại đội A vệ binh thuộc Ban tham mưu Trung
đoàn cảnh sát cơ động – Công an tỉnh X. Theo sự phân công của đơn vị, ngày 21/8, H và B được giao
nhiệm vụ trực bảo vệ đơn vị từ 4 giờ đến 6 giờ sáng. H và B tự phân công nhau: B trực từ 4 giờ đến
5 giờ, H trực từ 5 giờ đến 6 giờ.
Sau khi trực xong, B vào gọi H dậy để bàn giao ca trực. B giao cho H một khẩu súng ngắn loại K54
và băng đạn gồm 08 viên. Theo quy định, súng và hộp tiếp đạn được để riêng trong bao da, chung một
dây thắt lưng, khi nhận bàn giao phải kiểm tra súng đạn. Khi nhận súng, H không kiểm tra theo quy
định mà đeo súng vào và ra cổng trực gác.
Đến 5 giờ 45 phút H đánh kẻng báo thức đơn vị dậy tập thể dục rồi vào gọi C (là người phụ trách ca
trực tiếp theo) dậy để bàn giao việc trực. C tỉnh dậy xếp chăn màn xong nhưng không ra trực. H từ
ngoài trở vào thấy C vẫn ngồi xếp bằng hai chân trên giường, bèn tiến lại đứng ngay đầu giường C và
rút súng K54 ra cầm trên tay phải, kéo súng lên đạn rồi chĩa nòng súng vào nách trái của C vừa cười
đùa, đồng thời bóp cò làm đạn nổ. C ôm ngực ngã ngửa xuống giường. H hoảng hốt la lên: “Ai bỏ đạn
vào súng?”. Thấy máu trên người C ra nhiều, H đưa C đến bệnh viện cấp cứu, nhưng C đã chết trên
đường đi.
Kết luận giám định pháp y là: “C chết do đạn bắn ở tầm kề, xuyên ngực và hai lá phổi, từ hõm nách
phía trước bên trái đến vùng lưng phải, gây choáng mất máu cấp”. Anh (chị) hãy xác định hành vi của
H có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì? Tại sao?
Tội danh mà H đã phạm là Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp theo Điều 129
BLHS 2015.
Hành vi của H đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội vô ý làm chết người do vi phạm
quy tắc nghề nghiệp:

Khách thể


Dấu hiệu
- Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của C.

Mặt khách

- Đối tượng tác động: C – con người đang sống.
- Hành vi: Theo quy định, súng và hộp tiếp đạn được để riêng trong bao da, chung

quan

một dây thắt lưng, khi nhận bàn giao phải kiểm tra súng đạn. Khi nhận súng, H
không kiểm tra theo quy định mà đeo súng vào và ra cổng trực gác. Khi H đánh kẻng
báo thức đơn vị dậy tập thể dục rồi vào gọi C dậy để bàn giao việc trực. Chưa thấy C
ra nên H từ ngoài trở vào thấy C, bèn tiến lại đứng ngay đầu giường C và rút súng
K54 ra cầm trên tay phải, kéo súng lên đạn rồi chĩa nòng súng vào nách trái
của C vừa cười đùa, đồng thời bóp cò làm đạn nổ. Như vậy, H đã vi phạm những quy
tắc nghề nghiệp khi sử dụng súng.
- Hậu quả: C tử vong.
20


- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của H là nguyên nhân trực

Chủ thể
Mặt chủ
quan

tiếp dẫn đến hậu quả C tử vong.
H thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực

trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định).
H thực hiện hành vi của mình với lỗi vô ý trực tiếp (do cẩu thả).

Bài tập 17: M cùng vợ là N đi bộ từ nhà mẹ ruột về nhà trọ. Khi ra đến đầu đường thì N ngất xỉu. Hay
tin, mẹ M từ trong nhà chạy ra chạy đến chăm sóc chị N; còn M chạy đi tìm người nhờ phụ chở vợ đi
bệnh viện cấp cứu. Lúc này, M nhìn thấy anh T là người chạy xe ôm đang ngồi trong quán nhậu gần đó
liền đến năn nỉ anh này chở vợ mình đi cấp cứu nhưng bị từ chối. Thấy vợ mình đang trong tình trạng
nguy kịch mà anh T không thèm quan tâm nên M lớn tiếng với anh T dẫn đến cãi nhau rồi M dùng tay
đánh T. Sau đó, anh T bỏ đi ra đến lề đường thì bị M chạy theo dùng tay nắm cổ áo đẩy ra đường. Lúc
đó, anh K đi xe máy (không bật đèn xe) đã tông phải anh T làm T chết. Anh (chị) hãy xác định hành vi
của M có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì? Tại sao?
Tội danh mà M đã phạm là Tội vô ý làm chết người theo Điều 128 BLHS 2015 (???)
Hành vi của M đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội vô ý làm chết người:

Khách thể

Dấu hiệu
- Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của T.
- Đối tượng tác động: T – con người đang sống.
- Hành vi: M chạy theo dùng tay nắm cổ áo đẩy ra đường. Lúc đó, anh K đi xe máy
(không bật đèn xe) đã tông phải anh T. Lúc này, M không thấy xe trên đường nên

Mặt khách
quan

mới nắm cổ áo T đẩy ra đường.
- Hậu quả: T tử vong.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của M là nguyên nhân trực

Chủ thể

Mặt chủ
quan

tiếp dẫn đến hậu quả T tử vong.
M thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định).
M thực hiện hành vi của mình với lỗi vô ý trực tiếp.

21



×