Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp. HCM

Lâm Thanh Sơn

ĐỀ TÀI

GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI VÀO CÁC KCN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2008


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp. HCM
---------------

Lâm Thanh Sơn

ĐỀ TÀI

GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI VÀO CÁC KCN TỈNH BẮC NINH
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 60.31.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS Hồ Đức Hùng



TP. Hồ Chí Minh - Năm 2008


Lâm Thanh Sơn

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
Chương 1: TỔNG LUẬN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ...........................7
1.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) .......................................................7
1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).................................................8
1.3. Vai trò của FDI đối với các nền kinh tế đang phát triển....................................12
1.3.1.Tác động tích cực của FDI...........................................................................12
1.3.2. Tác động tiêu cực của FDI..........................................................................16
1.4. Những yếu tố tác động đối với việc thu hút FDI ...............................................17
1.5. Kinh nghiệm thu hút FDI của một số địa phương ở Việt Nam..........................19
1.5.1. Thu hút FDI của Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội...............19
1.5.2. Một số kinh nghiệm thực tiễn về thu hút FDI ............................................28
1.6 Tóm tắt kinh nghiệm thu hút đầu tư FDI ............................................................29
1.7. Tóm tắt chương 1 ...............................................................................................30
Chương 2: THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ FDI VÀO CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP BẮC NINH................................................................................................31
2.1. Khát quát chung về tỉnh Bắc Ninh .....................................................................31
2.1.1. Điều kiện tự nhiên.......................................................................................31
2.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội.............................................................................32
2.2. Đánh giá thực trạng thu hút đầu tư vào các KCN Bắc Ninh (1998÷2008)........33
2.2.1 Phân tích SWOT các KCN tỉnh Bắc Ninh...................................................33
2.2.2 Phân tích PEST tỉnh Bắc Ninh.....................................................................40
2.3. Kết quả khảo sát các yếu tố ảnh hưởng tới thu hút vốn đầu tư tại các KCN .....42

2.3.1. Hệ thống giao thông....................................................................................42
2.3.2. Cơ sở hạ tầng trong các KCN .....................................................................44
2.3.3 Lao động ......................................................................................................45
2.3.4 Giá cả và chi phí ..........................................................................................47
2.3.5. Thủ tục hành chính .....................................................................................48
2.3.6 Về kênh thông tin tìm hiểu về môi trường đầu tư vào các KCN Bắc Ninh.51
2.3.7 Về vai trò của công tác marketing các KCN Bắc Ninh ...............................52
2.4. Kết luận chung ...................................................................................................52


Lâm Thanh Sơn

Chương 3: GIẢI PHÁP THU HÚT FDI VÀO CÁC KCN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
BẮC NINH GIAI ĐOẠN 2009-2015 VÀ TẦM NHÌN 2020 ..................................54
4.1 Xác định mục tiêu phát triển các KCN Bắc Ninh đến 2015 và tầm nhìn 2020 ..55
4.2. Các giải pháp giải pháp marketing các KCN Bắc Ninh.....................................56
4.2.1. Giải pháp về quy hoạch đô thị và cơ sở hạ tầng .........................................56
4.2.2 Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực ..........................................................59
4.2.3 Giải pháp về ngành CN phụ trợ và các ngành liên quan .............................61
4.2.4 Giải pháp về cải cách bộ máy và thủ tục hành chính...................................62
4.2.5. Tạo sự khác biệt ..........................................................................................66
4.2.6 Thiết kế và tuyên truyền hình ảnh ấn tượng ................................................68
4.2.7 Tổ chức thực hiện và giám sát kiểm tra.......................................................70
4.3. Dự báo kết quả đạt được ....................................................................................71
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................................72
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


Lâm Thanh Sơn


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU VÀ HÌNH MINH HOẠ

I. Bảng

Trang

Bảng 1.1. Cơ cấu FDI vào các nước đang phát triển (%) .........................................10
Bảng 1.2 Chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển. .............................11
Bảng 1.3. Dự án FDI phân theo năm cấp phép của TP HCM...................................20
Bảng 1.4: Dự án FDI còn hiệu lực trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.................22
Bảng 2.1 Cơ cấu kinh tế tỉnh Bắc Ninh ....................................................................32
Bảng 2.2 Bảng xếp hạng về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Bắc Ninh so với các
tỉnh.............................................................................................................................35

II. Hình minh hoạ
Hình 1.1. Vốn FDI mới và tăng thêm trên địa bàn TP HCM (2000-2007)...............21
Hình 1.2. Vốn FDI đăng ký và thực hiện tại Hà Nội giai đoạn 1997-2007 ..............24
Hình 1.3. Số lao động trong khu vực FDI tại Hà Nội qua các năm ..........................24
Hình 1.4: Kim ngạch xuất khẩu của Khu vực FDI tại Hà Nội qua các năm.............25
Hình 1.5. Thu ngân sách từ khu vực FDI tại Hà Nội qua các năm...........................26
Hình 2.1 Kết quả khảo sát về hệ thống giao thông ...................................................43
Hình 2.2 Kết quả khảo sát hệ thống hạ tầng và dịch vụ trong các KCN ..................44
Hình 2.3 Kết quả khảo sát trình độ, kỹ năng và khả năng tuyển dụng lao động ......47
Hình 2.4 Kết quả khảo sát về giá cả và chi phí đối với các loại hàng hoá và dịch vụ
trong các KCN...........................................................................................................48
Hình 2.5 Kết quả khảo sát tính minh bạch trong việc thực hiện các thủ tục hành
chính để được hoạt động trong KCN ........................................................................50
Hình 2.6 Kết quả khảo sát về thái độ và tính chuyên nghiệp của công chức nhà nước
và các cơ quan liên quan khi doanh nghiệp đến thực hiện các thủ tục hành chính

trong quá trình đầu tư, sản xuất, kinh doanh.............................................................51


Lâm Thanh Sơn

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Viết đầy đủ

CN

Công nghiệp

CNH

CN hóa

DN

Doanh nghiệp

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GCNĐT

Giấy chứng nhận đầu tư


GCNĐTĐC

Giấy chứng nhận đầu tư điều chỉnh

HĐH

Hiện đại hóa

HĐND

Hội đồng nhân dân

KCN

Khu công nghiệp

KCX

Khu chế xuất

SXCN

Sản xuất công nghiệp

UBND

Ủy ban nhân dân

XDCB


Xây dựng cơ bản


Lâm Thanh Sơn

LỜI MỞ ĐẦU
1. Khái quát chung
Trong thời kỳ đổi mới, mở cửa, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
được coi là một trong những biện pháp khai thác ngoại lực nhằm thúc đẩy nội lực để phát
triển kinh tế-xã hội. FDI là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế đối ngoại
của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động thu hút vốn
FDI là nhiệm vụ có tính lâu dài, gắn liền với công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, hoạt động đầu tư nước ngoài diễn ra trong bối
cảnh tình hình trong nước và quốc tế có những yếu tố thuận lợi mới tác động tích cực
đến việc thu hút và triển khai dự án nguồn vốn FDI, đồng thời cũng đã xuất hiện một số
khó khăn, thách thức cần được tháo gỡ nhằm tạo đà tăng trưởng trong các năm tới.
Tỉnh Bắc Ninh có diện tích hơn 800km2, dân số gần 1 triệu người nằm ở cửa
ngõ phía Bắc của thủ đô Hà Nội trong tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh, có các đường giao thông lớn quan trọng chạy qua, nối liền
tỉnh với các trung tâm kinh tế, thương mại và văn hoá của miền Bắc. Quốc lộ 1A
nối Hà Nội - Bắc Ninh - Lạng Sơn, đường cao tốc Quốc lộ 18 nối sân bay Quốc tế
Nội Bài - Bắc Ninh - Hạ Long, Quốc lộ 38 nối Bắc Ninh - Hải Dương - Hải Phòng;
trục đường sắt xuyên Việt đi Lạng Sơn và Trung Quốc; mạng lưới đường thuỷ sông
Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình chảy ra biển Đông. Bắc Ninh cách Hà Nội, cách
sân bay quốc tế Nội Bài khoảng 30-35 phút đi bằng ô tô. Đây là những điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội và giao lưu với bên ngoài.
Bắc Ninh là một nơi giầu truyền thống văn hóa, phong tục lâu đời, là vùng đất
địa linh nhân kiệt, quê hương của Kinh Dương Vương, Lý Bát Đế với những địa
danh luy lâu, cổ pháp. Đình Bảng - Từ Sơn là nơi phát tích vương triều Lý rạng rỡ

văn hiến, vang dội võ công. Nơi đây uy linh mái đền Đô thờ phụng trang nghiêm 8
vị vua triều Lý. Bắc Ninh là một vùng quê văn hiến còn bảo tồn nhiều di sản văn
hoá và tín ngưỡng, những di tích mang đậm chất tâm linh và đạt đến tầm cao nghệ
thuật vào hàng kiệt tác. Những mái đình xưa, ngôi chùa cổ còn đó qua bao thăng
trầm biến đổi, cho đời sau viếng thăm là tiềm năng khai thác văn hoá nghệ thuật và
du lịch của Bắc Ninh. Sinh tụ trên nền văn hiến lâu đời đó, người Bắc Ninh cốt cách
đôn hậu, trữ tình, hiếu học, mến khách, thắm đượm những câu dân ca quan họ nổi
tiếng đất Kinh Bắc xưa.


Lâm Thanh Sơn

Bên cạnh nghề cổ truyền cấy lúa trồng dâu, Bắc Ninh có những làng nghề thủ
công danh tiếng được hình thành từ rất sớm như dệt tơ tằm Nội Duệ, chạm gỗ Phù
Khê, làm tranh Đông Hồ. Nền kinh tế hàng hoá phát triển đã tạo nên sức bật cho các
làng nghề. Nhiều làng nghề chuyên môn hoá cao đã ra đời, chuyên sản xuất các mặt
hàng thủ công mỹ nghệ.
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước và thế giới, với những
nguồn tài nguyên được thiên nhiên ưu đãi Bắc Ninh không chỉ được biết đến bởi
những tên tuổi anh hùng, những bức tranh dân gian mộc mạc với "màu dân tộc sáng
bừng trên giấy điệp", những làn điệu dân ca quan họ trữ tình, đằm thắm làm say
đắm lòng người mà Bắc Ninh còn đang được biết đến như một điểm sáng về phát
triển công nghiệp. Bắc Ninh đang chuyển mình mạnh mẽ với những bước đi dài
trong việc xây dưng và phát triển các KCN thực hiện tiến trình CN hóa-hiện đại hóa
phấn đấu để đạt được mục tiêu đến năm 2015 Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công
nghiệp.
Tuy nhiên, “Tương lai phát triển của các địa phương không chỉ tùy thuộc vào
vị trí địa, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, văn hoá. Tương lai phát triển của địa
phương còn tùy thuộc vào chuyên môn, kỹ năng đóng góp, phẩm chất của con
người và tổ chức tại địa phương”[1].

Do đó, việc xây dựng và quảng bá thương hiệu của các KCN thông qua hình
ảnh và các sản phẩm về môi trường thu hút đầu tư đặc trưng là hết sức cần thiết
trong quá trình hoạch định chiến lược thu hút thành công những nhà đầu tư mục tiêu
phù hợp với điều kiện đặc thù của Bắc Ninh; Đồng thời tăng nhanh thu ngân sách,
tạo việc làm cho người dân địa phương nhưng vẫn đảm bảo bảo vệ môi trường, phát
triển bền vững . Điều này đã trở nên hết sức cần thiết và bức bách đối với quá trình
phát triển kinh tế xã hội của Bắc Ninh, cũng như góp phần nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho người dân Bắc Ninh.
Kể từ khi tái lập tỉnh Bắc Ninh (01/01/1997), hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) của Bắc Ninh đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực vào
việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài những năm qua còn bộc lộ những mặt hạn chế. Đó là: Nhận
thức và quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa được quán triệt đầy đủ ở các cấp,
các ngành; cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài có mặt còn bất hợp lý; hiệu quả tổng thể về
kinh tế - xã hội của hoạt động FDI còn chưa cao; môi trường đầu tư chưa thực sự hấp
dẫn; công tác cán bộ, công tác quản lý nhà nước về FDI còn những bất cập; thủ tục hành
chính chưa thực sự thông thoáng.
Là người đang công tác trong lĩnh vực quản lý nhà nước về các KCN trên địa
[1] Kotler.P, M.A. Hamlin, I. Rein, & D.H. Haider, (1993) “Marketing Asian Places, Attracting investment,
industry, and tourism to cities, states, and nations”, Singapore: John Wiley & Son (Asia)


Lâm Thanh Sơn

bàn tỉnh Bắc Ninh, mong muốn được chia sẻ với những trăn trở của các cấp lãnh
đạo địa phương; Đồng thời, tác giả cũng mong muốn góp một phần nhỏ bé của
mình vào việc thực hiện các mục tiêu nêu trên bằng đề tài “Giải pháp thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN Bắc Ninh” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của luận văn là tìm ra một số giải pháp thu hút vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài (FDI) vào các KCN tỉnh Bắc Ninh từ nay tới năm 2015 và tầm nhìn
đến năm 2020. Đề tài sẽ xuất phát từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận trong hoạt động
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, xác định khung phân tích và những kinh
nghiệm thu hút FDI của các nước trong khu vực và trên thế giới. Bước tiếp theo là
phân tích hiện trạng và đánh giá tiềm năng, cơ hội của Bắc Ninh nói chung và các
KCN của tỉnh nói riêng; Xác định mức độ hài lòng về khả năng đáp ứng của các
KCN trên địa bàn tỉnh so với yêu cầu của nhà nhà đầu tư. Đồng thời tìm ra những
khoảng cách trong quan điểm và sự đánh giá giữa nhà đầu tư, doanh nghiệp với bên
cung (Các cơ quan quản lý nhà nước ở tỉnh Bắc Ninh và các công ty hạ tầng KCN)
nhằm làm cơ sở đề xuất các giải pháp. Cuối cùng là một nhóm các giải pháp vừa có
tính chiến lược, vừa mang tính kỹ thuật được đề xuất nhằm thúc đẩy hoạt động thu
hút FDI cho tỉnh Bắc Ninh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn có đối tượng và phạm vi nghiện cứu là các KCN trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh. Bên cạnh việc phân tích tại bàn những điều kiện tự nhiên, tiềm năng và
cơ hội dựa trên nguồn dữ liệu thứ cấp, đề tài sẽ thực hiện nghiên cứu khảo sát bằng
bảng hỏi và phỏng vấn sâu. Đối tượng khảo sát và phỏng vấn sâu là các doanh
nghiệp (trong và ngoài nước) hoạt động trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, các chuyên gia
kinh tế và các nhà quản lý địa phương.
Nguồn số liệu thứ cấp và sơ cấp sử dụng cho luận văn nghiên cứu trong
khoảng thời gian từ năm 2001 đến năm 6/2008. Những giải pháp đưa ra nhằm
hướng tới giai đoạn đến năm 2015.
4. Những điểm mới của đề tài
Đề tài là nghiên cứu đầu tiên cho tỉnh Bắc Ninh có tính hệ thống từ cơ sở lý
thuyết đến phân tích thực trạng qua khảo sát, điều tra thực tiễn để đưa ra những giải
pháp có tính đột phá trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các
KCN Bắc Ninh. Học viên tin tưởng rằng: Đây sẽ là một nghiên cứu phát triển sẽ
được các cơ quan chức năng tỉnh Bắc Ninh tham khảo.

5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dựng cả nghiên cứu tại bàn (desktop research) và nghiên cứu điều tra


Lâm Thanh Sơn

(survey) trên cả hai mặt định tính và định lượng. Nghiên cứu tại bàn chủ yếu đi
phân tích và đánh giá tổng kết kinh nghiệm xây dựng và phát triển các KCN một số
địa phương ở Việt Nam và một số nơi trên thế giới.
Nghiên cứu khảo sát bao gồm việc phỏng vấn theo phiếu điều tra đối với cả
hai phía là doanh nghiệp kinh doanh và doanh nghiệp đầu tư (cơ sở hạ tầng KCN)
và các nhà làm quản lý để đánh giá các yếu tố trên khía cạnh định lượng.

5.1. Điều tra và thu thập dữ liệu
Đề tài sử dụng cả hai nguồn dữ liệu là thứ cấp và sơ cấp. Dữ liệu thứ cấp bao
gồm các báo cáo tổng kết, các nghiên cứu đánh giá trước đó ở trong và ngoài
nước…. Dữ liệu thứ cấp dùng cho mục đính nghiên cứu định tính nhằm xác định:
Các yếu tố cấu thành nên một KCN thành công bằng việc phân tích kinh nghiệm
xây dựng và phát triển các KCN ở một số địa phương trong nước và nước ngoài;
các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của các KCN Bắc Ninh.
Dữ liệu sơ cấp thu thập bằng hai cách là tham vấn chuyên gia và lấy mẫu điều
tra bằng bảng hỏi. Dữ liệu sơ cấp dùng cho phân tích định lượng nhằm xác định tầm
quan trọng của các yếu tố theo quan điểm của nhà đầu tư nước ngoài, của chủ đầu
tư xây dựng và phát triển hạ tầng các KCN và các nhà lãnh đạo trong lĩnh vực quản
lý hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh (các sở ban ngành). So sánh tìm ra những
khoảng cách chênh lệch trong quan điểm đánh giá giữa Nhà đầu tư, doanh nghiệp
(bên cầu) và lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo Ban quản lý các KCN, Sở Kế hoạch đầu tư và
chủ đầu tư hạ tầng KCN (bên cung) nhằm đề xuất những giải pháp hoàn thiện các
KCN, thích ứng cap nhất nhu cầu của nhà đầu tư và doanh nghiệp. Qua đó xác định
những kênh, phương tiện quảng bá phù hợp cho thương hiệu các KCN Bắc Ninh.
Bảng hỏi sử dụng cho điều tra được thiết kế cho hai nhóm đối tượng riêng

biệt đó là phía khách hàng (các DN đến đầu tư tại Bắc Ninh) và nhà cung cấp (các
công ty đầu tư kinh doanh phát triển cơ sở hạ tầng tại Bắc Ninh, các nhà quản lý.
Bảng hỏi điều tra hai nhóm này được thiết kế riêng biệt theo 2 mẫu khác nhau. Tuy
nhiên chúng có chung các chỉ tiêu sau (xem chi tiết phiếu điều tra phần Phụ lục):
Nhóm chỉ tiêu về vị trí địa lý và giao thông: Người được hỏi yêu cầu đánh
giá mức độ thuận lợi trong giao thông gồm 5 yếu tố: Đường bộ; Đường thuỷ;
Đường sắt; Đường hàng không; Các tuyến xe buýt .


Lâm Thanh Sơn

Nhóm nhóm chỉ tiêu về cơ sở hạ tầng các KCN: Người được hỏi yêu cầu
đánh giá khả năng đáp ứng của hệ thống hạ tầng của các KCN Bắc Ninh bao gồm 5
yếu tố: Hệ thống cung cấp điện; Hệ thống cung cấp nước; Hệ thống xử lý nước thải;
Hệ thống cung cấp các dịch vụ viễn thông và internet; Hệ thống các doanh nghiệp
trong lĩnh vực CN phụ trợ.
Nhóm chỉ tiêu về lao động: Người được hỏi yêu cầu đánh giá về kỹ năng,
trình độ của lao động và mức độ thuận lợi trong việc tuyển dụng các loại lao động
này tại Bắc Ninh gồm 6 yếu tố: Cán bộ quản lý, điều hành; Kỹ sư ; Cử nhân kinh tế;
Phiên dịch, biên dịch; Công nhân kỹ thuật (Trình độ trung cấp hoặc tương đương);
Lao động phổ thông.
Nhóm chỉ tiêu về giá cả: Người được hỏi yêu cầu đánh giá về giá cả đối với
các sản phẩm, dịch vụ gồm 10 yếu tố: Giá thuê đất đã có đầy đủ cơ sở hạ tầng kỹ
thuật; Phí bảo dưỡng hạ tầng hàng năm; Cước phí vận chuyển ; Giá cấp điện; Giá
nước cấp; Chi phí xử lý nước thải; Chi phí ăn, ở và giải trí đối với người lao động;
Lương công nhân; Lương của kỹ sư và cán bộ quản lý; Các chi phí khi thực hiện thủ
tục hành chính.
Nhóm chỉ tiêu về các thủ tục hành chính: Người được hỏi yêu cầu đánh giá về
thời gian, tính minh bạch và thái độ của công chức khi thực hiện đầu tư và sản xuất,
kinh doanh tại Bắc Ninh 6 yếu tố: Đăng ký cấp giấy chứng nhận đầu tư; Đăng ký cấp

chứng chỉ quy hoạch; Đăng ký cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài; Các
thủ tục liên quan đến đất đai; Các thủ tục liên quan đến thuế; Thủ tục hải quan;
Nhóm chỉ tiêu về kênh thông tin: Người được hỏi yêu cầu đánh giá về kênh
thông tin quảng bá các KCN Bắc Ninh, gồm 4 yếu tố gợi ý và một yếu tố mở: Internet
và điện thoại; qua bạn bè giới thiệu; Gặp gỡ trực tiếp thông qua các hiệp hội; Thông
qua các công ty tư vấn đầu tư; và các kênh thông tin khác.
Nhóm chỉ tiêu về mức độ cần thiết đối với hoạt động marketing các KCN
Bắc Ninh.
Quá trình điều tra, khảo sát như sau:
Mẫu 1: dùng cho đối tượng doanh nghiệp đã được cấp giấy chứng nhận đầu
tư vào các KCN Bắc Ninh, các nhà đầu tư đã đến khảo sát điều tra, khảo sát tìm
hiểu môi trường đầu tư tại các KCN Bắc Ninh. Với mẫu này, tổng số phiếu phát ra


Lâm Thanh Sơn

40 phiếu (5 phiếu gửi bằng đường bưu điện, 3 phiếu phỏng vấn trực tiếp và 32
phiếu gửi qua email). Tổng số phiếu trả lời là 35 phiếu trong đó có 33 phiếu hợp lệ
và đầy đủ thông tin được sử dụng cho phân tích.
Mẫu 2: Dùng cho đối tượng là các nhà lãnh đạo, chuyên viên các sở: Kế
Hoạch đầu tư, Sở Công thương, Cục Thuế, Hải Quan, Ban quản lý các KCN Bắc
Ninh và các công ty đầu tư phát triển hạ tầng các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh:
Chủ đầu tư KCN VSIP, KCN Quế Võ 1, Quế Võ 2, Yên Phong 1, Yên Phong 2,
KCN Nam Sơn Hạp Lĩnh IGS Hàn Quốc, Thuận Thành 1. Với mẫu này, tổng số
phiếu phát ra: 40 phiếu (phỏng vấn trực tiếp 12 phiếu, gửi qua đường email 28
phiếu). Tổng số phiếu trả lời là 31 phiếu, trong đó có 29 phiếu thích hợp được sử
dụng cho phân tích. Quá trình phân tích số liệu được sự hỗ trợ bằng các phần mềm
thông dụng là Microsoft Excel.

5.2. Phương pháp phân tích

- Phương pháp phân tích theo SWOT: Phân tích SWOT (điểm mạnh, điểm
yếu, cơ hội và thách thức) đùng để thẩm định địa phương thông quá việc phân tích
các yếu tố bên trong (điểm mạnh, điểm yếu) và các yếu tố bên ngoài (cơ hội và
thách thức).
- Phương pháp phân tích theo PEST: Dùng mô hình PEST của Micheal
E.Porter để đi sâu vào việc phân tích các yếu tố trong môi trường vĩ mô. Các yếu tố
đó là thể chế - luật pháp (Political), kinh tế (Economics), văn hóa - xã hội
(Sociocultrural ) và công nghệ (Technological).
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3
chương:
Chương 1: Tổng luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu
công nghiệp Bắc Ninh
Chương 3: Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2009-2015 và tầm nhìn 2020


Lâm Thanh Sơn

Chương 1: TỔNG LUẬN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đầu tư nước ngoài nói chung là hoạt động di chuyển vốn từ nước này sang nước
khác nhằm thực hiện những mục đích nhất định. Vốn đầu tư nước ngoài được thể hiện
dưới dạng tiền mặt, vật thể hữu hình, các giá trị vô hình hoặc các phương tiện đầu tư
khác như trái phiếu, cổ phiếu, các chứng khoán cổ phần khác. Người bỏ vốn đầu tư gọi là
nhà đầu tư hay chủ đầu tư. Nhà đầu tư có thể là một cá nhân, một doanh nghiệp, hay một
tổ chức kể cả Nhà nước.
Có hai hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Trong đó, đầu tư trực tiếp của nước ngoài là hình thức phổ biến và quan trọng.

Có nhiều định nghĩa khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có nhiều ý kiến
cho rằng, đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI – Foreign Direct Investment) là việc các
công ty đa quốc gia tiến hành đầu tư ở nước sở tại thông qua việc thiết lập liên doanh với
các công ty của nước sở tại, mua các công ty của nước sở tại, và có thể thông qua việc
thiết lập chi nhánh của mình tại nước sở tại.
Tại Việt Nam, khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài hiểu theo quy định của Luật
Đầu tư như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy
định của Luật Đầu tư tại Việt Nam”.
Như vậy, có thể hiểu khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: đầu tư trực
tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản xuất thông qua việc
nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư, đồng thời trực tiếp tham
gia quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh
nghiệm quản lý… nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Với cách hiểu khái niệm FDI như trên ta có thể thấy các hoạt động FDI có những
đặc điểm sau:
Thứ nhất, về vốn góp: Các chủ đầu tư góp một lượng vốn tối thiểu tuỳ theo quy
định của mỗi nước nhận đầu tư để họ có quyền trực tiếp tham gia điều phối, quản lý quá
trình sản xuất kinh doanh. Ở Việt Nam, Luật Đầu tư cũng đã đưa ra điều kiện “phần vốn


Lâm Thanh Sơn

góp của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp
liên doanh không bị hạn chế về mức cao nhất theo sự thoả thuận của các bên, nhưng
không dưới 30% vốn pháp định, trừ những trường hợp do Chính phủ quy định”.
Thứ hai, về quyền điều hành, quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ
thuộc vào mức vốn góp. Nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thì quyền điều
hành hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư nước ngoài, có thể trực tiếp hoặc thuê người quản lý.
Thứ ba, về phần chia lợi nhuận: dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lãi lỗ, phân

chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định sau khi đã trừ các khoản đóng góp với nước
chủ nhà và các khoản nợ khác.
Có thể nói, hoạt động FDI là một tất yếu khách quan đối với cả phía nhà đầu tư
cũng như đối với phía tiếp nhận đầu tư. Các nhà đầu tư, mà chủ yếu là các công ty đa
quốc gia thuộc các nước phát triển hoặc các nền kinh tế mới nổi, do yêu cầu mở rộng
kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh, do sự chi phối của quy luật lợi nhuận và tỷ
suất lợi nhuận giảm dần, nhằm tận dụng các lợi thế vốn có của mình, đang phải vươn
tầm hoạt động ra khắp thế giới. Họ trở thành nguồn cung cấp vốn chính cho nền kinh tế
thế giới. Về phía các nước đang phát triển, do thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng cũng
như tích luỹ còn ở mức thấp. Phần lớn thu nhập được dùng để đảm bảo tiêu dùng ở mức
tối thiểu cần thiết, do đó phần dành cho tiết kiệm rất nhỏ. Nói cách khác, tỷ lệ tiết kiệm
trên GDP khá thấp, trong khi đó lại cần một khoảng đầu tư tương đối lớn để phát triển
kinh tế. Mặt khác, ở các nước này do công nghiệp chưa phát triển nên hàng xuất khẩu
chủ yếu là nguyên liệu sơ chế hoặc những mặt hàng có giá trị gia tăng thấp. Trong khi
hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị có giá trị gia tăng cao. Vì thế, cán cân
thương mại có tình trạng nhập siêu lớn, gây thiếu hụt ngoại tệ trầm trọng. Vì vậy, việc du
nhập tư bản từ nước ngoài là một tất yếu khách quan.
1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Hình thức doanh nghiệp liên doanh: Đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài,
qua đó pháp nhân mới được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp mới
này do hai hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên
doanh. Hình thức này có các đặc trưng: pháp nhân mới được thành lập theo hình thức


Lâm Thanh Sơn

công ty, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước chủ nhà. Mỗi bên tham gia vào
doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân riêng. Nhưng doanh nghiệp liên doanh là một
pháp nhân độc lập với các bên tham gia. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn đã quy định
vào liên doanh thì dù một bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. Mỗi bên

liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi
phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở
hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài
và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý điều hành và hoàn toàn chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp này được thành lập dưới dạng các
công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu
tư và Luật Doanh nghiệp Việt Nam.
Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh: đây là
hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai
hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động
kinh doanh ở nước nhận đầu tư trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh
doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần thành lập pháp nhân mới. Hình thức này
không làm hình thành một công ty hay một xí nghiệp mới. Một bên vẫn hoạt động với tư
cách pháp nhân độc lập của mình và thực hiện các nghĩa vụ của mình trước nhà nước.
Ngoài ba hình thức cơ bản trên, theo nhu cầu đầu tư về hạ tầng, các công trình
xây dựng còn có hình thức:
Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao (BOT): là một phương thức đầu
tư trực tiếp được thực hiện trên cơ sở văn bản được ký kết giữa nhà đầu tư nước ngoài
(có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài) với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xây
dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định, hết thời hạn
nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nước chủ nhà.
Hình thức BOT thường được thực hiện bằng 100% vốn nước ngoài, cũng có thể được
thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần vốn góp của chính phủ hoặc các tổ chức, cá nhân
của nước chủ nhà. Nhà đầu tư nước ngoài có toàn quyền tổ chức xây dựng, kinh doanh
công trình trong một thời gian đủ thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý, sau đó có


Lâm Thanh Sơn


nghĩa vụ chuyển giao cho nước chủ nhà mà không được bồi hoàn bất kỳ khoản tiền nào.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao – kinh doanh (BTO): Là hình thức đầu tư dựa
trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu
tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng
xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Nước chủ nhà có
thể sẽ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định
để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao: là một phương thức đầu tư nước ngoài trên
cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu
tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu
tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà tạo
điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi
nhuận hợp lý.
Ngoài các hình thức kể trên, một số nước, nhằm đa dạng hoá và tạo thuận lợi cho
việc thu hút vốn đầu tư còn áp dụng một số hình thức FDI khác như thành lập công ty
quản lý vốn, đa mục tiêu, đa dự án (Holding Company), thành lập văn phòng đại diện
hoặc chi nhánh công ty nước ngoài tại nước chủ nhà. Có thể nói, mỗi hình thức đầu tư
đều có những hấp dẫn riêng đối với các nhà đầu tư. Vì thế, việc đa dạng hoá các hình
thức đầu tư sẽ góp phần đáng kể vào việc tăng cường khả năng thu hút FDI cả về số
lượng cũng như chất lượng.
Bảng 1.1. Cơ cấu FDI vào các nước đang phát triển (%)
Khu vực
1. Trung đông&Bắc Phi
2. Châu Á & Trung Á
3. Đông, Nam & Đ.Nam Á
4. Châu Phi (cận Sahara)
5. Mỹ - Latinh& Caribê
Tổng cộng

1975

23
2
16
15
44
100

1985
17
5
30
8
40
100

1990
11
8
47
3
31
100

1994
5
10
56
4
26
100


1996
4
9
57
3
27
100

1997
2
11
53
2
32
100

Nguồn: (1975-1994): World Bank, (1996-1997) World Investment Report, 1998
FDI phục vụ CNH ở Malaixia, NXB Thế giới, 2000.


Lâm Thanh Sơn

Bảng 1.2 Chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển.
Đơn vị: hạng mục
Hạng mục công nghệ

Đông

Mỹ -


Các nước

Tổng cộng

Nam Á

Latinh

khác

1. Tiến bộ công nghệ

135

154

141

430

2. Sản phẩm công nghệ

150

158

152

460


3. Công nghệ thiết kế và xây dựng

87

111

96

294

4. Công nghệ kiểm tra chất lượng

135

105

131

371

5. Công nghệ quản lý

110

75

101

286


6. Công nghệ Marketing

63

57

65

185

Tổng cộng

680

660

686

2.026

Nguồn: Small and medium-Size Transational Corporations, UN 1993
Các nền kinh tế Châu Á, nhất là khu vực Đông Nam Á được coi là phát triển
năng động, đồng thời cũng là khu vực thu hút nhiều vốn FDI nhất trong thời gian gần
đây do có nhiều điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư như giá nhân công rẻ, tài nguyên
thiên nhiên phong phú, môi trường đầu tư hấp dẫn.
Năm 1997, dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển Châu Á đã đạt 86 tỷ
USD, tăng 1% so với năm 1996, chiếm khoảng trên 50% tổng FDI của các nước đang
phát triển và xếp vị trí thứ hai trong số các nước nhận FDI nhiều nhất trên thế giới. Từ
năm 1992, Trung Quốc nổi lên là một trong số các nước thu hút FDI lớn nhất và đã làm

đảo chiểu về tỷ trọng đầu tư nước ngoài trong khu vực. Đầu năm 1990, hơn 70% đầu tư
nước ngoài ở khu vực châu Á là đầu tư vào các nước Đông Nam Á, Trung Quốc chỉ
nhận dưới 30% thì hiện nay Trung Quốc chiếm tới 35% tổng vốn đầu tư vào khu vực.
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, vốn FDI thực
hiện ở các nước khu vực này đã bị giảm từ năm 1997, đến nay đang có những cải thiện
nhưng nhìn chung còn thấp, nguyên nhân là cải cách tài chính của khu vực diễn ra chậm.
Bên cạnh đó, tình hình chính trị một số nước chưa được ổn định như Indonexia, Philipin.


Lâm Thanh Sơn

1.3. Vai trò của FDI đối với các nền kinh tế đang phát triển
Để có một đánh giá đầy đủ về vai trò của FDI, cần nhìn nhận vấn đề từ cả
giác độ của nhà đầu tư lẫn giác độ của người tiếp nhận đầu tư. Các nhà đầu tư
không phải là những nhà từ thiện, họ chỉ tiến hành đầu tư ở những đâu mà họ đạt
được những lợi ích nhất định của mình, mà mục đích cuối cùng của các công ty đa
quốc gia là không ngừng nâng cao giá trị tài sản và sự giàu có của các cổ đông.
Nhưng biểu hiện của những lợi ích này trong mỗi dự án, ở mỗi quốc gia, trong mỗi
thời kỳ nhất định là khá phức tạp và nó phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và thái
độ của nước chủ nhà.
Mặc dù đánh giá về ảnh hưởng của FDI đối với các nền kinh tế đang phát
triển còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng cũng không thể phủ nhận được tác dụng
tích cực của FDI. Ở Việt Nam, FDI thực tế đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế
quốc dân. Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng ta đã khẳng định: “kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài là một trong sáu thành phần kinh tế của cơ cấu kinh tế nước ta”.
Đó là một minh chứng khẳng định vai trò quan trọng của FDI đối với sự phát triển nền
kinh tế- xã hội Việt Nam.
1.3.1.Tác động tích cực của FDI
Thứ nhất, FDI bổ sung nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế, cải
thiện cán cân thanh toán của quốc gia.

Với bất kỳ quốc gia nào muốn phát triển đều cần vốn đầu tư, không có đầu tư
không thể phát triển và tăng trưởng kinh tế. Để có nguồn vốn đầu tư, các quốc gia
đều dựa vào hai nguồn: vốn tích luỹ trong nước và vốn nước ngoài. Thu hút FDI là
dùng vốn nước ngoài đầu tư vào sản xuất kinh doanh của nước chủ nhà, bởi vậy nó
có ý nghĩa tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân. Nó không chỉ dừng ở đồng vốn trực
tiếp được đưa vào, mà nguồn vốn FDI này còn khơi dậy, sử dụng các nguồn lực
trong nước cùng vận hành như đất đai, tài nguyên, vốn của các doanh nghiệp trong
nước trực tiếp tham gia đầu tư. FDI kéo theo hoạt động các doanh nghiệp trong
nước như xây dựng, vận tải, cung ứng, dịch vụ.
Cán cân thanh toán có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của nước
đang phát triển, là một chỉ tiêu mà các nhà hoạch định chính sách luôn theo dõi chặt


Lâm Thanh Sơn

chẽ. Đối với những nước đang phát triển, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá thì việc thâm hụt cán cân thanh toán là không đáng báo động, bởi vì những nước
này đang có thay đổi lớn về cấu trúc của ngành công nghiệp thông qua nhập khẩu
những thiết bị, dây chuyền công nghệ, nên dẫn đến nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu.
Hoạt động đầu tư nước ngoài với tính chất là nguồn vốn đầu tư ổn định đã
góp phần quan trọng duy trì, cải thiện cán cân thanh toán thông qua hoạt động xuất
khẩu và thay thế nhập khẩu. Xuất khẩu được đẩy mạnh sẽ mang lại nguồn thu ngoại
tệ cho nước tiếp nhận đầu tư, đồng thời các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào sản
xuất những mặt hàng mà nước tiếp nhận đầu tư trước đây chưa có khả năng sản xuất
đã giúp cho nước này không phải nhập khẩu những hàng hóa đó, giảm lượng ngoại
tệ phải thanh toán và dẫn đến cải thiện cán cân thanh toán.
Thứ hai, FDI góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập và đào tạo nguồn nhân
lực.
FDI có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực quản lý, trình độ
công nghệ, tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động. Nhờ FDI, có thể tiếp

cận, học hỏi, đúc kết được nhiều kinh nghiệm quản lý kinh tế, quản lý doanh
nghiệp. Nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đã tạo cho lao động Việt Nam có điều kiện
được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp cận với kỹ năng, công nghệ và kinh nghiệm
quản lý tiên tiến ngay tại doanh nghiệp hoặc gửi đi đào tạo ở nước ngoài. Thu hút
vốn FDI, đồng nghĩa với nó là giải quyết việc làm cho người lao động. Thậm chí,
đối với một số nước có dân số lớn, thu hút FDI được coi là giải pháp cơ bản trong
chiến lược giải quyết việc làm cho người lao động. Thông qua làm việc trong các
doanh nghiệp có vốn FDI, nhờ việc tiếp cận với máy móc, thiết bị mới, công nghệ
hiện đại mà người lao động có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ,
kỷ luật lao động, phương thức sản xuất tiên tiến.
Theo số liệu thống kê của UNCTAD thì số lượng lao động làm việc trong
các công ty xuyên quốc gia xấp xỉ 17 triệu người vào năm 1998 và 26 triệu người
vào đầu năm 2000. Trong các ngành sản xuất công nghiệp, số lượng lao động làm
việc trong các doanh nghiệp FDI tại các nước đang phát triển chiếm tỷ lệ phần trăm
cao nhất trong tổng số lao động của các quốc gia này và con số này liên tục tăng


Lâm Thanh Sơn

lên. Ngoài ra, FDI còn gián tiếp tạo việc làm thông qua việc hình thành các doanh
nghiệp vệ tinh cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các doanh nghiệp FDI khác.
Thư ba, FDI góp phần nâng cao trình độ khoa học công nghệ
FDI có vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ khoa học – công
nghệ. Để tăng sức cạnh tranh trên thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư, các nhà đầu
tư về nguyên tắc đều phải trang bị các loại máy móc thiết bị kỹ thuật, công nghệ
tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại. Kinh nghiệm của các nước công nghiệp
mới (NICs) cho thấy, đầu tư FDI là một trong những giải pháp nhanh nhất để nâng
cao trình độ kỹ thuật, công nghệ, quản lý, sớm tiếp cận với những thành tựu khoa
học mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thư tư, FDI góp phần thúc đẩy xuất khẩu, mở rộng hợp tác quốc tế

Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần phát triển kinh tế đối ngoại, mở rộng
thị trường xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Với các nước đang phát triển, việc thâm nhập và chiến lĩnh thị trường quốc
tế là một trong những việc cần thiết nhưng vô cùng khó khăn, do chưa có kinh
nghiệm trên thương trường quốc tế, sản phẩm chất lượng chưa tốt, bạn hàng ít. Bởi
vậy, để mở rộng thị trường, có thể thông qua nhà đầu tư nước ngoài để tiêu thụ sản
phẩm. Các nhà đầu tư tiến hành đầu tư ở các nước khác để tận dụng những lợi thế
so sánh về nguyên liệu, lao động để hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên
thị trường. Việc hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài có thể tận dụng những kinh
nghiệm, uy tín của chính công ty đó để bán sản phẩm, thâm nhập thị trường là một
yêu cầu quan trọng và tất yếu đối với nước mới mở cửa và hội nhập.
Quan hệ đầu tư quốc tế xuất hiện từ thế kỷ XVIII, thời kỳ này được coi là
quá trình hội nhập nông (sallow-integration) trong lĩnh vực đầu tư. Các nước quan
hệ đầu tư với nhau trên cơ sở tự nguyện, có lợi ích và chưa đặt ra cho nhau các
nghĩa vụ phải thực hiện. Hiện nay, quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế trong
phạm vi giữa các quốc gia, khu vực và trên toàn thế giới biểu hiện tự do hoá trong
bốn lĩnh vực: Thương mại hàng hoá, sở hữu trí tuệ, đầu tư và thương mại dịch vụ.
Như vậy, đầu tư cũng là một trong bốn lĩnh vực được các quốc gia xem xét
tự do hoá. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết


Lâm Thanh Sơn

giữa các quốc gia thực hiện đầu tư và tiếp nhận đầu tư, làm cho quá trình phân công
lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu. Những cam kết về tự do hoá đầu tư nước
ngoài được coi như là những quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế của từng quốc
gia. Ngày nay, cùng với xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới diễn ra theo
chiều sâu và rộng, các nước đã có nhiều hình thức thực hiện các cam kết nhằm tự do
hoá lĩnh vực đầu tư gắn với tự do hoá thương mại.
Từ các phân tích trên cho thấy, hoạt động FDI, với tư cách là một bộ phận

cấu thành quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, đóng một vai trò
đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia. Đối với nước ta, xuất
phát từ yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, FDI sẽ là
một bộ phận quan trọng của cơ cấu kinh tế quốc dân và đóng một vai trò quan trọng
trong tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng ta đã chỉ rõ: “Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của nền
kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển, hướng mạnh vào sản xuất, kinh
doanh hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, hàng hoá và dịch vụ có công nghệ cao, xây
dựng kết cấu hạ tầng”. Nói cách khác, hoạt động FDI ngày nay cần gắn chặt với
chính sách chung của đất nước và có vai trò thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cụ thể là, bên cạnh những mục
tiêu thu hút vốn đầu tư phát triển, tạo việc làm, tăng thu nhập, tăng giá trị xuất khẩu,
hoạt động FDI còn hướng vào những mục tiêu đổi mới kỹ thuật, công nghệ, lĩnh
vực sản xuất các loại hàng hoá có hàm lượng khoa học, công nghệ cao, đủ sức cạnh
tranh trên thị trường quốc tế.
Rõ ràng, tăng cường thu hút đầu tư và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI là
một trong các giải pháp đưa nước ta ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đạt tốc độ tăng
trưởng và phát triển kinh tế - xã hội cao, tạo đà cho sự phát triển ở các giai đoạn tiếp
theo.
Thứ năm, FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận đầu
tư.
Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là cấu trúc của nền kinh tế. Đứng trên
góc độ khác nhau người ta có thể chia thành cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành


Lâm Thanh Sơn

phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế. FDI có thể ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của mỗi nước trên cả ba góc độ cơ cấu trên trong đó, cơ cấu ngành đóng
vai trò quan trọng quyết định hình thức của các loại cơ cấu kinh tế khác. Do vậy,

việc thay đổi cơ cấu ngành kinh tế sẽ làm thay đổi cơ cấu kinh tế của một quốc gia.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thay đổi cơ cấu ngành kinh tế các nước tiếp
nhận đầu tư, cụ thể như sau:
- Chuyển đổi từ ngành sản xuất nông nghiệp truyền thống sang sản xuất công
nghiệp và sau là sang ngành dịch vụ.
- Thay đổi cơ cấu bên trong một ngành sản xuất ngành công nghiệp chuyển
từ năng suất thấp, công nghệ lạc hậu nhiều lao động sang sản xuất có năng suất cao,
công nghệ hiện đại, sử dụng ít lao động.
- Thay đổi cơ cấu bên trong của mỗi lĩnh vực sản xuất thông qua quá trình
chuyển từ việc áp dụng công nghệ lạc hậu, giá trị hàng hoá và dịch vụ có hàm lượng
công nghệ thấp sang ngành sản xuất áp dụng công nghệ tiên tiến, giá trị hàng hoá có
hàm lượng khoa học công nghệ cao.
1.3.2. Tác động tiêu cực của FDI
Bên cạnh những mặt tích cực, FDI có thể gây ra những bất lợi cho nước tiếp
nhận, cần phải lưu ý.
Một là, việc sử dụng nhiều vốn đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng có
thể dẫn đến việc thiếu chú trọng huy động và sử dụng tối đa vốn trong nước, gây ra sự
mất cân đối trong cơ cấu đầu tư (giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài); có thể gây nên
sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn nước ngoài, vào nhà đầu tư nước ngoài (kể cả bí
quyết kỹ thuật, công nghệ, đầu mối cung cấp vật tư, nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm). Do
đó, nếu tỷ trọng FDI chiếm quá lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển thì tính độc lập tự
chủ bị ảnh hưởng, nền kinh tế phát triển có tính lệ thuộc bên ngoài, thiếu vững chắc, nhất
là khi dòng vốn FDI có sự biến động, giảm sút lớn.
Hai là, các nhà đầu tư nước ngoài thường sử dụng lợi thế của mình đối với doanh
nghiệp nước tiếp nhận trong trường hợp liên doanh để thực hiện biện pháp “chuyển giá”
thông qua cung ứng nguyên vật liệu, chi tiết, linh kiện, sản phẩm dở dang với giá cao, thu


Lâm Thanh Sơn


lợi ngay từ khâu này làm cho giá sản phẩm cao một cách giả tạo, giảm lợi nhuận, thậm
chí “lỗ giả, lãi thật” gây thiệt hại cho người tiêu dùng và giảm thu ngân sách của nước sở
tại. Đôi khi, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thực hiện chính sách cạnh tranh bằng
con đường bán phá giá, chịu lỗ trong giai đoạn đầu và các hình thức cạnh tranh không
bình đẳng khác để loại trừ đối thủ cạnh tranh, độc chiếm hoặc khống chế thị trường, lấn
át các doanh nghiệp trong nước, làm cho một ngành hoặc một số ngành sản xuất trong
nước không phát triển được.
Ba là, Lợi dụng trình độ công nghệ thấp và quản lý yếu kém của nước chủ nhà,
một số nhà đầu tư nước ngoài thông qua con đường FDI để tiêu thụ những máy móc,
thiết bị lạc hậu, đã thải loại sang nước tiếp nhận FDI.
Bốn là, Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính, các doanh nghiệp có
vốn nước ngoài, các công ty xuyên quốc gia có khả năng gây ra một số ảnh hưởng bất lợi
về kinh tế - xã hội như làm tăng chênh lệch về thu nhập, làm gia tăng sự phân hoá trong
các tầng lớp nhân dân, tăng mức độ chênh lệch phát triển trong một số vùng hoặc giữa
các vùng. Nước chủ nhà khó chủ động trong việc điều phối, phân bổ sử dụng nguồn vốn
FDI vì về cơ bản quyết định đầu tư thuộc về nhà đầu tư.
Tuy nhiên, những mặt bất lợi của FDI gây ảnh hưởng như thế nào còn phụ thuộc
vào yếu tố chủ quan của nước chủ nhà như quan điểm, nhận thức, chiến lược, thể chế,
chính sách, công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Nếu có sự chuẩn bị kỹ
lưỡng, đầy đủ và có các biện pháp phù hợp, nước tiếp nhận FDI có thể hạn chế, giảm
thiểu được những tác động tiêu cực, bất lợi, xử lý hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích của
nhà đầu tư nước ngoài và lợi ích quốc gia, tạo ra lợi ích tổng thể tích cực của việc tiếp
nhận FDI cho tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo mục tiêu, định
hướng của mình.
1.4. Những yếu tố tác động đối với việc thu hút FDI
Trước hết, đó là sự ổn định của thể chế chính trị - xã hội ở quốc gia thu hút
vốn FDI. Đây là một trong những điều kiện quan trọng nhất đối với nhà đầu tư. Bất
cứ sự bất ổn nào của thể chế chính trị - xã hội đều có thể dẫn đến rủi ro và tổn thất,
thậm chí cả nguy cơ phá sản. Hiện nay, trên 70% dòng vốn FDI trên thế giới được



Lâm Thanh Sơn

chuyển dịch giữa các nước tư bản phát triển, ngoài các yếu tố quan trọng khác như
những yếu tố về thị trường, sự ổn định về thể chế chính trị - xã hội cũng là một nhân
tố có sức hấp dẫn cao.
Thứ hai, sự ổn định và tính minh bạch của hệ thống chính sách kinh tế, chính
sách quản lý và các chính sách có liên quan. Một hệ thống chính sách ổn định, rõ
ràng sẽ giúp cho nhà đầu tư hoạch định chiến lược đầu tư và kinh doanh dài hạn
trên cơ sở luận cứ khoa học. Nếu hệ thống chính sách thường xuyên bị điều chỉnh,
không ổn định chắc chắn sẽ gây sự lo ngại cho nhà đầu tư, do họ không thể dự báo
được tương lai, do đó không hoạch định được kế hoạch, bước đi cụ thể cả ngắn hạn
cũng như dài hạn. Trong các hệ thống chính sách cần được ổn định lâu dài và minh
bạch thì những chính sách tài chính, thuế khoá, chính sách thương mại quốc tế và
những chính sách trực tiếp tác động đến khả năng thu lợi nhuận của nhà đầu tư giữ
vai trò quan trọng và quyết định đối với việc thu hút vốn FDI.
Thứ ba, Về vị trí địa lý, tính phong phú, đa dạng của các nguồn lực tự nhiên
và các lợi thế của quốc gia muốn thu hút FDI, đặc biệt là đối với các nước đang phát
triển. Chính những quốc gia đang phát triển có nhiều tài nguyên, hoặc có lợi thế về
địa lý, dân số là những quốc gia thu hút được mạnh nhất dòng vốn FDI. Bản chất
tìm kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài là khai thác được các yếu tố đầu vào
với giá rẻ.
Thứ tư, nguồn nhân lực dồi dào. Nguồn nhân lực ở đây không chỉ đơn thuần
hiểu về số lượng, mà các nhà đầu tư quan tâm đặc biệt tới nguồn nhân lực có trình
độ tay nghề cao, có ý thức kỷ luật lao động tốt, đặc biệt đối với những ngành kinh tế
có hàm lượng tri thức cao. Không phải ngẫu nhiên dòng vốn FDI dịch chuyển chủ
yếu giữa 3 trung tâm kinh tế phát triển nhất là Tây Âu, Nhật Bản, Bắc Mỹ (chiếm
70%). Chỉ một số ngành công nghiệp hoặc chỉ một số công đoạn cần nhiều nhân
công lao động phổ thông là đặc biệt quan tâm đến các nước đang phát triển có
nguồn lao động phổ thông rẻ và dồi dào.

Thứ năm, Trình độ phát triển của nền kinh tế (điều kiện hạ tầng, chất lượng
cung cấp các dịch vụ) và đặc điểm phát triển của nền văn hoá xã hội được coi là yếu
tố quản lý vĩ mô. Sự thuận lợi hay không thuận lợi về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục
tập quán đều có thể trở thành sự khuyến khích hay kìm hãm việc thu hút các nhà


Lâm Thanh Sơn

đầu tư nước ngoài.
Thứ sáu, môi trường pháp lý và nền hành chính quốc gia. Nếu có ổn định
chính trị - xã hội, tài nguyên phong phú, nhưng môi trường pháp lý không ổn định,
rõ ràng thì cũng làm cho các nhà đầu tư e ngại. Thủ tục hành chính rườm rà làm cho
các nhà đầu tư mất đi cơ hội kinh doanh. Do đó vấn đề hoàn thiện môi trường pháp
lý và cải cách hành chính luôn là yếu tố khuyến khích các nhà đầu tư mạnh dạn bỏ
vốn đầu tư.
Ngoài những nhân tố trên, xuất phát từ mục tiêu của các nhà đầu tư nước ngoài là
tìm kiếm lợi nhuận, do đó bất cứ nhân tố nào có tác dụng tăng khả năng thu lợi nhuận từ
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng sẽ được nhà đầu tư quan tâm đó là:
Yếu tố lãi suất: Lãi suất càng cao thì lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư càng
giảm, đương nhiên là sẽ không khuyến khích được các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào sản
xuất kinh doanh.
Chi phí sản xuất: bao gồm chi phí nguyên nhiên vật liệu, chi phí nhân công và chi
phí cho các dịch vụ hỗ trợ sản xuất của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất càng cao thì lợi
nhuận càng thấp điều này không khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài.
Tỷ giá hối đoái: là yếu tố quan trọng trong việc thu hút FDI. Nếu đồng tiền
của nước sở tại tăng giá thì đồng nghĩa với chi phí đầu tư tăng lên và ngược lại. Đây
là yếu tố khá nhậy cảm trong việc thu hút FDI của mỗi quốc gia.
1.5. Kinh nghiệm thu hút FDI của một số địa phương ở Việt Nam
1.5.1. Thu hút FDI của Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội
Thành phố Hồ Chí Minh

Thành phố Hồ Chí Minh do có những lợi thế về vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng và
môi trường kinh doanh cùng với sự quan tâm của lãnh đạo thành phố trong việc tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài nên đã sớm thu hút được nguồn
đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI so với các địa phương khác trong phạm vi cả nước.
Từ 1988 – 1994, ngay sau khi Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 được ban hành và
có hiệu lực, thành phố đã bắt đầu thu hút nguồn vốn FDI nhưng số dự án còn ít và
hiệu quả hoạt động chưa cao. Năm 1995, thành phố thu hút được 155 dự án với tổng
vốn đầu tư là 2.498 triệu USD (mức thu hút cao nhất trong cả giai đoạn 1988-2006).


×