Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Giải pháp tài chính nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN THỊ HỒNG THẢO

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2008


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................... 1
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ NGUỒN QUỸ BẢO HIỂM
XÃ HỘI .............................................................................................................................4
1.1 Khái niệm, bản chất, vai trò BHXH .........................................................................4
1.1.1 Khái niệm BHXH .....................................................................................................4
1.1.2 Bản chất của BHXH ................................................................................................5
1.1.3 Vai trò của BHXH....................................................................................................6
1.1.4 Phân biệt BHXH với Bảo hiểm thương mại...........................................................8
1.2 Chính sách BHXH................................................................................................... 10
1.2.1 Khái niệm.............................................................................................................. 10
1.2.2 Chính sách BHXH trong hệ thống an sinh xã hội.............................................. 10
1.2.3 Các chế độ BHXH hiện hành tại Việt Nam ....................................................... 12
1.3 Quỹ Bảo hiểm xã hội............................................................................................... 12
1.3.1 Khái niệm.............................................................................................................. 12
1.3.2 Vị trí của quỹ BHXH trong hệ thống tài chính nhà nước................................ 13
1.3.3 Đặc điểm của quỹ BHXH .................................................................................... 18
1.3.4 Những nhân tố tác động đến quy mô quỹ BHXH ............................................. 19
1.3.5 Các mô hình quỹ BHXH...................................................................................... 22


1.3.6 Quản lý quỹ BHXH.............................................................................................. 25
1.3.7 Mô hình quản lý quỹ BHXH một số nước trên thế giới ................................... 27
1.3.7.1 Tại Trung Quốc ................................................................................................. 27
1.3.7.2 Tại Cộng hòa Liên bang Đức ........................................................................... 29
1.3.7.3 Quản lý quỹ hưu trí ở Australia ...................................................................... 34
1.3.7.3 Một số kinh nghiệm cho quản lý quỹ BHXH ở nước ta ................................ 37
Kết luận chương 1.......................................................................................................... 38
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGUỒN QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM . 39
2.1 Quá trình hình thành và tổ chức thực hiện BHXH từ khi thành lập BHXH Việt
Nam................................................................................................................................. 39
2.1.1 Những quy định về BHXH .................................................................................. 39
2.1.2 Tổ chức bộ máy thực hiện BHXH ...................................................................... 41
2.1.3 Hoạt động quản lý quỹ BHXH............................................................................ 42
2.1.3.1 Nguồn thu vào quỹ BHXH ............................................................................... 43
2.1.3.2 Các khoản chi từ quỹ ........................................................................................ 44
2.2 Hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH .................................................. 44
2.2.1 Nội dung và quy trình quản lý quỹ..................................................................... 44
2.2.2 Cân đối thu – chi quỹ BHXH .............................................................................. 48
2.2.3 Hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH ............................................... 49
2.3 Đánh giá công tác quản lý quỹ BHXH từ khi thành lập BHXH Việt Nam ....... 53
2.3.1 Những mặt đạt được ............................................................................................ 53
2.3.2 Những mặt còn tồn tại ......................................................................................... 55
Kết luận chương 2.......................................................................................................... 59
CHƯƠNG 3:
GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH NHẰM BẢO TOÀN VÀ TĂNG TRƯỞNG NGUỒN QUỸ
BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM........................................................................... 61
3.1 Định hướng phát triển ngành BHXH của Nhà nước........................................... 61



3.1.1. Mục tiêu phát triển ngành BHXH ..................................................................... 61
3.1.2 Quan điểm chỉ đạo quản lý quỹ BHXH ............................................................. 62
3.2 Những giải pháp nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH............................. 65
3.2.1 Đối với Chính Phủ và Các cơ quan quản lý Nhà nước .................................... 65
3.2.2 Đối với Cơ quan BHXH ...................................................................................... 67
3.2.3 Đối với người sử dụng lao động .......................................................................... 70
3.2.4 Giải pháp tài chính nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH 70
3.2.4.1Đổi mới các chính sách kinh tế tài chính .......................................................... 70
3.2.4.2T iếp tục đổi mới chính sách tiền lương và chính sách phân phối thu nhập trong
nền kinh tế ...................................................................................................................... 71
3.2.4.3Mức sinh lời từ đầu t ư của quỹ phải cao hơn mức tăng chỉ số giá ................. 71
3.2.4.4 Ngành BHXH nên thực hiện chi quản lý bộ máy tiết kiệm, có hiệu quả........ 72
3.2.4.5 Đa dạng hóa các hình thức đầu tư của Quỹ BHXH ........................................ 72
3.2.4.6 Đa dạng hóa các hình thức sở hữu đối với dịch vụ BHXH ............................. 73
3.2.4.6 Thành lập công ty đầu tư tài chính Quỹ BHXH............................................... 73
Kết luận chương 3.......................................................................................................... 74
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................... 76


-1-

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) ở nước ta là một trong những chính sách lớn của
Ðảng và Nhà nước đối với người lao động. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu thành
lập nước, chế độ chính sách bảo hiểm xã hội đã được ban hành, từng bước được
thực hiện đối với công nhân viên chức khu vực nhà nước và dần mở rộng ra khu
vực ngoài quốc doanh. Trong quá trình thực hiện, chế độ chính sách về bảo hiểm xã
hội không ngừng được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của

đất nước nhằm đảm bảo quyền lợi đối với người lao động.
Quỹ Bảo hiểm xã hội được hình thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao
động, người lao động; lãi từ hoạt động đầu tư tăng trưởng; Nhà nước đóng góp và
hỗ trợ. Trước năm 1995, nguồn thu BHXH rất nhỏ, mọi nhu cầu chi BHXH đều do
ngân sách Nhà nước cấp, không có Quỹ BHXH độc lập. Từ năm 1995 đến nay,
cùng với sự ra đời của hệ thống BHXH Việt Nam là đơn vị sự nghiệp trực thuộc
Chính phủ, Quỹ BHXH được hình thành, hạch toán độc lập với ngân sách Nhà
nước. Quỹ BHXH để chi trả cho hai chế độ hưu trí và trợ cấp thường xuyên có 3
đặc điểm cơ bản:
- Chủ sử dụng lao động và người lao động phải đóng BHXH trong một thời gian dài
theo quy định thì người lao động mới được hưởng các chế độ này.
- Khi đủ điều kiện theo quy định, người được hưởng các chế độ này lại được hưởng
trợ cấp trong một thời gian dài.
- Số thu trong năm thường không chi hết trong năm đó, quỹ luôn có số tiền tạm thời
nhàn rỗi.
Về thiết kế Quỹ BHXH dựa trên nguyên tắc sự thụ hưởng trong tương lai
phụ thuộc vào những đóng góp ở hiện tại. Tuy nhiên những biến động khó dự đoán
của lãi suất, lạm phát; bên cạnh đó tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, tuổi thọ ngày càng
tăng, tỷ lệ số người làm việc trên số người không làm việc có xu hướng giảm đã tác
động gây khó khăn cho những tính toán ban đầu và là những thách thức thật sự
trong việc đảm bảo nguồn chi trả của Quỹ BHXH trong tương lai.

1


-2-

Chính vì vậy mà việc sử dụng nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của Quỹ BHXH
để đầu tư, trước hết là để đảm bảo giá trị của phần vốn này và hơn nữa là có được
phần sinh lời thực tế (sau khi đã trừ đi lạm phát) sẽ làm tăng quy mô của quỹ

BHXH, góp phần cải thiện cho các khoản trợ cấp BHXH; đồng thời đảm bảo cho
các hoạt động của BHXH được tốt hơn cả trong hiện tại và tương lai.
Là một nhân viên đang công tác trong ngành BHXH tôi chọn đề tài “Giải
pháp tài chính nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH tại Việt Nam” làm đề tài
tốt nghiệp với hy vọng sẽ đưa ra những giải pháp để có thể bảo toàn nguồn quỹ
cũng như tối đa hóa hiệu quả đầu tư của nguồn quỹ tạm thời nhàn rỗi nhằm tăng
trưởng quỹ.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những lý luận về BHXH, quỹ BHXH, về quản lý quỹ đề tài nhận
diện được thực trạng công tác quản lý quỹ BHXH hiện nay ở nước ta để đề xuất các
biện pháp để quản lý và đầu tư quỹ BHXH làm cho quỹ ngày càng tăng trưởng tạo
được niềm tin của người tham gia. Đây chính là nền móng để ngành BHXH nước
nhà ngày càng phát triển bền vững góp phần nâng cao chất lượng an sinh xã hội và
đưa đất nước phát triển và hội nhập.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: nghiên cứu quá trình quản lý quỹ BHXH
- Phạm vi nghiên cứu:
Hiện nay Quỹ BHXH gồm 3 quỹ thành phần. Tuy nhiên, nếu nhìn dưới góc
độ cân đối tài chính theo yếu tố thời gian, Quỹ BHXH được chia ra làm 2 loại: Quỹ
ngắn hạn và Quỹ dài hạn. Trong đó Quỹ ngắn hạn gồm: Quỹ khám chữa bệnh bắt
buộc và Quỹ khám chữa bệnh tự nguyện và một phần của Quỹ Hưu trí và Trợ cấp
(với mức đóng góp là 5%) để chi trả cho các chế độ: trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai
sản, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp và chế độ nghỉ dưỡng sức và phục
hồi sức khỏe. Phần còn lại của Quỹ Hưu trí và Trợ cấp (với mức đóng góp là 15%)
để chi trả các chế độ hưu trí và tử tuất được coi là phần Quỹ BHXH dài hạn. Trong
phạm vi đề tài này Quỹ BHXH được đề cập đến là Quỹ hưu trí và trợ cấp dài hạn.

2



-3-

Đề tài nghiên cứu quá trình quản lý Quỹ BHXH: mô hình quỹ, mô hình tổ
chức bộ máy BHXH, nội dung và phương thức quản lý quỹ, đánh giá thực trạng đầu
tư Quỹ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, thống kê và dự đoán để tính
toán tổng số thu và chi của quỹ BHXH để tính toán cân đối quỹ, từ đó đưa ra giải
pháp nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Dựa trên những phân tích, đánh giá về thực trạng quản lý và kết quả thực hiện
đầu tư Quỹ BHXH, phân tích những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả thực hiện
thu, chi và đầu tư Quỹ BHXH. Từ đó đưa ra các biện pháp mang ý nghĩa thực tiễn
để vận dụng vào thực tế nhằm cải thiện tình hình quản lý và đầu tư tăng trưởng Quỹ
BHXH.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục các từ viết tắt, các bảng biểu, tài liệu
tham khảo và phụ lục, luận văn được chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về BHXH và nguồn quỹ BHXH.
Chương 2: Thực trạng quản lý nguồn quỹ BHXH tại Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp tài chính nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH tại
Việt Nam.
Xin cảm ơn Thầy – PGS.TS Nguyễn Ngọc Định đã tận tình hướng dẫn em thực
hiện luận văn này, và em cũng xin cảm ơn các Thầy, Cô Khoa Tài chính doanh
nghiệp đã tận tình giảng dạy em trong thời gian qua. Do đề tài thuộc lĩnh vực chính
sách của Nhà nước nên mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng luận văn không tránh
khỏi thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn của quý Thầy, Cô.

3



-4-

CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ NGUỒN QUỸ BẢO
HIỂM XÃ HỘI
1.1 Khái niệm, bản chất, vai trò BHXH
1.1.1 Khái niệm BHXH
Lịch sử phát triển của xã hội cho thấy trong quá trình tồn tại và phát triển
nhu cầu cơ bản của con người là ăn, mặc, ở... Để thỏa mãn nhu cầu tối thiểu này,
con người phải lao động làm ra những sản phẩm cần thiết. Xã hội càng phát triển,
mức độ thỏa mãn các nhu cầu của con người ngày càng cao. Trong thực tế cuộc
sống, không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng
lao động để hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia
đình một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Bởi lẽ, người nào cũng có thể gặp phải những
rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm do
những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các
tác nhân xã hội khác... Khi rơi vào các trường hợp đó, thì ngoài những nhu cầu
thiết yếu của con người còn xuất hiện thêm nhu cầu mới. Bởi vậy, muốn tồn tại, con
người và xã hội loài người phải tìm ra những cách giải quyết khác nhau.
Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia
đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động còn được sự bảo trợ của
cộng đồng và xã hội. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều
hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực
đến ý thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau.
Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ
thống BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển.
Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc
những người làm công ăn lương tìm cách khắc phục bằng những hành động tương
thân, tương ái (lập các quỹ tương tế, các hội đoàn...); đồng thời, đòi hỏi giới chủ và

Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ. Năm 1850, lần đầu tiên ở
Đức, nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để
dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham gia, dần

4


-5-

dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi
già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, BHXH đã mở ra hướng mới. Sự tham gia
là bắt buộc và không chỉ người lao động đóng góp mà giới chủ và Nhà nước cũng
phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo cơ chế ba bên. Tính chất đoàn kết và san sẻ
lúc này được thể hiện rõ nét và BHXH dần dần đã trở thành một trụ cột cơ bản của
hệ thống An sinh xã hội và được tất cả các nước thừa nhận là một trong những
quyền con người.
Từ đó khái niệm BHXH được khái quát như sau:
BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao
động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động, chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH
[18].
1.1.2 Bản chất của BHXH
BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Khi trình độ phát triển
kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều
kiện ra đời phát triển. Vì vậy, sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát
triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp kém
không thể có một hệ thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ
thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức
BHXH ngày càng phong phú.
Thực chất BHXH là sự tổ chức chia sẻ hậu quả của những rủi ro xã hội hoặc

các sự kiện bảo hiểm. Sự chia sẻ này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và
sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia
BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH. Như vậy, BHXH cũng là
quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ
phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh nhu
cầu BHXH như ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐBNN), già yếu, chết... Xét trong nội tại BHXH, sự phân phối của BHXH được thực
hiện cả theo chiều dọc và chiều ngang. Phân phối theo chiều ngang là sự phân phối
của chính bản thân người lao động theo thời gian (nghĩa là sự phân phối lại thu khi

5


-6-

còn khả năng làm việc và khi không còn khả năng làm việc). Phân phối theo chiều
dọc là sự phân phối giữa những người khỏe mạnh cho người ốm đau, bệnh tật; giữa
những người trẻ cho người già; giữa những người có thu nhập cao và người có thu
nhập thấp... Nói cách khác, đây là sự phân phối lại thu nhập theo không gian.
Qua đây có thể thấy, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn
kinh tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu
nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước (GDP) để thỏa mãn nhu cầu an toàn
kinh tế của người lao động và an toàn xã hội. BHXH mang cả bản chất kinh tế và cả
bản chất xã hội. Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của
người lao động và gia đình họ luôn được bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã
hội. Về mặt xã hội, do có sự san sẻ rủi ro của BHXH, người lao động chỉ phải đóng
góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có
một lượng vật chất đủ lớn trang trải những rủi ro xảy ra. Ở đây, BHXH đã thực hiện
nguyên tắc “lấy của số đông bù cho số ít”.
Tuy nhiên, tính kinh tế và tính xã hội của BHXH không tách rời mà đan xen
lẫn nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là đã

nói đến tính xã hội của BHXH, ngược lại, khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ
trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH.
Dưới góc độ kinh tế, BHXH là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm cuộc sống cho
người lao động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động. Có nghĩa là tạo ra một
khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm
vi BHXH.
Dưới góc độ chính trị, BHXH góp phần liên kết giữa những người lao động
xuất phát từ lợi ích chung của họ.
Dưới góc độ xã hội, BHXH được hiểu như là một chính sách xã hội nhằm
đảm bảo đời sống cho người lao động khi thu nhập của họ bị giảm hay mất. Thông
qua đó bảo vệ và phát triển lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất, tăng năng
suất lao động ổn định trật tự xã hội.
1.1.3 Vai trò của BHXH
BHXH với các chế độ trợ cấp của mình sẽ tạo nên một hệ thống chăm lo và

6


-7-

bảo vệ người lao động và gia đình họ khi gặp phải các rủi ro làm giảm hoặc mất đi
nguồn thu nhập. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội của đất nước, vai trò
của BHXH trong hệ thống An sinh xã hội và trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng to lớn. Có thể khái quát vai trò của BHXH như
sau:
Một là, BHXH góp phần ổn định đời sống của người lao động tham gia
BHXH. Những người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm hoặc chết. Nhờ có sự
thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động khắc phục nhanh chóng
những tổn thất về vật chất, nhanh phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục

quá trình hoạt động bình thường.
Hai là, BHXH góp phần đảm bảo an toàn, ổn định cho toàn bộ nền kinh tế xã hội. Để phòng tránh, giảm thiểu tổn thất, các đơn vị sử dụng lao động phải đề ra
các quy định chặt chẽ về an toàn lao động buộc người lao động tuân thủ. Nhưng khi
có rủi ro xảy ra cho người lao động, quỹ BHXH chi trả kịp thời, tạo điều kiện cho
người lao động nhanh chóng ổn định cuộc sống và sản xuất. Từ đó góp phần quan
trọng làm ổn định nền kinh tế và xã hội.
Ba là, BHXH làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa người lao động, người
sử dụng lao động và Nhà nước. BHXH được hình thành trên cơ sở quan hệ lao
động, giữa các bên tham gia và được hưởng BHXH. Nhà nước ban hành các chế độ,
chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt
động sự nghiệp BHXH. Người sử dụng và người lao động có trách nhiệm đóng góp
để hình thành quỹ BHXH. Người lao động và gia đình họ được cung cấp tài chính
từ quỹ BHXH khi có đủ điều kiện theo quy định. Từ đó tạo được niềm tin của người
lao động đối với người sử dụng khuyến khích người lao động phấn khởi, tinh thần
trách nhiệm của họ cũng được nâng lên trong lao động sản xuất.
Bốn là, BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Một mặt quỹ BHXH được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho bản thân và gia
đình người lao động, mặt khác phần quỹ nhàn rỗi được đầu tư vào các hoạt động
sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Xét cả hai mặt

7


-8-

trên thì hoạt động của quỹ BHXH đều nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa,
phân phối trong BHXH là sự phân phối lại theo hướng có lợi cho người có thu nhập
thấp, là sự chia sẻ giữa những người khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho
những người ốm yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và
trong cuộc sống. Từ đó BHXH làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người

nghèo, góp phần bảo đảm sự công bằng xã hội.
Năm là, BHXH trực tiếp thể hiện mục tiêu, lý tưởng, bản chất của chế độ
chính trị xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang phấn đấu
để xây dựng thành nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
1.1.4 Phân biệt BHXH với Bảo hiểm thương mại
Bảo hiểm thương mại hoạt động kinh doanh với mục đích kiếm lời trên cơ sở
huy động các nguồn tài lực thông qua việc thu phí bảo hiểm của những người tham
gia bảo hiểm để tạo lập quỹ và sử dụng chúng để bồi thường tổn thất cho các đối
tượng tham gia bảo hiểm khi xẩy ra rủi ro theo hợp đồng bảo hiểm. Ở Việt Nam,
Bảo hiểm thương mại đang hoạt động với hai loại hình bảo hiểm là Bảo hiểm phi
nhân thọ và Bảo hiểm nhân thọ. Tương ứng với mỗi loại hình bảo hiểm có rất nhiều
sản phẩm khác nhau. Bảo hiểm phi nhân thọ có các sản phẩm như: bảo hiểm hàng
hóa, bảo hiểm tàu, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm sức khỏe, tai nạn, con người, bảo
hiểm trách nhiệm, bảo hiểm dầu khí, hàng không, bảo hiểm hỏa hoạn, kỹ thuật - tài
sản. Bảo hiểm nhân thọ có các sản phẩm như: An sinh giáo dục, an khang thịnh
vượng, an bình hưu trí, an hưởng hưu trí...
BHXH hoạt động không vì mục đích kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận mà phục
vụ cho lợi ích xã hội, vì quyền lợi của người tham gia BHXH. Ở Việt Nam, BHXH
được triển khai dưới hai hình thức là BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Sản
phẩm của BHXH bắt buộc là trợ cấp hưu trí, tử tuất, mai táng phí, ốm đau, thai sản,
nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khoẻ, TNLĐ- BNN, khám chữa bệnh. Sản phẩm của
loại hình BHXH tự nguyện gồm khám chữa bệnh BHYT tự nguyện, riêng loại hình
BHXH tự nguyện mới được triển khai từ tháng 1/2008, khi tham gia BHXH tự
nguyện người tham gia sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí và tử tuất.
Cùng với các quỹ tiền tệ khác, bảo hiểm thương mại có vai trò như một công

8



-9-

cụ thực hiện bảo vệ con người, bảo vệ tài sản cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Bảo
hiểm thương mại hay BHXH cuối cùng cũng hướng đến mục tiêu là ổn định đời
sống con người.Tuy nhiên chúng ta có thể phân biệt ở những điểm khác nhau sau
đây:
Bảng 1.1: Phân biệt BHXH với Bảo hiểm thương mại
Bảo hiểm thương mại

Tiêu thức

Phi nhân thọ

Tính chất

- Kinh doanh

Đối tượng được
BH

Nhân thọ
- Kinh doanh

- Tài sản
- Con người

- Con người

- Trách nhiệm
- Các hư hỏng, thiệt - Sống đến thời hạn


Những sự kiện
được bảo hiểm

hại về tài sản;

nhất định;

- Ốm đau, tai nạn,

- Ốm đau, thương tật,

nằm viện đối với con nằm viện, chế độ
người;

chăm sóc;

- Các nghĩa vụ pháp - Hưu trí ;
lý phát sinh.

- Chết.

Bảo hiểm xã hội
- Chính sách xã hội
- Con người (thu
nhập của con người)
- Ốm đau
- Thai sản
- Tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp

- Hưu trí
- Tử tuất
- Sự đóng góp của
người sử dụng lao

Nguồn
thành quỹ

hình - Phí đóng của người - Phí đóng của người
tham gia

tham gia

động,

người

lao

động.
- Sự hỗ trợ từ NSNN
và nguồn viện trợ
khác.

- Nhà nước và các - Nhà nước và các - Nhà nước là chủ thể
doanh nghiệp tư nhân doanh nghiệp tư nhân duy nhất (thực hiện

quản

quan chủ (các tập đoàn, công (các tập đoàn, công bởi cơ quan BHXH

ty, chi nhánh, đại ty, chi nhánh, đại được tổ chức từ trung
lý…)

lý…)

ương
phương)

9

xuống

địa


- 10 -

1.2 Chính sách BHXH
1.2.1 Khái niệm
Theo định nghĩa của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội : “ Chính sách
BHXH là những quy định chung của nhà nước gồm những chủ trương, những định
hướng lớn về các vấn đề cơ bản của BHXH, như mục tiêu, đối tượng, phạm vi và
chế độ trợ cấp, các nguồn đóng góp, cách thức thực hiện các chế độ BHXH”[5].
Chính sách BHXH thể hiện thái độ của Nhà nước đối với vấn đề BHXH, có
thể được biểu hiện dưới nhiều dạng như: trong các văn bản chung của Đảng và Nhà
nước, trong hiến pháp, pháp luật…
Cùng với sự phát kinh tế xã hội của đất nước, chính sách bảo hiểm xã hội có
vai trò to lớn trong hệ thống an sinh xã hội, có mối quan hệ tác động qua lại và hỗ
trợ lẫn nhau với các chính sách xã hội khác để giải quyết các vấn đề liên quan đến
con người.

1.2.2 Chính sách BHXH trong hệ thống an sinh xã hội
Thuật ngữ an sinh xã hội (ASXH) được chính thức khai sinh với tư cách là
tiêu đề của một đạo luật ở Mỹ (Luật 1935 về An sinh xã hội), chỉ sự bảo vệ trong
bốn trường hợp: tuổi già, chết, tàn tật và thất nghiệp.Trong hội nghị toàn thể các tổ
chức lao động được Hội đồng quản trị của Văn phòng Lao động quốc tế triệu tập tại
Geneve ngày 4/6/1952, Công ước 102 về an sinh xã hội ra đời và được ILO (Tổ
chức Lao động quốc tế ) thông qua ngày 28/6/1952 trở thành công ước quốc tế về
an sinh xã hội.
Công ước 102 của ILO cho rằng: ASXH là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho
các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống đỡ
sự hụt hẫng về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và
chết, kể cả sự bảo vệ chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình có con nhỏ. Như vậy, ILO
quan niệm đối tượng của ASXH là nhóm đối tượng có thu nhập không đủ trang trải
cho những điều kiện tối thiểu và xã hội cần tiến hành đồng bộ các biện pháp công
cộng khác nhau nhằm phân phối lại thu nhập.

10


- 11 -

Những cơ chế chủ yếu của ASXH bao gồm: bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội,
các chế độ trợ cấp từ quỹ công cộng, các chế độ trợ cấp gia đình, các quỹ dự phòng,
sự bảo vệ do người sử dụng lao động cung cấp, các dịch vụ liên quan đến ASXH.
Trong các cơ chế chủ yếu của hệ thống ASXH, BHXH là trụ cột quan trọng
thứ nhất, tạo ra nguồn thu nhập thay thế trong trường hợp nguồn thu nhập bình
thường bị gián đoạn đột ngột hoặc mất hẳn, bảo vệ cho những người lao động làm
công ăn lương trong xã hội. Các chế độ của BHXH đã hình thành khá lâu truớc khi
xuất hiện thuật ngữ ASXH. Hệ thống BHXH đầu tiên được thiết lập tại nước Phổ

(nay là Cộng Hòa Liên Bang Đức) dưới thời của Thủ tướng Bismack (1850) và sau
đó được hoàn thiện (1883-1889) với chế độ bảo hiểm ốm đau; bảo hiểm rủi ro nghề
nghiệp; bảo hiểm tuổi già, tàn tật và sự hiện diện của cả ba thành viên xã hội: người
lao động; người sử dụng lao động và nhà nước. Kinh nghiệm về BHXH ở Đức, sau
đó, được lan dần sang nhiều nước trên thế giới, đầu tiên là các nước Châu Âu, tiếp
đến là các nước Châu Mỹ Latinh, Hoa kỳ, Canada và cuối cùng là các nước Châu
Phi, Châu Á.
Theo công ước 102 BHXH bao gồm 9 chế độ sau: (1) Chăm sóc y tế; (2)Trợ
cấp ốm đau; (3)Trợ cấp thất nghiệp; (4)Trợ cấp tuổi già; (5)Trợ cấp tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp; (6)Trợ cấp gia đình; (7)Trợ cấp thai sản; (8) Trợ cấp cho
tình trạng không tự chăm sóc được bản thân (trợ cấp tàn tật); (9)Trợ cấp tuất.
Công ước nêu rõ những nước phê chuẩn Công ước này phải thực hiện ít nhất
ba chế độ, trong ba chế độ đó ít nhất phải áp dụng một trong các chế độ: (3), (4),
(5), (8) hoặc (9).
Việc áp dụng BHXH trên của quốc gia khác nhau thường cũng rất khác nhau
về nội dung thực hiện tùy thuộc vào nhu cầu bức bách của riêng từng nơi trong việc
đảm bảo cuộc sống của người lao động, ngoài ra, còn tùy thuộc vào khả năng tài
chính và khả năng quản lí có thể đáp ứng. Có nước quan tâm thực hiện các chế độ
đảm bảo cho các rủi ro dễ xảy ra trước mắt như chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn lao
động, thai sản, các nước khác lại quan tâm đến các chế độ đảm bảo cho tuổi già,
tuổi hưu trí, cho cái chết. Tuy nhiên, xu hướng chung là theo đà phát triển kinh tế-

11


- 12 -

xã hội, phù hợp với đặc điểm của từng nơi, bảo hiểm sẽ mở rộng dần về số lượng và
nội dung thực hiện của từng chế độ.
1.2.3 Các chế độ BHXH hiện hành tại Việt Nam

Trong quá trình thực hiện BHXH, hệ thống pháp luật và chính sách về
BHXH ở nước ta đã dần dần được bổ sung và hoàn thiện. Luật BHXH số
71/2006/QH11 ngày 29/6/2006 quy định các chế độ BHXH hiện nay ở nước ta
gồm: trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp TNLĐ – BNN, hưu trí và tử tuất [xem
phụ lục 6].
1.3 Quỹ Bảo hiểm xã hội
1.3.1 Khái niệm
Trong đời sống kinh tế - xã hội, người ta thường nói đến rất nhiều loại quỹ
khác nhau như: quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lương, quỹ tiền
thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ tiết kiệm... Tất cả các loại quỹ này đều có một điểm
chung là tập hợp các phương tiện tài chính hay vật chất khác cho những hoạt động
nào đó theo mục tiêu định trước với những quy chế nhất định. Quỹ lớn hay nhỏ biểu
thị khả năng về mặt phương tiện và vật chất để thực hiện mục tiêu đề ra.
Tất cả các loại quỹ đều không chỉ tồn tại với một khối lượng tĩnh tại một thời
điểm mà còn luôn luôn biến động theo hướng tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu
và giảm đi ở đầu ra với các khoản chi như một dòng chảy liên tục. Có thể hình dung
quỹ như một bể chứa nước, trong đó đầu vào có nước luôn chảy để nước trong bể
ngày càng nhiều lên còn đầu ra là quá trình sử dụng nước làm cho nước trong bể vơi
dần đi. Để bảo đảm cho đầu ra ổn định, người ta thiết lập một lượng dữ trữ. Đầu vào
phải nhiều hơn đầu ra thì trong bể mới luôn luôn có nước. Bởi vậy, để quản lý và
điều hành được một quỹ nào đó thì không phải chỉ quản lý được khối lượng tĩnh của
nó tại một thời điểm, mà quan trọng hơn là phải quản lý được lưu lượng của nó
trong một khoảng thời gian nhất định. Tương tự như vậy, quỹ BHXH cũng được
hình thành từ các nguồn thu khác nhau và được sử dụng để chi trả các trợ cấp
BHXH cho người thụ hưởng và các chi phí quản lý khác theo quy định của pháp
luật. Vì vậy, quỹ BHXH phải được tính toán sao cho nguồn thu phải đủ lớn và phải

12



- 13 -

chảy vào bể liên tục để đảm bảo các chi phí - đầu ra của BHXH không chỉ hiện tại
mà cả trong tương lai. Khi mức chi ra lớn, những người hoạch định phát triển
BHXH phải tìm cách để tăng nhiều hơn mức thu vào. Khái niệm Quỹ BHXH được
khái quát như sau:
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung, được hình thành từ sự đóng góp của
các bên tham gia BHXH và các nguồn thu khác, sử dụng để bù đắp hoặc thay thế
một phần thu nhập cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những biến cố rủi
ro làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động, mất việc làm, chết; nhằm ổn
định đời sống cho họ và gia đình họ và chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ BHXH,
góp phần đảm bảo an toàn xã hội và phát triển kinh tế của đất nước.
Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng;
nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện, cơ sở vật
chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
1.3.2 Vị trí của quỹ BHXH trong hệ thống tài chính nhà nước
Hoạt động tài chính diễn ra rất đa dạng và phong phú ở bất kỳ lĩnh vực nào
của đời sống xã hội. Ở mỗi lĩnh vực hoạt động, các hoạt động tài chính có cùng một
tính chất, đặc điểm, vai trò gắn liền với một chủ thể. Có những quỹ tiền tệ đặc thù
được hình thành và sử dụng để đáp ứng các nhu cầu và lợi ích khác nhau của đời
sống xã hội, thì ở đó hình thành một khâu tài chính độc lập. Các khâu tài chính tồn
tại một cách độc lập, nhưng giữa chúng có những mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc
lẫn nhau trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ, do đó chúng không thể tách
rời nhau mà cùng nhau hợp thành một hệ thống tài chính thống nhất của mỗi quốc
gia.
Hiện nay, hệ thống tài chính ở Việt Nam bao gồm các khâu tài chính sau:
1. Ngân sách Nhà nước(NSNN).
2. Tài chính doanh nghiệp.
3. Quỹ bảo hiểm.
4. Quỹ tín dụng.

5. Tài chính các tổ chức xã hội và tài chính hộ gia đình.

13


- 14 -

Trong quá trình vận động, Quỹ BHXH có thể quan hệ trực tiếp với các khâu
tài chính Ngân sách Nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài chính tín dụng, tài chính
các tổ chức xã hội và hộ gia đình qua việc tạo lập quỹ dưới hình thức thu BHXH,
BHYT và sử dụng quỹ dưới hình thức chi trả các chế độ BHXH, BHYT. Mặt khác
thông qua thị trường tài chính, Quỹ BHXH có quan hệ gián tiếp với các khâu tài
chính khác trong hệ thống tài chính khi nguồn tài chính của quỹ này tạm thời nhàn
rỗi được sử dụng giống như các quỹ tín dụng khác.
Quan hệ với ngân sách Nhà nước:
NSNN là kế hoạch tài chính cơ bản của nhà nước trong hệ thống tài chính
quốc gia để phát triển kinh tế - xã hội và duy trì bộ máy quản lí nhà nước. Toàn bộ
các khoản thu chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định và thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước.
Luật ngân sách của Việt Nam ban hành 1996 đã xác định: NSNN là toàn bộ
các khoản thu, chi của nhà nước được dự toán và thực hiện trong một năm để bảo
đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. NSNN được hình thành từ
mọi khoản thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước; các
khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức và cá nhân; các khoản cho vay của
Chính phủ; các khoản viện trợ và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Chi NSNN được bố trí theo yêu cầu phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, củng cố an
ninh, quốc phòng, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước.
Ngân sách Nhà nước là khâu tài chính đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống
tài chính quốc gia. Hoạt động của NSNN gắn liền với chủ thể là Nhà nước. Các

nguồn tài chính từ các khâu tài chính khác được hút một cách mạnh mẽ để hình
thành nên quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước - quỹ ngân sách. Với quyền lực của
mình, Nhà nước đã ban hành Luật BHXH, Điều lệ BHYT, Quy chế quản lý tài
chính đối với hệ thống BHXH Việt Nam trong đó quy định việc tạo lập và sử dụng
quỹ BHXH. Quỹ BHXH trong thời gian tạm thời nhàn rỗi đã trở thành nguồn tài
chính được hút vào quỹ Ngân sách dưới hình thức các khoản cho NSNN vay. Từ

14


- 15 -

những khoản cho vay này, NSNN có quyền sử dụng, thông qua chức năng phân
phối để tạo lập các quỹ tiền tệ nhỏ ở các khâu tài chính khác dưới hình thức cấp
phát như cấp kinh phí hoạt động cho các đơn vị hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ
trang, vốn Điều lệ cho Doanh nghiệp Nhà nước, cho các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế... vay vốn để hoạt động, hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các tổ chức đoàn thể,
trợ cấp xã hội.... Những khoản cấp phát, trợ cấp, cho vay này của NSNN lại trở
thành một nguồn thu bổ sung vào các quỹ tiền tệ ở các đơn vị kinh tế khác. Như
vậy, một cách gián tiếp Quỹ BHXH đã tạo lập nên các quỹ tiền tệ ở các khâu tài
chính khác như: tài chính doanh nghiệp, tín dụng, tài chính các tổ chức xã hội và tài
chính hộ gia đình.
Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là các đơn vị thuộc khối hành chính sự
nghiệp, lực lượng vũ trang sử dụng kinh phí do NSNN cấp, hỗ trợ để hoạt động
trong đó có khoản trích nộp BHXH. Hàng tháng, các đơn vị này phải trích từ khoản
kinh phí do NSNN cấp, hỗ trợ để nộp BHXH, BHYT. Đối tượng đang hưởng chế
độ trợ cấp BHXH hàng tháng do nguồn NSNN đảm bảo; người có công, thân nhân
sỹ quan quân đội tại ngũ, người nhiễm chất độc màu da cam, người nghèo... hàng
tháng được hưởng các khoản trợ cấp từ NSNN cũng là đối tượng tham gia BHXH
do đó NSNN cũng dành một phần kinh phí của mình để nộp BHYT cho họ. Như

vậy, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp quỹ NSNN lại đuợc hút vào quỹ BHXH dưới hình
thức nộp BHXH, BHYT để hình thành nên quỹ BHXH.
Quan hệ với tài chính doanh nghiệp:
Tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở trong hệ thống tài chính quốc gia.
Trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của mình, doanh
nghiệp phát sinh các quan hệ tài chính trong đó có quan hệ với cơ quan BHXH về
thu, nộp BHXH và nhận về các khoản trợ cấp cho người lao động trong trường hợp
họ bị ốm đau, tai nạn lao động- BNN, nghỉ thai sản, nghỉ dưỡng sức phục hồi sức
khoẻ.
Lao động là một yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp, do
đó cùng với việc trả lương, doanh nghiệp phải thực hiện việc trích nộp BHXH cho

15


- 16 -

người lao động theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nghĩa vụ nộp BHXH
theo tỷ lệ quy định cho cơ quan BHXH, doanh nghiệp sẽ phải sử dụng tiền từ nguồn
vốn kinh doanh của mình làm chuyển dịch nguồn tài chính của doanh nghiệp vào
quỹ BHXH. Các khoản trích nộp BHXH khi chưa đến hạn phải nộp sẽ được doanh
nghiệp khai thác, huy động và sử dụng tạm thời để đảm bảo có đủ nguồn tài chính
cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và như vậy gián tiếp quỹ BHXH đã được bổ
sung bởi các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Mặt khác khi tham gia BHXH, trong
trường hợp người lao động nữ nghỉ sinh con, người lao động không may bị ốm, bị
tai nạn không tham gia được vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm cho doanh
nghiệp lúc này người lao động sẽ được quỹ BHXH chi trả các chế độ BHXH ốm
đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức, TNLĐ - BNN. Như vậy bằng cơ chế sử dụng quỹ của
mình, Quỹ BHXH đã trực tiếp tạo nên nguồn thu cho khâu tài chính hộ gia đình và
gián tiếp tham gia vào khâu tài chính doanh nghiệp.

Quan hệ với quỹ tín dụng:
Tín dụng là khâu quan trọng trong hệ thống tài chính. Quỹ tín dụng được tạo
lập bằng cách huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức
kinh tế, vốn tự có và sử dụng để cho vay, đầu tư chứng khoán, trả lãi theo nguyên
tắc hoàn trả có thời hạn và có lợi tức.
Cơ chế quản lý tài chính của BHXH cho phép BHXH Việt Nam được thực
hiện các hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Trong thời gian nhàn rỗi chưa sử
dụng đến, quỹ BHXH được phép cho các Ngân hàng thương mại nhà nước, Ngân
hàng chính sách vay; mua trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu công trái của Kho bạc Nhà
nước và của các Ngân hàng thương mại Nhà nước. Trong quá trình vận động của
mình với mục đích cho vay, quỹ BHXH đã trở thành một trong những nguồn vốn
huy động tạo lập nên quỹ tín dụng nhằm cung ứng một cách linh hoạt nhu cầu vốn
ngày càng nhiều cho các hoạt động kinh tế, xã hội. Đồng thời, sau một thời gian sử
dụng tiền của quỹ BHXH, các tổ chức tín dụng phải trả cho quỹ BHXH khoản tiền
lãi theo thỏa thuận và lúc này tiền lại ra khỏi Quỹ tín dụng để tạo lập Quỹ BHXH.
Quan hệ này cứ lặp đi lặp lại tạo nên mối quan hệ khăng khít và quay vòng giữa

16


- 17 -

Quỹ BHXH và Quỹ tín dụng.
Các tổ chức tín dụng cũng là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo Điều
lệ BHXH vì vậy hàng tháng, từ Quỹ tín dụng này một lượng tiền nhất định sẽ được
rút ra để nộp BHXH, BHYT cho chính những lao động đang làm việc trực tiếp
trong các tổ chức tín dụng. Khoản tiền trích nộp từ các tổ chức tín dụng này đã
chuyển dịch sang quỹ BHXH để tạo lập quỹ.
Hơn nữa, Quỹ BHXH lại tác động một cách gián tiếp với các khâu tài chính
khác thông qua thị trường tài chính. Khi tiền của Quỹ BHXH trở thành nguồn tài

chính của Quỹ tín dụng, nó sẽ hòa chung vào luồng tiền tệ khác để tham gia vào
hoạt động tín dụng. Nó sẽ được sử dụng để cho NSNN, doanh nghiệp, các tổ chức
chính trị, hộ gia đình vay... trở thành nguồn thu tạm thời của NSNN, nguồn vốn
kinh doanh của các doanh nghiệp, vốn kinh doanh của các hộ gia đình, khi đó Quỹ
BHXH đã gián tiếp hình thành nên Quỹ tiền tệ ở các khâu tài chính khác. Như vậy
Quỹ BHXH trong thời gian tạm thời nhãn rỗi đã được tham gia vào quan hệ tín
dụng trên thị trường một cách linh hoạt giống như một Quỹ tín dụng nhằm giải
quyết tình trạng thiếu vốn cho các khâu tài chính khác góp phần thúc đẩy đầu tư
phát triển.
Quan hệ với tài chính các tổ chức xã hội và tài chính hộ gia đình
Trong dân cư nguồn tài chính chủ yếu được hình thành từ tiền lương, tiền
công, các khoản được thừa kế, các khoản hỗ trợ, trợ cấp của Nhà nước và tổ chức
khác...
Một phần tài chính của các tổ chức xã hội và hộ gia đình tham gia vào Quỹ BHXH
dưới hình thức trích theo tỷ lệ quy định từ khoản tiền lương hàng tháng của mình để
đóng BHXH bắt buộc theo quy định của Nhà nước hoặc mua BHXH tự nguyện. Khi
đó Quỹ BHXH đã thu hút một phần từ quỹ tiền tệ của gia đình, của các tổ chức xã
hội để tạo lập quỹ của mình. Tham gia BHXH, người tham gia sẽ được trả trợ cấp
trong trường hợp ốm đau, thai sản, TNLĐ - BNN hay trợ cấp hưu trí khi hết tuổi lao
động, được trả tiền KCB khi vào viện. Khoản trợ cấp từ Quỹ BHXH này đã trở
thành một phần thu nhập hình thành nên tài chính của hộ gia đình góp phần giảm

17


- 18 -

gánh nặng về tài chính cho người tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro.
Qua các mối quan hệ nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng sự ra đời, tồn tại và
phát triển của Quỹ BHXH là một tất yếu khách quan cùng với sự phát triển của xã

hội. Quỹ BHXH được quản lý theo nguyên tắc kinh tế nhưng mục đích sử dụng quỹ
BHXH lại mang tính xã hội sâu sắc. Quỹ BHXH là quỹ ngoài NSNN, hoạt động
độc lập và tự cân đối thu - chi theo cơ chế quản lý tài chính được Chính phủ cho
phép. Quỹ BHXH vận động thường xuyên do sự tác động của các hoạt động thu
nộp BHXH và chi trả các chế độ BHXH đầy đủ, kịp thời góp phần thực hiện chính
sách nhân đạo, công bằng, đảm bảo mục tiêu ổn định đời sống và chăm sóc sức
khỏe cho nhân dân của Đảng, Nhà nước đối với người lao động. Đồng thời góp
phần tạo lập nên những nguồn lực tài chính cần thiết cho các khâu tài chính khác
thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng phát triển thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm đạt mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
1.3.3 Đặc điểm của quỹ BHXH
- Tính chủ thể của quỹ BHXH. Nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định việc
tạo lập và sử dụng quỹ; người tham gia là chủ thể duy nhất có quyền sử dụng quỹ.
- Sự kết hợp giữa tính bắt buộc và tự nguyện, giữa tính bồi hoàn và không
bồi hoàn. Quỹ BHXH được hình thành từ nguồn BHXH bắt buộc và cả tự nguyện.
Những biến cố tất nhiên đối với con người như thai sản đối với nữ, tuổi già và chết,
BHXH mang tính bồi hoàn vì người lao động đóng BHXH chắc chắn được hưởng
các khoản trợ cấp đó. Còn trợ cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng
lao động, mất việc làm, những rủi ro trái với ý muốn của con người như ốm đau,
TNLĐ, BNN mang tính không bồi hoàn; có nghĩa là chỉ khi nào người lao động gặp
phải tổn thất do ốm đau, TNLĐ, BNN thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó.
- Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ mang tính cộng đồng xã hội lớn. BHXH hoạt
động theo nguyên tắc cộng đồng, lấy số đông bù số ít, dùng tiền đóng góp của nhiều
người tham gia để bù đắp cho một số ít người với số tiền lớn hơn so với số tiền
đóng góp của từng người khi họ gặp phải những rủi ro. Hoạt động BHXH là một

18



- 19 -

loại hoạt động dịch vụ công, mang tính cộng đồng, tính xã hội rất cao, lấy hiệu quả
xã hội làm mục tiêu hoạt động.
- Quỹ BHXH có phạm vi hoạt động rộng, đối tượng phục vụ lớn. Ngoài đối
tượng là người lao động thuộc diện bắt buộc phải tham gia BHXH, còn có chế độ
BHXH tự nguyện. Vì vậy đối tượng tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH là
người dân cả nước, quỹ BHXH có phạm vi hoạt động khắp quốc gia, thậm chí
xuyên quốc gia.
- Một quỹ tiền tệ tập trung lớn, tồn tại trong một thời gian dài, luôn vận động
và có số dư tạm thời nhàn rỗi lớn. Quỹ BHXH được hình thành từ nguồn đóng góp
của người lao động, người sử dụng lao động của cả nước tạo thành một nguồn tài
chính lớn. Quỹ dùng để chi trả cho các chế độ bao gồm ngắn hạn và dài hạn, hơn
nữa quỹ được thiết kế theo mô hình tồn tích nên số dư hằng năm sẽ tăng lên và tạm
thời nhàn rỗi khi các chế độ dài hạn chưa đến thời kỳ chi trả.
- Quỹ BHXH luôn chịu tác động của nhiều nhân tố trong nền kinh tế - xã hội.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến đời sống kinh tế và xã hội của con người và tác
động trực tiếp đến quỹ BHXH như tình trạng thất nghiệp, thu nhập, sức khỏe…
Thất nghiệp giảm cũng đồng nghĩa với nhiều lao động có việc làm sẽ gia tăng đối
tượng tham gia BHXH, số tiền đóng góp vào quỹ BHXH cũng tăng theo. Thu nhập
của người lao động càng cao mức đóng góp vào quỹ BHXH càng cao và ngược lại.
Sức khỏe con người tác động rất lớn đến quỹ; sức khỏe tăng dẫn đến tuổi thọ bình
quân tăng thì phần chi cho quỹ hưu trí càng lớn dẫn đến giảm quỹ. Mặt khác sức
khỏe người lao động tốt thì phần chi cho ốm đau giảm. Ngoài ra còn có những nhân
tố tác động gián tiếp đến quỹ BHXH như: tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội…Một
nền kinh tế phát triển sẽ thu hút đầu tư, sản xuất và thương mại phát triển dẫn đến
gia tăng việc làm và thu nhập cho người lao động. Xã hội tiến bộ, chất lượng cuộc
sống cũng như nhận thức của con người nâng cao, các chế độ BHXH cũng dần được
cải thiện tạo được lòng tin của người tham gia… tất cả những yếu tố đó làm tăng
quy mô quỹ BHXH.

1.3.4 Những nhân tố tác động đến quy mô quỹ BHXH

19


- 20 -

Như đã nói ở trên quỹ BHXH chịu tác động của nhiều nhân tố. Xét về mặt tài
chính quỹ BHXH chịu tác động bởi hai nguồn tài chính sau:
Một là, nguồn tài chính vận động làm tăng quỹ BHXH. Số lượng nguồn tài
chính loại này phần lớn phụ thuộc vào chính sách của Nhà nước để hình thành nên
quỹ BHXH. Nhìn chung ở các nước trên thế giới nguồn hình thành nên quỹ BHXH
gồm có:
+ Sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động. Đây là nguồn
tài chính chủ yếu để hình thành quỹ BHXH. Hầu hết các quốc gia đều quy định bắt
buộc người sử dụng lao động và người lao động đóng góp vào quỹ bảo hiểm theo
tỷ lệ % trên thu nhập hàng tháng của người lao động. Đối với người lao động đây là
sự tiết kiệm bắt buộc khi mà họ còn có khả năng lao động tạo thu nhập để bù đắp
cho chính họ khi gặp phải rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc
làm hoặc chết. Còn đối với người sử dụng đây là khoản đóng góp bắt buộc do Nhà
nước quy định để đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình khi họ gặp phải
rủi ro nêu trên, khoản đóng góp này được hạch toán vào chi phí.
Mức đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động do các yếu tố
sau quyết định: số lượng người tham gia BHXH, mức thu nhập hàng tháng của
người lao động, thời gian đóng BHXH, và tỷ lệ đóng. Rõ ràng nguồn quỹ BHXH có
quan hệ tỷ lệ thuận với bốn yếu tố trên. Có thể xác định bằng công thức:
TMĐ =




TNi x TGĐi x TLĐi

i =1 n

TMĐ: Tổng mức đóng góp của người sử dụng và người lao động vào quỹ BHXH;
n: Tổng số người tham gia BHXH
TNi: Thu nhập của người lao động thứ i;
TGĐi: Thời gian đóng vào quỹ BHXH của người lao động thứ i;
TLĐi: Tỷ lệ đóng vào quỹ của người sử dụng và người lao động.
+ Lãi từ hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH. Nếu
quỹ được thiết kế theo mô hình tồn tích cộng đồng thì đây là một quỹ tiền tệ tập
trung có số dư tạm thời nhàn rỗi lớn. Nếu hoạt động đầu tư quỹ đạt hiệu quả cao,
được quản lý chặt chẽ thì sẽ mang lại một nguồn thu lớn bổ sung làm tăng quy mô

20


- 21 -

quỹ. Đây là một nguồn thu phụ thuộc rất lớn vào người quản lý và sử dụng quỹ do
đó cần có một chính sách đúng đắn để phát huy tối đa hiệu quả của nguồn này.
+ Nguồn hỗ trợ từ NSNN: đây là nguồn chi mà NSNN phải chi khi các
nguồn khác không đảm bảo chi trả các chế độ cho các đối tượng. Nguồn chi này
mang tính bất hợp lý nên hầu hết các nước trên thế giới đang tìm mọi cách điều
chỉnh chính sách, chế độ BHXH sao cho giảm tối đa sự hỗ trợ từ NSNN cho quỹ
BHXH.
+ Các nguồn tài trợ, viện trợ của các cá nhân, đơn vị trong và ngoài nước và
các nguồn thu khác.
Hai là, nguồn tài chính vận động làm giảm quỹ BHXH gồm có:
+ Nguồn tài chính dùng cho chi trả các chế độ BHXH. Đây là nguồn chi chủ

yếu của Quỹ BHXH và nó cũng phụ thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nước quy
định. Theo công ước 102 của ILO thì có 9 chế độ BHXH, còn ở nước ta đang áp
dụng 6 chế độ. Mức chi các chế độ cho người thụ hưởng dựa trên nguyên tắc đóng
góp càng nhiều vào Quỹ BHXH thì mức hưởng càng cao. Mức hưởng còn tùy thuộc
vào tuổi đời và tình trạng sức khỏe của đối tượng hưởng và mức này thường thấp
hơn hoặc bằng với thu nhập của đối tượng khi còn đang làm việc.
Mức hưởng được xác định trên cơ sở thu nhập bình quân hay thu nhập hiện
tại của người lao động trước thời điểm được hưởng chế độ BHXH nhân với tỷ lệ
phần trăm tùy theo loại chế độ. Có thể khái quát công thức tính tổng mức chi cho
người lao động hưởng các chế độ sau:
TMC =



TNi x TGHi x TLHi

i =1 n

TMC: Tổng mức chi các chế độ BHXH cho các đối tượng hưởng;
n: Tổng số người hưởng chế độ BHXH
TNi: Thu nhập được xác định làm căn cứ hưởng chế độ BHXH của người lao động
thứ i;
TGHi: Thời gian hưởng chế độ BHXH của người lao động thứ i;
TLHi: Tỷ lệ được hưởng của người lao động thứ i.
+ Nguồn tài chính chi cho hoạt động quản lý sự nghiệp BHXH. Là những

21


- 22 -


khoản chi để duy trì hoạt động của bộ máy làm công tác quản lý sự nghiệp BHXH
và chi phí cho hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng Quỹ BHXH. Đây là
nguồn có thể tiết kiệm tối đa để tăng thêm nguồn chi cho Quỹ BHXH.
Có thể nói rằng hai nguồn tài chính vận động làm tăng và giảm quy mô nghe
như mâu thuẫn nhau nhưng các nhân tố này lại có mối quan hệ tương tác lẫn nhau.
Một số nhân tố làm tăng nguồn quỹ đồng thời giảm quỹ. Chẳng hạn, số người tham
gia BHXH tăng sẽ làm tăng nguồn thu vào quỹ nhưng cũng sẽ làm tăng số người
thụ hưởng chế độ theo đó nguồn chi cũng tăng; hoặc thời gian đóng BHXH của
người lao động vào quỹ càng dài thì tỷ lệ hưởng của họ sẽ càng cao.
Như vậy bản chất của Quỹ BHXH được đặc trưng bởi sự vận động của các
nguồn tài chính làm tăng và làm giảm quỹ; sự vận động của các nguồn tài chính đó
phản ảnh mối quan hệ kinh tế phát sinh giữa các bên tham gia BHXH để tạo lập quỹ
và các mối quan hệ kinh tế trong việc phân phối, chuyển dịch thu nhập giữa những
người tham gia và hưởng chế độ BHXH.
1.3.5 Các mô hình quỹ BHXH
Trên thế giới, BHXH được ra đời từ cuối thế kỷ thứ 19 gắn liền với nó là
việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ - quỹ BHXH. Tùy theo điều kiện lịch sử,
kinh tế, chính trị, xã hội ở mỗi nước, trong mỗi thời kỳ khác nhau mà quỹ BHXH
cũng được thiết kế theo những mô hình khác nhau.
* Xét dưới góc độ nguồn tài chính để hình thành thì Quỹ BHXH có các mô hình
sau:
Một là, Quỹ BHXH Nhà nước. Theo mô hình này, Quỹ BHXH có nguồn hình thành
duy nhất là do NSNN cấp. Chủ sử dụng lao động và người lao động không phải
đóng góp vào quỹ.
Hai là Quỹ BHXH hỗn hợp. Ở mô hình này Quỹ BHXH có 3 loại:
+ Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động,
người tham gia bảo hiểm, Nhà nước đóng và hỗ trợ.
+ Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động và
của người tham gia BHXH.


22


×