Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

tiểu luận kinh tế chính trị tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.45 KB, 16 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trước khi đưa ra một nền sản xuất nào đó người sản xuất phải nghiên cứu
sản xuất ra hàng hố đó có giá trị, bên cạnh đó là có gía trị thặng dư. Vì sản xuất
giá trị thặng dư là quy luật biểu hiện bản chất của phương thức sản xuất, phản
ánh mục đích và phương hướng phát triển của nền sản xuất. Bất kỳ một nền sản
xuất nào muốn phát triển được, muốn đáp ứng nhu cầu của con người về điều
kiện sống đều phải tái sản xuất mở rộng và phải tạo ra được nhiều sản phẩm
thặng dư. Trong mọi xã hội, sản phẩm thặng dư bán trên thị trường đều có giá trị
nhưng chỉ có ở nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thì giá trị của sản phẩm thặng dư
mới là giá trị thặng dư. Do đó, sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ
bản của chủ nghĩa tư bản. Cho nên để nghiên cứu giá trị thặng dư ta chỉ nghiên
cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa C.Mác đã nghiên cứu khái quát đưa ra cơ sở
giá trị thặng dư. Ơng là người đầu tiên phát hiện tính hai mặt của lao động sản
xuất hàng hoá và nghiên cứu sự phát triển của các hình thái giá trị. Đó là cơ
sở,là chìa khố để xây dựng và hồn chỉnh lý luận về hàng hoá, giá trị và tiền tệ,
giải thích một cách khoa học, triệt để để xây dựng lý luận về hàng hoá sức lao
động. Đây là cơ sở để xây dựng học thuyết giá trị thặng dư, là thàmh tựu vĩ đại
của kinh tế học mác xít. Trên cơ sở đó, ơng phát hiện tồn diện hệ thống phạm
trù quy luật của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và các mâu thuẫn nội tại
của nó. Ơng hồn chỉnh lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội (chia tổng sản phẩm
xã hội thành ba phần tư bản bất biến, tư bản khả biến, giá trị thặng dư, chia nền
sản xuất xã hội thành hai khu vực: sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất vật phẩm
tiêu dùng, mối liên hệ trao đổi giữa hai khu vực về giá trị và hiện vật) và nhiều
vấn đề khác. Nhờ đó mà C.Mác đã đưa kinh tế chính trị tới đỉnh cao khoa học.

1


I. MÁY MĨC VÀ LAO ĐỘNG
1. Máy móc đối với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
Phải chăng máy móc tạo ra giá trị thặng dư?. C.Mác đã chỉ ra rằng giá


trị của hàng hoá trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bao gồm giá trị của những tư
liệu sản xuất đã được tiêu dùng chuyển sang sản phẩm mới c và lượng giá trị
mới do lao động sống thêm vào trong đó để bù lại tư bản khả biến đã được dùng
để mua sức lao động (ngang với giá trị sức lao động và m là giá trị thặng dư dơi
ra ngồi giá trị sức lao động). Như vậy, nguồn gốc của giá trị thặng dư chỉ là lao
động sống.
Những người phản bác học thuyết giá trị thặng dư cho rằng điều đó chỉ
đúng trong thời C.Mác cịn sống khi lao động thủ cơng chiếm ưu thế, cịn ngày
nay trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ, máy móc là nguồn gốc chủ
yếu của giá trị thặng dư
Sở dĩ có nhận thức sai lầm ấy là do chưa phân biệt được vai trị của máy
móc với tư cách là nhân tố của quá trình lao động và vai trị của máy móc với tư
cách là nhân tố của q trình làm tăng gía trị.
Hàng hố là một vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người
và đi vào q trình tiêu dùng thơng qua mua- bán. Vì vậy, khơng phải bất cứ một
vật phẩm nào cũng là hàng hố. Hàng hố có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và
giá trị trao đổi.
a. Giá trị sử dụng của hàng hố:
Là cơng dụng của vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con
người (như gạo để ăn, vải để mặc, xe đạp để đi). Giá trị sử dụng của hàng hố do
thuộc tính tự nhiên của hàng hố quy định. Vì vậy, nó là một phạm trù vĩnh viễn.
Giá trị sử dụng của hàng hố có đặc điểm là giá trị sử dụng không phải cho con
người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho xã hội. Giá trị sử dụng đến
tay người khác, người tiêu dùng phải thơng qua mua bán. Trong kinh tế hàng
hố, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.

2


b. Giá trị hàng hoá

Muốn hiểu giá trị ta phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi biểu hiện là
quan hệ tỷ lệ về số lượng trao đổi lẫn nhau giữa các giá trị sử dụng khác nhau.
Hai hàng hố có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi được với nhau theo
một tỷ lệ nhất định vì chúng đều là sản phẩm của lao động, có cơ sở chung là sự
hao phí sức lao động của con người. Lao động xã hội của người sản xuất hàng
hoá kết tinh trong hàng hoá là giá trị của hàng hoá. Như vậy, giá trị là cơ sở của
giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
Giá trị của hàng hoá biểu hiện mối quan hệ sản xuất giữa những người
sản xuất hàng hoá và là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hoá.
Lượng giá trị của hàng hoá được xác định như thế nào? Nếu giá trị hàng
hoá là lao động xã hội kết tinh trong hàng hố thì lượng giá trị của hàng hố là
số lượng lao động xã hội hao phí để sản xuất hàng hoá (gồm lao động sống và
lao động vật hố thể hiện ở tư liệu sản xuất)
Vì lao động sản xuất hàng hố có tính hai mặt : lao động cụ thể là lao
động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên mơn nhất
định. Mỗi lao động cụ thể có một mục đích riêng, phương pháp hoạt động riêng,
cơng cụ lao động riêng, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Thí dụ:
lao động của người thợ xây, thợ mộc, thợ may là những lao động cụ thể. Kết quả
của lao động cụ thể là tạo ra một công dụng nhất định, tức là tạo ra giá trị sử
dụng của hàng hoá.
Lao động trừu tượng: là lao động xã hội của người sản xuất hàng hố
khơng kể đến hình thức cụ thể của nó. Các loại lao động cụ thể có điểm chung
giống nhau là sự tiêu hao cơ bắp, thần kinh sau một q trình lao động. Đó chính
là lao động trừu tượng, nó tạo ra giá trị của hàng hố.
Tất nhiên, khơng phải có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hoá mà
chỉ là lao động của người sản xuất hàng hố có tính chất hai mặt mà thơi.
Trong nền sản xuất hàng hố giản đơn, tính chất hai mặt của lao động
sản xuất hàng hoá là sự biểu hiện của mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao
3



động xã hội của những người sản xuất hàng hoá. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản
của sản xuất hàng hoá giản đơn. Mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hố giản
đơn cịn biểu hiện ở lao động cụ thể với lao động trừu tượng, ở giá trị sử dụng
với giá trị hàng hố.
Bất cứ q trình lao động nào cũng là sự kết hợp ba nhân tố chủ yếu: lao
động có mục đích của con người, đối tượng lao động, tư liệu lao động (quan
trọng hơn cả là cơng cụ lao động, nhất là cơng cụ cơ khí hay máy móc). Sử dụng
máy móc càng hiện đại thì sức sản xuất của lao động càng cao, càng làm ra
nhiều giá trị sử dụng (nhiều của cải) trong một đơn vị thời gian.
Nhưng khi xét quá trình tạo ra và làm tăng giá trị thì những hàng hố
tham gia vào đây khơng cịn được xét với tư cách là những nhân tố vật thế nữa,
mà chỉ được coi là những lượng lao động đã vật hoá nhất định. Và dù máy móc
(kể cả rơbớt) quan trọng đến múc nào cũng khơng thể tự nó chuyển giá trị vào
sản phẩm chứ đừng nói đến việc tạo thêm giá trị.
Chính lao động sống đã “cải tử hoàn sinh” cho các tư liệu sản xuất,
trong đó có máy móc, chuyển giá trị của chúng sang sản phẩm mới theo mức độ
đã tiêu dùng trong quá trình lao động sản xuất. Nhưng một tư liệu sản xuất
không bao giờ chuyển vào sản phẩm một giá trị nhiều hơn giá trị mà nó đã bị
tiêu hao trong q trình sản xuất.
C.Mác ví máy móc, thiết bị trong quá trình làm tăng giá trị giống như
bình cổ cong trong q trình hố học. Khơng có bình cổ cong thì khơng thể diễn
ra các phản ứng hố học, nhưng bản thân bình cổ cong chỉ là điều kiện cho phản
ứng hố học diễn ra, chứ khơng trực tiếp tham gia vào phản ứng ấy. Cũng như
vậy, thiết bị, máy móc chỉ tạo điều kiện cho việc làm tăng giá trị hàng hố chứ
bản thân nó khơng trực tiếp tham gia vào việc tăng giá trị.
Ở đây, một vấn đế được đặt ra là, tại sao thông thường những người sử
dụng máy móc thiết bị tiên tiến lại thu được lợi nhuận siêu ngạch? Đó là do
cơng nghệ tiên tiến làm tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá trị cá biệt của
hàng hoá xuống thấp hơn giá trị thị trường (giá trị xã hội), nhưng trên thị trường,

4


thông qua cạnh tranh lại bán theo giá trị thị trường, nên thu được lợi nhuận siêu
ngạch. Xí nghiệp A có trình độ kỹ thuật cao nhất và có khối lượng sản phẩm lớn
nhất trong ngành, có gía trị cá biệt của sản phẩm thấp hơn giá trị thị trường, nên
thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Như vậy, việc thu lợi nhuận siêu ngạch diễn ra qua cạnh tranh giữa
những người sản xuất hàng hố trên thị trường chứ khơng phải trong sản xuất.
Cơ chế thị trường khắc nghiệt dựa trên nguyên tắc “ mạnh được yếu thua”, “cá
lớn nuốt cá bé”. Kẻ thắng nhận được phần thưởng là lợi nhuận siêu ngạch, kẻ
thua bị trừng phạt, không thu lại đủ số lao động (sống và quá khứ) đã hao phí.
Nhưng giá trị của phần thưởng (+28) vừa đúng bằng khoản “ cúp phạt” nghĩa là
khơng vượt ra ngồi tổng số gía trị và gía trị thặng dư đã được tạp ra trong lĩnh
vực sản xuất.
Nếu thiếu sức trừu tượng hóa, chỉ quan sát các biểu hiện bên ngồi
khơng đi sâu vào bản chất của hiện tượng thì dễ lẫn lộn việc phân phối giá trị
thặng dư với việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Từ đó tất yếu sẽ hiểu lầm rằng,
máy móc là nguồn gốc sinh ra giá trị siêu ngạch, mà khơng thấy rằng máy móc
chỉ là điều kiện để thu được lợi nhuận siêu ngạch thông qua cạnh tranh.
Thực chất vấn đề sẽ sáng tỏ hơn khi chỉ những xí nghiệp đi trước trong
việc ứng dụng công nghệ tiên tiến mới thu được lợi nhuận siêu ngạch. Khi cơng
nghệ đó trở thành phổ biến, các đối thủ cạnh tranh đã đuổi kịp trình độ tiên tiến
thì giá trị thị trường sẽ hạ xuống, hàng hoá rẻ đi, những người tiêu dùng được
hưởng lợi và khơng có người sản xuất nào thu được lợi nhuận siêu ngạch nữa.
Nhưng động cơ kiếm lợi nhuận siêu ngạch lại kích thích việc ứng dụng
cơng nghệ mới và một hiệp mới của cuộc cạnh tranh lại tiếp diễn. Nhờ đó, kỹ
thuật tiến bộ không ngừng. Mặt khác, cạnh tranh dưới tác động của tiến bộ kỹ
thuật tất yếu dẫn đén phân hoá giàu nghèo. Muốn thu hẹp khoảng cách giàu
nghèo nhà nước phải thực hiện chính sách xố đói giảm nghèo, điều tiết thu

nhập của dân cư và hỗ trợ những người nghèo.

5


Cũng cần lưu ý rằng máy móc là phương tiện giảm nhẹ nỗi cực nhọc
của người lao động, tiết kiệm lao động sống nhưng khơng phải bao giờ máy móc
cũng là điều kiện để thu được nhiều lợi nhuận hơn là sử dụng lao động thủ cơng.
Khi nói về giới hạn sử dụng máy móc trong chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã chỉ ra
rằng nhà tư bản “không trả cho lao động đã sử dụng, mà chỉ trả cho giá trị sức
lao động đã sử dụng. Cho nên, việc sử dụng máy móc bị giới hạn bởi số chênh
lệch giữa giá trị của chiếc mày và giá trị của sức lao động bị máy đó thay thế.
Do đó, tiền cơng thấp sẽ ngăn cản việc sử dụng máy móc, bởi vì lợi nhuận bắt
nguồn khơng phải từ việc giảm bớt lao động được trả công. C.Mác đã dẫn ra sự
kiện người Mỹ chế tạo ra máy đập đá, nhưng người Anh khơng sử dụng máy
móc đó vì sử dụng “kẻ khốn khó” làm cơng việc ấy sẽ thu được nhiều lợi nhuận
hơn.
Việc nhận thức máy móc chỉ chuyển giá trị sang sản phẩm mới theo
mức độ khấu hao chứ không làm tăng giá trị, không những giúp hiểu đúng
nguồn gốc của giá trị thặng dư mà cịn có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý
kinh tế.
Trong tầm vĩ mô phải tìm mọi cách khấu hao máy móc càng nhanh càng
tốt, nhằm tránh hao mịn vơ hình và hao mịn hứu hình do bảo quản kém hoặc
sử dụng khơng hợp lý. Trên tầm vĩ mơ, nhà nước cần có chính sách khuyến
khích các doanh nghiệp khấu hao nhanh như một số nước tư bản chủ nghĩa phát
triển đã làm
2. Lao động với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người dùng để sản
xuất ra của cải vật chất. Trong bất cứ chế độ xã hội nào, sức lao động cũng là
điều kiện cơ bản của sản xuất. Nhưng sức lao động chỉ biến thành hàng hoá

trong những điều kiện lịch sử nhất định.
Một là, người lao động phải là người có tự do về thân thể, do đó được tự
do sử dụng sức lao động của mình, kể cả tự do bán sức lao động của mình cho
người khác.
6


Hai là, người lao động hoàn toàn mất hết mọi tư liệu sản xuất, chỉ còn lại
sức lao động là tài sản duy nhất. Để khỏi chết đói, họ khơng có con đường nào
khác là phải mang bán thứ tài sản duy nhất đó.
Hai điều kiện đó vạch ra khả năng và tính tất yếu của sự chyển biến sức
lao động thành hàng hoá. Hàng hoá sức lao động ra đời đánh dấu một giai đoạn
mới trong sự phát triển của xã hội- giai đoạn mà sản xuất hàng hoá phát triển
cao nhất và chiếm địa vị thống trị trong nền kinh tế, đó là sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Do đó, hàng hố sức lao động là một phạm trù lịch sử đặc thù của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nó sinh ra và mất đi cùng với phương thức sản
xuất đó. Cũng như mọi hàng hố khác, hàng hố sức lao động có hai thuộc tính:
giá trị và giá trị sử dụng.
a. Giá trị của hàng hoá sức lao động
Là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao
động. Nói cách khác cụ thể thì giá trị của hàng hoá sức lao động bằng giá trị
những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân và gia đình họ,
và những chi phí để đào tạo người cơng nhân có một trình độ chun mơn nhất
định phù hợp với yêu cầu của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giá trị sức lao động
cịn có tính lịch sử và xã hội, do đó tuỳ theo điều kiện cụ thể từng nước và từng
thời kỳ mà giá trị sức lao động có thể cao hay thấp khác nhau.
b. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động:
Là ở chỗ nó thoả mãn nhu cầu nào đó cuat người mua. Nhưng khác với
hàng hố thơng thường khác, hàng hố sức lao động có một giá trị sử dụng đặc
biệt là khi đem tiêu dùng thì nó tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó.

Phần giá trị lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.
Quá trình tiêu dùng sức lao động là quá trình lao động diễn ra trong lĩnh
vực sản xuất. Chính trong lĩnh vực này, đồng thời với việc tạo ra những giá trị
sử dụng thì giá trị và giá trị thặng dư cũng được tạo ra.

7


3. Phải chăng C.Mác quy công trực tiếp tạo ra giá trị cho lao động thể
lực
Có người cho rằng “C.Mác và các nhà khoa học tiền bối và cùng thời
với C.Mác trong thời đại máy hơi nước, máy dệt. . . đều quan niệm của cải được
lao động sáng tạo ra là của cải dạng vật thế. Từ đó quy cơng trực tiếp tạo ra gía
trị cho lao động thực thể” và chính C.Mác đã nhấn mạnh của cải vật thể và lao
động thực thể đồng thời đã có nêu luận điểm về của cải tinh thần và lao động
khoa học. Sự kế tục, sáng tạo phải nối tiếp những gợi ý.
Luận điểm trên hồn tồn sai lầm, do khơng nắm được phương pháp
trình bày của C.Mác. Khi nói giá trị hàng hoá được đo bắng thời gian lao động
trung bình cần thiết hay thời gian lao động xã hội cần thiết. Tức là thời gian đòi
hỏi để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó trong những điều kiện sản xuất
bình thường của xã hội với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ
lao động trung bình trong xã hội đó. C.Mác đồng thời cũng đề cập đến lao động
phức tạp coi lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn. Nói đúng hơn là
lao động giản đơn nhân bội lên , thành thử một lao động phức tạp nhỏ hơn thì
tương đương với một lượng lao động giản đơn lớn hơn.
Nhưng do áp dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học, C.Mác đã giả
định “từ nay về sau, để cho sự trình bày được đơn giản, chúng tơi sẽ trực tiếp coi
mọi loại sức lao động như là một sức lao động giản đơn. Điều đó, sẽ tránh cho
chúng ta khỏi phải quy lao động phức tạp ra lao động giản đơn trong từng
trường hợp một”. Những ai vơ tình hay hữu ý mà quên mất giả định trên sẽ cho

rằng C.Mác chỉ quy công tạo ra giá trị cho lao động đơn giản cho lao động thể
lực.
II. SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
Quá trình lao động trên cơ sở tư bản chủ nghĩa, trước hết,vẫn là quá trình
kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất để tạo ra giá trị sử dụng. Nhưng trong
điều kiện chủ nghĩa tư bản, nhà tư bản chiếm hữu tư bản sản xuất,bóc lột cơng
nhân làm th,q trình lao động có đặc điểm là:
8


-

cơng nhân làm việc dưới sự kiểm sốt của nhà tư bản,

-

sản phẩm do công nhân làm ra thuộc về nhà tư bản.

Quá trình lao động trong chủ nghĩa tư bản cịn là q trình nhà tư bản sử
dụng những hàng hoá tư liệu sản xuất và sức lao động đã mua để tạo ra giá trị
thặng dư.Do đó,sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa sản xuất giá trị
sử dụng và sản xuất giá trị thặng dư. Mác nói: “với tư cách là sự thống nhất giữa
quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị, thì quá trình sản xuất là một quá
trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và
quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản
chủ nghĩa,là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hố”.
Q trình sản xuất giá trị thăng dư đã diễn ra như:giả sử nhà tư bản mua
sức lao động của công nhân theo đúng giá trị là 3 đồng đẻ dùng trong 10 giờ,và
cứ 1 giờ lao động,người công nhân tạo ra một lượng giá trị mới là 0,6 đồng.
Giả sử với năng xuất lao động nhất định, trong 5 giờ người cơng nhân

có thể chuyển một số tư liệu sản xuất co trị là 20 đồng thành hàng hoá mới.
Kết quả sẽ là:sau 5 giờ laođộng ,người công nhân đã biến tư liệu sản
xuất thành sản phẩm mới và sản phẩm mới ấy chứa đựn một lượng giá trị là 23
đồng,trong đó gồm có 20 đồng giá trị tư liệu giá trị sản xuất chuyển sang và 3
đồng giá trị mới sáng tạo ra(0,605).
Như vậy là sau 5 giờ lao động, đồng thời với việc tạo ra một số sản
phẩm mới cho nhà tư bản, người cơng nhân cịn tạo ra một lượng giá trị mới
ngang bằng giá trị sức lao động của mình.
Đến đây, nếu người cơng nhân được nghỉ thì anh ta khơng bị bóc lột.
Nhưng như vậy thì nhà tư bản sẽ khơng đạt được mục đích của sản xuất. Nhà tư
bản chi ra 23 đồng không phải để thu về 23 đồng,mà để thu một số tiền lớn hơn.
Vả lại, nhà tư bản mua sức lao động của công nhân cốt để dùng trong 10 giờ,
chứ không phải để dùng trong 5 giờ.Về mặt pháp lý mà nói, điều này đã có sự
thoả thuận trước giữa kẻ mua và người bán dưới áp lực của quy luật cung cầu ở
thị trường lao động.
9


Như vậy, người công nhân bắt buộc phải lao động thêm 5 giờ nữa.
Lần này, nhà tư bản chỉ cần chi ra một số tư liệu sản xuất có giá trị là 20 đồng,
chứ không phải chi thêm tiền mua sức lao động. Sau 5 giờ lao động,đồng thới
với việc chuyển số tư liệu sản xuất có giá trị 20 đồng thành sản phẩm mới, người
công nhân vẫn sáng tạo ra một lượng giá trị mới là 3 đồng.
Tổng cộng trong 10 giờ sản xuất, nhà tư bản chi 43 đồng (gồm 40
đồng về tư liệu sản xuất và 3 đồng mua sức lao động), nhưng lại thu về một số
sản phẩm mới có giá trị là 46 đồng. Số tiền thu về lớn hơn số vốn ứng trước là 3
đồng. Hắn bỏ túi 3 đồng dơi ra đó mà khơng phải trả một vật ngang giá nào. Ba
đồng đó là giá trị thặng dư.
Như vậy là trong 10 giờ lao động, người công nhân chỉ dùng một
phần thời gian để bù đắp lại giá trị sức lao động, còn một phần là thời gian lao

động khơng cịn cho nhà tư bản. Phần thời gian để người công nhân tái sản xuất
giá trị sức lao động, tức là giá trị những tư liệu cần thiết cho người công nhân, là
thời gian lao động cần thiết , còn phầnn thời gian dùng để sản xuất giá tri cho
nhà tư bản,là thời gian lao động thặng dư. Trong ví dụ nói trên, ngoài 5 giờ lao
động cần thiết để sản xuất một lượng giá trị ngang bằng giá trị sức lao động của
mình (3 đồng), người cơng nhân cịn phải thêm vào đó 5 giờ lao động thặng dư
để sản xuất giá trị thặng dư cho nhà tư bản (3 đồng ). Như vậy, giá trị thặng dư
là giá trị do lao động của cơng nhânlàm th sáng tạo ra thêm ngồi giá trị sức
lao động của họ và bị nhà tư bản chiếm không, là kết quả của lao động không
công của người cơng nhân .
Từ đó, chúng ta thấy rằng tư bản không phải là một số tiền, cũng không
phải là tư liệu sản xuất mà là quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội nhất định trong
lịch sử. Nó thể hiện quan hệ bóc lột của nhà tư bản đối với cơng nhân. Trong
quan hệ đó, nhà tư bản nắm giữ tồn bộ cơng cụ và tư liệu sản xuất cũng như các
tư liệu sinh hoạt chủ yếu, còn giai cấp cơng nhân - lực lượng sản xuất chính của
xã hội, người trực tiếp làm ra của cải vật chất nuôi sống xã hội và làm giầu cho
giai cấp tư sản thì chỉ có “ hai bàn tay trắng”, buộc phải bán sức lao động cho
10


nhà tư bản để sống. Do đó có thể định nghiã nhà tư bản một cách chính xác hơn:
tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột cơng nhân làm th.
III. PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
Có rất nhiều biện pháp và hình thức để sản xuất giá trị thặng dư. C.Mác
đã khái quát thành hai phương pháp chủ yếu là phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
là giá trị thu được do kéo dài ngày lao động. Ngày lao động bị kéo dài
nhưng thời gian lao động cần thiết không thay đổi, thời gian lao động thặng dư
kéo dài thêm. Do đó, ngày lao động càng dài thì tỷ suất giá trị thặng dư càng

cao, giá trị thặng dư tuyệt đối càng nhiều.
Ví dụ, thời gian lao động cần thiết là 5 giờ và ngày lao động là 10 giờ,
thì tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Nếu thời gian lao động cần thiết không đổi,
mà ngày lao động kéo dài từ 10 giờ thành 12 giờ chẳng hạn như là kéo dài ngày
lao động và thời gian lao động thặng dư thêm 2 giờ, thì tỷ suất giá trị thặng dư là
140%.
Thời gian lao động cần thiết

Thời gian lao động thặng dư

5 giờ
m’ 

5 giờ
 100 = 100%

Thời gian lao động cần thiết

Thời gian lao động thặng dư

5 giờ
m’ =

7 giờ
 100 = 140%

11


Với lịng tham khơng đáy, nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao

động để nâng cao mức độ bóc lột nếu có thể được, họ khơng ngần ngại gì mà
khơng bắt cơng nhân làm việc suốt 24 giờ một ngày.Nhưng trong thực tế có
những yếu tố khách quan ngăn chặn tham vọng đó của nhà tư bản. Ngày lao
động có giới hạn về mặt sinh lý và tinh thần của người công nhân không thể kéo
dài bao nhiêu cũng được. Mặt khác, giai cấp công nhân luôn luôn đấu tranh đòi
rút ngắn ngày lao động. Tuy nhiên, ngày lao động cũng không thể rút ngắn đến
mức chỉ bằng thời gian lao động cần thiết, vì như vậy khơng còn cơ sở cho chủ
nghĩa tư bản tồn tại.
Nhà tư bản mua sức lao động và cho rằng có quyền sử dụng nó theo ý
muốn, có quyền kéo dài ngày lao động đến mức có thể kéo dài được. Cịn người
cơng nhân thì dựa trên ngun tắc trao đổi hàng hố, cho rằng mình có quyền
địi hạn chế ngày lao động ở mức bình thường. Như vậy là ở đây có mâu thuẫn,
quyền đối lập với quyền mà cả hai quyền đó đều được quy luật hàng hố phê
chuẩn một các như nhau. Giữa hai quyền ngang nhau thì cái quyền quyết định là
sức mạnh.
Trong thời kỳ đầu, kỹ thuật sản xuất còn kém, năng suất lao động còn
thấp, nhà tư bản chủ yếu là dựa vàoviệc kéo dài ngày lao động để tăng mức độ
bóc lột. Mặt khác, sức đấu tranh của cơng nhân cịn yếu, ngày lao động kéo dài
đến 17, 18 giờ. Về sau, cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân địi rút ngắn ngày
lao động ngày càng trở nên quyết liệt, giai cấp tư sản không thể tự ý kéo dài
ngày lao động bao nhiêu cũng được, chúng buộc phảI rút ngắn ngày lao động.
Bị buộc phải rút ngắn ngày lao động, nhà tư bản lại tìm cách khác để
tăng cường bóc lột cơng nhân. Đó là tăng cường độ lao động, nghĩa là bắt cơng
nhân phải làm việc căng thẳng hơn, hao phí nhiều sức lực hơn. Do đó, tạo ra
được giá trị và giá trị thặng dư nhiều hơn. Tăng cường độ lao động cũng có tác
dụng như kéo dài ngày lao động. Tuy nhiên, nhà tư bản cũng không thể tăng
cường độ lao động lên vơ hạn, họ tìm ra một phương pháp bóc lột khác tinh vi
hơn là bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
12



2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động cần thiết,
nhưng không thay đổi ngày lao động. Do đó, thời gian lao động thặng dư tăng
lên một cách tương ứng. Ví dụ:
Thời gian lao động cần thiết

Thời gian lao động thặng dư

5giờ

5 giờ

m’ = 100%
Thời gian lao động cần thiết

Thời gian lao động thặng dư

4 giờ

6 giờ

m’ = 150%
Muốn rút ngắn thời gian lao động cần thiết, phải hạ thấp giá trị ngày lao
động. Chúng ta biết giá trị sức lao động biểu hiện thàng giá trị những tư liệu sinh
hoạt dùng để duy trì đời sống của công nhân. Vậy muốn hạ thấp giá trị sức lao
động, phải làm giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt. Điều đó chỉ có thể thực hiện
bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt
thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân, hoặc tăng năng suất lao động trong các
ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất các tư liệu sinh hoạt đó.

Trong thực tế việc cải tiến kỹ thuật tăng năng suất lao động diễn ra
trước tiên ở một số xí nghiệp riêng lẻ, làm cho giá trị cá biệt của sản phẩm do
các xí nghiệp đó sản xuất thấp hơn giá trị xã hội. Nhà tư bản khi bán hàng thu
được một số giá trị thặng dư trội hơn số giá trị thặng dư của các nhà tư bản khác.
Phần giá trị thặng dư trội hơn đó mà các nhà tư bản cá biệt thu được gọi là giá trị
thặng dư siêu ngạch.
Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng tương đối có cơ sở giống
nhau là do tăng năng suất lao động, nhưng lại khác nhau ở chỗ: giá trị thặng dư
13


tương đối dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội, cịn giá trị thặng dư
siêu ngạch thì dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt. Cho nên, Mác gọi
giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương
đối.
Xét từng trường hợp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm
thời xuất hiện rồi mất đi. Nhưng nếu xét toàn bộ xã hội tư bản chủ nghĩa thì giá
trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tồn tại thường xuyên. Nó chỉ mất đi
lúc này, chỗ này nhưng lại xuất hiện lúc khác, chỗ khác. Giá trị thặng dư siêu
ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, cải
tiến tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động. Việc chạy đua giành giá trị
thặng dư siêu ngạch dẫn đến kết quả làm tăng năng suất lao động xã hội, thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối
là hai phương pháp cơ bản để nhà tư bản nâng cao mức độ bóc lột giai cấp cơng
nhân. Cả hai phương pháp đều được áp dụng song song trong suốt quá trình lịch
sử phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng nhìn chung càng về sau, kỹ thuật càng
phát triển thì sự bóc lột giá trị thặng dư tương đối chiếm ưu thế.
IV. NỘI DUNG VÀ VAI TRÒ CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ THẶNG


Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật biểu hiện bản chất của phương
thức sản xuất, phản ánh mục đích và phương hướng của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Sản xuất giá trị thặng dư là mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Vì mục đích này, các nhà tư bản sản xuất bất kỳ hàng hố gì để thu được nhiều
giá trị thặng dư.
Phương tiện để đạt mục đích là tăng cường phát triển kỹ thuật, tăng
năng suất lao động, tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động và bóc lột
sức lao động của công nhân. Giá trị thặng dư xét về mặt bản chất chứ không xét
về mặt lượng sản phẩm thặng dư là một phạm trù riêng của chủ nghĩa tư bản.
Trong mọi xã hội, sản phẩm thặng dư bán trên thị trường đều có giá trị, nhưng
14


chỉ ở chủ nghĩa tư bản thì giá trị của sản phẩm thặng dư mới là giá trị thặng dư.
Do đó, sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Nội dung của quy luật là tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà
tư bản bằng cách tăng cường các phương tiện kỹ thuật và quản lý để bóc lột
ngày càng nhiều lao động làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư có tác động mạnh
mẽ trong đời sống xã hội tư bản. Một mặt, nó thúc đẩy kỹ thuật, phân công lao
động xã hội phát triển làm cho lực lượng sản xuất, năng suất lao động tăng lên
nhanh chóng và nền sản xuất được xã hội hố cao. Mặt khác, nó làm cho các
mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản trước hết là mâu thuẫn cơ bản của nó mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với sự chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa ngày càng gay gắt. Quy định xu hướng lịch sử tất yếu của chủ nghĩa
tư bản sẽ phải nhường chỗ cho xã hội mới văn minh hơn -xã hội xã hội chủ
nghĩa là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thuỷ.

15


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................................1
I. MÁY MÓC VÀ LAO ĐỘNG.......................................................................2
1. Máy móc đối với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.........................................2
a. Giá trị sử dụng của hàng hoá:...................................................................2
b. Giá trị hàng hoá.........................................................................................3
2. Lao động với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa...............................................6
a. Giá trị của hàng hoá sức lao động.............................................................7
b. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động:..............................................7
3. Phải chăng C.Mác quy công trực tiếp tạo ra giá trị cho lao động thể lực....8
II. SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ..........................................................8
III. PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ..........................11
1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.......................................11
2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối......................................13
IV. NỘI DUNG VÀ VAI TRÒ CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ. 14

16



×