TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử nhân loại có những bậc vĩ nhân, mà lịch sử mãi không
bao giờ lãng quên bởi những cống hiện vĩ đại của họ cho sự tiến bộ của nhân
loại. V.I. Lênin là một trong những vĩ nhân như vậy. Cách đây hơn 80 năm,
vào ngày 21 tháng giếng năm 1924 con tim và khối óc lớn của giai cấp vô sản
Nga và toàn thế giới đã ngừng đập, sự ra đi Người là một tổn thất lớn lao cho
phong trào xã hội chủ nghĩa toàn thế giới lúc bấy giờ, nhưng những di sản lý
luận quý báu của Người vẫn sống mãi với thời đại. Một trong những di sản lý
luận mà Người để lại cho chúng ta hôm nay là “chính sách kinh tế mới”
(NEP). Đây là chính sách được Lênin đưa ra, thông qua nhiều bài phát biểu
sau Đại hội X của Đảng Cộng sản Nga diễn ra vào tháng 3 năm 1921 và tiêu
biểu hơn cả là tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”.
Trong tác phẩm này Lênin đưa ra rất nhiều quan điểm về các vấn đề
như: tự do trao đổi, phát triển thủ công nghiệp, thuê chuyên gian tư sản và đặc
biệt Lênin giành rất nhiều tâm huyết khi bàn về vấn đề sở hữu và các thành
phần kinh tế, trong đó đặc biệt là những quan điểm về sử dụng thành phần
kinh tế tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga
Xô viết lúc bấy giờ.
Theo Lênin sự phát triển của thành phần kinh tế tư bản nhà nước được
coi như là yếu tố không thể thiếu, là “mắt xích trung gian” thuận lợi chuyển
từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau.
Đối với nước ta hiện nay đang trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, vì thế nền kinh tế nước ta đang có sự đan xen giữa cái cũ
và cái mới, giữa những yếu tố của chủ nghĩa xã hội và cơ chế thị trường.
Trong tình hình ấy đòi hỏi phải có chiến lược kinh tế - xã hội và những chính
sách, biện pháp cụ thể, thích hợp và đặc biệt là cần phải có cách nhìn nhận sâu
sắc, khách quan về vai trò thành phần kinh tế tư bản nhà nước, là hết sức quan
trọng trong việc phát huy mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế đất nước, tạo
Trang:1
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
cơ sở vật chất vững chắc để tiến tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Vì
thế việc nghiên cứu để nắm vững nội dung, quan điểm trong NEP nói chung
và quan điểm sử dụng thành phần kinh tế tư bản nhà nước của Lênin nói riêng
là hết sức cần thiết để trên cơ sở đó chúng ta có thể nhận thức và vận dụng
một cách sáng tạo những quan điểm của Lênin vào sự nghiệp phát triển kinh
tế và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ lý do nêu trên nên tôi chọn đề tài: “Tư tưởng của Lênin về
chủ nghĩa tư bản nhà nước trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực” Quá
trình nhận thức, vận dụng của Đảng ta về vấn đề này.
Đề tài được thực hiện nhằm mục đích góp phần làm rõ quan điểm của
Lênin về phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước trong tác phẩm “Bàn
về thuế lương thực”. Từ đó liên hệ quá trình nhận thức, nghiên cứu và vận
dụng của Đảng ta vào việc phát triển các hình thức các thành phần trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay nói
chung và những chính sách phát triển thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà
nước ở nước ta nói chung.
Với mục đích đó, nhiệm vụ của đề tài là phân tích những quan điểm
của Lênin về đặc điểm, tác dụng, vai trò của thành phần kinh tế tư bản nhà
nước trong thời kỳ quá độ từ một nước nông nghiệp là chính lên chủ nghĩa xã
hội ở nước Nga cũng như việc nhận thức và vận dụng những quan điểm của
Lênin đối với việc phát triển kinh tế cơ cấu nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta hiện nay.
Kết cấu của đề tài:
Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung gồm có 3 chương.
Chương 1. Sơ lược tiểu sử Lênin và tác phẩm “Bàn về thuế lương
thực”.
Chương 2. Lí luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong tác
phẩm “Bàn về thuế lương thực”.
Trang:2
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
Chương 3. Quá trình nhận thức và vận dụng của Đảng ta về vấn đề này.
PHẦN NỘI DUNG
------ - -----Chương 1
SƠ LƯỢC VỀ TIỂU SỬ LÊNIN VÀ TÁC PHẨM
BÀN VỀ THUẾ LƯƠNG THỰC
1.1. Tóm tắt tiểu sử Lênin
V.I. Lênin sinh ngày 22 tháng Tư năm 1870 ở Simbirsk (nay là
Ulianovsk), mất ngày 21 tháng Giêng 1924 ở làng Gorki gần Moskva. V.I. Lênin tên thật là Vladimir Ilits Ulianov (Lênin), các bí danh đó dựng là V. Ilin,
K. Tulin, Karpov và những bớ danh khỏc. Năm 1887 Lênin tốt nghiệp xuất
sắc bậc Trung học được nhận Huy chương vàng nên được vào thẳng bất kỳ
trường Đại học nào ở nước Nga. Ông đó xin vào học khoa Luật của Đại học
Tổng hợp Kazan. Tại đây, Lênin tham gia nhóm cách mạng trong sinh viên,
trở thành thành viên của Hội đồng hương bí mật Samarsko- Simbirskoe. Do
tham gia tuyên truyền cách mạng trong sinh viên, tháng Chạp 1887, Lê-nin bị
đuổi học và bị phát lưu đến làng Kokushino Kazan. Tháng 10 năm 1888, trở
về Kazan gia nhập nhóm Mác- xít. Lê-nin có nghị lực rất cao trong việc tự
học.
Và năm 1899, trong cuốn Sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Nga, Lênin
được thừa nhận là người lónh đạo của nhóm Mác- xít ở Nga. Đêm mồng 9
tháng Chạp 1895, do bị tố giác nhiều hội viên của Hội liên hiệp, trong đó có
Lê-nin bị cảnh sát bắt. Sau 14 tháng bị cầm tù, tháng hai 1897, Lênin bị đi đày
3 năm ở làng Shushenkoe (miền Đông Sibir). Trong thời gian lưu đày Lênin
đó viết xong hơn ba mươi tác phẩm, trong đó có cuốn khá đồ sộ: Sự phát triển
chủ nghĩa tư bản ở nước Nga (1899).
Trang:3
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
Năm 1903, tại Luân đôn (Anh) tiến hành Đại hội lần thứ II Đảng công
nhân xó hội dõn chủ Nga. Lờnin phỏt biểu phải xõy dựng một đảng Mác- xít
kiểu mới có kỷ luật nghiêm mỡnh, cú khả năng là người tổ chức cách mạng
của quần chúng.
Tháng Tư 1905, tại Luân đôn tiến hành Đại hội lần thứ III Đảng công
nhân xó hội dõn chủ Nga, Lờnin được bầu là chủ tịch Đại hội. Tại Đại hội này
Uỷ ban Trung ương đó được bầu ra do Lênin đứng đầu. Tháng Mười Một
1905, Lênin bí mật trở về Peteburg để lónh đạo cách mạng Nga.
Trong thời gian Đại chiến thế giới lần thứ I, Lênin đưa ra khẩu hiệu
biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng. Trong tác phẩm Chủ
nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916) và những tác
phẩm khác Lênin đó phỏt triển chớnh trị kinh tế học Mỏc xớt và lý luận về
cỏch mạng xó hội chủ nghĩa, kiện toàn những vấn đề cơ bản của triết học Mác
xít (Bút ký triết học).
Tối ngày 6 Tháng Mười Một 1917, Lênin đến Cung điện Smolnưi trực
tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa. Đến rạng sáng ngày 7 Tháng Mười một 1917 ,
toàn thành phố Petersbuorg nằm trong tay những người khởi nghĩa, và đến
đêm ngày 7 Tháng Mười Một 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga đó toàn
thắng. Chớnh quyền đó về tay nhõn dõn. Nhà nước công nông đầu tiên trên
thế giới do Đảng của giai cấp vô sản lónh đạo đó ra đời. Tại Đại hội các Xô
Viết toàn Nga lần thứ II Lênin được bầu là Chủ tịch Hội đồng các Uỷ viên
nhân dân (Hội đồng Dân uỷ).
Ngày 11 Tháng Ba 1918 Lênin cùng với Trung ương Đảng và Chính
phủ Xô Viết trở về Mátxcơ va, Lê-nin đó cú cụng lao to lớn trong việc lónh
đạo cuộc đấu tranh của nhân dân lao động nước Nga Xô Viết chống sự can
thiệp quân sự của nước ngoài và lực lượng phản cách mạng trong nước; trong
việc lónh đạo quá trỡnh cải tạo xó hội chủ nghĩa ở nước Nga. Lênin thi hành
chính sách đối ngoại Xô Viết, đề ra những nguyên tắc cùng tồn tại hoà bỡnh
giữa cỏc quốc gia cú chế độ xó hội khỏc nhau.
Trang:4
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
Lênin là người sáng lập Quốc tế Cộng sản (1919). Tháng Ba năm 1919,
Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Nga đó thụng qua Cương lĩnh mới
của Đảng, Lê-nin được bầu là chủ tịch Uỷ ban soạn thảo Cương lĩnh Mùa
xuân 1920, Lê-nin viết cuốn Bệnh ấu trĩ tả khuynh của chủ nghĩa cộng sản
trỡnh bày những vấn đề chiến lược và sách lược của phong trào cộng sản.
Thời gian này, Lênin soạn thảo xong kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xó hội
(cụng nghiệp húa đất nước, hợp tác hóa gia cấp nông dân, cách mạng văn
hóa) là người sáng lập ra Kế hoạch điện khí hóa toàn Nga (GOELRO), người
đề ra chính sách kinh tế (NEP). Năm 1921 chính sách NEP của Lênin được
thông qua tại Đại hội lần thứ X Đảng Cộng sản Nga. Năm 1922 Lênin ốm
nặng. Trong diễn văn cuối cùng đọc tại hội nghị toàn thể Xô Viết đại biểu
thành phố Mátxcơ va (ngày 20 Tháng Mười một 1922) Lênin tin tưởng rằng
thi hành chính sách NEP nước Nga sẽ trở thành một nước xó hội chủ nghĩa.
Tháng Chạp 1922 đến Tháng Ba 1922 Lênin đọc ghi âm lại một số bài báo
quan trọng như: Những trang nhật ký, Bàn về hợp tỏc húa, Bàn về cỏch mạng
của chỳng ta, Thà ớt mà tốt; Thư gửi Đại hội. Ngày 21 Tháng Tư 1924, V.I.
Lê-nin qua đời ở làng Gorki (Mát xcơ va).
1.2. Tỏc phẩm “Bàn về thuế lương thực” của Lờnin
Trang:5
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
1.2.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công đó đưa tới sự
xuất hiện của nhà nước Xô viết đầu tiên trên thế giới, mở đầu một thời đại
mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xó hội. Trước bối
cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản Nga mới bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt,
do đó nó không chịu khoanh tay đầu hàng mà tỡm mọi cỏch để chống lại nhà
nước Xô viết để giành lại thiên đường đó mất. Nên giai cấp tư sản Nga đó cấu
kết với 14 nước đế quốc do Anh, Pháp cầm đầu hũng búp chết nhà nước Xô
viết non trẻ.
Về kinh tế - xó hội: Nền kinh tế quốc dân bị suy sụp nặng nề: trên 20
triệu người chết trong đó 1/7 dân số nước Nga, khoảng 30% là nam giới ở độ
tuổi lao động. Nguồn của cải bị tiêu huỷ trong các cuộc chiến tranh đó rất lớn,
1/4 tài sản quốc dân bị tiêu huỷ. Đại đa số các xí nghiệp công nghiệp ở tỡnh
trạng đỡnh đốn, nhiều nhà máy ngừng hoạt động, đặc biệt các ngành công
nghiệp nặng, so với trước chiến tranh, sản lượng công nghiệp nặng giảm 7
lần. Ngành giao thông ở vào tỡnh trạng tờ liệt, do nhiờn liệu thiếu, lương thực
thực phẩm không đủ. “Thêm vào đó, nạn mất mùa năm 1920, nạn thiếu thức
ăn gia súc, nạn chết súc vật” làm cho đời sống nhân dân điêu đứng đến mức
không thể chịu nổi. Tỡnh hỡnh kinh tế, xó hội như vậy dẫn đến tỡnh chớnh trị
trở nờn phức tạp.
Về kết cấu kinh tế, xó hội, giai cấp: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
gồm kinh tế gia trưởng, kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, tư bản tư nhân, kinh tế
tư bản nhà nước và kinh tế chủ nghĩa xó hội cựng tồn tại. Nước Nga rộng lớn
và hỗn tạp đang tồn tại “những thành phần, những bộ phận, những mảnh của
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xó hội”
Cơ cấu xó hội - giai cấp ở nước Nga rất phức tạp gồm giai cấp tư sản,
tiểu tư sản, giai cấp vô sản, trong đó “Tính tự phát tiểu tư sản chiếm ưu thế và
không thể không chiếm ưu thế, số đông, thậm chí đại đa số nông dân là những
người sản xuất nhỏ”
Trang:6
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
Thực tế, họ ra sức lợi dụng sự bất bỡnh của cụng nhõn, nụng dân, binh
lính và sự dao động của những người cộng sản không kiên định lập trường
cách mạng để phá hoại công cuộc xây dựng kinh tế. Toàn bộ tỡnh hỡnh kinh
tế, chớnh trị, xó hội trong nước nêu trên đó làm suy yếu cơ sở xó hội của
chuyờn chớnh vụ sản, đe doạ sự tồn tại của Chớnh quyền Xụviết.
Lênin cho rằng nguyên nhân sâu xa và chủ yếu nhất dẫn đến tỡnh trạng
làm hẹp cơ sở xó hội của Chớnh quyền Xụviết là do sự bất món của đông đảo
quần chúng nhân dân, nhất là nông dân đối với chính sách kinh tế - xó hội của
Đảng Bônsêvích. Lênin thừa nhận: “Đến năm 1921, chúng tôi vấp phải một
cuộc khủng khoảng chính trị bên trong nước Nga xôviết. Đó là cuộc khủng
khoảng lớn nhất. Cuộc khủng khoảng đó đó làm cho một bộ phận khỏ lớn
nụng dõn, mà cả cụng nhõn, binh lớnh bất bỡnh”
Về tỡnh hỡnh chớnh trị quốc tế: Bọn đế quốc bị thất bại trong cuộc
chiến tranh công khai hằn thù, chống nước Nga xôviết, âm mưu bóp nghẹt
Chính quyền của giai cấp vô sản bằng kinh tế. Mặt khác, tỡnh hỡnh quốc tế cú
những thay đổi mang tính bước ngoặt. Hy vọng vào thắng lợi đồng loạt của
cách mạng vô sản ở các nước phương Tây và phương Đông không thực hiện
được. Bối cảnh quốc tế ấy đó khiến nước Nga xôviết trẻ tuổi có khả năng phải
tồn tại ở trạng thái biệt lập, đơn độc trong một thời gian tương đối dài. Bởi
vậy, chiến lược về sự cùng tồn tại hoà bỡnh với thế giới cỏc nước tư bản chủ
nghĩa đó được hỡnh thành rừ nột hơn. Bởi vỡ, theo Lờnin, “Hiện nay, tỡnh
hỡnh quốc tế đó sản sinh một thế cõn bằng, dự là tạm thời, khụng ổn định,
nhưng dẫu sao thỡ đó cũng vẫn là thế cõn bằng”
Tỡnh hỡnh khủng khoảng kinh tế, chớnh trị, xó hội đó là do thực hiện
chế độ trưng thu lương thực thừa và thi hành Chính sách cộng sản thời chiến
trong thời bỡnh; Về mặt chớnh trị đó là sự thiếu tổ chức và không đưa ra được
chính sách kinh tế phù hợp với thực tiễn nước Nga lúc đó.
Trong điều kiện vô cùng khó khăn phức tạp như vậy, Đại hội X Đảng
cộng sản Nga đó đề ra đường lối mới xây dựng Chủ nghĩa xó hội nhằm đưa
Trang:7
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
nước Nga vượt qua khó khăn. Đại hội X Đảng cộng sản Nga nhấn mạnh: Phải
thay Chớnh sỏch cộng sản thời chiến bằng Chớnh sỏch kinh tế mới (NEP),
nõng cao vai trũ lónh đạo của Đảng cộng sản trong công cuộc hoà bỡnh xõy
dựng kinh tế, nhấn mạnh tớnh tất yếu liờn minh giữa giai cấp vụ sản với giai
cấp nụng dõn trong sự nghiệp cải tạo và xõy dựng Chủ nghĩa xó hội.
Thực hiện hai nội dung trọng tâm là liên minh giai cấp công nông và
việc áp dụng chính sách kinh tế mới (NEP). Lênin đó viết nhiều văn kiện và
công trỡnh nghiờn cứu về nhiều vấn dề trong đó có NEP. Cuốn sách mỏng
Bàn về thuế lương thực, viết vào tháng 5 năm 1921 đó gúp phần quan trọng
giải thớch thực chất của liờn minh cụng nụng và NEP.
Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Nga đó quyết định đặc biệt,
yêu cầu các tổ chức Đảng ở khu, tỉnh, huyện phải sử dụng rộng rói tỏc phẩm
Bàn về thuế lương thực trong công tác tuyên truyền chuẩn bị và triển khai,
thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
1.2.2. Nội dung chớnh của tỏc phẩm
Tác phẩm gồm 3 phần, được in trong Lênin Toàn tập - Tập 43 – Nhà
xuất bản Tiến bộ Matxcova 1978 – trang 244-296
Phần 1: Tỡnh hỡnh kinh tế hiện nay của nước Nga (15 trang, 247-262).
Phần này Lênin trích lại một đoạn dài trong cuốn sách “Về bệnh ấu trĩ tả
khuynh và tính tiểu tư sản” xuất bản năm 1918, nhằm giới thiệu lại lý luận về
chủ nghĩa tư bản nhà nước. Trong phần này, Lênin đó phõn tớch tớnh chất
quỏ độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH ở Nga lúc đó. Tính chất quá độ đó thể
hiện ở chỗ, “hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảng của
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xó hội”. Từ sự phõn tớch tính chất quá độ,
“Tỡnh trạng vụ chớnh phủ của những kẻ tiểu tư hữu”, bản chất của Nhà nước
Xô viết, “Sự kiểm kê, kiểm soát của toàn dân đối với sản xuất và phân phối
sản phẩm”, Lờnin vạch rừ 3 điểm chủ yếu:
Thứ nhất: Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến hơn kinh tế tư
bản chủ nghĩa tư nhân và kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Vỡ 3 lý do: Một là:
Trang:8
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
Tính chất của bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xó hội. Hai là:
Thế lực tự phát của nền sản xuất nhỏ đang cản trở nghiêm trọng đối với cụng
cuộc xõy dựng chủ nghĩa xó hội. Ba là: Bản chất Chính quyền Xô viết là nhà
nước chuyên chính vô sản.
Thứ hai: Vỡ sao nước Nga phải thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Lênin khẳng định, đối với tỡnh hỡnh kinh tế - xó hội của nước Nga lúc đó,
phương án tốt nhất là thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước để lên chủ nghĩa
xó hội một cỏch chắc chắn nhất.
Thứ ba: Chuyển sở hữu chủ nghĩa tư bản nhà nước lên sở hữu xó hội
chủ nghĩa như thế nào.
Phần 2: Về thuế lương thực, tự do buôn bán và những hình thức của
chủ nghĩa tư bản nhà nước (24 tr, 262-286). Trong phần này Lênin trình bầy 3
vấn đề:
Về thuế lương thực. Trước hết, Lênin giải thích vì sao phải thay chính
sách trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực; tác dụng của nó như thế
nào; chủ trương ra sao. Lênin phê phán những nhận thức sai lầm và giải thích
vì sao nước Nga phải sử dụng Chính sách cộng sản thời chiến trong thời gian
trước đây và thời kỳ hoà bình xây dựng, phải áp dụng Chính sách kinh té mới
như thế nào là phù hợp. Muốn đạt được mục đích nâng cao lực lượng sản xuất
của nông dân, cải thiện được đời sống của công nhân cần phải có sự sửa đổi
lớn trong chính sách lương thực. Thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng
thuế lương thực là một trong những sửa đổi đó.
Về tự do buôn bán. Cho tự do buôn bán sẽ dẫn đến sự sống lại tính tự
phát tiểu tư sản và của chủ nghĩa tư bản. Trong nền kinh tế còn tồn tại nhiều
thành phần, đặc biệt kinh tế tiểu nông chiếm ưu thế, Nhà nước chuyên chính
vô sản nên thi hành theo chính sách nào? Có sợ chủ nghĩa tư bản sống lại
không? Theo Lênin “Không tìm cách ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản, mà tìm cách hướng nó vào chủ nghĩa tư bản nhà nước”;
Liệu có thể kết hợp được Nhà nước chuyên chính vô sản với chủ nghĩa tư bản
Trang:9
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
nhà nước không? Những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước như thế
nào?
Những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước: Lênin trình bầy cặn
kẽ chế độ tô nhượng. Đó “là hình thức đơn giản nhất, rõ ràng nhất, sáng tỏ
nhất”. Chế độ tô nhượng là gì, thi hành chế độ tô nhượng có lợi gì, thực hiện
chế độ cần thứ gì; sau trình bầy về chế độ tô nhượng, Lênin cho rằng “Các
hình thức hợp tác xã cũng là hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước”. Chủ
nghĩa tư bản nhà nước “hợp tác xã” là như thế nào, sự khác nhau giữa tô
nhượng và “hợp tác xã”; Các hình thức khác của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Nhà nước vô sản sử dụng nhà tư bản như thế nào, Nhà nước cho các nhà tư
bản thuê những cơ sở sản xuất; Lênin cũng đã phê phán những quan điểm,
nhận thức sai lầm của những người cộng sản không tán thành chủ nghĩa tư
bản nhà nước. Đồng thời, Lênin phê phán chủ nghĩa quan liêu do tình trạng
sản xuất nhỏ nó đã cản trở cho sự nhận thức và thực hiện chủ nghiã tư bản
nhà nước nói chung, Chính sách thuế lương thực nói riêng; Xây dựng Đảng,
củng cố bộ máy quản lý nhà nước, phát huy quyền dân chủ của nhân dân.
Phần 3: Tổng kết và kết luận chính trị (8 tr, 286-294). Trong phần này,
sau khi phân tích một cách sơ lược cục diện chính trị, Lênin đề cập đến sự cần
thiết thắt chặt hơn nữa mối liên hệ giữa Đảng cộng sản với quần chúng lao
động ngoài đảng hoặc đứng ngoài chính trị bằng cách đưa quần chúng “Tham
gia vào công tác của các xô viết, mà trước hết là vào các công tác kinh tế”
Kết luận:. (2 tr, 294-296).
--------------- - ---------------
Trang:10
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
Chương 2
LÝ LUẬN CỦA LÊNIN VỀ CHỦ NGHIÃ TƯ BẢN NHÀ NƯỚC
TRONG TÁC PHẨM BÀN VỀ THUẾ LƯƠNG THỰC
2.1. Đặc trưng nổi bật nhất của nền kinh tế thời kỳ quá độ là sự tồn
tại rộng rãi của thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực” Lênin cho rằng trong thời kỳ
quá độ không thể xoá bỏ ngay được các hình thức sở hữu tư nhân cũng như
các hình thức sở hữu khác. Vì đây là thời kỳ quá độ. Lênin viết: “Vậy thì
danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là
trong chế độ hiện nay có những thành phần kinh tế, những bộ phận, những
mảng của cách mạng tư bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều
thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ
xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xã hội khác nhau hiện có ở Nga,
chính là như thế nào. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở chỗ đó”.
(T43, Tr 248). Và Lênin khẳng định ở nước Nga lúc đó còn tồn tại 5 thành
phần kinh tế:
“1. Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính
chất tự nhiên.
2. Sản xuất hàng hoá nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán
lúa mì).
3. Chủ nghĩa tư bản tư nhân.
4. Chủ nghĩa tư bản nhà nước.
5. Chủ nghĩa xã hội”.
(T43, Tr 248).
Theo Lênin, năm thành phần kinh tế này tồn tại khách quan xen kẽ
nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất, nó làm tiền đề nhưng đồng thời mâu
thuẫn nhau do đó nên nó tạo nên hai hệ thống kinh tế đối lập nhau đó là: Hệ
Trang:11
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
thống kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản
nhà nước và hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa bao gồm các thành phần kinh
tế còn lại. Tinh thần này được Lênin trình bày như sau: “ở đây không phải là
chủ nghĩa tư bản nhà nước đấu tranh với chủ nghĩa xã hội, mà là giai cấp
tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng nhau đấu tranh chống lại
cả chủ nghĩa tư bản nhà nước lẫn chủ nghĩa xã hội”. (T43, Tr 249).
Sau khi khẳng định sự tồn tại của năm thành phần kinh tế. Lênin đưa ra
rất nhiều quan điểm về đặc điểm, vai trò, tác dụng của tất các thành phần kinh
tế. Trong đó Lênin, đặc biệt đề cao vai trò của thành phần kinh tế tư bản nhà
nước trong việc phát triển kinh tế của thời kỳ quá độ ở những nước có nền
tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội.
2.1.1. Chủ nghĩa tư bản nhà nước theo quan điểm của Lênin
Theo Lênin: “Chủ nghĩa tư bản nhà nước mà chúng ta nói đó là một thứ
chủ nghĩa tư bản mà chúng ta có thể hạn chế, có thể quy định giới hạn; chủ
nghĩa tư bản nhà nước đó gắn liền với nhà nước, mà nhà nước chính là công
nhân, chính là bộ phận tiên tiến của công nhân, là đội tiên phong, là chúng ta”
(T45, Tr 102).
Mặt khác, theo Lênin, chủ nghĩa tư bản nhà nước là hình thức can thiệp
của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế, thông qua chính sách đạo luật là sự kết
hợp giữa nhà nước vô sản và nhà nước tư bản. Lênin viết: “Chủ nghĩa tư bản
nhà nước, theo sự giải thích của toàn bộ sách báo về kinh tế, là chủ nghĩa tư
bản dưới chế độ tư bản, khi chính nhà nước trực tiếp khống chế những xí
nghiệp tư bản chủ nghĩa này hay xí nghiệp tư bản khác. Nhưng nhà nước
chúng ta là nhà nước vô sản, giai cấp này được nhà nước trao cho đủ mọi
đặc quyền chính trị, và thông qua giai cấp vô sản, nhà nước đó lôi kéo được
nông dân lớp dưới về mình (các đồng chí đều nhớ rằng chúng ta đã bắt đầu
công tác ấy bằng cách lập ra những uỷ ban nông dân nghèo)”(T45, tr 101102).
Trang:12
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
Tóm lại, theo Lênin chủ nghĩa tư bản nhà nước là “chủ nghĩa tư bản
nhà nước về kinh tế cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế hiện nay của nước
ta, đó là điều thứ nhất”. Và theo Lênin thì “chủ nghãi tư bản nhà nước không
có gì là đáng sợ đối với chính quyền Xô Viết vì Xô Viết là một nước mà trong
đó chính quyền của công nhân và nông dân nghèo đã được bảo đảm” (T43,
Tr 252).
Một hình tức sở hữu hỗn hợp, vừa là của nhà nước vừa là của tư bản tư
nhân, hình thức kinh tế quá độ trong điều kiện nhà nước là của giai cấp công
nhân và nhân dân lao độngvà trong thời kỳ quá độ tiến đến chủ nghĩa xã hội,
chịu sự kiểm, kiểm soát, hướng dẫn của nhà nước, hình thức trung gian từ tư
bản tư nhân lên chủ nghĩa xã hội. Bao gồm các xí nghiệp được xây dựng trên
cơ sở các hình thức kinh tế quá độ như cơ sở, cho thuê, xí nghiệp hợp tác tư
bản, kinh tiêu, đặt hàng, gia công, đại lý, nhất là công tư hợp doanh (hình thức
cao của tư bản nhà nước). Tư bản nhà nước là một thành phần kinh tế cần
thiết xét về mặt phát triển lực lượng sản xuất và khả năng kiểm soát của nhà
nước.
2.1.2. Lợi ích của sự tồn tại chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xôviết
Theo Lênin, chủ nghĩa tư bản nhà nước là chiếc cầu trung gian để đưa
một nước có nền kinh tế kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội một cách chắc
chắn nhất. Ông viết: “Chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ là một bước tiến so với
tình hình hiện nay trong nước Cộng hòa Xô-viết của chúng ta. Nếu chẳng hạn
trong khoảng nửa năm nữa, mà ở nước ta đã thiết lập được chủ nghĩa tư bản
nhà nước thì đó sẽ là thắng lợi to lớn và là điều bảo đảm chắc chắn nhất
rằng qua một năm sau, chủ nghĩa xã hội nước ta sẽ được củng cố hoàn toàn
và trở nên vô địch”(T43 - Tr247). Lợi ích của sự tồn tại chủ nghĩa tư bản nhà
nước được Lênin khẳng định trên mấy vấn đề sau đây:
Một là: giai cấp công nhân có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước
như là một công cụ để chống lại tính tự phát của giai cấp tiểu tư sản và nạn
Trang:13
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
đầu cơ buôn lậu của kinh tế sản xuất nhỏ và kinh tế tư bản tư nhân. “ vì việc
để tình trạng vô chính phủ của những kẻ tiểu tư hữu tiếp tục tồn tại là một
mối nguy lớn nhất, đáng sợ nhất, nó sẽ làm cho chúng ta bị diệt vong (nếu
chúng ta không chiến thắng nó) một cách dứt khoát, còn trả một khoản lớn
hơn cho chủ nghĩa tư bản nhà nước thì điều ấy không những không làm cho
chúng ta bị diệt vong, trái lại, nó sẽ đưa chúng ta đến chủ nghĩa xã hội bằng
con đường chắc chắn nhất"(T43, Tr252). Để chấn chỉnh được trật tự và tổ
chức một khi đập tan đi hành động của bọn tiểu tư hữu phá hoại mọi sự độc
quyền của nhà nước coi như một thứ học phí đáng giá.
Hai là: thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước chúng ta có thể liên hiệp
nền sản xuất nhỏ lại dưới sự kiểm soát của nhà nước, để từ đó khắc phục sự
tách rời của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, đưa sản xuất nhỏ của nhân
dân lên sản xuất tập thể lớn. “Chừng nào mà giai cấp công nhân học biết
cách giữ gìn trật tự nhà nước chống tình trạng vô chính phủ của tiểu tư hữu,
chừng nào mà giai cấp công nhân học được cách sắp đặt tổ chức sản xuất
với quy mô lớn toàn quốc, trên cơ sở chủ nghĩa tư bản - nhà nước, thì khi ấy
¯ xin thứ lỗi cho cách diễn đạt của tôi ¯ tất cả những con chủ bài đều nằm
trong tay công nhân và sẽ bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội được củng cố”
(T43, Tr252).
Ba là: thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, nhà nước vô sản Nga có
thể tăng cường quan hệ giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động qua
việc phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động và do đó tăng cường
trao đổi sản phẩm giữa công nhân và nông dân. “áp dụng một cách có chừng
mực và thận trọng, chính sách tô nhượng nhất định sẽ giúp chúng ta cải thiện
được nhanh chóng (đến một mức độ nào đó không cao lắm) tình trạng sản
xuất, đời sống của công nhân và nông dân; dĩ nhiên là phải có một vài hy
sinh, là thả cho tư bản hàng chục triệu pút sản phẩm vô cùng quý báu”. (T43,
Tr270).
Trang:14
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
Bốn là: thông qua sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước mà chống được
chủ nghĩa quan liêu. “ ở nước ta, nguồn gốc kinh tế của chủ nghĩa quan liêu
lại thuộc loại khác, ấy là tình trạng riêng rễ, tình trạng phân tán của sản
xuất nhỏ,, cảnh khốn cùng của họ, tình trạng dốt nát của họ, tình trạng
không có đường sá, nạn mù chữ, tình trạng không có sự trao đổi giữa công
nghiệp và công nghiệp…”(T43, Tr277).
Năm là: thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, giai cấp công nhân có
thể học được cách quản lý và tổ chức nền sản xuất lớn đại công nghiệp cơ
khí. “Người cộng sản không được sợ “học” các chuyên gia tư sản, kể cả
những thương gia, những nhà tư bản nhỏ tham gia hợp tác xã và các nhà tư
bản khác. Học tập những người đó dưới một hình thức khác, nhưng căn bản
cũng vẫn theo cách các đồng chí ta đã học tập các chuyên gia quân sự. Chỉ
cần dùng kinh nghiệm thực tiễn để kiểm tra kết quả của việc “học tập” ấy,
hãy làm tốt hơn các chuyên gia tư sản làm việc bên cạnh mình; hãy biết
dùng cách này hay cách khác mà đẩy mạnh nông nghiệp, công nghiệp lên,
mà phát triển sự trao đổi giữa nông nghiệp và công nghiệp. Chớ nên suy
tính về “học phí”, chớ có sợ phải trả đắt, miễn là thu được kết quả tốt ”(T43,
Tr295).
Sáu là: thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước giai cấp công nhân có
thể sử dụng những nhà tư sản phục vụ cho chủ nghĩa xã hội bằng những biện
pháp thoả hiệp hoặc chuộc lại đối với những nhà tư sản văn minh (tức là
những nhà tư sản có khả năng thoả hiệp theo chủ nghĩa tư bản nhà nước, tỏ
ra có ich dối với giai cập vô sản vì họ là những người có khả năng tổ chức
và có kinh nghiệm trong các xí nghiệp hết sức to lớn) trả cho bọn tư sản
một mức giá cao. “Không có kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng
trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, không có một tổ chức
nhà nước có kế hoạch khiến cho hàng chục triệu người phải tuân theo hết
sức nghiêm ngặt một tiêu chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất và phân
phối sản phẩm, thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được….Đồng thời nếu
Trang:15
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
không có sự thống trị của giai cấp vô sản trong nhà nước thì cũng không thể
nói đến chủ nghĩa xã hội được: đó cũng là một điều sơ đẳng.”(T43, Tr253).
Tóm lại Lênin đã khẳng định vai trò to lớn và tầm quan trọng đặc biệt
của chủ nghãi tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước Nga Xô viết lúc bấy giờ. “... Bởi vì chủ nghĩa xã hội không phải là cái
gì khác hơn là một bước tiến liền ngay sau chế độ độc quyền tư bản - nhà
nước.... Chủ nghĩa tư bản độc quyền - nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy
đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc
thang lịch sử mà giữa nó (nấc thang đó) với nấc thang được gọi là chủ nghĩa
xã hội thì không có một nấc nào ở giữa cả” (T34,Tr. 27- 28). “Đứng trên ý
nghĩa vật chất, kinh tế, sản xuất mà xét thì chúng ta còn chưa tiến đến
“phòng chờ” của chủ nghĩa xã hội, và nếu không đi qua “phòng chờ”
mà chúng ta chưa đạt tới ấy thì ta không thể vào của chủ nghĩa xã hội
được, chẳng lẽ điều đó không rõ ư”(T43, Tr 256-257).
2.2. Các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước
2.2.1. Hình thức tô nhượng
Trước khi đi vào tìm hiểu hình thức tô nhượng chúng ta cần hiểu: Tô
nhượng là gì? Để trả lời câu hỏi này, Lênin đưa ra rất nhiều quan niệm. Sau
đây là một số quan niệm tiêu biểu:
Theo Lênin: Tô nhượng là sự hợp đồng giữa người Xô Viết và nhà
nước tư bản. Lênin viết: “Tô nhượng là gì? Đó là một giao kèo, một sự liên
kết, một sự liên minh giữa chính quyền nhà nước Xô Viết, nghĩa là nhà nước
vô sản, với CNTB nhà nước, chống lại thế lực tự phát triển tư hữu (có tính
chất gia trưởng và tiểu tư sản“(T43, tr 269).
Trong một bài diễn văn, Người lại viết: Về các tô nhượng và về sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản, tô nhượng là gì? Là hợp đồng giữa nhà nước và
một nhà tư bản, người này cam kết tổ chức hoặc hoàn thiện sản xuất (chẳng
hạn như đẵn và chở gỗ, khai thác than, dầu lửa, khoáng sản, .v.v...), trả cho
Trang:16
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
nhà nước một phần sản phẩm sản xuất ra, và nhận một phần khác dưới danh
nghĩa là lãi.
Như vậy, Tô nhượng là hình thức giản đơn nhất, lành mạnh nhất, rõ
ràng nhất: “So với những hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản nhà nước
trong lòng chế độ Xô Viết thì chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức tô
nhượng có lẽ là hình thức đơn giản nhất, lành mạnh nhất, sáng tỏ nhất, có
hình thù rõ rệt nhất”. (T43, Tr 270).
Song, Tô nhượng được tiến hành như thế nào? Theo Lênin để tiến hành
tô nhượng phải có một số nguyên tắc.
Một là: Phải đảm bảo đời sống cải thiện đời sống cho công nhân:
Theo Lênin: Các xí nghiệp tô nhượng phải trả lương cho công nhân của
mình trên mức bằng công nhân ở nước Nga: Người nhận tô nhượng có trách
nhiệm cải thiện đời sống công nhân trong xí nghiệp tô nhượng (so với những
công nhân khác của xí nghiệp cùng loại ở địa phương) sao cho đạt tới mức
sống trung bình của nước ngoài.
Bên cạnh việc trả mức lương ổn định như trên thì các xí nghiệp tô
nhượng phải luôn có sự thay đổi trong việc trả lương sao cho mức lương mà
người công nhân được trả phải phù hợp với năng suất lao động của người
công nhân, phải phù hợp với các tư liệu tiêu dùng phục vụ đời sống của họ.
Tức là khi giá cả hàng hoá trên thị trường mà tăng thì phải tăng lương. Đồng
thời, có tính đến năng suất lao động thấp của công nhân Nga, do đó có thể xét
lại mức năng suất lao động của người công nhân Nga tuỳ theo tình hình cải
thiện sinh hoạt của họ.
Mặt khác, theo Lênin: xí nghiệp tô nhượng nếu có bán các hàng cần
thiết phục vụ sinh hoạt của công nhân thì chỉ được bán với mức giá hợp lý
không được vượt hơn quá nhiều so với giá trị của nó. Lênin viết: Người nhận
tô nhượng phải nhập từ nước ngoài vào cho công nhân các xí nghiệp tô
Trang:17
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
nhượng những hàng cần thiết cho đời sống của họ, giá bán hàng này không
cao hơn giá thì công thêm một tỷ lệ phần trăm nhất định về tạp phí.
Hai là: Khi trả lương cho công nhân phải trên cơ sở năng suất lao động
của Nga lúc đó: Vấn đề trả lương cho công nhân ở các xí nghiệp tô nhượng
phải trả bằng ngoại tệ, bằng phiếu đặc biệt hay bằng tiền Xô Viết... sẽ quy
định theo sự thoả thuận riêng cho từng hợp đồng. Không những thế ở vấn đề
này Lênin còn đưa ra quan điểm cần phải có những mức lương khác nhau
giữa các lao động có trình độ chuyên môn khác nhau. Và cụ thể mức lương đó
như thế nào là do sự thoả thuận giữa người chủ xí nghiệp tô nhượng với người
công nhân trong xí nghiệp đó. Điều kiện về thuê mướn, về sinh hoạt vật chất,
về trả lương cho các công nhân lành nghề và nhân viên người nước ngoài
được quy định theo sự thoả thuận tự do giữa người nhận tô nhượng với những
loại công nhân viên nói trên. Bởi vì, như chúng ta đã biết, con người là trung
tâm của mọi thành công của công việc, công việc thành công phần lớn là do
người tiến hành công việc đó. Ngay từ khi nước Nga vừa giành được chính
quyền Lênin đã rất quan tâm đến việc sử dụng người lao động, sử dụng công
nhân trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước
có nền tiểu nông sản xuất lên chủ nghĩa xã hội. Lênin cho rằng cần phải đào
tạo đọi ngũ cán bộ đảng viên và không ngừng nâng cao trình độ cho họ về tất
cả các mặt. Đồng thời cần phải sử dụng chuyên gia tư sản. Theo Lênin:
“Dùng đến chuyên gia tư sản để cày bừa đất đai sao cho không bao giờ còn
có một giai cấp nào có thể mọc lên được trên đất đai ấy cả”. (Tác phẩm
“Những nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền Xô Viết, Nxb Sự thật, Hà Nội
1963, Sđd, tr 217).
Và theo Lênin sau khi đã lôi kéo được chuyên gia tư sản và sử dụng họ
thì cần phải có cách quản lý, sử dụng họ, đồng thời cần phải trả cho họ một
mức lương thích hợp cao hơn so với những công nhân trung bình. Tinh thần
ấy Lênin thể hiện: “Giờ đây, chúng ta buộc phải dùng đến phương pháp cũ,
Trang:18
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
phương pháp tư sản và bằng lương trả một giá rất cao những “công tác phục
vụ” của những chuyên gia tư sản xuất sắc nhất”. (Tác phẩm “Những nhiệm
vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết”, Nxb Sự thật, Hà Nội 1963, Sđd, tr
218).
Tất cả những quan điểm trên được Lênin thực hiện trong quá trình phát
triển kinh tế Liên Xô khi vừa giành được chính quyền từ tay chính phủ Nga
hoàng.
Ba là: Khi thực hiện tô nhượng phải tôn trọng, tuân thủ theo pháp luật
về đạo luật, về điều kiện lao động khi tuyển dụng, kỳ hạn trả lương; phải đảm
bảo môi trường, môi sinh khi khai thác tài nguyên; không có hành động chống
phá nhà nước. Lênin viết: Người nhận tô nhượng phải tôn trọng pháp luật của
nước cộng hoà liên bang chủ nghĩa Xô Viết Nga, chẳng hạn các đạo luật về
điều kiện lao động, về kỳ hạn phát lương, phải ký hợp đồng với các công
đoàn (nếu người nhận tô nhượng yêu cầu thì chúng ta đồng ý sẽ ghi thêm là
trong hợp đồng đó, định mức của một công nhân trung bình ở Mỹ hoặc Tây
Âu, là nước bắt buộc với cả 2 bên.
Người nhận tô nhượng phải nghiêm chỉnh tuân theo những quy tắc khoa học
và kỹ thuật phù hợp với pháp luật của nước Nga và của nước ngoài (mỗi hợp
đồng sẽ quy định cụ thể. Theo sự thoả thuận với các cơ quan chính phủ của
nước Cộng hoà Liên bang Xô - Viết Nga, có thể cho người nhận tô nhượng
quyền mời những chuyên gia có trình độ cao trong số công nhân Nga; các
điều kiện tuyển dụng, trong từng trường hợp, phải được sự đồng ý của các cơ
quan chính quyền trung ương.
2.2.2. Hình thức hợp tác xã
Lênin quan tâm nhiều đến vấn đề hợp tác xã và đặc biệt trong chính
sách kinh tế mới-NEP, theo Lênin việc thực hiện chính sách hợp tác xã có ý
nghĩa đặc biệt: Tôi thấy hình như chúng ta không chú ý đầy đủ đến chế độ
hợp tác xã, chưa chắc mọi người người đều hiểu được rằng sau cách mạng
Trang:19
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
tháng Mười và không vì NEP (trái lại về mặt này, phải nói: “Chính vì có
NEP), chế độ hợp tác xã ở nước ta có ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt.
Vậy, hợp tác xã là gì? Theo Lênin: hợp tác xã cùng là một hình thức
của chủ nghĩa tư bản nhà nước nhưng lại ít đơn giản hơn, có hình thù ít rõ rệt,
phức tạp hơn. Lênin nêu: “Các hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ
nghĩa tư bản nhà nước nhưng lại ít đơn giản hơn, có hình thù ít rõ rệt hơn,
phức tạp hơn và vì thế (trong thực tế), nó đặt chính quyền Xô Viết trước
những khó khăn lớn hơn”. ( T43, Tr 271).
Hợp tác xã cũng giống như nhà nước ở chỗ tạo điều kiện cho sự kiểm
kê, kiểm soát: “Chủ nghĩa tư bản hợp tác xã giống chủ nghĩa tư bản nhà
nước ở chỗ nó tạo điều kiện thuận lợi cho sự kiểm kê, kiểm soát, theo dõi, cho
những quan hệ đã ghi trong hợp đồng giữa nhà nước (ở đây là nhà nước Xô
Viết) với nhà tư bản”. (T43, Tr 272).
Theo Lênin hợp tác xã có 2 loại: Hợp tác xã tiêu dùng và hợp tác xã sản xuất.
Thứ nhất: Hợp tác xã sản xuất. Theo Lênin thì hợp tác xã sản xuất là
kiểu tổ chức sản xuất của những người tiểu nông, thợ thủ công liên kết, liên
doanh với nhau để sản xuất. Lênin viết: Các hợp tác xã sản xuất giúp cho tiểu
công nghiệp phát triển; ngành này sẽ tăng số lượng sản phẩm cần thiết cho
nông dân, phần lớn các sản phẩm này không đòi hỏi phải chuyên chở đi xa
bằng đường sắt, hay phải có các nhà máy to lớn.
Thứ hai: Hợp tác xã tiêu dùng là kiểu tổ chức của những người công
nhân, nông dân nhằm cung cấp và phân phốii những sản phẩm cần thiét cho
họ. Lênin viết: Hợp tác xã tiêu dùng là sự tập hợp công nhân và nông dân
nhằm mục đích cung cấp và phân phối những sản phẩm cần thiết cho họ.
Đồng thời Các hợp tác xã này bảo đảm việc phân phối sản phẩm một cách
nhanh chóng, đúng đắn và rẻ tiền.
Lênin đã so sánh hình thức tô nhượng và hợp tác xã là những hình
thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Trang:20
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
Thứ nhât: Tiêu chí của Tô Nhượng: Tô nhượng dựa trên cơ sở nền sản
xuất phát triển cao, đại công nghiệp cơ khí: “Tô Nhượng dựa trên cơ sở đại
công nghiệp cơ khí”( T43, tr 272).
Mối quan hệ: hình thức tô nhượng: Ở đây là quan hệ giữa nhà nước vô
sản với nhà nước tư bản “Trong mỗi hoạt động tô nhượng, tô nhượng chỉ
quan hệ đến độc một nhà tư bản hay độc một hãng, một xanh-đi-ca, các tên,
tơ-rớt thôi” (T43, tr 272).
Ở hình thức Tô nhượng thì hợp đồng có thời gian chính xác: “ Tô
nhượng thì cho phép và thậm chí nhất thiết phải có một hợp đồng chính xác
và một thời hạn chính xác”(T 43, tr 273).
Thứ hai: Tiêu chí của hợp tác xã:
“Hợp tác xã dựa trên cơ sở nền tiểu sản xuất thủ công mà một bộ phận
thậm chí còn óc tính chất gia trưởng, chế độ hợp tác xã dực trên cơ sở tiểu
công nghiệp, trên nền sản xuất thủ công” ( T43, tr 273).
Mối quan hệ: Trong chế độ hợp tác xã có quan hệ với hàng ngàn, hàng
triệu tổ chức, hợp tác xã: “Hợp tác xã bao gồm hàng ngàn, thậm chí hàng
triệu tiểu nghiệp chủ” (T43, Tr272).
Ở hợp tác xã không có hợp đồng ,không có thời gian: “Hợp tác xã thì
không có hợp đồng và không cũng không có thời hạn thật là chính xác”
( T43, tr 273).
Lênin cho rằng việc thủ tiêu một đạo luật về hợp tác xã thì đơn giản
hơn so với việc bãi bỏ hợp đồng tô nhượng; còn việc giám sát một kẻ tô
nhượng lại dễ hơn giám sát các xã viên hợp tác xã.
“Thủ tiêu một đạo luật về hợp tác xã dễ hơn rất nhiều so với việc bãi
bỏ một hợp đồng tô nhượng nhưng bãi bỏ hợp đồng tô nhượng có nghĩa là
lập tức và đơn giản cắt đứt ngay những quan hệ thực tế của sự liên kết kinh tế
hay sự “chung sống” về mặt kinh tế với nhà tư bản; trái lại không có sự thủ
Trang:21
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
tiêu một đạo luật nào về hợp tác xã và không một đạo luật nào nói chung có
thể cắt đứt ngay được chẳng những sự chung sống thực tế của chính quyền
Xô Viết với các nhà tư bản nhỏ, mà nói chung, còn không thể cắt đứt được
các mối quan hệ kinh tế hiện có”(T43, tr 273)
“Giám sát một kẻ tô nhượng là việc dễ nhưng giám sát các xã viên hợp
tác xã là một việc khó”.( T43, tr 273).
Bên cạnh đó, Lênin còn nói về việc chuyển từ tô nhượng lên chủ nghĩa
xã hội là chuyển từ một hình thức đại sản xuất này sang hình thức đại sản xuất
khác, còn chuyển từ hợp tác xã lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ nền sản xuất
nhỏ lên nền sản xuất lớn hơn.
“Chuyển từ chế độ tô nhượng lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ một
hình thức đại sản xuất này sang một hình thức đại sản xuất khác. Chuyển từ
chế độ hợp tác xã của những nhà sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội là chuyển
từ tiểu sản xuất sang đại sản xuất, nghĩa là một bước quá độ phức tạp hơn
nhưng nếu thành công, lại có thể bao gồm được những khối quần chúng nhân
dân đông đảo hơn, nhổ được những gốc rễ sâu xa hơn, dai dẳng hơn của
những quan hệ cũ tiền xã hội chủ nghĩa, thậm chí tiền tư bản, là những quan
hệ phản kháng mọi sự “đổi mới” một cách kịch liệt hơn”(T43, tr 273).
Về vai trò: Chính sách tô nhượng và chính sách hợp tác xã sau khi
thắng lợi đều đem lại những thuận lợi cho nền kinh tế nhỏ quá độ của nước
Nga:“Chính sách tô nhượng, một khi thắng lợi, sẽ đưa lại cho chúng ta một
số ít xí nghiệp lớn kiểu mẫu - kiểu mẫu so với những xí nghiệp của chúng ta ngang trình độ của chủ nghĩa tư bản tiên tiến hiện đại, mấy chục năm nữa,
những xí nghiệp ấy sẽ hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của chúng ta”(T43, tr
273). “Chính sách hợp tác xã một khi thành công, sẽ giúp cho nền kinh tế nhỏ
phát triển và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nhỏ quá độ - trong một
thời hạn không nhất định - lên nền đại sản xuất trên cơ sở tự nguyện kết
hợp”( T43, tr 273).
Trang:22
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
2.2.3. Hình thức “đại lý uỷ thác”
Đây là hình thức sử dụng các nhà tư bản thương nghiệp với tư cách là
nhà buôn và trả cho họ một mức hoa hồng nhất định để bán sản phẩm của nhà
nước, mua sản phẩm của người sản xuất hàng hoá nhỏ. Lênin viết: “Bây giờ
chúng ta xét hình thức thứ ba của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Nhà nước lôi
cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà buôn, trả cho họ một số tiền hoa hồng
để họ bán sản phẩm của nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ”
(T43, tr 274).
2.2.4. Hình thức “cho thuê”
Nhà nước cho tư bản thương nghiệp thuê xí nghiệp, một vùng mỏ, một
khu rừng, một khu đất... để cho họ tổ chức sản xuất kinh doanh và hoạt động
giống như hợp đồng tô nhượng. Lênin viết: “Hình thức thứ tư, nhà nước cho
một nhà kinh doanh - một tư bản thuê một xí nghiệp hoặc một vùng mỏ, một
khu rừng, khu đất...; ở đây, hợp đồng cho thuê giống hợp dồng tô nhượng hơn
cả ”. (Sđd, T43, tr 274).
Ngoài các hình thức trên đây, Lênin còn nêu lên một số hình thức khác
nữa của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Trong báo cáo tại đại hội IV- Quốc tế
công sản, khi nói về công ty hợp danh trong lĩnh vực thương nghiệp theo thể
thức: tiền vốn một phần là của tư bản tư nhân, tư bản nước ngoài một phần là
của nhà nước Xôviết. Lênin viêt: “Còn về thương nghiệp, tôi cần nhấn mạnh
thêm rằng chúng tôi đang cố gắng lập ra những công ty hợp doanh, và chúng
tôi cũng đã bắt đầu thành lập rồi; đó là những công ty mà tiền vốn một phần
là của tư bản tư nhân, ngoài ra của tư bản nước ngoài, và một phần là của
chúng tôi. Như thế, một là, chúng tôi học tập làm công tác thương nghiệp ─
điều mà chúng tôi cần đến, ─ và hai là, chúng tôi vẫn có khả năng, khi thấy
cần thiết, thủ tiêu một công ty như vậy được, mà có thể nói là không sợ có gì
nguy hiểm cho chúng tôi cả. Ngược lại, chúng tôi học tập được nhà tư bản tư
nhân, chúng tôi cố gắng tìm hiểu xem phải làm thế nào cho có thể tiến lên, và
Trang:23
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
xem mình đã phạm những sai lầm gì. Tôi nghĩ có thể chỉ cần nói như thế cũng
là đủ” (T45, Tr336).
2.3. Vị trí, vai trò, tác dụng của của chủ nghĩa tư bản nhà nước
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế đặc trưng
nhất, nổi bật nhất trong thời kỳ quá độ ở nước Nga lúc bấy giờ, nó có vị trí,
vai tròvà các tác dụng như sau:
2.3.1. Vị trí
Theo Lênin, đây là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế của thời kỳ quá độ từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa
xã hội. Nó là “Sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất” cho chủ nghĩa xã hội là
“Phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội”, là nấc thang lịch sử mà giữa nấc thang
này với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội không có bất cứ một nấc thang
nào ở giữa chúng. Bởi vì theo Lênin thì “chủ nghĩa xã hội không phải là cái
gì khác hơn là chế độ độc quyền tư bản chủ nghĩa của nhà nước được áp
dụng để phục vụ toàn thể nhân dân và do đó không còn là chế độ độc quyền
tư bản chủ nghĩa nữa”( T34, tr 256).
Trên cơ sở nhận thức một cách sâu sắc và rõ ràng rằng, khi chúng ta
còn “chưa đạt tới trình độ của chủ nghĩa tư bản nhà nước, thì sẽ không thể
thực hiện được bước chuyển lên chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin về phương diện
kinh tế, chủ nghĩa tư bản nhà nước hiện đại ở trình độ cao hơn rất nhiều so
với nền kinh tế của các nước tiểu nông đang trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và do vậy, nếu không trải qua một cái gì chung cho chủ nghĩa tư
bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội thì chúng ta khó có thể thoát ra khỏi tình
trạng lạc hậu về kinh tế. Nếu ai không nhận thấy điều đó, theo Lênin, đó là
một sai lầm hết sức nghiêm trọng về phương diện lý luận”. (tinh thần này của
Lênin được thể hiện ở: T36, Tr369 - 370 ).
Trang:24
TiÓu luËn t¸c phÈm kinh ®iÓn thêi kú qu¸ ®é
Mặt khác, theo Lênin chủ nghĩa tư bản nhà nước như chiếc cầu chuyển
từ đất nước có nền kinh tế tiểu nông là chủ yếu quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Lênin viết: “Trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc
những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội không phải bằng cách trực tiếp dựa vào nhiệt tình do
cuộc cách mạng vĩ đại sinh ra bằng cách khuyến khích lợi ích cá nhân, bằng
sự quan tâm thiết thân của cá nhân, bằng cách áp dụng chế độ hạch toán
kinh tế”( T44, tr 189).
2.3.2. Vai trò, tác dụng
Khi đánh giá vai trò của chủ gnhĩa tư bản nhà nước Lênin cho rằng nó
là thành phần kinh tế quan trọng tạo nên tính mật thiết “kết cấu kinh tế - xã
hội quá độ”. Do nó có nhiều tác dụng:
Thứ nhất: chủ nghĩa tư bản nhà nước phát huy ưu thế của nền sản xuất
lớn, tạo điều kiện để tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại, tạo điều
kiện để xây dựng đội ngũ công nhân chuyên gia giỏi. Người cộng sản không
học các chuyên gia tư sản, kể cả những thương gia, những nhà tư bản nhỏ
tham gia hợp tác xã và các nhà tư bản khác, nhưng căn bản cũng vẫn theo
cách các đồng chí đã học tập các chuyên gia quân sự. Chỉ cần dùng kinh
nghiệm thực tiễn để kiểm tra kết quả của việc học tập “ấy”: hãy làm tốt hơn
các chuyên gia tư sản làm việc bên cạnh mình; hãy biết dùng cách này hay
cách khác mà đẩy mạnh nông nghiệp và công nghiệp. Chớ nên suy tính về
học phí, chớ có sợ phải trả đắt, miễn thu được kết quả tốt.
Thứ hai: thành phần kinh tế tư bản nhà nước sẽ khôi phục những ngành
nghề truyền thống, tạo nhiều ngành nghề mới, tập trung những ngành kinh tế
mũi nhọn, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho
người lao động, từng bước đưa sản xuất nhỏ nên sản xuất lớn. Lênin viết:
“Không có kỹ thuật hiện đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên những phát
minh mới nhất của khoa học hiện đại, không có một tổ chức nhà nước có kế
Trang:25