Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Vai trò của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.39 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Báo chí nước ta đã có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc trước đây cũng như trong sự nghiệp đổi mới và phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Chủ trương đổi
mới do Đảng khởi xướng cùng với những thành tựu vĩ đại của công nghệ
thông tin đã làm cho báo chí nước ta trong những năm gần đây phát triển
nhanh cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy, công tác quản lý nhà nước về
báo chí cần được tăng cường trong giai đoạn hiện nay.
Ngày 17-10-1997, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VIII đã có Chỉ thị 22/CT-TƯ về Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự
lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản. Cùng với những quan điểm chỉ
đạo quan trọng về hoạt động báo chí, quan điểm "phát triển đi đôi với quản
lý tốt" là một nguyên tắc cơ bản định hướng cho nội dung công tác quản lý
nhà nước về báo chí trong tình hình mới. Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá X
cũng đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí ngày
12-6-1999. Việc thông qua Luật này tạo nên sự hoàn chỉnh về hành lang
pháp lý cho hoạt động báo chí, đảm bảo sự bình đẳng, dân chủ trong thông
tin, bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân.
Đây cũng là điều kiện mới để báo chí Việt Nam phát triển, hội nhập với báo
chí khu vực và trên thế giới.

Luật Báo chí năm 1999 sửa đổi, bổ sung quy định các nội dung quản lý nhà
nước về báo chí:
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về
báo chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí;
- Tổ chức thông tin cho báo chí; quản lý thông tin của báo chí; Đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp
cho đội ngũ cán bộ báo chí;


- Tổ chức, quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực báo


chí;
- Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động báo chí, thẻ nhà báo;
- Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động báo chí Việt
Nam liên quan đến nước ngoài và hoạt động báo chí nước ngoài tại Việt
Nam;
- Kiểm tra báo chí lưu chuyển; quản lý kho lưu chiểu báo chí;
- Tổ chức, chỉ đạo công tác khen thưởng trong hoạt động báo chí;
- Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách,
quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí, việc chấp hành pháp luật về báo chí;
thi hành các biện pháp ngăn chặn hoạt động báo chí trái pháp luật; giải quyết
khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí.
Những nội dung này sẽ được trình bày cụ thể trong chương 2 về thực trạng
pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí.
1.2. Vai trò của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí
1.2.1. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí
Ở bất kỳ một quốc gia nào cũng đều phải có những quy định quản lý báo
chí. Báo chí muốn xuất bản phải xin phép chính phủ, trên thế giới có hai
cách quy định: Một là, người muốn ra báo phải làm đơn xin phép, khi có
giấy phép rồi mới được tổ chức xuất bản báo (ví dụ ở Thuỵ Điển). Hai là, chỉ
cần khai báo theo một công thức và trong một thời hạn nào đó, mà không
cần giấy phép (ví dụ ở Pháp). Nhưng dù theo quy định nào thì cũng phải có
những ràng buộc khá ngặt nghèo kèm theo. Những lý do để Nhà nước quản
lý hoạt động báo chí:
- Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Báo cáo chính trị
Đại hội IX của Đảng viết: "Nhà nước ta là công cụu chủ yếu để thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân". Điều đó có nghĩa là, mọi cơ quan,, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi


công dân trong xã hội đều phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Báo chí là

một hoạt động trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá, không nằm ngoài xã hội nên
cũng phải đi trong hành lang pháp luật đó. Báo chí cũng phải tuân theo pháp
luật. Bên cạnh việc khẳng định việc đảm bảo quyền tự do báo chí, tự do
ngôn luận, Điều 2 Luật báo chí quy định hạn chế, ngăn ngừa sự lạm dụng về
tự do đó: "Báo chí hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được nhà nước
bảo hộ; không một tổ chức cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà
báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, tự do ngôn
luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của nhà nước, tập thể và công dân."
- Hoạt động báo chí cần sự định hướng của nhà nước. Báo chí là công cụ đấu
tranh chính trị sắc bén, bởi vậy, mọi nhà nước, dù có chế độ chính trị nào
đều có định hướng cho báo chí, để báo chí hoạt động đúng khuôn khổ pháp
luật đề ra, thông tin tuyên truyền có lợi cho quyền lực, địa vị của nhà nước
đương thời. Nếu thuận, báo chí sẽ là cánh tay đắc lực giúp củng cố chính
phủ, còn ngược lại nó có thể lật đổ chính phủ, xoá bỏ chế độ đương nhiệm
mộ cách phũ phàng.
- Không thể coi hoạt động báo chí như hoạt động doanh nghiệp có thu chi lời
lãi. Chính vì phục vụ cho mục đích chính trị tuyên truyền đối nội, đối ngoại
nên nhà nước phải đầu tư, hỗ trợ kinh phí cho báo chí để báo chí thực hiện
mục đích đề ra. Nhà nước Anh, Pháp, Mỹ hàng năm phải đổ rất nhiều tiền
của cho các đài phát thanh đối ngoại BBC (Anh), FBI (Pháp) và VOA (Mỹ)
hàng năm để chúng hoạt động đúng quỹ đạo, phục vụ cho việc tuyên truyền
đường lối, chính sách của các nước đó. Ở nước ta, hàng năm Nhà nước cũng
phải đầu tư hàng trăm tỷ đồng từ ngân sách để hỗ trợ báo chí, đặc biệt là báo
phục vụ miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, báo chí của các ngành khoa
học, báo chí của thanh thiếu niên...
- Báo chí có vai trò rất quan trọng trong công tác tư tưởng và ảnh hưởng sâu
rộng đối với xã hội, đặc biệt trong những bước ngoặt của cách mạng. Nếu
chúng ta không định hướng đúng đắn, không làm tốt công tác quản lý báo
chí thì rất có thể đưa đến những lệch lạc, gây ra những tác hại khó lường.



Hiện nay, có một số tờ báo và tạp chí bị khuynh hướng thương mại hoá và
cơ chế thị trường chi phối, đăng tải những tin, bài thiếu lành mạnh, mang
tính giật gân, không chính xác gây tác động xấu trong xã hội, nhất là đối với
tuổi trẻ, thậm chí làm lội bí mật nhà nước. Một số người làm báo còn chịu
ảnh hưởng không đúng về tự do báo chí, về vị trí chức năng của người làm
báo, đã có những hành vi tiêu cực... làm ảnh hưởng xấu đến chức năng và
danh dự cao quý của người làm báo, của cơ quan báo chí.
Sau khi có Chỉ thị 22 của Bộ Chính trị, công tác quản lý nhà nước đối với
báo chí có những mặt tiến bộ, song vẫn nhiều yếu kém, thiếu hiệu lực, thiếu
hiệu quả, chưa kịp thời và có khi không kiên quyết. Đó là do các cơ quan có
chức năng quản lý công tác báo chí từ trung ương đến địa phương, trước hết
là Bộ Văn hoá - Thông tin, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí trong cả
nước chưa làm hết trách nhiệm của mình. Ngoài ra, các cơ quan chủ quản
báo chí còn dễ dãi, lỏng lẻo trong việc chỉ đạo báo chí thực hiện đúng tôn
chỉ, mục đích, chưa kiên quyết trong việc sắp xếp lại báo chí thuộc quyền
mình quản lý. Vì những lý do trên đòi hỏi phải có sự tăng cường quản lý nhà
nước đối với báo chí.
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, quản lý nhà nước có đối tượng rất phong
phú, đa dạng, được đảm bảo bằng quyền lực nhà nước - quyền lực pháp luật.
Pháp luật ở đây vừa là biểu hiện của ý chí của nhà nước, vừa là công cụ
quản lý có tác dụng, vai trò đặt nền tảng cho toàn bộ hoạt động quản lý của
nhà nước. Không có pháp luật, không có các cơ quan thực thi pháp luật và
bảo vệ pháp luật tạo nên sức mạnh quyền uy thì không thể thực hiện được
quản lý nhà nước. Vì thế, quản lý nhà nước, xét đến cùng, là quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với mọi mặt của đời sống xã hội, và được hiểu như
là sự tác động của chủ thể quản lý (nhà nước) lên đối tượng quản lý (các quá
trình xã hội, hành vi hoạt động của con người) nhằm đạt mục tiêu của quản
lý bằng hệ thống pháp luật do nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện trong
cuộc sống. Như vậy, pháp luật vừa là công cụ chủ yếu, hàng đầu để quản lý



nhà nước vừa là phương tiện để chuyển tải và pháp lý hoá nội dung của các
công cụ khác vào thực tiễn quản lý nhà nước [147, tr.11,12,13].
- Tư tưởng nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật là sự kế thừa tri
thức lịch sử nhân loại được thể hiện trong đường lối đúng đắn của Đảng.
Thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và thực
tiễn công cuộc đổi mới, phát triển đất nước ở nước ta hiện nay đang đặt ra
yêu cầu bức thiết đối với quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước về
văn hóa, về báo chí nói riêng, trong đó công cụ pháp luật - hay nói cách
khác: quản lý nhà nước bằng pháp luật - trở thành yếu tố quan trọng quyết
định sự thành bại của đường lối đó.
1.2.2. Pháp luật - phương tiện quan trọng đảm bảo công dân thực hiện
quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí
Quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí và quyền được thông tin
là những quyền cơ bản của công dân được quy định trong đạo luật cơ bản
của Nhà nước, được cụ thể hoá trong Luật Báo chí và các văn bản pháp luật
có liên quan. Điều 4, Luật Báo chí quy định công dân có quyền:
Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới; Tiếp xúc,
cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo, gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm
khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin; Phát biểu ý kiến về tình hình đất
nước và thế giới; Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu
nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan NN, tổ chức xã hội và
thành viên của các tổ chức đó.
Như vậy, quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí có nội dung xác
định, cụ thể, chứ không phải là một thứ quyền chung chung, trừu tượng. Thông qua
báo chí, công dân thực hiện quyền được nhận tin, quyền đưa tin, quyền được bày tỏ
quan điểm, thái độ của mình về những vấn đề đã và đang xảy ra trong đời sống xã

hội. Thực hiện quyền tham gia ý kiến với Đảng và Nhà nước. góp ý, phê bình, kiến


nghị khiếu nại, tố cáo trên báo chí là một trong những phương thức thực hiện
quyền dân chủ của công dân. Thực tiễn hoạt động báo chí cho thấy phương
thức này mang lại hiệu quả xã hội hết sức to lớn. Điều này xuất phát từ lợi
thế của báo chí và vai trò định hướng dư luận xã hội của báo chí. Ở phương
diện này, báo chí có vai trò to lớn trong việc làm lành mạnh xã hội, lên án
những thói hư tật xấu, những hành vi đi ngược đạo lý truyền thống, thuần
phong mỹ tục, phê phánnhững hành vi sai trái trong xã hội, góp phần xây
dựng con người xã hội chủ nghĩa.
Để đảm bảo thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí,
Luật Báo chí còn quy định trách nhiệm của báo chí phải đăng tải, phát sóng
tác phẩm, ý kiến của công dân; trường hợp không đăng tải, phát sóng thì
phải trả lời công dân và nêu rõ lý do; báo chí phải trả lời hoặc yêu cầu tổ
chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc trả lời trên báo chí về kiến
nghị, khiếu nại, tố cáo mà công dân gửi đến (Điều 5, Luật Báo chí).
Như vậy, pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí tạo môi
trường pháp lý thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do
ngôn luận trên báo chí. Chỉ trên cơ sở pháp luật, quyền tự do báo chí, tự do
ngôn luận trên báo chí của công dân mới được đảm bảo một cách đầy đủ.
1.2.2. Pháp luật - phương tiện hàng đầu để thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về báo chí nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động báo chí,
đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, chống xu hướng thương mại hóa
báo chí
Quản lý nhà nước bằng pháp luật là tiền đề quan trọng dẫn đến hiệu
quả chính trị, kinh tế, xã hội nói chung và trong báo chí nói riêng. Bằng hoạt
động của mình, báo chí đã góp phần đáng kể vào việc ổn định chính trị, phát
triển kinh tế, xã hội ổn định trật tự và chuyển biến theo chiều hướng tích
cực. Từ bài học xương máu ở Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu, Việt

Nam đã khai thác triệt để hoạt động báo chí, xuất bản nhằm phục vụ cho
mục tiêu xây dựng xã hội thịnh vượng, công bằng, dân chủ và văn minh.


Pháp luật trong quản lý nhà nước về báo chí là công cụ quan trọng nhằm bảo
tồn, phát triển nền văn hóa dân tộc, hiện đại, nhân văn; tiếp thu tinh hoa văn
hóa và tiến bộ về khoa học và công nghệ của nhân loại, bảo đảm cho quá
trình hội nhập thông tin báo chí toàn cầu. Báo chí là một trong các cơ sở của
thiết chế văn hóa có địa vị pháp lý do pháp luật quy định, được đầu tư nhằm
đáp ứng nhu cầu của quần chúng. Nhà nước và dư luận xã hội đã trao cho
báo chí uy quyền cao cả mang tính nhân văn sâu sắc. Mặt khác, nhu cầu giao
lưu, tiếp thu tinh hoa từ các nền văn hóa của nhân loại là nhu cầu của bản
thân nền văn hóa dân tộc, đặc biệt là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện
đại. Trong điều kiện đó, với tư cách là phương tiện điều chỉnh có hiệu lực,
pháp luật tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động văn hóa nói chung,
hoạt động báo chí nói riêng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở
ra cơ hội cho sự hoà nhập giữa các nền văn hóa, loại trừ khả năng hòa tan và
đổi mầu trong quá trình hòa nhập.
Pháp luật trong quản lý nhà nước về báo chí đã tạo lập hành lang và cơ hội
bình đẳng để báo chí hoạt động với tư cách một tiểu hệ thống xã hội như các
tiểu hệ thống xã hội khác trong hệ thống xã hội nói chung. Nhà nước ta luôn
tạo điều kiện để hoạt động báo chí đạt hiệu quả cao, đồng thời ngăn chặn các
hoạt động báo chí bất chấp hậu quả về chính trị, tư tưởng và văn hóa, chạy
theo xu hướng thương mại hóa. Lợi nhuận của hoạt động báo chí trong cơ
chế thị trường không thể tách rời mục tiêu chính trị, tư tưởng và văn hóa,
giữa chúng có quan hệ biện chứng, trong đó chính trị, văn hóa, tư tưởng là
mục tiêu hàng đầu.
Như trên đã nói, hoạt động báo chí là một loại hình hoạt động vừa chịu sự
tác động của hệ thống các quy luật phát triển văn hóa - tư tưởng, vừa chịu
tác động của hệ thống các quy luật kinh tế. Vì vậy, trong hoạt động báo chí

có sự đấu tranh về ý thức hệ biểu hiện cả trên phương diện văn hóa - tư
tưởng, cả trong các quan hệ kinh tế. Vì vậy, việc quy phạm hóa các quy luật
phát triển vừa phải thể hiện ở phương diện văn hóa tư tưởng, vừa phải thể
hiện ở phương diện kinh tế của hoạt động báo chí. Pháp luật phải mở đường


cho tự do sáng tạo, đồng thời ngăn chặn những độc hại đối với hoạt động
văn hóa - tư tưởng; Phải định hướng cho báo chí phát triển theo quy luật,
ngăn ngừa khả năng tác hại từ mặt trái của kinh tế thị trường, làm ảnh hưởng
đến định hướng tư tưởng - văn hóa. Nếu chỉ thấy lợi ích kinh tế sẽ dẫn đến
việc chạy theo lợi nhuận, thương mại hóa hoạt động báo chí, gây hậu quả đối
với xã hội. Ngược lại, nếu chỉ đề cao vai trò báo chí ở phương diện văn hóa tư tưởng thì sẽ dẫn đến khả năng phát triển báo chí với bất kỳ giá nào, bất
chấp quy luật...
Như vậy, việc đổi mới và hoàn thiện pháp luật về báo chí trong cơ chế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sử dụng pháp luật để điều chỉnh
hoạt động báo chí vừa là hoạt động điều chỉnh kinh tế trong văn hóa - tư
tưởng, đồng thời điều chỉnh hoạt động văn hóa - tư tưởng trong cơ chế thị
trường. Đó là hai mặt của một vấn đề phải được thể chế hóa phù hợp, bảo
đảm cho báo chí hoạt động đúng quy luật, phát triển theo trật tự của pháp
luật.
1.2.3. Pháp luật - Phương tiện tổ chức và hoạt động của của bộ máy quản
lý nhà nước đối với báo chí
Muốn phát huy hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí, điều cần thiết là phải
thiết lập một hệ thống tổ chức quản lý báo chí rõ ràng, đồng bộ và quy định
thật cụ thể cơ chế điều hành, điều phối của hệ thống tổ chức quản lý này từ
Trung ương đến địa phương. Muốn thực hiện điều này, rõ ràng là phải dựa
vào pháp luật, phải phát huy chức năng điều chỉnh của pháp luật trong việc
hướng dẫn các hoạt động của cơ quan báo chí, tổ chức, cá nhân tuân theo
quy định của pháp luật. Pháp luật là phương tiện đảm bảo cho tổ chức và
hoạt động quản lý nhà nước đối với báo chí tiến hành thống nhất nhưng có

sự phân công và phối hợp chặt chẽ, ngăn chặn sự lộng quyền, lạm quyền
đảm bảo cho quản lý nhà nước về báo chí có hiệu lực và hiệu quả.
Ở nước ta "Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về báo chí". Chính phủ
có những cơ quan chuyên môn giúp việc cho Chính phủ trong từng lĩnh vực
cụ thể đó là các bộ. Giúp việc cho Chính phủ về công tác quản lý báo chí là


Bộ Văn hoá - Thông tin. "Bộ Văn hoá - Thông tin chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về báo chí". Bộ Văn hoá - Thông tin,
cụ thể là Cục báo chí, cơ quan tham mưu của Bộ, trực tiếp thực hiện mọi
công việc quản lý nhà nước về báo chí.
Nhiệm vụ chính của Bộ Văn hoá - Thông tin là thực hiện các nội dung về
quản lý nhà nước về báo chí trong phạm vi cả nước. Ví dụ như việc sắp xếp,
quy hoạch báo chí, xây dựng chiến lược báo chí toàn quốc; xây dựng các
văn bản pháp luật về chế độ báo chí, quản lý, cấp và thu hồi giấy phép hoạt
động báo chí. Ngoài trụ sở chính ở Hà Nội, Bộ Văn hoá - Thông tin còn có
Ban thường trú đóng tại Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện quản lý nhà nước
về báo chí đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương từ Ninh Thuận,
Lâm Đồng trở vào.
Đối với những hoạt động báo chí liên quan đến các bộ và cơ quan ngang bộ
khác đòi hỏi có sự quản lý nhà nước thì các bộ liên quan có trách nhiệm thực
hiện quản lý nhà nước về báo chí theo quy định của Chính phủ. Chính phủ
đã có quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ để thống nhất quản lý nhà nước về báo chí. Ví dụ: Ban Tư
tưởng - Văn hoá Trung ương phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin tổ chức
thông tin thường kỳ cho báo chí; Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Văn hoá Thông tin trong việc quản lý các hoạt động thông tin báo chí đối ngoại; Bộ
Công an, Bộ Bưu chính Viễn thông có nhiệm vụ phối hợp với Bộ Văn hoá Thông tin trong việc quản lý thông tin trên mạng Internet; Ban Tổ chức
Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh xã hội phối hợp với Bộ Văn hoá Thông tin xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ ngạch công chức ngành báo chí,
chế độ tiền lương, nhuận bút đối với tác phẩm báo chí.
Ở địa phương, Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực

hiện quản lý nhà nước về báo chí. Sở Văn hoá Thông tin làcơ quan giúp Uỷ
ban Nhân dân thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn
của mình. Sở Văn hoá Thông tin có nhiệm vụ quy hoạch báo chí địa phương,


kiểm tra việc thực hiện pháp luật, chế độ báo chí địa phưong mình và báo
chí trung ương và địa phương khác hoạt động trên địa bàn lãnh thổ mình.
Ngoài việc tiến hành thường xuyên kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm về
hoạt động báo chí trong nước cũng như nước ngoài trên địa bàn lãnh thổ
mình, Sở Văn hoá Thông tin có nhiệm vụ thực hiện các quy định và hướng
dẫn khác của Bộ Văn hoá - Thông tin khi cần thiết.
Sự hình thành và phát triển của pháp luật về quản lý nhà nước trong
lĩnh vực báo chí qua các giai đoạn lịch sử
Pháp luật nói chung, pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí
nói riêng là kết quả của nhận thức và là hình thức ghi nhận nhu cầu khách
quan để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Khi nghiên cứu lịch sử hình thành và
phát triển của pháp luật, chúng ta không thể tách rời các quan hệ xã hội được
pháp luật điều chỉnh và càng không thể thoát ly các đặc điểm về chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội của từng thời kỳ lịch sử, trong đó các quy phạm
pháp luật về nội dung (quy phạm vật chất) và thủ tục hành chính (quy phạm
hình thức) được ban hành. Theo dòng chảy của lịch sử, pháp luật luôn thể
hiện hai mặt cơ bản: một mặt nó là sự thể hiện và kết tinh những giá trị phổ
biến, những kinh nghiệm của những giai đoạn, thời kỳ trước đó và tại giai
đoạn nó được ban hành. Mặt khác, nó thuộc phạm trù giai cấp và xã hội
được ban hành để bảo vệ lợi ích giai cấp, lực lượng đại diện xã hội, cho nên
nó phủ nhận những gì không phù hợp với đời sống xã hội. Do vậy, sự hình
thành và phát triển của pháp luật là một quá trình kế thừa và phủ nhận một
cách biện chứng, mà nó cần phải được nghiên cứu, xem xét trên cả hai mặt
để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện.


* Giai đoạn 1945-1954
Trong lĩnh vực báo chí, do nhận thức được vai trò to lớn của pháp luật trong
việc điều chỉnh hoạt động báo chí nên sau khi giành được chính quyền, Chủ


tịch Hồ Chí Minh đã ban bố Sắc lệnh số 41 ngày 19-3-1946 đặt cơ sở pháp
lý đầu tiên cho hoạt động báo chí nước ta.
Ngày 9-11-1946, Hiến pháp đầu tiên của nước ta ra đời đã ghi nhận quyền tự
do ngôn luận của công dân. Điều 10, Hiến pháp 1946 quy định: Công dân
Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội
họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.
Tuy nhiên, do kháng chiến chống xâm lược Pháp, Chính phủ không có
những quy định mới mà chỉ có một số thông tư giải thích hoặc nêu lên các
biện pháp thi hành.
Khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng năm 1954, Uỷ ban quân chính Hà
Nội thay mặt Chính phủ tuyên bố báo chí xuất bản không phải chịu sự kiểm
duyệt trước, song phải tuân theo kỷ luật tuyên truyền. Thực tế chế độ kiểm
duyệt đối với báo chí đã được bãi bỏ.
Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời cho đến lúc đó, những luật lệ
ban hành về báo chí còn mang tính đối phó với những hình thức đặc biệt
trước mắt, chưa được toàn diện, còn chưa đầy đủ về nội dung cũng như
phương diện pháp lý.
* Giai đoạn 1954-1959
Đến cuối năm 1956 ở nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có 29 tờ báo ra hàng
ngày và hàng tuần (trong đó báo của tư nhân là 9) và 22 tạp chí, đặc san.
Trước đòi hỏi mới của tình hình, Chủ tịch nước đã ký sắc lệnh số 282 ngày
14.12.1956 về chế độ báo chí. Sau khi được Quốc hội thông qua, sắc lệnh
này trở thành Luật số 100/SL-L.002 ngày 20.5.1957 quy định chế độ báo
chí. Đây là đạo luật đầu tiên riêng cho báo chí của Nhà nước dân chủ nhân
dân ở Việt Nam. Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số

297/Ttg ngày 9.7.1957 quy định chế độ và quyền lợi của những người làm
công tác nghiên cứu chuyên nghiệp, Nghị định số 298/Ttg ngày 9.7.1957
quy định chi tiết thi hành luật về chế độ báo chí.
Tinh thần của đạo luật và các nghị quyết này là:


* Đảm bảo quyền tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí
Quyền tự do ngôn luận báo chí dành cho mọi người dân, không phân biệt
thành phần xã hội, tôn giáo dân tộc, nam nữ. Tất cả báo chí không phải chịu
một sự kiểm duyệt nào trước khi in (trừ trường hợp khẩn cấp việc kiểm
duyệt tạm thời sẽ do Hội đồng Chính phủ quyết định). Báo chí được các cơ
quan nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng để hoạt động nghiệp vụ.
Để đảm bảo quyền tự do ngôn luận của nhân dân, nhân dân có quyền được
trả lời, đính chính các điều nói sai có liên quan đến mình.
* Để đảm bảo sử dụng đúng đắn quyền tự do ngôn luận, báo chí không được
tuyên truyền những điều:
- Chống pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước, chế độ.
- Phá hoại sự nghiệp củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc
lập và dân chủ.
- Chia rẽ dân tộc, làm tổn hại tình hình hữu nghị với nhân dân các nước,
tuyên truyền cho chủ nghĩa đế quốc, cho chiến tranh.
- Tiết lộ bí mật quốc gia.
- Dâm ô, truỵ lạc, đồi bại.
* Xác định những quy định cụ thể về điều kiện hoạt động của báo chí và thủ
tục cấp giấy phép, thể lệ lưu chiểu.
* Xác định những quy định về kỷ luật, tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà bị cảnh cáo,
tịch thu ấn phẩm, đình bản tạm thời, đình bản vĩnh viễn, phạt tiền hoặc bị
truy tố trước toà án.
Tiếp đó, Hiến pháp năm 1959 cũng quy định một cách cụ thể hơn về quyền
tự do ngôn luận của công dân. Điều 25 xác định rõ: "Công dân nước Việt

Nam Dân chủ cộng hoà có các quyền tự do ngôn luận, báo chí.... Nhà nước
bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các
quyền đó". Quy định này một mặt xác nhận về mặt pháp lý quyền tự do báo


chí, tự do ngôn luận của công dân, mặt khác còn xác định trách nhiệm của
Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện các quyền đó trên thực tế.
Ngoài việc tuân theo những quy định của Hiến pháp 1959 về quyền tự do
ngôn luận của dông dân, Luật về chế độ báo chí năm 1957, báo chí còn phải
chấp hành những đạo luật có liên quan đến hoạt động nghiệp vụ, đặc biệt
trong việc giữ gìn bí mật quốc gia. Chủ tịch nước đã ban hành hai sắc lệnh
số 154/SL ngày 17.11.1950 và số 69/SL ngày 10.12.1951 ấn định những
hình phạt trừng trị với việc tiết lộ bí mật và đặt chế độ giữ gìn bí mật quốc
gia. Các sắc lệnh này "đặt nhiệm vụ cho bộ đội, cơ quan, cán bộ, các đoàn
thể, các báo chí và nhân dân phải giữ bí mật quốc gia" và xác định "bí mật
quốc gia là những việc, những tài liệu, những địa điểm và những điều gì mà
để tiết lộ ra thì có hại cho ta, có lợi cho địch". Thủ tướng Chính phủ đã ra
Nghị định số 136/Ttg ngày 10.12.1951 ấn định phạm vi bí mật quốc gia.
Thủ tướng cũng ra Thông tư số 137/Ttg ngày 10.12.1951 giải thích và định
thể thức thi hành và đặt chế độ giữ gìn bí mật quốc gia gồm "từ quân sự đến
kinh tế - tài chính, từ các kế hoạch lớn của quốc gia đến tài liệu, con số, biểu
đồ, hành trình, địa điểm"; "giữ gìn bí mật là một bộ phận quan trọng của việc
bảo vệ chính quyền, bảo vệ cách mạng, bảo vệ kháng chiến".
Những sắc lệnh này được ban hành trong tình hình lực lượng ta và địch đan
xen nhau ở thế cài răng lược. Năm 1957, tình hình đã có những đổi khác nên
trong luật báo chí ghi rõ thêm về điểm này cho thích hợp hơn: "Không được
tiết lộ bí mật quốc gia như: những bí mật quốc phòng, những hội nghị cơ
mật chưa có công bố chính thức của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm, những
vụ án đang điều tra chưa xét xử, những bản án mà toà án không cho phép
công bố, những tài liệu, số liệu và những cơ sở kiến thức về kinh tế tài chính

mà Uỷ ban kế hoạch Nhà nước hoặc các cơ quan có thẩm quyền chưa công
bố".
Năm 1962, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành những văn bản mới về công
tác này, Nghị định số 69/CP ngày 14.6.1962 quy định những vấn đề thuộc
phạm vi bí mật nhà nước và trách nhiệm trong việc giữ gìn bí mật nhà nước.


Thông tư số 67/Ttg ngày 20.6.1962 quy định biện pháp, tổ chức giữ gìn bí
mật nhà nước, những quy định này nhằm khắc phục tình hình "việc giữ gìn
bí mật của nhà nước còn có nhiều sơ hở, thiếu sót" và "có quan hệ trực tiếp
đến an ninh của Tổ quốc, đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, đến tính mạng và tài sản của nhân dân". Ở đây quy định rõ trách nhiệm
lập danh mục những vấn đề thuộc các ngành, các cấp trong phạm vi trách
nhiệm công tác của mình, cần quy định cụ thể và ghi thành danh mục những
vấn đề thuộc phạm vi bí mật nghiệp vụ. Danh mục những vấn đề thuộc
phạm vi bí mật của nhà nước do Hội đồng Chính phủ phê duyệt, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ phê
duyệt. Những danh mục này phải được thông tin cho tất cả cán bộ phụ trách
có trách nhiệm và cán bộ có liên quan để biết và giữ gìn bí mật".
Trong tình hình Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 147 ngày 2.8.1966 về việc giữ gìn
bí mật trong công tác thông tin tuyên truyền trên báo chí, đài phát thanh, đài
truyền hình. Thông tư đánh giá: "Việc giữ gìn bí mật nhà nước trong thời
bình đã rất quan trọng, trong thời chiến lại càng quan trọng. Tuy nhiên, lác
đác ở trên báo chí (kể cả nội san, tập san), đài phát thanh, truyền thanh vẫn
còn để lộ tin tức, tài liệu bí mật. Sở dĩ có tình hình ấy là do ý thức cảnh giác
của những người có trách nhiệm chưa đầy đủ, mặt khác do tổ chức để đảm
bảo bí mật chưa chặt chẽ.
Chúng ta biết rằng kẻ địch luôn luôn tìm mọi cách để khai thác những sơ hở
của ta trên báo chí, đài phát thanh. Chúng coi đó là một nguồn thu thập tin

tức quan trọng".
Thông tư phân rõ trách nhiệm của các cơ quan có liên quan đến vấn đề này:
Các cơ quan cung cấp tin tức, tài liệu cần "xúc tiến việc quy định danh mục
những vấn đề thuộc phạm vi bí mật trong ngành mình... và thông báo cho
các cán bộ có trách nhiệm trong ngành, cho các cơ quan quản lý công tác
thông tin tuyên truyền (Tổng cục thông tin, Việt Nam thông tấn xã, Đài
Tiếng nói Việt Nam, Sở báo chí trung ương, cá Uỷ ban hành chính khu, tỉnh,


thành phố trực thuộc trung ương). Thủ trưởng cá cơ quan này cần chỉ định
cán bộ có trọng trách phụ trách việc liên hệ với các cơ quan thông tin tuyên
truyền để cung cấp tin tức, tài liệu để theo dõi việc đăng báo, phát thanh,
truyền thanh những tin tức, tài liệu ấy hoặc để trả lời những cơ quan có khi
được hỏi về việc đăng báo, phát thanh những tin tức, tài liệu có liên quan
đến ngành, đơn vị hoặc địa phương mình". Trong các cuộc họp có phóng
viên báo chí tham dự thì "người chủ trì cuộc họp phải nói rõ vấn đề gì, tài
liệu gì được công bố, vấn đề gì, tài liệu nào thì không được công bố".
Đối với các cơ quan thông tin, tuyên truyền thì thủ trưởng của các cơ quan
này phải" chịu trách nhiệm về việc giữ gìn bí mật nhà nước trên báo chí, đài
phát thanh, đài truyền thanh thuộc cơ quan mình, cần phổ biến cho các cán
bộ biên tập, phóng viên được biết danh mục những vấn đề thuộc phạm vi bí
mật nhà nước để họ giữ gìn bí mật trong công tác. Mỗi cơ quan thông tin,
tuyên truyền cần giao cho cán bộ có trình độ phụ trách duyệt lại các tin tức,
tài liệu trước khi in báo hoặc phát thanh, truyền thành nhằm bảo đảm, giữ
gìn bí mật nhà nước. Những cán bộ này khi gặp những vấn đề không rõ có
thuộc phạm vi bí mật hay không phải hỏi cơ quan có liên quan".
* Giai đoạn 1959- 1990
Hiến pháp năm 1980 ra đời đánh dấu một bước phát triển cao hơn và hoàn
thiện hơn về hoạt động báo chí, thông tin ở nước ta. Điều 45 quy định:
"Công tác thông tin, báo chí, xuất bản, thư viện, phát thanh, truyền hình,

điện ảnh được phát triển và không ngừng nâng cao về trình độ chính trị, tư
tưởng và nghệ thuật nhằm hướng dẫn dư luận xã hội, giáo dục chính trị văn
hoá, khoa học, kỹ thuật và động viên toàn dân ra sức thi đua xã hội chủ
nghĩa".
Quy định này có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra sự thống nhất trong
nhận thức và hành động của toàn xã hội về chức năng, nhiệm vụ của báo chí,
đồng thời là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động thông tin báo chí ở
nước ta. Điều 67 của Hiến pháp 1980 còn quy định quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí của công dân và xác định giới hạn thực hiện quyền tự do báo


chí, tự do ngôn luận của công dân, cụ thể là việc thực hiện các quyền đó phải
"phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân".
Để đảm bảo quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí trong điều
kiện kinh tế thị trường, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân
dân, ngày 28-12-1989 Quốc hội thông qua Luật báo chí để thay thế Luật số
100/SL -SL002 năm 1957 về chế độ báo chí. Sự ra đời của Luật Báo chí
đánh dấu bước phát triển quan trọng trong hoạt động xây dựng pháp luật về
báo chí ở nước ta, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với
hoạt động báo chí.
Ngày 2.1.1990 Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã ký lệnh công bố Luật Báo
chí của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thay thế Luật Báo chí từ
năm 1957. Luật Báo chí năm 1990 phản ánh những thay đổi trong tình hình
và nhiệm vụ của đất nước. Từ hoàn cảnh đất nước còn chia làm hai miền với
nhiệm vụ xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải
phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, nước ta đã bước vào giai đoạn mới:
cả nước cùng xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện đường lối đổi mới toàn
diện do Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đề ra.
* Giai đoạn 1990 đến nay
Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở kết thừa các bản hiến pháp trước đã quy định

một cách đầy đủ hơn về hoạt động báo chí và quyền tự do báo chí của công
dân.
Điều 69: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được
thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật
Điều 33 quy định: Nhà nước phát triển công tác thông tin, báo chí, phát
thanh, truyền hình.... và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Nghiêm
cấm những hoạt động văn hoá thông tin làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, phá
hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam.
Để cụ thể hoá Hiến pháp 1992 và đáp ứng yêu cầu của sự phát triển báo chí
trong thời kỳ mới, ngày 12/6/1999, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật sửa


đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí. Luật sửa đổi đã có những điều
mới, một số điều khoản đã được quy định cụ thể, chi tiết hơn.
Ngoài việc đưa thêm báo điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy
tính) vào các loại hình báo chí (Điều 3), hoàn chỉnh Điều 6 về nhiệm vụ và
quyền hạn của báo chí, lần sửa đổi này tập trung vào mấy điều sau:
- Cải chính và trả lời trên báo chí (Điều 9). Tinh thần cơ bản vẫn giữ nguyên
nư Điều 9 của Luật năm 1989 nhưng cụ thể hơn, chi tiết hơn và do đó có khả
thi hơn. Điều này định rõ báo chí thông tin sai thì phải cải chính, xin lỗi hoặc
đăng, phát kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thể thức tương
xứng. Tổ chức, cá nhân khi có căn cứ cho rằng báo chí thông tin sai sự thật,
xúc phạm đến mình thì có quyền phát biểu trả lời và báo chí phải đăng phát
biểu ấy. Lời phát biểu của tổ chức, cá nhân không được xúc phạm báo chí,
danh dự, nhân phẩm của tác giả. Trong trường hợp báo chí không cải chính
hoặc cải chính không thoả đáng, không đăng phát biểu trả lời của tổ chức, cá
nhân mà không có lý do chính đáng thì đương sự có quyền khiếu nại với cơ
quan có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại toà án.
- Cơ quan chủ quản báo chí (Điều 12). Luật sửa đổi đã cụ thể hoá hơn so với
Luật 1989 nhằm tăng cường quyền hạn cũng như trách nhiệm của cơ quan

chủ quản báo chí theo tinh thần Chỉ thị số 22/CT-TƯ ngày 17-10-1997 của
Bộ Chính trị, theo đó cơ quan chủ quản phải chịu trách nhiệm về mọi mặt
quản lý và chỉ đạo chặt chẽ báo chí, xuất bản của cấp mình, ngành mình, đơn
vị mình. Cơ quan chủ quản phải cùng với tổng biên tập chịu trách nhiệm
trước pháp luật trong phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của mình (Điều 28 xử
lý vi phạm).
- Về chính sách tài chính đối với báo chí (Điều 17c). Đây cũng là một điểm
mới. Luật sửa đổi quy định rõ Nhà nước có chính sách hỗ trợ ngân sách và
tạo điều kiện cho báo chí phát triển; cơ quan chủ quản phải bố trí nguồn tài
chính cần thiết; báo chí được nhận tài trợ tự nguyện; được tổ chức hoạt động
kinh doanh, dịch vụ phù phù hơp với chuyên môn, nghiệp vụ của mình;
được hưởng ưu đãi về thuế, về phí; cơ quan báo chí phải thực hiện chế độ


kiểm toán, thống kê, tài chính.. Luật sửa đổi cũng quy định Nhà nước có
chính sách hỗ trợ cho việc xuất bản và phát hành báo chí đến với nhân dân
những vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn và đến với cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài.
- Về quản lý nhà nước. Luật sửa đổi cụ thể hơn nhiều so với Luật báo chí
năm 1989, cho đồng bộ với hệ thống văn bản pháp luật khác và nâng cao
tính khả thi. Ngoài những điều nói trên, một điểm mới đáng chú ý là những
quy định thành lập thanh tra chuyên ngành về báo chí (Điều 17d), về việc
thành lập cơ quan đại diện, cơ quan thường trú của báo chí (Điều 19a).
Nhằm nâng cao hiệu lực của pháp luật, đưa công tác quản lý nhà nước cũng
như hoạt động báo chí ngày càng phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành.
Luật sửa đổi đã hoàn chỉnh Điều 18 về Xử lý vi phạm. Tinh thần quán xuyến
là cơ quan báo chí vi phạm các quy định của luật thì tuỳ theo mức độ mà bị
cảnh cáo, phạt tiền, thu hồi, tịch thu ấn phẩm, đình bản tạm thời hoặc thu hồi
giấy phép hoạt động; nhà báo có thể bị xử lý kỷ luật, thu hồi thẻ nhà báo;
ngoài ra còn chịu trách nhiệm theo luật dân sự và truy cứu trách nhiệm hình

sự. Ngược lại, người làm nào cản trở hoạt động của báo chí, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm, đe doạ, uy hiếp tính mạng nhà báo, phá huỷ phương tiện, tài
liệu hành nghề của nhà báo.... thì cũng tuỳ theo tính chất, mức độ mà bị xử
lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trên cơ sở phân tích ở trên cho thấy, từ khi Cách mạng tháng Tám thắng lợi,
Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập tới nay, pháp
luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí đã từng bước được đổi mới,
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và việc thực hiện các quyền tự do ngôn
luận trên báo chí của công dân luôn được pháp luật quy định và đảm bảo
thực hiện. Tuy nhiên, mức độ ghi nhận các quyền ấy có sự khác nhau tuỳ
thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi giai đoạn lịch sử.
Sự kế thừa và phát triển liên tục của pháp luật báo chí phản ánh đường lối
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác báo chí. Tuy nhiên, xét
từ quan điểm hệ thống cho thấy: Pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh


vực báo chí ở nước ta vẫn chưa đầy đủ và hoàn thiện. Quá trình xây dựng,
thực hiện và áp dụng pháp luật vẫn còn nhiều vướng mắc, trở ngại do một số
nguyên nhân như: chậm tổng kết, đánh giá một cách toàn diện mang tính lý
luận; thiếu sự thống nhất cao về tư tưởng, đường lối xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí; cơ chế quản lý thiếu
tập trung về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí; cơ chế quản lý thiếu
tập trung thống nhất, còn phân tán. Đây là những vấn đề mang tính cấp thiết
cần sớm được khắc phục, điều chỉnh và hoàn thiện.
2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về quản lý nhà nước trong lĩnh
vực báo chí và thực tiễn áp dụng
Như trên đã phân tích, với một khối lượng bao gồm hàng trăm văn bản với
nội dung phong phú, trong cùng một văn bản lại đề cập tới nhiều vấn đề nên
để tránh sự trùng lặp quá nhiều, trong khi khảo sát, Luận văn không thể liệt
kê quá chi tiết nội dung các văn bản. Chính vì vậy, trong mục này, chúng tôi

sẽ khảo sát quy định của pháp luật hiện hành về quản lý nhà nước trong lĩnh
vực báo chí theo nội dung quản lý nhà nước được quy định tại Điều 17 Luật
báo chí sửa đổi và thực tiễn áp dụng.
2.2.1. Hệ thống các văn bản quy định việc xây dựng chiến lược, quy
hoạch, phát triển báo chí
Trong các hoạt động quản lý nhà nước đối vói báo chí, việc hoạch định, quy
hoạch hệ thống báo chí có một vị trí cực kỳ quan trọng. Để quản lý và tăng
cường quản lý nhà nước đối với báo chí, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành các văn bản quy định chung về nội dung này như: Quyết
định số 60/HĐBT ngày 06/06/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về
quản lý hoạt động báo chí, xuất bản, Nghị quyết số 384 - HĐBT ngày
05/11/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về tăng cường quản lý công tác báo chí,
xuất bản, Thông tư số 95-TT/BC ngày 05/12/1992 của Bộ trưởng Bộ VH-TT
hướng dẫn thi hành Nghị định 133-HĐBT về quy định chi tiết thi hành Luật
Báo chí.


Theo đó, Bộ Văn hoá - Thông tin có nhiệm vụ giúp Chính phủ xây dựng
chiến lược thông tin báo chí của nước ta, lập quy hoạch, kế hoạch phát triển
sự nghiệp báo chí, kế hoạch trang bị kỹ thuật cho báo chí toàn quốc, kế
hoạch đầu tư ngân sách, quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí. Tất cả
những dự án này sau khi được Chính phủ phê duyệt mới được triển khai trên
thực tế.
Ở địa phương cũng vậy, sở Văn hoá - Thông tin là cơ quan giúp Uỷ ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng quy hoạch hoạt
động báo chí địa phương theo hướng dẫn của Bộ Văn hoá - Thông tin. Quy
hoạch báo chí của địa phương phải được sắp xếp phù hợp với quy hoạch
tổng thể báo chí của cả nước.
Trong từng lĩnh vực và đối với các hoạt động báo chí cụ thể, các văn bản
quy phạm pháp luật về nội dung quy hoạch báo chí được các cơ quan có

thẩm quyền ban hành khá nhiều trong đó có các Quyết định số 632/TTG
ngày 03/10/1995 cuả Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch
mạng thông tin Thông tấn xã Việt Nam đến năm 2000, Quyết định số
750/QĐ-TTg ngày 15/11/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc đầu tư mở
rộng mạng đài phát sóng chuyển tiếp chương trình truyền hình quốc gia,
Quyết định số 14/TTg ngày 11/01/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt chương trình mục tiêu phủ sóng chương trình truyền hình quốc gia
cho vùng lõm thuộc vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo, Quyết định số
1402/1998/QĐ-BVHTT ngày 20/07/1998 của Bộ trưởng Bộ VHTT về quy
hoạch báo chí xuất bản của Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, Quyết định số 1666/1998/QĐ-BVHTT ngày 19/08/1998 của Bộ
trưởng Bộ VHTT về quy hoạch báo chí xuất bản của Thông tấn xã Việt
Nam, Quyết định số 1859/1998/QĐ-BVHTT ngày 07/09/1998 của Bộ
trưởng Bộ VHTT về quy hoạch báo chí xuất bản của thành phố Hà Nội,
Quyết định số 1859/1998/QĐ-BVHTT ngày 07/09/1998 của Bộ trưởng Bộ
VHTT về quy hoạch báo chí xuất bản của Bộ Lao động - Thương binh - Xã
hội..


Quy hoạch báo chí là một trong những hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng
đối với toàn bộ hệ thống baó chí, nhất là trong điều kiện đất nước thực hiện
công cuộc đổi mới hiện nay. Điều này xuất phát từ vai trò, vị trí của báo chí
trong công tác tư tưởng và từ ảnh hưởng sâu rộng của nó đối với xã hội. Nếu
không làm tốt công tác quy hoạch tổ chức để quản lý hoạt động báo chí và
không định hướng đúng đắn sự phát triển của báo chí thì có thể đưa đến
những hậu quả khó lường hết đối với xã hội. Việc ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật về quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí là rất cần thiết để
khắc phục tình trạng chồng chéo, mất cân đối trong hoạt động báo chí, khắc
phục những biểu hiện của xu hướng thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục
đích và những hành vi vi phạm pháp luật về báo chí, nâng cao chất lượng

báo chí và đảm bảo cho báo chí phát triển đúng hướng.
Tuy nhiên, với những yêu cầu đó, qua khảo sát nội dung các văn bản nói trên
có thể thấy rõ: công tác ban hành văn bản pháp quy về quy hoạch báo chí
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của hệ thống báo chí, nội dung các văn bản
còn thiên về những quy hoạch của các cơ quan báo chí cụ thể, thiếu hẳn
những quy định pháp lý chung về quy hoạch báo chí, chưa có văn bản quy
phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao về quy hoạch báo chí, mảng báo chí
đối ngoại còn chưa được quan tâm đúng mức. Chính vì tính chất thiếu và
yếu trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quy hoạch báo chí
nên không có cơ sở để tiến hành các hoạt động quản lý nhà nước khác về
báo chí và đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng
báo chí phát triển tràn lan, thiếu quy hoạch tổ chức hiện nay.



×