Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu trong hệ thống chính trị cấp huyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.18 KB, 121 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn cách mạng nói chung và công cuộc đổi mới nói riêng đặt ra
yêu cầu rất cao về vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức trong
HTCT nói chung và cấp huyện nói riêng. Đảng, Nhà nước ta đã rất coi trọng
vấn đề này, đã đưa ra những quan điểm, chủ trương, những quy định về vai
trò, trách nhiệm người đứng đầu các tổ chức trong HTCT và chỉ đạo thực hiện
trong thực tiễn. Tuy nhiên, các quy định và hệ thống các quy phạm pháp luật
về trách nhiệm những cán bộ này còn nhiều điểm bất cập, chưa rõ ràng, cụ
thể, gây khó khăn không nhỏ trong quá trình thực hiện. Trong khi đó, các
công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này, cũng như việc tổng kết thực
tiễn của các cấp uỷ lại chưa nhiều. Bởi vậy, vấn đề này còn nhiều nội dung rất
cần được nghiên cứu tìm lời giải đáp thỏa đáng.
Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đất nước
ta đã thu được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, an ninh quốc phòng. HTCT từ trung ương đến cơ sở ngày càng được
củng cố và hoàn thiện. Bộ máy tổ chức của các cơ quan Đảng, chính quyền
các cấp được tăng cường. Vai trò và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt các cấp được khẳng định trong thực tiễn. Việc thực hiện chế độ phân
cấp, phân quyền, phát huy dân chủ rộng rãi, thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách đã mang lại hiệu quả thiết thực trong toàn bộ HTCT.
Vai trò và trách nhiệm người đứng đầu từng bước được đề cao. Vấn đề quan
trọng đối với người đứng đầu là phải nắm chắc chức năng và nhiệm vụ của
đơn vị; ý thức đầy đủ và bao quát được công việc hoặc nói cách khác là quản
lý được công việc mình phụ trách. Trong tổ chức, thực hiện nhiệm vụ được
giao, phải đặc biệt chú trọng đến việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ
của đơn vị. Sức mạnh của tổ chức bộ máy là ở chỗ, mọi bộ phận trong dây
chuyền vận hành đúng chức năng được xác định do người đứng đầu điều



2
khiển. Chúng ta thường ít chú trọng đến vấn đề này, dễ bị những công việc sự
vụ hằng ngày cuốn hút. Trong khi đó, việc kiểm tra, giám sát của cấp trên
không chặt chẽ, có thể do quan liêu hoặc hời hợt dẫn đến việc đánh giá hoạt
động ở một số đơn vị và của người đứng đầu thiếu chính xác. Việc làm đó, vô
tình đã khuyến khích chủ nghĩa hình thức trong một bộ phận cán bộ, công
chức. Điều đó, một mặt làm giảm động lực thi đua, mặt khác trách nhiệm
công vụ có thể bị vi phạm.
HTCT cấp huyện có vai trò rất quan trọng trong HTCT ở nước ta và với
việc thực thi quyền lực của Đảng và Nhà nước ở địa phương, với việc thực
hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sánh, pháp luật của Nhà
nước trên địa bàn cấp huyện và thực hiện nhiệm vụ chính trị của huyện, góp
phần quan trọng vào thành tựu của công cuộc đổi mới. HTCT cấp huyện là
cấp trên trực tiếp của HTCT cấp cơ sở, là cấp chuyển tiếp giữa HTCT cấp tỉnh
và cấp cơ sở. Đó là các tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo mọi hoạt động của HTCT
cấp cơ sở, và trực tiếp chịu sự lãnh đạo, điều hành của các tổ chức trong
HTCT cấp trên, chịu trách nhiệm trước Đảng và nhân dân ở địa phương về
mọi hoạt động trên địa bàn. Điều này lại phụ thuộc quyết định vào vai trò,
trách nhiệm của người đứng đầu các tổ chức trong HTCT cấp huyện. Hơn nữa
HTCT cấp huyện là một cấp có nhiều biến động và đang đứng trước những
khả năng thay đổi mạnh mẽ.
Một vấn đề còn chưa có sự thống nhất cao về nhận thức, hành động và
thực tiễn đòi hỏi phải có nghiên cứu nghiêm túc về HTCT cấp huyện và vai
trò, trách nhiệm của người đứng đầu các tổ chức trong HTCT cấp huyện. Vì
vậy tôi chọn đề tài “Vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu trong
HTCT cấp huyện (qua khảo sát tỉnh Bắc Ninh)” làm Luận văn Thạc sỹ
Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội là cơ sở để đổi mới tổ chức và hoạt
động của HTCT. Trong đó, việc kiện toàn và xác định trách nhiệm cá nhân



3
người đứng đầu là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của quá trình cải cách
hành chính gắn liền với tiếp tục đổi mới công tác cán bộ. Chính vì vậy, thời
gian gần đây ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận và
thực tiễn liên quan đến trách nhiệm người đứng đầu trong HTCT các cấp,
trong đó có cấp huyện, dưới các cách tiếp cận khác nhau như xây dựng đảng,
Luật học, Chính trị học, Hành chính học…
- Chương trình khoa học cấp nhà nước KX.04 “Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân, vì dân” đã tập trung
nghiên cứu bản chất, đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta; đánh giá thực trạng và đề xuất các quan điểm, nguyên tắc xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng bộ và thúc đẩy đổi mới HTCT của đất nước.
- Chương trình KX.05 tập trung nghiên cứu về bản chất, đặc trưng của
HTCT ở nước ta; quá trình xây dựng và thực trạng cũng như các quan điểm,
nguyên tắc xây dựng HTCT nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(CNXH). Trong kết quả nghiên cứu của mình, các đề tài thuộc Chương trình
khoa học cấp nhà nước KX.05 đã nêu ra một số “định nghĩa” về HTCT, phân
tích các thành tố hợp thành và tính đặc thù của ở nước ta. Công trình “Đổi
mới và tăng cường HTCT ở nước ta trong giai đoạn mới”, do GS.Nguyễn Đức
Bình chủ biên đã bước đầu đề xuất các quan điểm, giải pháp đổi mới HTCT
đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới.
- Chương trình khoa học cấp nhà nước KX.10 “Tiếp tục đổi mới, hoàn
thiện HTCT nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế” đã công bố kết quả nghiên cứu bằng một số
công trình “HTCT của nước ta trong thời kỳ đổi mới”, do GS.VS. Nguyễn
Duy Quý chủ biên; “Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của HTCT trong
quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam”, do PGS.TS.Lê Minh Thông chủ biên;

“Quan điểm và nguyên tắc đổi mới HTCT ở Việt Nam giai đoạn 2005-


4
2020”,do PGS.TS.Trần Đình Hoan chủ biên; “Đổi mới tổ chức và hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta
hiện nay”, do TS.Thang Văn Phúc, TS.Nguyễn Minh Phương đồng chủ biên;
Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp Nhà nước “Đổi
mới các quan hệ giữa Đảng, bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị - xã
hội trong HTCT ở Việt Nam” do GS.TS.Lê Hữu Nghĩa làm chủ nhiệm.
Bên cạnh đó, một số đề tài, công trình khoa học đã đi sâu nghiên cứu về
tổ chức và hoạt động của các bộ phận hợp thành HTCT; đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, phát huy dân chủ ở cơ sở như:
“Kiện toàn và đổi mới tổ chức bộ máy của Đảng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
mới”, do PGS.TS.Nguyễn Hữu Tri chủ biên; “Thể chế Đảng cầm quyền - một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”, do TS.Đặng Đình Tân chủ biên; “Xây dựng
chỉnh đốn Đảng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của GS.TS. Nguyễn Phú
Trọng; “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời
kỳ mới”, do GS.TS.Nguyễn Phú Trọng - PGS.TS.Tô Huy Rứa - PGS.TS. Trần
Khắc Việt đồng chủ biên; “Một số vấn đề về xây dựng Đảng hiện nay”, do
GS. Đặng Xuân Kỳ-PGS.TS. Mạch Quang Thắng - TS. Nguyễn Văn Hoà
đồng chủ biên; “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”, do Trần Đình
Nghiêm chủ biên; “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ mới”, do TS.Đỗ Quang Tuấn
chủ biên; “Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện
nay”, do GS.TSKH. Phan Xuân Sơn chủ biên…
Những năm gần đây đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về tổ
chức và hoạt động của HTCT miền núi như: “Một số vấn đề về xây dựng
HTCT ở Tây Nguyên”, do PGS.TS. Phạm Hảo, TS. Trương Minh Dục (đồng
chủ biên); “Giải pháp đổi mới hoạt động của HTCT ở các tỉnh Miền núi nước

ta hiện nay” do PGS.TS. Tô Huy Rứa - PGS.TS Nguyễn Cúc - PGS.TS. Trần
Khắc Việt đồng chủ biên.


5
Dưới nhiều góc độ, mục đích và cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã
nghiên cứu một cách khá cơ bản về vai trò, đặc điểm của HTCT; mô hình tổ
chức, chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động của các thành tố hợp
thành HTCT của nước ta; đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của HTCT
đất nước trong quá trình đổi mới. Trên cơ sở đó một số công trình đã đề xuất
các quan điểm, nguyên tắc và phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động
của HTCT nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các nhân tố cấu thành
HTCT, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đất nước. Đây chính là cơ sở lý luận và
phương pháp luận bổ ích để thực hiện đề tài Luận văn.
- Huỳnh Văn Long (2003), Xây dựng đội ngũ Bí thư Huyện ủy, Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân (UBND) huyện ở đồng bằng sông Cửu Long ngang tầm
đòi hỏi của thời kỳ CNH, HĐH đất nước, Luận án Tiến sỹ Chính trị học,
chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Luận án khảo sát, phân
tích thực trạng đội ngũ Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện vùng đồng
bằng sông Cửu Long từ 1996 đến 2003. Trong đó, tác giả đã đưa ra những nội
dung chủ yếu về đổi mới công tác đánh giá cán bộ và khẳng định: đánh giá cán
bộ không đơn thuần căn cứ vào quá trình công tác, học vị, lý lịch, thành phần
xuất thân, vị thế xã hội, mà chủ yếu căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ
mới; vào hiệu quả thực hiện nhiệm vụ được giao trong điều kiện, hoàn cảnh môi
trường công tác, làm việc cụ thể; đồng thời còn căn cứ vào mực độ tín nhiệm
của nhân dân đối với cán bộ và căn cứ vào tự đánh giá bản thân của cán bộ.
Tác giả trình bày tiêu chuẩn chức danh Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch
UBND huyện trong thời kỳ mới. Luận án nhấn mạnh một số tiêu chuẩn về
bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ sức vượt qua mọi khó khăn, thử thách; luôn
trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân, lời nói và việc làm phải thống

nhất ; kiên định đường lối đổi mới theo đúng mục tiêu đã định và được thể
hiện bằng hành động gương mẫu của bản thân và gia đình trong thực hiện
thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Tỉnh ủy, UBND tỉnh và


6
của Huyện uỷ. Có ý chí, quyết tâm và năng lực làm giàu cho huyện, biến ý chí
đó thành ý chí của đảng bộ và nhân dân huyện, quyết tâm tiến công vào mặt
trận đói nghèo, lạc hậu, xây dựng huyện giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh… Có tầm nhận thức sâu sắc đối với những diễn biến chính trị trên chính
trường thế giới, khu vực, trong nước, có năng lực tuyên tuyền, lý giải những
diễn biến đó; đồng thời có tinh thần cảnh giác cao, nhanh nhạy đưa ra biện
pháp chỉ đạo, quản lý, chủ động giải quyết mọi tình huống chính trị…
Một trong những giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ này, Luận án
khẳng định để đảm bảo đánh giá đúng đội ngũ cán bộ đó phải đổi mới quan
điểm đánh giá cán bộ, cần phải đặt người cán bộ trong ba mối quan hệ cơ bản
là với đường lối, nhiệm vụ chính trị; với tổ chức và với phong trào cách mạng
của quần chúng để xem xét, đánh giá. Phải căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh
cán bộ đương đảm nhiệm, vào hiệu quả công tác cụ thể, uy tín đối với cán bộ,
nhân dân để làm thước đo chủ yếu đánh giá phẩm chất và năng lực cán bộ.
Tuy nhiên, do phạm vi, mục đích nghiên cứu của Luận án, nên phần
đánh giá đội ngũ cán bộ này, tác giả chỉ đề cập một cách khái quát về vai trò
của đội ngũ Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện. Như vậy, cả
nội dung và đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu đều ở một phạm vi
hẹp. Hơn nữa, phạm vi nghiên cứu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long từ
những năm cuối của thế kỷ XX là chủ yếu. Những vấn đề lý luận về vai trò,
trách nhiệm của người đứng đầu trong HTCT cấp huyện, giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ này sẽ được Luận văn
tiếp tục nghiên cứu.
Hầu hết các công trình nêu trên tập trung vào nghiên cứu HTCT cấp

Trung ương, cấp cơ sở và một số công trình đề cập đến tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị ở cấp tỉnh, rất ít công trình nghiên cứu về HTCT cấp
huyện. Đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về vai
trò và trách nhiệm người đứng đầu trong HTCT cấp huyện.


7
Hiện nay, chúng ta đang thực hiện cải cách, đổi HTCT cấp huyện do
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) đề ra. Việc thực hiện thí điểm không tổ
chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường không phải đơn thuần là giảm
bớt một bộ phận của chính quyền mà liên quan mật thiết đến quá trình đổi
mới tổ chức và hoạt động của HTCT cấp huyện và nâng cao vai trò, trách
nhiệm của người đứng đầu trong HTCT cấp huyện.
Tác giả Luận văn trân trọng kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của
các công trình khoa học nêu trên trong thực hiện đề tài Luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn
3.1. Mục đích
- Làm rõ nội dung, bản chất vai trò và trách nhiệm của Người đứng đầu
trong HTCT cấp huyện;
- Đề ra các giải pháp để thực hiện và phát huy vai trò, trách nhiệm của
người đứng đầu trong HTCT cấp huyện
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò và trách nhiệm của
người đứng đầu trong HTCT nói chung và HTCT cấp huyện nói riêng.
- Thực trạng vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu trong HTCT ở
cấp huyện .
- Đề xuất các quan điểm, phương hướng, giải pháp nâng cao vai trò và
trách nhiệm của người đứng đầu trong HTCT cấp huyện ở nước ta nói chung,
ở Bắc Ninh nói riêng.
4. Lý luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

- Lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam;
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;


8
- Phương pháp: Luận văn sử dụng các phương pháp liên ngành và
chuyên ngành khác nhau: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, xã hội học,
đặc biệt chú ý phương pháp chuyên ngành phân tích HTCT và phương pháp
phân tích cấu trúc chức năng…
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong một nhiệm
kỳ Đại hội Đảng (2005 - 2010). Phân tích và làm rõ vai trò và trách nhiệm của
Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND, Chủ tịch Uỷ ban MTTQ huyện trong
HTCT cấp huyện (Huyện, thị xã, thành phố). Đối với Hội đồng nhân dân
(HĐND) cấp huyện, do hiện nay đang thí điểm chủ trương bỏ cơ quan này,
nên Luận văn không tiến hành nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực thi nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ cán bộ
chủ chốt các cấp, đặc biệt là cán bộ cấp huyện; góp phần làm rõ hơn những
vấn đề căn bản trong hoạt động của HTCT nước ta; có thể sử dụng trong
nghiên cứu, giảng dạy môn Chính trị học, Hành chính học, xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam...
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết.



9
Chương 1
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP HUYỆN Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

C.Mác, P.h.Ăngghen và V.I.Lênin chưa đưa ra khái niệm HTCT. Tuy
nhiên, các ông luôn luôn bàn về: hình thức chính trị, thiết chế chính trị, thể
chế chính trị và xã hội, cơ cấu chính trị, cơ cấu chính quyền, kết cấu chính trị
của xã hội,... Trong các tài liệu sách báo mác-xít ở các nước XHCN (kể cả
nước ta) trong nhiều năm trước đây cũng chưa dùng khái niệm HTCT mà
thường dùng khái niệm hệ thống chuyên chính vô sản. Đến giữa những năm
đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, các nhà Khoa học Xô-viết mới dùng khái
niệm này. Ở các nước tư bản, từ những năm 50 của thế kỷ XX, khái niệm
HTCT đã được các nhà chính trị học, luật học và các học giả luận bàn và chỉ
ra những nội hàm chủ yếu của nó với tư cách là một phạm trù của khoa học
chính trị. Trong đó, chức năng của HTCT được chỉ ra là: thực hiện, hoặc tham
gia thực hiện quyền lực chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo, điều hành đất nước
của các đảng chính trị cầm quyền.
Khi bàn về HTCT, các nhà khoa học thường bàn đến các đảng chính trị,
các quan hệ chính trị giữa các đảng chính trị trong cuộc đấu tranh giành
quyền lực nhà nước, hoặc tham gia vào chính quyền để trở thành đảng chấp
chính (đảng cầm quyền), đảng tham chính hoặc đảng đối lập. Đồng thời, Nhà
nước được nghiên cứu như là đối tượng tác động của các đảng chính trị và là
biểu hiện tập trung của quyền lực chính trị. Vì vậy, khi bàn đến HTCT họ
thường bàn đến chính thể nhà nước theo các mô hình chính thể quân chủ,
chính thể quân chủ lập hiến, cộng hòa đại nghị, cộng hòa tổng thống, cộng
hòa lưỡng tính...và mối quan hệ giữa nhà nước và các đảng chính trị được xác
lập thông qua các hình thức tổ chức chính thể đó, và dựa trên mức độ, tính



10
chất của việc phân quyền quyền lực chính trị và cấu trúc chính trị của chế độ
đa đảng (phân quyền cứng hay phân quyền mềm, chế độ nhiều đảng hay chế
độ hai đảng (lưỡng đảng).
Ở nước ta, trong suốt thời gian dài trước đây khái niệm “chuyên chính
vô sản” được sử dụng thường xuyên. Từ Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa VI (tháng 3/1989) khái niệm HTCT bắt đầu được sử dụng
thay cho khái niệm “Hệ thống chuyên chính vô sản”. Từ Đại hội VII của
Đảng, khái niệm HTCT được sử dụng phổ biến đến nay.
Viện Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh đã đưa ra khái niệm có giá trị và cách hiểu về HTCT ở tất cả các nước
trên thế giới:
Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chính thể các thể chế chính
trị (các cơ quan quyền lực nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức
và phong trào xã hội…) được xây dựng trên các quyền và các chuẩn
mực xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng nhất định, vận
hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực
thi quyền lực chính trị [34, tr.73].
Từ đó, đối chiếu với HTCT nước ta, có thể thấy rõ những bộ phận, yếu
tố cấu thành HTCT nước ta:
* Về tổ chức bộ máy
Tổ chức bộ máy của HTCT nước ta bao gồm: Đảng, Nhà nước, MTTQ
Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội do Đảng lập ra và lãnh đạo. Mỗi
tổ chức có vai trò, vị trí khác nhau và có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo
nên một chỉnh thể và sự hoạt động hài hòa bao trùm tất các mặt hoạt động và
các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong xã hội ta nhằm thực hiện thắng lợi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
* Địa vị chính trị - pháp lý của các tổ chức trong HTCT ở nước ta:
- Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận của HTCT và là hạt nhân

chính trị của HTCT, lãnh đạo các tổ chức trong HTCT và lãnh đạo toàn xã


11
hội. Điều này đã được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta khẳng định: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là
một bộ phận của hệ thống ấy” [17, tr.21].
- Đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy của Nhà nước và lãnh đạo
mọi hoạt động của Nhà nước, mà trọng tâm là lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa
đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật để tổ chức thực hiện trong
toàn xã hội. Qua đó, Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tất cả các tổ
chức trong xã hội và tất cả các lĩnh vực đời sống của xã hội.
- Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là trụ cột của HTCT nước ta.
Chỉ thông qua Nhà nước Đảng mới thực hiện được và thực hiện có hiệu quả
sự lãnh đạo đối với các tổ chức và các lĩnh vực đó.
- MTTQ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân
Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội, là
thành viên của HTCT nước ta, đồng thời là cơ sở chính trị của HTCT. Trong
đó các tổ chức chính trị - xã hội như Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội
Cựu chiến binh Việt Nam (tức là trừ Nhà nước, các tổ chức còn lại đều là
thành viên của MTTQ Việt Nam). Có nghĩa là các tổ chức này vừa là thành
viên của HTCT vừa là thành viên của MTTQ Việt Nam.
- Mô hình tổ chức bộ máy của HTCT nước ta được thành lập giống
nhau ở 4 cấp (Trung ương; tỉnh, thành phố; quận, huyện và xã, phường, thị
trấn) tương ứng với hệ thống hành chính 4 cấp của Nhà nước ta. Vị trí, vai trò
của các tổ chức trong HTCT ở từng cấp tương tự như vị trí, vai trò của từng tổ
chức tương ứng nêu trên trong phạm vi từng cấp. Ngoài các tổ chức, HTCT ở
nước ta nói riêng, các nước trên thế giới nói chung còn có các quan hệ chính
trị, các cơ chế và nguyên tắc vận hành. Mỗi tổ chức trong HTCT có quan hệ

mật thiết với nhau, có những vị thế riêng tạo nên mối quan hệ lãnh đạo, quản
lý, hợp tác, hợp lực cùng giải quyết các vấn đề xã hội trong nước và quốc tế


12
theo định hướng của Đảng. Sự phân bố quyền lực chính trị trong điều kiện
dân chủ chính là mối quan hệ và vị thế chính trị thông qua vai trò của từng tổ
chức. HTCT ở nước ta vận hành theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý và nhân dân làm chủ. Đảng là người lãnh đạo mọi hoạt động từ xây dựng tổ
chức, bộ máy hoạt động của các tổ chức trong HTCT. Đảng lãnh đạo nhưng
không làm thay, không can thiệp quá sâu vào những công việc cụ thể của từng
tổ chức trong HTCT. Nhà nước là người quản lý, thực hiện chức năng quản lý
nhà nước đối với mọi hoạt động của xã hội. MTTQ và các tổ chức chính trị xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
xây dựng khối đại đoàn kết thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội chính
là nơi tập hợp lực lượng, tạo nên nguồn sức mạnh củng cố hệ thống chính trị
trong giai đoạn hiện nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước và xã
hội. Đảng lãnh đạo các tổ chức trong HTCT và sự lãnh đạo của Đảng đối với
các tổ chức đó, là lãnh đạo chính trị. Vị trí, vai trò cầm quyền lãnh đạo các tổ
chức trong HTCT và toàn xã hội được thể hiện ở chỗ:
- Đối với Đảng:
Đảng xây dựng và hoạch định đường lối phát triển của đất nước. Đảng
quyết định những vấn đề trọng đại; đề ra các quyết sách lớn liên quan đến vận
mệnh quốc gia (chủ yếu trong các lĩnh vực an ninh, quốc phòng, đối ngoại).
Đảng đề cử các đảng viên ưu tú nhất của Đảng để Quốc hội bầu cử vào các cơ
quan lãnh đạo trong bộ máy Nhà nước ở Trung ương, HĐND các cấp; bầu
vào các cơ quan lãnh đạo trong bộ máy chính quyền địa phương. Đảng kiểm
tra, giám sát các hoạt động của các cơ quan, của cán bộ, đảng viên trong việc
thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

- Đối với Nhà nước:
Nhà nước thực hiện việc điều hành, quản lý đất nước thông qua 3 chức
năng cơ bản: Lập pháp, hành pháp, tư pháp. Các bộ phận chủ yếu của nhà


13
nước chức hiện các chức năng, nhiệm vụ: Quốc hội với tư cách là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định
các vấn đề trọng đại của đất nước và quyền giám sát tối cao. Chính phủ là cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, đảm bảo tổ
chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp
luật của Nhà nước. Các cơ quan tư pháp mà trọng tâm là hệ thống tòa án thực
hiện quyền tư pháp, đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm minh và công
bằng; pháp chế được tăng cường.
- Đối với MTTQ Việt Nam:
Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội trong HTCT có chức năng
thay mặt cho các tầng lớp nhân dân phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước và thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân
trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước. Đồng thời thực hiện giám sát và phản biện xã hội đối với toàn bộ
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và hoạt
động của Đảng, Nhà nước, và đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức.
Các bộ phận này quan hệ mật thiết với nhau trong xây dựng tổ chức và
hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã
hội có mối quan hệ phối hợp để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình
và tạo điều kiện thuận lợi cho nhau thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ nhằm
thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* Về bản chất của HTCT nước ta

Mọi HTCT ở các nước trên thế giới đều có bản chất giai cấp rất rõ rệt.
HTCT ở nước ta mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, thể hiện tính
nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Hệ thống đó thể hiện sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, thể


14
hiện sự nhất nguyên chính trị, không tồn tại các đảng chính trị đối lập với
Đảng Cộng sản Việt Nam, tức là không thực hiện chế độ đa nguyên chính trị,
đa đảng đối lập. Trong điều kiện đó, Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây
dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức phát huy cao độ năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu cũng như truyền thống vẻ vang của mình trong lãnh
đạo xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN; đảm bảo cho Nhà
nước ta ngày càng được xây dựng vững mạnh, thực sự là nhà nước của dân,
do dân và vì dân, thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối với mọi hoạt
động của xã hội; đảm bảo cho MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội tập hợp
giáo dục và phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
* Mục tiêu tổ chức và hoạt động của HTCT nước ta
HTCT nước ta thực hiện mục tiêu chính trị là phát huy mạnh mẽ sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng thành công CNXH trên
đất nước ta.
* Vai trò của HTCT nước ta đối với sự phát triển của xã hội
Để thấy rõ vai trò của HTCT nước ta đối với sự phát triển xã hội ta cần
nhận thức sâu sắc quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò đặc biệt
quan trọng và quyết định của của kinh tế đối với chính trị và sự tác động trở
lại rất to lớn của chính trị đối với kinh tế. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã tập trung
sự chú ý vào sự tác động trở lại đó. Luận điểm nổi tiếng của V.I. Lênin:

“Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế” [49, tr.349]; “Chính trị không thể
không ưu tiên so với kinh tế” [49, tr.349].
Nhận thức đúng đắn và quán triệt sâu sắc luận điểm nêu trên vào quá
trình lãnh đạo xây dựng CNXH của Đảng ta trong điều kiện hiện nay là vấn
đề đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa lớn. Cùng với việc đẩy mạnh phát triển


15
kinh tế, Đảng phải giành sự ưu tiên cho chính trị. Điều này thể hiện rõ sự
nhận thức của Đảng ta về vai trò của HTCT đối với sự phát triển kinh tế và
các mặt hoạt động khác của xã hội. Sự ưu tiên của chính trị so với kinh tế ở
nước ta hiện nay được thể hiện chủ yếu như sau:
- Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền phải đảm bảo tính định hướng
chính trị trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo hướng XHCN. Sự phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN phải xuất phát từ lợi ích của nhân
dân lao động và vì lợi ích của nhân dân lao động. Không nhận thức sâu sắc và
thực hiện tốt điều này thì khó tránh khỏi những phức tạp về chính trị trong
quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
- Địa vị ưu tiên của chính trị so với kinh tế còn thể hiện rõ ở việc đề ra
đường lối, chính sách, chiến lược phát triển kinh tế theo hướng can thiệp một
cách tự giác vào quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Các quan
điểm chính trị của Đảng phải đảm bảo tính khoa học, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc vận dụng tổng hợp các quy luật kinh tế - xã hội, nhất là các quy luật
của kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang thực hiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Bên
cạnh mặt tích cực rất lớn của kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập đối với sự phát
triển của đất nước, mặt tiêu cực của nó cũng tác động rất mạnh mẽ, gây tác động
xấu đến HTCT và xã hội nước ta. Để phát huy tốt vai trò của HTCT trong việc
hạn chế những tác động tiêu cực ấy, và đối với sự phát triển xã hội ta cần tập

trung mọi nỗ lực để giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy
mạnh mẽ vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước, đồng thời phát huy vai trò
chủ động, sáng tạo, thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong HTCT nước ta.
Trong giai đoạn hiện nay cần đặc biệt coi trọng phát huy vai trò của các
tổ chức trong HTCT nước ta nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế -


16
xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH.
1.2. CẤP HUYỆN TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

1.2.1. Cấp huyện là một mắt xích quan trọng trong hệ thống chính
trị Việt Nam
Hiến pháp năm 1992 được Quốc hội thông qua ngày 15/4/1992, Điều
118 quy định:
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực
thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành
phường và xã; quận chia thành phường…
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi một số điều được Quốc hội khóa X thông
qua ngày 25/12/2001 vẫn giữ nguyên các quy định về các cấp hành chính như
Hiến pháp 1992.
Hơn 65 năm qua, kể từ ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đến nay, nước ta đã có bốn bản Hiến pháp. Trong các bản Hiến pháp đó,
huyện luôn được xác định là một cấp hành chính trong hệ thống hành chính 4

cấp ở nước ta. Huyện là cấp hành chính thuộc tỉnh và cấp trên trực tiếp của cơ
sở (xã, phường, thị trấn). Đó là một mắt xích quan trọng trong HTCT nước ta.
Nhận thức về vai trò của cấp huyện có những thay đổi qua nhiều thời
kỳ. Ngay sau khi thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tại Đại
hội IV, Đảng ta khẳng định vai trò to lớn của cấp huyện:
Cấp huyện đóng vai trò rất quan trọng trong việc đưa nông nghiệp lên
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Huyện là địa bàn tổ chức lại sản xuất, tổ chức
và phân công lại lao động, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, sản xuất với


17
lưu thông, kinh tế toàn dân với kinh tế tập thể, công nhân với nông dân, Nhà
nước với nhân dân. Huyện là cứ điểm để tiến hành ba cuộc cách mạng, xây
dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người mới ở nông
thôn; là nơi thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân ở địa phương; là
cấp bảo đảm đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Tất cả mọi quan hệ
giữa Nhà nước và nông dân trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, phân phối
đều thực hiện thông qua cấp huyện [14, tr.519].
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, cấp huyện càng có vị trí,
vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
của các tỉnh và cả nước. Với tư cách là cấp địa phương so với cấp Trung
ương, cấp huyện là cầu nối giữa cấp tỉnh và cấp cơ sở, mà thiếu nó sẽ gặp khó
khăn rất lớn trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Vì vậy, Văn kiện Hội nghị
Trung ương lần thứ ba khóa VIII của Đảng chỉ rõ:
Tạo điều kiện và thúc đẩy chính quyền địa phương phát huy tính chủ
động, khai thác mọi tiềm năng tại chỗ để phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương
và đóng góp ngày càng nhiều cho sự phát triển chung của cả nước. Trên tinh
thần đó cần tăng trách nhiệm và thẩm quyền của chính quyền địa phương trong
việc quyết định những vấn đề của địa phương, đặc biệt là quy hoạch phát triển
và kế hoạch đầu tư cho khu vực công cộng về thu chi ngân sách, về tổ chức và

nhân sự hành chính địa phương, về xử lý các vụ việc hành chính [20, tr.51].
Văn kiện cũng nhấn mạnh: “Giữa các cấp chính quyền địa phương cũng
cần cụ thể hóa việc phân cấp theo hướng việc nào do cấp nào giải quyết sát
với thực tế hơn thì giao nhiệm vụ và thẩm quyền cho cấp đó” [20, tr.51-52].
Có thể khẳng định rằng: trong cơ cấu tổng thể của hệ thống hành chính
nước ta, huyện là một cấp quản lý nhà nước trong hệ thống quản lý hành
chính 4 cấp hiện hành và có vai trò rất quan trọng. Vai trò ấy được thể hiện ở:
- Là cầu nối giữa HTCT cấp Trung ương và tỉnh với HTCT cấp cơ sở;
là cấp trên trực tiếp của HTCT cấp cơ sở có vai trò quan trọng, trực tiếp trong


18
việc chuyển tải những quyết định từ cấp tỉnh và Trung ương đến cơ sở, chỉ
đạo và tổ chức các hoạt động của HTCT ở cấp cơ sở trên địa bàn, biến đường
lối, chủ trương của cấp trên thành hoạt động thực tiễn ở cơ sở.
- So với HTCT cấp Trung ương và cấp tỉnh, HTCT cấp huyện gần với
cộng đồng dân cư hơn, do vậy tổ chức và hoạt động của HTCT cấp huyện
thường thể hiện rõ tính trực tiếp và kịp thời hơn.
- HTCT cấp huyện là cấp dưới trực tiếp của HTCT cấp tỉnh, giúp
HTCT cấp tỉnh chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc cơ sở thực hiện đường lối, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Nếu không có HTCT cấp huyện thì
cấp tỉnh không thể trực tiếp bao quát và chỉ đạo, kiểm tra, hoạt động của
HTCT cấp cơ sở. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của HTCT cấp tỉnh thường không thể
giải quyết có hiệu quả tốt những vấn đề nảy sinh ở cơ sở. Hơn nữa, nếu như
thế HTCT cấp tỉnh sẽ chủ yếu lao vào sự vụ, hạn chế việc lãnh đạo, chỉ đạo ở
tầm vĩ mô, chiến lược.
HTCT cấp huyện là một mắt xích quan trọng, không thể thiếu trong
HTCT Việt Nam, đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thông suốt của HTCT cấp
Trung ương đến cơ sở, đảm bảo cho cả HTCT nước hoạt động chất lượng,
hiệu quả.

1.2.2. Yêu cầu về tổ chức và thực thi quyền lực chính trị và quyền
lực nhà nước trong hệ thống chính trị ở cấp huyện
* Yêu cầu đối với tổ chức Đảng cấp huyện
- Về tổ chức bộ máy:
Trong HTCT cấp huyện, Đảng bộ huyện có vị trí, vai trò quan trọng.
Đảng bộ là cơ quan lãnh đạo chính quyền cấp huyện. Bộ máy của tổ chức
đảng cấp huyện, gồm Huyện uỷ, Ban Thường vụ Huyện uỷ, Thường trực
Huyện ủy, các ban tham mưu của Huyện ủy, các tổ chức cơ sở Đảng trực
thuộc. Chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận phải được xác định rõ ràng,
không chồng chéo; đội ngũ cán bộ phải được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận


19
chính trị, các khoa học cần thiết và chuyên môn, nghiệp vụ, được rèn luyện
thực tế, nhất là người đứng đầu từng bộ phận; có quy chế làm việc rõ ràng,
quy định rõ chức trách, nhiệm vụ và trách nhiệm từng cán bộ, nhất là người
đứng đầu và cán bộ lãnh đạo, quản lý từng bộ phận; có lề lối làm việc khoa
học, làm việc có chương trình, kế hoạch, có kiểm tra, sơ kết, tổng kết, đúc rút
kinh nghiệm, v.v…
- Đối với Huyện uỷ: Huyện uỷ là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng
bộ cấp huyện do Đại hội đại biểu Đảng bộ cấp huyện bầu ra với nhiệm kỳ 5
năm. Huyện uỷ thảo luận và quyết định chủ trương, biện pháp thi hành đường
lối, Nghị quyết của Trung ương Đảng, của Tỉnh uỷ và Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ cấp mình; những vấn đề quan trọng về kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc
phòng - an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân.
- Đối với Ban Thường vụ Huyện uỷ: Ban Thường vụ Huyện uỷ do
Huyện uỷ bầu theo nhiệm kỳ của Huyện uỷ, là cơ quan thay mặt Huyện uỷ
lãnh đạo và điều hành mọi công việc của Đảng bộ. Thẩm quyền chủ yếu của
Ban Thường vụ Huyện uỷ là: Tổ chức thực hiện các Nghị quyết, chỉ thị của

Trung ương, của Tỉnh uỷ; lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và giám sát toàn diện về
tổ chức và hoạt động của các cấp uỷ, tổ chức Đảng trong hệ thống chính trị cấp
huyện; thảo luận và quyết định những vấn đề cụ thể về thực hiện nhiệm vụ
chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, công tác xây dựng
Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; thực hiện công
tác cán bộ và các vấn đề liên quan đến công tác cán bộ theo thẩm quyền.
- Đối với Thường trực Huyện uỷ: Thường trực Huyện uỷ gồm Bí thư và
các Phó Bí thư, có nhiệm vụ chỉ đạo giải quyết những công việc hằng ngày
của Đảng bộ; thay mặt Ban Thường vụ Huyện uỷ giải quyết những công việc
theo sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, theo Quy chế làm việc của Huyện uỷ và những
công việc được Ban Thường vụ Huyện uỷ uỷ quyền.


20
- Đối với các cơ quan của Huyện uỷ: Ban Tổ chức, Uỷ Ban Kiểm tra,
Ban Tuyên Giáo, Ban Dân vận, Văn phòng Huyện uỷ, Trung tâm bồi dưỡng
chính trị huyện. Đây là các cơ quan tham mưu cho Huyện uỷ, Ban Thường vụ
Huyện uỷ về các lĩnh vực: tổ chức cán bộ, kiểm tra và giám sát thi hành Điều
lệ Đảng, các qui định của Đảng; tuyên truyền phổ biến thực hiện các chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, công tác vận động quần chúng, công tác
tài chính Đảng, văn thư lưu trữ v.v…
- Đối với các tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc: Gồm chi bộ, Đảng bộ có
nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Huyện uỷ, Ban
Thường vụ Huyện uỷ; lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ
quan, đơn vị, địa phương. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình
tổ chức cơ sở đảng được Đảng quy định cần chỉ đạo kiện toàn tổ chức bộ máy,
trọng tâm là các cấp ủy cơ sở, đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý chủ chốt của
cơ sở; nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; xây dựng và thực hiện quy chế
làm việc của cấp ủy, xác định nhiệm vụ, trách nhiệm người đứng đầu tổ chức
cơ sở đảng; thực hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; nâng

cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; đổi mới
phương thức lãnh đạo; tăng cường quan hệ mật thiết với nhân dân; v.v…
- Về thực thi quyền lực:
Để đủ sức thực thi quyền lực chính trị của mình, tổ chức Đảng cấp
huyện phải phấn đấu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình,
đổi mới phương thức lãnh đạo của Huyện ủy đối với hoạt động của HTCT ở
địa phương. Đổi mới phong cách và lề lối làm việc của Huyện ủy, Ban Thường
vụ Huyện uỷ và các cơ quan tham mưu của Huyện ủy. Tiến hành rà soát, sửa
đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định, quy chế làm việc của tổ chức đảng trên
các mặt hoạt động cụ thể như: ra nghị quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết,
quyết định về công tác cán bộ, (quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, đề
bạt, bổ nhiệm, đánh giá cán bộ, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách


21
cán bộ); đánh giá phân loại tổ chức cơ sở đảng, đảng viên, kết nạp đảng viên,
đưa đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng; kiểm tra, giám sát, tự phê bình
và phê bình; bảo vệ chính trị nội bộ, v.v…
Đối với hoạt động của HTCT cấp huyện và các lĩnh vực đời sống xã hội
trên địa bàn huyện, Huyện ủy lãnh đạo, chỉ đạo về chủ trương, định hướng
lớn trong những quyết định quan trọng của HĐND để UBND thảo luận, quyết
định. Huyện ủy lãnh đạo UBND quán triệt, thể chế hóa và tổ chức thực hiện
các nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường
vụ Huyện uỷ, của HĐND cùng cấp và của cơ quan nhà nước cấp trên. Huyện
ủy lãnh đạo MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội bằng các định hướng chính
trị cho hoạt động của các tổ chức này, để Mặt trận và các đoàn thể tổ chức
thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, chủ trương của Đảng, của Huyện ủy về công
tác dân vận theo chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức; cho ý kiến chỉ đạo về
chương trình, nội dung hoạt động hằng năm của MTTQ và các đoàn thể chính
trị - xã hội; quy chế hóa sự lãnh đạo của tổ chức đảng đối với MTTQ và các

đoàn thể; chỉ đạo Mặt trận và các đoàn thể xây dựng quy chế phối hợp giữa
các cơ quan chính quyền với Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội trong
việc thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân,
về công tác dân vận ở địa phương, về công tác giám sát và phản biện xã hội.
* Yêu cầu đối với chính quyền cấp huyện
- Về tổ chức bộ máy:
Chính quyền cấp huyện được hiểu là khái niệm chính quyền địa
phương theo nghĩa rộng: “Tất cả các cơ quan Nhà nước đóng trên địa bàn
lãnh thổ địa phương, mà hoạt động của chúng có tác động trong phạm vi lãnh
thổ địa phương đều được gọi là bộ phận cấu thành chính quyền nhà nước ở
địa phương” [19, tr.46 - 47]. Nhưng phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ đi sâu
làm rõ UBND cấp huyện - chính quyền địa phương theo nghĩa hẹp. UBND
cấp huyện do HĐND cùng cấp bầu ra, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các


22
Uỷ viên. UBND cấp huyện còn có các cơ quan chuyên môn, các đơn vị sự
nghiệp trực thuộc.
- UBND cấp huyện có từ bẩy đến chính thành viên, chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước HĐND cấp huyện và UBND cấp tỉnh; thảo luận tập
thể và quyết định theo đa số. UBND và các thành viên UBND cấp huyện có
trách nhiệm giải quyết và trả lời các kiến nghị của UBMT Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân cấp huyện.
- Chủ tịch UBND cấp huyện là người lãnh đạo và điều hành công việc
của UBND cấp huyện, chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình; cùng với tập thể UBND chịu trách nhiệm về hoạt động
của mình trước HĐND cấp huyện và UBND tỉnh.
- Phó Chủ tịch và các thành viên của UBND cấp huyện thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn do Chủ tịch UBND cấp huyện phân công và phải chịu trách
nhiệm trước Chủ tịch UBND về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã được

giao. Đồng thời phải chịu trách nhiệm cá nhân về phần công tác của mình
trước HĐND và UBND cấp huyện và cùng với tập thể về hoạt động của
UBND trước HĐND cấp huyện và UBND cấp tỉnh.
- Các cơ quan chuyên môn, các đơn vị sự nghiệp trực thuộc UBND cấp
huyện chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của UBND cấp huyện theo từng lĩnh vực về
kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh.
- Về thực hiện quyền lực:
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của UBND cấp huyện, việc
xây dựng, củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy của UBND rất cần
thiết và cấp bách. Trên cơ sở phải cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ theo quy
định của pháp luật, giảm đầu mối, bỏ cấp trung gian, hình thành bộ máy quản
lý đa ngành, đa lĩnh vực theo hướng dẫn của cấp trên; xây dựng đội ngũ cán
bộ chính quyền có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ và năng lực thực
hiện tốt nhiệm vụ được giao, có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch,


23
lành mạnh, nhất là thái độ đối với nhân dân, phong cách làm việc khoa học,
phấn đấu trở thành những công bộc của dân.
Tập trung nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền và cơ sở,
cùng các cơ quan giúp việc của chính quyền huyện. Thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của tổ chức đảng cấp huyện để
thực hiện trong toàn dân trên địa bàn huyện. Đề cao trách nhiệm người đứng
đầu cơ quan chính quyền cấp huyện và cấp cơ sở trước nhân dân, trước cấp ủy
huyện và trước pháp luật. Cụ thể hóa chức trách, nhiệm vụ và trách nhiệm của
từng bộ phận trong cơ quan chính quyền cấp huyện và người đứng đầu cơ
quan chính quyền cấp huyện. Theo sự chỉ đạo và hướng dẫn của cấp trên tiếp
tục phân cấp một các hợp lý cho chính quyền cơ sở. Tập trung rà soát và cải
cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp phát triển và đáp ứng nhu cầu chính đáng của

nhân dân; tập trung cải cách hành chính theo hướng đơn giản, minh bạch,
công khai về thủ tục hành chính. Tiếp tục phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ
của nhân dân, nhất là các hình thức dân chủ trực tiếp của người dân ở cơ sở.
Đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãnh phí trên địa bàn huyện
đạt kết quả, từng bước đẩy lùi các tệ nạn này. Đẩy mạnh việc giám sát của
HĐND cấp huyện đối với UBND huyện.
* Yêu cầu đối với MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội cấp huyện
Đây là những cơ quan, tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân ngoài
nhà nước. Để thực thi có hiệu quả quyền lực của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân cấp huyện (Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn thanh
niên, Liên đoàn Lao động, Hội Cựu chiến binh) cần đáp ứng các yêu cầu sau:
- Về tổ chức:
Theo chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, Huyện ủy lãnh đạo, chỉ
đạo xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy của MTTQ và các đoàn thể
chính trị - xã hội một cách gọn nhẹ, khoa học, hoạt động có hiệu quả. Xây


24
dựng đội ngũ cán bộ của tổ chức này đủ số lượng, có chất lượng tốt, có năng
lực và kinh nghiệm công tác Mặt trận và công tác dân vận. Quy định rõ chức
năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của cán bộ Mặt trận và các đoàn thể, nhất là
cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu các tổ chức này. Xây dựng quy chế phối hợp
hoạt động giữa chính quyền cấp huyện với các tổ chức này nhằm thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tăng cường kết nạp và nâng cao
chất lượng đoàn viên, hội viên vào tổ chức.
- Về thực thi quyền lực:
Thực hiện các biện pháp để phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và
thực hành dân chủ XHCN. Đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt
động của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội cấp huyện phù hợp với
từng đối tượng đoàn viên, hội viên để nắm chắc tâm tư nguyện vọng chính

đáng của họ; làm tốt công tác vận động các tầng lớp nhân dân, phát huy sức
mạnh sáng tạo và mọi tiềm năng của họ trong thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa
phương; thực hiện tốt chức năng đại diện và bảo vệ các quyền và lợi ích chính
đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên; thực hành dân chủ rộng rãi củng cố
và tăng cường sự đồng thuận xã hội; tăng cường quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước với các tầng lớp nhân dân và sự lãnh đạo của Đảng với MTTQ và các tổ
chức chính trị - xã hội.
MTTQ và các đoàn thể nhân dân cấp huyện là “cầu nối” giữa chính
quyền với công dân. Đây là những thiết chế quyền lực ngoài Nhà nước, làm
nòng cốt trong việc tổ chức các phong trào xã hội tự nguyện để thu hút, tập
hợp đông đảo nhân dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, thực hành dân
chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên địa bàn huyện trong thực
hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương.
Trong điều kiện hiện nay, nhân dân ngày càng phân chia thành các tầng
lớp đa dạng, phong phú, mỗi tầng lớp có nhu cầu nguyện vọng và tâm tư, tình


25
cảm riêng. Để nắm được tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân làm
cơ sở cho việc đề ra chủ trương, giải pháp và thực thi quyền lực cần đa dạng
hóa, đổi mới, tổ chức và hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể cấp huyện.
Cần phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận và các đoàn thể trong xây dựng sự
đồng thuận xã hội, xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, phát huy vai trò giám
sát, phản biện xã hội đối với hoạt động thực thi quyền lực của tổ chức đảng,
chính quyền cấp huyện và đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên.
1.2.3. Những vị trí đứng đầu trong hệ thống chính trị cấp huyện
của Việt Nam
*Vị trí, vai trò của Bí thư Huyện uỷ

Bí thư Huyện uỷ là Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện và được
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện hoặc Đại hội đại biểu Đảng bộ cấp huyện bầu
trong số Uỷ viên Ban Thường vụ Huyện uỷ; là người đứng đầu và lãnh đạo cao
nhất của Đảng bộ huyện; là người tiêu biểu nhất đại diện cho Đảng bộ huyện. Vị
trí, vai trò của Bí thư Huyện ủy thể hiện ở những điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, đối với việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy, và nhiệm vụ
chính trị của huyện:
Bí thư Huyện ủy là người lãnh đạo, trực tiếp tiếp nhận chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết của Tỉnh
uỷ lãnh đạo, chỉ thị, chỉ đạo, cụ thể hóa, thể chế hóa và tổ chức thực hiện, biến
chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết ấy thành hiện thực trên địa bàn
huyện. Bí thư Huyện ủy cùng với Ban Thường vụ Huyện uỷ, Huyện ủy chủ
trì xây dựng nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ huyện trong nhiệm kỳ để Đại hội
Đảng bộ quyết định; chủ trì các hội nghị xây dựng kế hoạch triển khai và lãnh
đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy, các chỉ thị của
Ban Bí thư Trung ương Đảng, của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, các nghị quyết


×