Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc tày trên địa bàn tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.17 MB, 99 trang )


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt/
kí hiệu
CNTT
CNH – HĐH
DSVHPVT
PCGDMNNT
PCGDTH
QLNN
TNHH
UNESCO
UBND
VHTT&DL
VBQPPL

2

Cụm từ đầy đủ
Công nghệ thông tin
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Di sản văn hóa phi vật thể
Phổ cập giáo dục miền núi nông thôn
Phổ cập giáo dục trung học
Quản lý nhà nước
Trách nhiệm hữu hạn
Tổ chức giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc
Uỷ ban nhân dân
Văn hóa Thể thao và Du lịch
Văn bản quy phạm pháp luật



MỤC LỤC

PHỤ LỤC

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bắc Kạn là một tỉnh vùng núi phía Bắc nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số
sinh sống, trong đó dân tộc Tày chiếm số lượng đông đảo nhất (54% dân số), vì thế mà
văn hóa nơi đây in đậm màu sắc văn hóa của đồng bào dân tộc Tày. Trải qua nhiều
thăng trầm lịch sử cùng với quá trình lao động sản xuất, cộng đồng dân tộc Tày Bắc
Kạn đã hình thành và gìn giữ được nhiều giá trị văn hóa quý báu, trong đó có nhiều di
sản văn hóa phi vật thể đến nay trở thành di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của quốc
gia như: Hát then, chữ Nôm người Tày, lễ hội Lồng Tồng, nghi lễ cấp sắc Tào...
Cũng như các hoạt động kinh tế, xã hội khác, các hoạt động về di sản văn hóa
phi vật thể của dân tộc Tày ở tỉnh Bắc Kạn cũng cần đến sự quản lý của nhà nước
nhằm đưa các hoạt động đó phát triển đúng định hướng mà Đảng và Nhà nước đã đặt
ra. Việc quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày
ở tỉnh Bắc Kạn là một trong những nhiệm vụ cấp thiết xuất phát từ nhiều lý do:
Thứ nhất, xuất phát từ vai trò giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong đời sống
văn hóa tinh thần của cộng đồng dân cư và đồng bào dân tộc Tày. Các giá trị di sản
văn hóa phi vật thể được coi là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống sinh
hoạt hàng ngày của cộng đồng nói chung và đồng bào dân tộc Tày nói riêng. Trong đời
sống tinh thần, các giá trị di sản văn hóa phi vật thể đóng vai trò quan trọng trong việc
gắn kết cộng đồng dân cư, cộng đồng các dân tộc anh em với nhau; vai trò trong giải
tỏa tâm linh, thỏa mãn nhu cầu tinh thần, vui chơi, giải trí; vai trò giáo dục con người
về đạo đức và lối sống và gìn giữ phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Các di sản văn hóa

phi vật thể như: Hát then, hát lượn, lễ hội Lồng Tồng, lễ Cấp sắc Tào… là món ăn tinh
thần, là truyền thống văn hóa gắn liền với đời sống sinh hoạt hàng ngày, là hoạt động
văn hóa không thể thiếu của đồng bào dân tộc Tày nơi đây. Những giá trị di sản văn
hóa phi vật thể của dân tộc Tày nếu được bảo tồn và phát huy sẽ góp phần làm đa dạng
và phong phú thêm kho tàng văn hóa của dân tộc.
Thứ hai, tác động tiêu cực của cơ chế thị trường và giao lưu, hội nhập quốc tế
đã kéo theo sự tiếp biến và du nhập giữa các luồng văn hóa, phần nào làm biến dạng
các giá trị văn hóa phi vật thể vốn có của nó. Sự du nhập các luồng văn hóa mới đã bóp
méo các giá trị di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng dân tộc Tày nơi đây. Các loại
hình nghệ thuật như: Hát then; hát lượn được thay bằng những bài nhạc trẻ, thế hệ trẻ ít
4


biết đến cây đàn tính và các làn điệu hát then, hát lượn của dân tộc. Lễ hội được tổ
chức bị biến dạng khi phần “lễ” bị cắt bỏ và chỉ còn phần “hội”, lễ hội trở thành nơi
buôn bán tấp nập các loại hàng hóa, là nơi diễn ra trò bói toán, mê tín dị đoan… Thực
trạng tiêu cực trên đang trở thành vấn đề đáng báo động cần thiết phải xem xét, phân
tích và có các giải pháp quản lý, bảo tồn, phát huy hữu hiệu để đưa các di sản văn hóa
phi vật thể của dân tộc Tày trở lại đúng với ý nghĩa và giá trị truyền thống vốn có của
nó.
Thứ ba, bản thân di sản văn hóa phi vật thể nói chung và di sản văn hóa phi vật
thể của đồng bào dân tộc Tày nói riêng chứa đựng giá trị về mặt kinh tế. Thực tế cho
thấy, phát huy và khai thác các giá trị của di sản văn hóa phi vật thể đem lại lợi ích to
lớn về kinh tế, xã hội. Cụ thể, tỉnh Quảng Ninh đã khai thác được giá trị di sản văn hóa
phi vật thể như: Lễ hội đình Lục Nà của đồng bào Tày; lễ hội Xuống đồng ở Hà Nam;
lễ hội Lồng Tồng ở Thanh Lâm (Ba Chẽ) qua phát triển du lịch văn hóa gắn với du
lịch sinh thái và đã đem lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội cho địa phương. Bắc Kạn
cũng là một địa phương giàu tiềm năng văn hóa. Đồng bào dân tộc Tày nơi đây đã
cống hiến nhiều di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có năm di sản văn hóa phi vật thể
quốc gia như: Lễ Cấp sắc Tào, hát Lượn SLương, nghề dệt thủ công truyền thống,

chữ Nôm và lễ hội Lồng Tồng. Các di sản văn hóa phi vật thể của đồng bào dân tộc
Tày trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn nếu được bảo tồn, phát huy và khai thác đúng mức sẽ
mang lại nhiều giá trị kinh tế, góp phần nâng cao đời sống vật chất của đồng bào dân
tộc thiểu số và phát triển kinh tế xã hội địa phương. Chính vì vậy, nghiên cứu giá trị
các di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày trên địa bàn tỉnh và đưa ra giải pháp
bảo tồn, phát huy và khai thác hiệu quả chính là tìm ra bài toán kinh tế, xã hội của địa
phương.
Thứ tư, xuất phát từ thực trạng quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa phi vật thể dân tộc Tày của các cấp chính quyền địa phương Bắc Kạn. Bắc Kạn là
một tỉnh miền núi tập trung rất nhiều các di sản văn hóa phi vật thể, trong đó di sản văn
hóa phi vật thể của dân tộc Tày chiếm số lượng khá lớn. Hàng năm, các hoạt động như:
Lễ hội, các tín ngưỡng, nghi lễ của đồng bào dân tộc Tày đều được diễn ra trên địa bàn
tỉnh. Tuy nhiên, trong đời sống xã hội hiện đại, ý thức người dân và sự quản lý của các
cấp chính quyền địa phương hiện nay còn hạn chế, công tác bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa phi vật thể chưa được quan tâm đúng mức nên nhiều di sản văn hóa phi
5


vật thể đang đứng trước nguy cơ bị mai một, biến dạng. Vì vậy, việc tìm hiểu thực
trạng công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể dân tộc
Tày ở Bắc Kạn nhằm tìm ra giải pháp bảo tồn, quản lý và phát huy giá trị truyền thống
tốt đẹp vốn có của nó.
Thứ năm, xuất phát từ lý do chủ quan. Bản thân em là một người con dân tộc
Tày, sinh ra và lớn lên trong cái nôi văn hóa dân tộc Tày ở Bắc Kạn, được thụ hưởng
các di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc nên em rất mong muốn được chia sẻ các di
sản văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Mặt khác, là sinh viên khoa Quản lí nhà
nước về Xã hội Học viện Hành chính Quốc gia, em đã được trang bị những kiến thức
quản lý nhà nước về văn hóa, trong đó di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày là
một lĩnh vực cụ thể thuộc đối tượng quản lý nhà nước. Em mong muốn rằng, quá trình
tìm hiểu, nghiên cứu đề tài này sẽ giúp em thấy rõ hơn thực tế công tác quản lý, bảo tồn

và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể địa phương mình, từ đó đóng góp ý kiến
nhằm hoàn thiện hơn công tác quản lý, bảo tồn và phát huy trong lĩnh vực này.
Với những lý do trên, em chọn đề tài: “Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn” làm đề tài khóa
luận với mục đích sẽ tìm ra các giải pháp quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa phi vật thể của dân tộc Tày ở địa phương được tốt hơn.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn
hóa phi vật thể và văn hóa truyền thống của dân tộc, cho đến nay đã có khá nhiều công
trình nghiên cứu về di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày như:
- Cuốn sách “Lễ hội nông nghiệp Việt Nam” của tác giả Lê Văn Kỳ
Lễ hội nông nghiệp Việt Nam là cuốn sách viết về lễ hội Lồng Tồng của người
Tày, Nùng ở vùng núi phía Bắc Việt Nam. Trong cuốn sách này, tác giả đã trình bày cụ
thể về địa điểm, thời gian mở lễ hội, cách thức mở lễ hội, những nghi lễ và trò chơi dân
gian được diễn ra trong lễ hội Lồng Tồng. [10, tr.161 – 167]
- Cuốn sách “Lễ hội cầu mùa của các dân tộc Việt Nam” của tác giả Phan Hữu Dật, Lê
Ngọc Thắng, Lê Sĩ giáo và Lâm Bá Nam
Cuốn sách là một cuốn phim thu nhỏ về các lễ hội mang tính chất cầu mùa của
các dân tộc Việt Nam, trong đó có lễ hội Lồng Tồng của đồng bào dân tộc Tày – một lễ
hội truyền thống của dân cư nông nghiệp. Trong cuốn sách, các tác giả đã viết đề cập
6


đến mục đích, ý nghĩa của lễ hội Lồng Tồng, khái quát được kết cấu lễ hội bao gồm
phần “lễ” và phần “hội”, trong đó phần lễ là những nghi lễ mang tính chất tâm linh thể
hiện cái tinh thần còn phần hội thể hiện cái tinh hoa. [4, tr.42 – 50]
- Tác phẩm “Lễ hội dân gian dân tộc Tày” của tác giả Hoàng Văn Páo, Cao Thị Hải
Phần II của cuốn sách nghiên cứu giới thiệu về Lễ cấp sắc của Pụt Tày ở vùng
Ba Bể, Bắc Kạn, được nhà nghiên cứu văn hóa Cao Thị Hải khảo sát qua lễ cấp sắc ở
bản Pyàn, xã Quảng Khê, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Tác giả đã giới thiệu về cách

thức tổ chức, mục đích, ý nghĩa của lễ cấp sắc Tào; khái quát cả quá trình làm thầy của
một con người, từ quá trình vào nghề đến học nghề và nhận thầy và đưa ra những
trường hợp cụ thể để củng cố những nhận định của mình, đó là những ông thầy Pụt
như: Nông Văn Bỉnh (nhân vật được khảo sát chính trong lễ cấp sắc thầy Pụt), Nông
Văn Ninh, thôn Chợ Lèng, Quảng Khê, Ba Bể... giới thiệu về dòng cúng, trình độ và
cấp bậc làm nghề, các việc liên quan đến nghề. [17, tr.196 – 389]
- Dự án “Tổng điều tra di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc thuộc ngữ hệ Tày – Thái
tại Bắc Kạn” của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Kạn năm 2005
Trong đó, dự án đã tiến hành điều tra, khảo sát các di sản văn hóa phi vật thể
như: Chữ Nôm; nghệ thuật truyền thống như hát then, hát lượn, hát ví...; các ngày lễ tết
trong năm; các lễ hội như lễ hội Lồng Tồng, lễ hội được tổ chức tại các đình, đền,
miếu; các trò chơi dân gian; nghề truyền thống; phong tục cổ truyền; văn hóa ẩm thực
và tri thức dân gian của đồng bào dân tộc Tày trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. Dự án tiến
hành đánh giá phân tích thực trạng di sản, đề xuất các giải pháp quản lý, bảo tồn và
phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày. (Phụ lục 1)
- Luận văn thạc sĩ của Lê Thị Phương Thảo, “Hát Lượn SLương của dân tộc Tày qua
khảo sát ở xã Yên Cư, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn”
Khóa luận đã chi tiết hóa các hình thức, không gian diễn xướng, nguồn gốc hát
Lượn SLương, vai trò, ý nghĩa của Lượn Slương trong đời sống sinh hoạt của đồng bào
dân tộc Tày. [35]
- Khóa luận tốt nghiệp của Nông Thị Hậu “Quản lý nhà nước về lễ hội Lồng Tồng xã
Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn”
Khóa luận đã trình bày về mục đích, ý nghĩa lễ hội Lồng Tồng, phân tích, đánh
giá thực trạng QLNN và đề xuất giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối
với lễ hội Lồng Tồng của người Tày ở xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. [6]
7


Ngoài các tác phẩm và công trình nghiên cứu nêu trên, còn rất nhiều cuốn sách
và công trình khác nghiên cứu về di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày nói chung

và dân tộc Tày trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn nói riêng. Tuy nhiên, trong khuôn khổ khóa
luận này, em xin được tìm hiểu về di sản văn hóa phi vật thể dưới góc độ quản lý nhà
nước với mong muốn hiểu thêm về thực tiễn quản lý di sản văn hóa phi vật thể ở địa
phương, chia sẻ những nét đẹp trong các di sản văn hóa phi vật thể người Tày, đồng
thời đóng góp ý kiến góp phần cho công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày ở địa phương được tốt hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Khóa luận được nghiên cứu nhằm mục đích đề xuất các giải pháp quản lý, bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày tỉnh Bắc Kạn trên cơ
sở nghiên cứu thực trạng DSVHPVT và thực trạng QLNN về di sản văn hóa phi vật thể
ở địa phương, đồng thời đúc rút bài học kinh nghiệm quản lý di sản văn hóa phi vật thể
cho tỉnh Bắc Kạn thông qua nghiên cứu kinh nghiệm quản lý di sản văn hóa phi vật thể
của một số quốc gia trên thế giới và một số địa phương ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn QLNN về di sản văn hóa và di sản văn
hóa phi vật thể;
+ Phân tích về thực trạng các di sản văn hóa phi vật thể, thực trạng QLNN, công
tác bảo tồn và phát huy các DSVHPVT của dân tộc Tày trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn để
làm rõ những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế trong công tác quản
lý, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN, hiệu quả công tác bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày trên địa bàn tỉnh Bắc
Kạn;
+ Nghiên cứu kinh nghiệm QLNN về di sản văn hóa phi vật thể của một số quốc
gia trên thế giới và một số địa phương ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
phi vật thể của dân tộc Tày trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
- Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu về các hoạt động QLNN đối với
các di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn, cụ thể như

8


sau:
+ Thời gian: Thời gian nghiên cứu về các hoạt động QLNN về di sản văn hóa
chủ yếu từ năm 2010 đến nay (2010 – 2017). Tuy nhiên, để làm rõ hơn nội dung khóa
luận, em xin được đề cập thêm một số hoạt động điển hình liên quan đến hoạt động
quản lý di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày trên địa bàn tỉnh của những năm
trước đó (từ năm 2005 đến 2009);
+ Không gian: Các hoạt động quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
phi vật thể của dân tộc Tày trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, Khóa luận sử dụng chủ yếu các phương pháp
luận và phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận được sử dụng trong nghiên cứu, thực hiện khóa luận này dựa
trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác
LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây
dựng nền văn hóa tiến tiến và đậm đà bản sắc dân tộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát: Quá trình quan sát, người viết đã tận mắt chứng kiến và tham
gia một số hoạt động về DSVHPVT của dân tộc Tày diễn tại địa phương như: Lễ hội
Lồng Tồng; trò chơi tung còn, kéo co; hát then, hát lượn, phong thư… Từ việc quan sát
đó đã giúp người viết hiểu rõ hơn về DSVHPVT của dân tộc Tày, thấy được thực trạng
tổ chức các hoạt động của địa phương, góp phần bổ sung kiến thức thực tế cho khóa
luận;
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Trên cơ sở những tài liệu, tư liệu và các công trình
nghiên cứu khoa học về DSVHPVT dân tộc Tày nói chung và DSVHPVT của dân tộc
Tày ở tỉnh Bắc Kạn nói riêng; những Đề án, chính sách, Kế hoạch, Quyết định, Chỉ thị,
Nghị quyết trong công tác QLNN về di sản văn hóa phi vật của dân tộc Tày ở tỉnh Bắc

Kạn, trực tiếp là Sở VHTT&DL, người viết có cơ sở để nghiên cứu và đi sâu vào
nghiên cứu thực trạng QLNN về di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày ở địa
phương và đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý về DSVHPVT;
- Phương pháp phỏng vấn: Qua các buổi gặp gỡ, trao đổi với cán bộ quản lý DHPVT
tại Sở VHTT&DL và các cán bộ, công chức của UBND tỉnh Bắc Kạn, người viết đã
9


thu thập được những thông tin, kiến thức về công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá
trị DSVHPVT của dân tộc Tày tại tỉnh, tạo điều kiện cho quá trình nghiên cứu và hoàn
thành khóa luận;
- Phương pháp phân tích: Dựa trên những thông tin đã thu thập được thông qua phương
pháp quan sát, phỏng vấn, nghiên cứu tài liệu, người viết sẽ phân tích những điểm
mạnh, điểm yếu, những khó khăn, hạn chế trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy
giá trị DSVHPVT, từ đó đưa ra hướng khắc phục;
- Phương pháp so sánh: Quá trình nghiên cứu thực trạng QLNN về di sản văn hóa phi
vật của dân tộc Tày tại tỉnh Bắc Kạn, người viết sử dụng phương pháp so sánh với một
số địa phương trong nước và một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới để từ đó đúc rút
kinh nghiệm trong công tác QLNN về di sản văn hóa phi vật thể cho địa phương;
- Phương pháp tổng hợp: Những thông tin cũng như tài liệu thu thập được, người viết
sẽ tiến hành tổng hợp và đánh giá thực trạng QLNN về di sản văn hóa phi vật thể của
dân tộc Tày tại địa phương, từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục, tháo gỡ khó khăn;
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng trong việc thống kê các di sản
văn hóa trên địa bàn: Bao nhiêu di sản đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể
quốc gia; bao nhiêu loại hình đã được sưu tầm, khảo sát; bao nhiêu di sản đã bị thất
truyền.
6. Ý nghĩa khóa luận
6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Khóa luận đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về DSVHPVT và quản lý nhà nước đối
với DSVHPVT. Trong đó người viết đã phân tích khái niệm di sản văn hóa phi vật thể

và khái niệm quản lý nhà nước về DSVHPVT, làm rõ nội dung quản lý nhà nước đối
với di sản văn hóa phi vật thể và sự cần thiết quản lý của Nhà nước đối với hoạt động
này, đồng thời đúc rút kinh nghiệm quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể cho
địa phương thông qua tìm hiểu kinh nghiệm quản lý DSVHPVT của một số địa phương
trong cả nước và một số quốc gia trên thế giới.
Kết quả nghiên cứu lý luận về DSVHPVT và quản lý nhà nước đối với
DSVHPVT có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý, các nhà khoa học, các
giảng viên, sinh viên muốn nghiên cứu, tìm hiểu về công tác QLNN về di sản văn hóa
phi vật thể nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
10


Khóa luận đã trình bày thực trạng công tác QLNN về di sản văn hóa phi vật thể
của dân tộc Tày tỉnh Bắc Kạn, đồng thời phân tích những mặt tích cực, hạn chế, những
mặt làm được và những mặt chưa làm được, làm rõ nguyên nhân của những hạn chế
đó, từ đó đề xuất các biện pháp quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi
vật thể của dân tộc Tày trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
Do vậy, kết quả khóa luận phần nào giúp các nhà quản lý ở địa phương có thể
xây dựng các biện pháp quản lý, bảo tồn và phát huy tối đa giá trị di sản văn hóa dân
tộc Tày, đồng thời khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai muốn tìm hiểu
về di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
7. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật
thể
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể của dân
tộc Tày tỉnh Bắc Kạn
Chương 3: Giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của dân

tộc Tày và tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể tỉnh
Bắc Kạn.

11


Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm di sản văn hóa phi vật thể
Di sản văn hóa phi vật thể là một hợp phần của di sản văn hóa nói chung bên
cạnh di sản văn hóa vật thể. Hai loại hình di sản văn hóa này có mối quan hệ mật thiết
với nhau, tôn vinh nhau tạo nên sự đa dạng của kho tàng văn hóa nhân loại, tuy nhiên
giữa chúng có sự độc lập tương đối:
Di sản văn hóa vật thể là cái hữu hình, tồn tại dưới dạng vật chất có thể nhìn
thấy, sờ thấy được và chúng chứa đựng nhũng hồi ức sống động của loài người, là bằng
chứng vật chất của các nền văn hóa, văn minh nhân loại.
Di sản văn hóa phi vật thể là cái vô hình, được lưu truyền và biểu hiện bằng
hình thức truyền miệng, truyền nghề và các dạng bí quyết nghề nghiệp khác. Trên thực
tế, thuật ngữ “di sản văn hóa phi vật thể” được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
1.1.1.1. Khái niệm di sản văn hóa phi vật thể trên thế giới
Tại khoản 1, Điều 2, Mục I của Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của
UNESCO (2003): “Di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình
thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kĩ năng và kèm theo đó là những công cụ đồ vật, đồ
tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm người và
trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần di sản văn hóa của họ.
Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được các
cộng đồng, các nhóm người không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối
quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hinh thành
trong họ ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với đa

dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người. Vì những mục đích của Công ước này,
chỉ xét đến những di sản văn hóa phi vật thể phù hợp với các văn kiện quốc tế hiện
hành về quyền con người, cũng như những yêu cầu về sự tôn trọng lẫn nhau giữa các
cộng đồng, các nhóm người và cá nhân, và về phát triển bền vững”. [2]
Như vậy theo UNESCO thì di sản văn hóa phi vậ thể được thể hiện qua:
- Các truyền thống và biểu đạt truyền khẩu, trong đó ngôn ngữ là phương tiện của di
sản văn hóa phi vật thể;
12


- Nghệ thuật trình diễn;
- Tập quán xã hội, tín ngưỡng và các lễ hội;
- Tri thức, kinh nghiệm và tập quán liên quan đến tự nhiên và vũ trụ;
- Nghề thủ công truyền thống và một số lĩnh vực khác.
Tại Nhật Bản, Điều 2 của Luật bảo vệ tài sản Văn hóa đã đưa ra định nghĩa di
sản văn hóa phi vật thể là “nghệ thuật, kĩ năng thu nhận được từ các vở kịch, âm nhạc
và nghệ thuật ứng dụng và những sản phẩm văn hóa phi vật thể khác sở hữu giá trị lớn
về lịch sử và nghệ thuật đối với một đất nước”.
Còn tại Croatia - một đất nước ở châu Âu thì quan niệm rằng di sản văn hóa phi
vật thể có thể bao trùm các dạng đặc biệt và các hiện tượng của hoạt động sáng tạo trí
óc được truyền từ đời này sang đời khác bằng bất kì cách thức nào, và đặc biệt là
“ngôn ngữ, thổ ngữ, tiếng bản địa và tất cả các loại văn học truyền thống; sáng tạo
dân tộc trong những lĩnh vực của nhạc, múa, truyền thuyết, trò chơi, lễ hội, phong tục
cũng như các giá trị dân tộc truyền thống khác; kĩ năng truyền thống và nghề thủ
công”.
1.1.1.2. Khái niệm di sản văn hóa phi vật thể tại Việt Nam
Trên cơ sở tiếp thu những quan điểm của UNESCO và các nước, Việt Nam cũng
đã đưa ra quan niệm riêng về di sản văn hóa phi vật thể.
Tại khoản 1, Điều 4, Luật Di sản văn hóa hợp nhất năm 2013 số 10/VBHNVPQH quy định: “Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng
hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa,

khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và
các hình thức khác”. [11]
Từ các khái niệm đã trình bày ở trên có thể thấy hầu hết các khái niệm đều liệt
kê ra các dạng của di sản văn hóa phi vật thể như nghệ thuật múa, nhạc, ngôn ngữ,
nghề thủ công truyền thống… xác định các giá trị nổi bật của di sản văn hóa phi vật
thể. Đó là giá trị lịch sử, giá trị nghệ thuật, giá trị học thuật. Những giá trị ấy là cốt lõi
của vấn đề bảo vệ di sản văn hóa.
Việc cụ thể hóa di sản văn hóa phi vật thể là một điều khó khăn bởi những di sản
này không hiện hữu một cách rõ ràng như một ngôi chùa, hay một công trình kiến trúc
mà cần có con người sử dụng, truyền tải thì người khác mới biết đến sự tồn tại của nó.
Nếu những người cuối cùng lưu giữ di sản đó mất đi thì những di sản ấy cũng sẽ biến
13


mất. Vì vậy, con người là trung tâm của di sản văn hóa phi vật thể.

1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và khoa học
tự nhiên, mỗi lĩnh vực khoa học có định nghĩa về quản lý dưới góc độ riêng của mình.
Dưới góc độ quản lý nhà nước, khái niệm quản lý nhà nước cũng được hiểu theo nhiều
cách khác nhau tùy vào cách tiếp cận của người nghiên cứu.
“Quản lý nhà nước là hoạt động có tổ chức bằng pháp quyền của bộ máy nhà
nước (công quyền) để điều chỉnh các quá trình của xã hội, hành vi của công dân và mọi
tổ chức xã hội, chính trị, khoa học, văn hóa – xã hội nhằm giữ gìn thể chế chính trị, trật
tự xã hội và phát triển xã hội theo đúng mục tiêu đã định”. [7, tr.14]
“QLNN là hoạt động của nhà nước trên tất cả các lĩnh vực lập pháp, hành pháp
và tư pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của nhà nước”. [8, tr.58]
“QLNN là thuật ngữ chỉ sự tác động của chủ thể mang tính quyền lực nhà nước,
bằng nhiều biện pháp tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối

ngoại của nhà nước trên cơ sở các quy luật phát triển của xã hội, nhằm mục đích ổn
định và phát triển đất nước”. [7, tr.261]
Có thể thấy, dù tiếp cận ở góc độ nào thì thuật ngữ QLNN về bản chất vẫn có
những điểm cơ bản giống nhau phản ánh bản chất của quản lý nhà nước:
- Chủ thể quản lý nhà nước bao gồm: Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong đó bao gồm các cơ quan hành pháp, lập pháp, tư pháp và các tổ chức, cá nhân
được nhà nước ủy quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước.
- Khách thể quản lý nhà nước là trật tự quản lý nhà nước, trật tự quản lý xã hội
do pháp luật quy định. Chúng vừa chứa đựng lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân, vừa bao
hàm mục đích mà bên quan hệ quản lý cùng hướng tới bảo vệ.
Có thể hiểu QLNN theo nghĩa bao quát là nói tới chức năng tổng thể của bộ máy
nhà nước với tư cách là một tổ chức quyền lực và mang tính pháp quyền, là tổ chức
công quyền quản lý toàn xã hội bằng các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Như vậy, quản lý và quản lý nhà nước là một hoạt động xã hội đặc trưng. QLNN
luôn mang tính quyền lực, mọi quyết định quản lý luôn mang tính đơn phương một
chiều, bắt buộc thực hiện và khi cần các chủ thể quản lý có thể áp dụng các biện pháp
cưỡng chế thi hành. QLNN là hoạt động có mục tiêu rõ ràng, có chiến lược và kế hoạch
thực hiện, đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải xác định rõ mục tiêu, xây dựng chiến
14


lược và kế hoạch hoạt động của mình nhằm đạt được mục tiêu đã xác định.
QLNN cần đảm bảo nguyên tắc công khai, dân chủ trong hoạt động thể hiện tinh
thần tôn trọng nhân dân, biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến của nhân dân. Quản lý nhà nước
đúng luật sẽ góp phần tích cực vào việc lập lại kỉ cương, trật tự, đặc biệt trong quá trình
tăng cường hội nhập quốc tế, ứng dụng rộng rãi của CNTT làm phong phú những ảnh
hưởng qua lại giữa các nền văn hóa.
1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể
Hoạt động QLNN về di sản văn hóa phi vật thể muốn đạt được hiệu quả cao,
trước hết các cơ quan quản lý nhà nước cần phải hiểu QLNN về di sản văn hóa phi vật

thể là gì, xác định rõ chủ thể, khách thể, mục đích, công cụ và đối tượng quản lý làm cơ
sở kiện toàn bộ máy, phân công chức năng, nhiệm vụ và hoạch định chính sách về
DSVHPVT phù hợp.
Quản lý nhà nước về di sản văn hóa là quá trình tác động có tổ chức và điều
chỉnh bằng quyền lực nhà nước của các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa từ trung
ương đến địa phương đối với các di sản văn hóa, các cơ quan này sử dụng các phương
pháp, công cụ quản lý thích hợp nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị di sản văn hóa
vật thể và phi vật thể theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.
Từ khái niệm trên, khái niệm QLNN về di sản văn hóa phi vật thể có thể trình
bày như sau:
Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể là quá trình tác động có tổ chức
và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước về văn hóa từ trung
ương đến địa phương đối với di sản văn hóa phi vật thể, các cơ quan này sử dụng các
phương pháp, công cụ quản lý thích hợp nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị di
sản văn hóa phi vật thể theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.
Khái niệm QLNN về di sản văn hóa phi vật thể có thể được diễn giải như sau:
- Chủ thể QLNN về di sản văn hóa phi vật thể là Nhà nước với hệ thống cơ quan, tổ
chức, cá nhân được nhà nước ủy quyền thực hiện chức năng QLNN về di sản văn hóa
phi vật thể (Chính phủ, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, UBND các cấp, Sở
VHTT&DL, phòng văn hóa và cấp cơ sở có công chức Văn hóa – Thông tin...)
- Đối tượng quản lý về di sản văn hóa phi vật thể bao gồm các hoạt động của con người
và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể trong các hoạt động
quản lý, sáng tạo và hưởng thụ.
15


- Khách thể quản lý là trật tự quản lý mà các chủ thể quản lý về di sản văn hóa phi vật
thể tác động lên các đối tượng quản lý bằng các phương pháp và công cụ quản lý nhất
định nhằm thực hiện các mục tiêu đã đặt ra, là hệ thống các hành vi, hoạt động của con
người gắn với các tổ chức liên quan đến lĩnh vực DSVHPVT.

- Công cụ quản lý là các văn bản quy phạm pháp luật, thể chế, chính sách của Nhà
nước;
- Mục tiêu quản lý: Quản lý nhằm bảo tồn và phát huy được những giá trị tốt đẹp của di
sản văn hóa phi vật thể, hình thành các giá trị mới phù hợp với thời đại và đúng với chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đề ra.
1.2. Sự cần thiết quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể
Nhà nước là chủ thể quản lý các hoạt động của đời sống xã hội, tất cả các hoạt
động xã hội như kinh tế, giáo dục, y tế hay an ninh quốc phòng... đều cần đến sự quản
lý của nhà nước. Đối với di sản văn hóa phi vật thể thì sự quản lý của nhà nước lại càng
trở nên cần thiết hơn, xuất phát từ các lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ vai trò của nhà nước
+ Vai trò định hướng:
Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc là nhiệm vụ
hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển văn hóa – xã hội đất nước nhất, đặc biệt
trong bối cảnh những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, đô thị hóa, toàn cầu hóa
đang làm mai một những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy, nhà nước
đóng vai trò định hướng cho các di sản văn hóa phi vật thể được gìn giữ và phát huy
đúng giá trị và đúng với định hướng, mục tiêu của Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Vai trò
định hướng ở đây chính là việc nhà nước hướng cho những giá trị nào là tốt đẹp, là tích
cực, có vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng thì sẽ được bảo tồn và phát huy
đồng thời xác định những cái nào đã lạc hậu, không có lợi và không còn phù hợp với
xu thế hiện tại thì sẽ có những biện pháp loại bỏ hoặc thay thế cho phù hợp với thực tế.
Để các di sản văn hóa phi vật thể được gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp vốn có
thì cần thiết phải có sự định hướng của nhà nước thông qua các quy định pháp luật, các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
+ Vai trò hỗ trợ:
Nhà nước không chỉ có vai trò định hướng mà còn đóng vai trò là lực lượng hỗ
trợ quan trọng để các di sản văn hóa phi vật thể có thể được bảo tồn và phát huy đúng
16



giá trị và đúng với định hướng, mục tiêu của Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Vai trò hỗ
trợ của nhà nước đối với các di sản văn hóa là hết sức cần thiết, đặc biệt là đối với di
sản văn hóa phi vật thể là thứ vô hình, rất dễ bị mai một và thậm chí có những giá trị di
sản văn hóa phi vật thể đã mất đi mà chúng ta không hay biết. Nhà nước với vai trò là
“bà đỡ” sẽ thực hiện vai trò hỗ trợ của mình thông qua các hình thức như: Hỗ trợ về
mặt tài chính để tổ chức phục dựng, để bảo tồn và phát huy giá trị các di sản; hỗ trợ
quảng bá các di sản văn hóa phi vật thể; hỗ trợ về mặt pháp lý, hỗ trợ về mặt chuyên
môn nghiệp vụ…
Thứ hai, xuất phát từ vai trò của các di sản văn hóa phi vật thể trong đời sống
xã hội
Di sản văn hóa phi vật thể có vị trí hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần
của nhân dân, là món ăn tinh thần không thể thiếu trong cộng đồng dân cư. Di sản văn
hóa phi vật thể còn là nhu cầu hưởng thụ các giá trị văn hóa của nhân dân, phục vụ cho
lợi ích chung của cộng đồng. Vì vậy, cần có sự quản lý của nhà nước để đảm bảo tất cả
mọi người đều có quyền được hưởng thụ những giá trị của di sản văn hóa phi vật thể
ngang nhau. Đồng thời nhà nước cũng đưa ra các quy định, khuyến khích mỗi người
dân đều phải có trách nhiệm bảo vệ và lưu giữ các giá trị văn hóa đó.
Thứ ba, xuất phát từ thực trạng di sản văn hóa phi vật thể hiện nay
+ Di sản văn hóa phi vật thể tuy là cái vô hình nhưng lại hết sức nhạy cảm khi
nó liên quan trực tiếp đến tín ngưỡng, tôn giáo, dễ bị các phần tử xấu âm mưu lợi dụng
hòng quấy rối an ninh trật tự, làm ảnh hưởng đến an ninh, chính trị của quốc gia đặc
biệt là những vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, trình độ nhận thức còn hạn
chế. Do đó, nhà nước cần phải tiến hành quản lý, ngăn chặn những âm mưu lợi dụng di
sản văn hóa phi vật thể để thực hiện âm mưu phá hoại nhà nước đặc biệt là tín ngưỡng
và tôn giáo nhằm mục đích đảm bảo sự ổn định của xã hội.
+ Những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, CNH – HĐH đã khiến cho
nhiều di sản văn hóa phi vật đã bị mai một, biến dạng và dần mất đi giá trị tốt đẹp của
nó. Thực tế hiện nay cho thấy, các lễ hội truyền thống bị thương mại hóa, trở thành nơi
tụ tập bán hàng, nơi diễn ra các tệ nạn xã hội như đá gà bằng tiền, cờ bạc, ô nhiễm môi

trường... Các nghề truyền thống bị mất dần khi sản phẩm không có thị trường tiêu thụ,
người ta chuộng sản phẩm công nghiệp hơn vì giá thành rẻ và tiện dụng; âm nhạc hiện
đại dần thế chỗ cho âm nhạc truyền thống khi giới trẻ không còn đam mê với dân ca
17


truyền thống; ngôn ngữ, chữ viết dân tộc bị mất dần, lai tạp và rất nhiều câu chuyện
khác về di sản văn hóa phi vật thể bị mai một, tiêu biến. Thực trạng tiêu cực trên đòi
hỏi phải có sự quản lý của nhà nước trong việc gìn giữ, phát huy và xử lý nghiêm các
vi phạm đối với các di sản văn hóa phi vật thể.
Di sản văn hóa nói chung và di sản văn hoá phi vật thể nói riêng là nền tảng tinh
thần của xã hội, là đối tượng, là động lực và mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Do vậy, cần có sự của lý của nhà nước
để đảm bảo các di sản văn hóa phi vật thể phát triển đúng định hướng, mục tiêu của
Đảng và Nhà nước đặt ra theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII nhằm
bảo tồn và phát huy các giá trị tốt đẹp và loại bỏ những yếu tố tiêu cực làm ảnh hưởng
xấu đến thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Như vậy, hoạt động quản lý nhà nước về DSVHPVT là rất cần thiết, góp phần
đảm bảo định hướng lớn của Đảng trong việc “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, đảm bảo các giá trị truyền thống tốt đẹp được
bảo tồn và phát huy, bản sắc văn hóa dân tộc không bị mai một, hòa tan trong quá trình
hội nhập và toàn cầu hóa. Hoạt động quản lý của nhà nước cũng làm cho di sản văn
hóa phi vật thể trở thành tác nhân kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội góp phần hiện
thực hóa quan điểm của Đảng “Văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội”.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể
Hoạt động quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố, trong đó có cả yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan. Việc xác định được
các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động QLNN về di sản văn hóa phi vật thể là cơ sở để cơ
quan quản lý nhà nước có các biện pháp phát huy đối với những yếu tố tích cực và hạn

chế, loại bỏ đối với những yếu tố tiêu cực, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể.
1.3.1. Yếu tố khách quan
Thứ nhất, quá trình toàn cầu hóa đã làm cho nền kinh tế chuyển biến tích cực,
kéo theo các luồng văn hóa mới tạo điều kiện tốt hơn cho nhu cầu hưởng thụ văn hóa
và đa dạng hóa nền văn hóa nước nhà. Tuy nhiên, quá trình này có nguy cơ dẫn đến
xung đột với việc bảo tồn bản sắc văn hóa và tiếp biến văn hóa trên phạm vi toàn thế
giới. Trong bối cảnh đó, văn hóa đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể sẽ bị tổn thương
18


hơn cả. Do đó, việc xử lý hợp lý mối quan hệ giữa bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc và
tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, chống lại những yếu tố tiêu cực từ bên
ngoài, đón lấy thời cơ thuận lợi thúc đẩy văn hóa phát triển là một yêu cầu cấp bách đối
với công tác QLNN về di sản văn hóa dân tộc.
Thứ hai, sự bùng nổ của công nghệ thông tin và sự phát triển mạnh mẽ của viễn
thông, internet tạo nên sự thay đổi lớn trong tiếp cận thông tin trong dân chúng. CNTT
phát triển tạo điều kiện cho tất cả mọi người, mọi tổ chức có sự liên kết với nhau và
liên lạc với xã hội. Nhiều quốc gia trên thế giới đã sử dụng CNTT như một phương tiện
quảng bá và quản lý văn hóa hiệu quả. CNTT đã hình thành một phương thức liên kết
mới: Liên kết xã hội qua môi trường mạng. Điều đó đã đặt ra những vấn đề mới cho
công tác QLNN về di sản văn hóa phi vật thể của nước ta.
Thứ ba, “công nghiệp văn hóa” đang trở thành một xu thế mới trong phát triển
di sản văn hóa. Nhiều quốc gia đi đầu trong lĩnh vực này như Hoa Kì, Hàn Quốc,... đã
chứng minh minh sức mạnh của “công nghiệp văn hóa” gấp nhiều lần so với công
nghiệp khai thác. Công nghiệp văn hóa sẽ là một ngành công nghiệp có tiềm lực trong
tương lai và trở thành xu thế của các nước trên thế giới.
Thứ tư, nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân ngày càng cao và xu hướng
sử dụng hữu ích thời gian nhàn rỗi đang trở nên phổ biến. Xu hướng này đặt ra yêu cầu
mới trong công tác quy hoạch, kế hoạch và xây dựng các dự án phát triển văn hóa đặc

biệt là ngành du lịch văn hóa đáp ứng với nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao của xã hội.
Thứ năm, CNH – HĐH và kinh tế thị trường là mảnh đất màu mỡ cho sự đổi
mới và sáng tạo văn hóa nhưng cũng tạo ra thách thức rất lớn. Đó là sự mâu thuẫn giữa
truyền thống và hiện đại, là sự đấu tranh giữa cái lạc hậu và cái tiến bộ, giữa bảo thủ và
đổi mới. Kinh tế thị trường cùng với quá trình đô thị hóa đã làm thay đổi sâu sắc đến
phong tục, tập quán sinh hoạt cùng với các văn hóa truyền thống, đòi hỏi phải có sự đổi
mới trong công tác quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể, tạo hành lang pháp
lý đảm bảo cho sự phát triển văn hóa theo đúng định hướng và mục tiêu của Đảng và
nhà nước trong cơ chế thị trường.
1.3.2. Yếu tố chủ quan
Thứ nhất, di sản văn hóa phi vật thể do con người sáng tạo ra, tồn tại và phát
triển phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức và ý chí chủ quan của con người, đặc biệt là
chủ thể sáng tạo và chủ thể sở hữu di sản. Ý chí, nhu cầu, nguyện vọng và nhận thức
19


của con người có ảnh hưởng đến tự tồn tại hay tiêu vong của di sản văn hóa trong đó có
di sản văn hóa phi vật thể và chính họ là nhân tố quyết định sự tồn vong hay sự phát
triển của những di sản văn hóa. Hoạt động quản lý nhà nước cần có những cơ chế chính
sách thích hợp nhằm nâng cao nhận thức cá nhân và cộng đồng trong bảo tồn, sáng tạo
và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Thứ hai, bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa chưa được tổ chức hợp lý, bộ máy
ở trung ương đông đảo nhưng lại ít việc, trong khi địa phương nhiều nhiệm vụ và trực
tiếp quản lý các hoạt động văn hóa thì lại thiếu nhân sự. Bộ máy QLNN về văn hóa còn
cồng kềnh, nhiều chức danh, vị trí nên việc phân định chức năng nhiệm vụ chưa rõ
ràng đôi lúc bị chồng chéo giữa các cơ quan dẫn đến hiệu quả QLNN về văn hóa nói
chung và QLNN về di sản văn hóa phi vật thể chưa cao.
Thứ ba, hệ thống các văn bản QPPL, các chủ trương, chính sách có ảnh hưởng
đến hoạt động QLNN về di sản văn hóa phi vật thể. Các văn bản pháp luật tạo nên hành
lang pháp lý cho công tác quản lý, các chính sách có nhiệm vụ tạo điều kiện cho các

giá trị di sản văn hóa phi vật thể được bảo tồn và phát huy đồng thời hỗ trợ cho công
tác quản lý. Các văn bản, chính sách được ban hành, đảm bảo tính thống nhất và được
thực hiện một cách đầy đủ, nhất quán thì hiệu quả quản lý nhà nước sẽ được nâng cao.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ, công chức chuyên môn là một yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói:
“Cán bộ là gốc của công việc, gốc có tốt thì ngọn mới tốt”, hiệu quả hoạt động của bộ
máy quản lý phụ thuộc rất nhiều vào năng lực chuyên môn, tinh thần, thái độ làm việc
và phẩm chất của mỗi cán bộ, công chức.
Thứ năm, tài chính là vấn đề có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động quản lý nhà
nước về văn hóa. Hàng năm nhà nước luôn dành một khoản từ ngân sách nhà nước cho
công tác văn hóa. Là một quốc gia có nền kinh tế chưa phát triển nhưng rất đa dạng
phong phú về di sản văn hóa, ngoài việc trích từ ngân sách cho công tác văn hóa thì
nhà nước cần có cơ chế, chính sách đẩy mạnh xã hội hóa về công tác văn hóa trong đó
có di sản văn hóa phi vật thể.
1.4. Nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể
Nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể là cơ sở để các cơ quan
Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ liên quan đến các hoạt động quản lý di sản
văn hóa phi vật thể. Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể là một nội dung
20


lớn, bao gồm các hoạt động sau:
1.4.1. Ban hành và tổ chức thực hiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di
sản văn hóa phi vật thể
Việc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể là một trong
những nội dung cơ bản để gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc Việt Nam. Quản lý nhà
nước về DSVHPVT trước hết cần xây dựng, ban hành và tổ chức thực thi các văn bản
quy phạm pháp luật về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể.
Các VBQPPL phải quán triệt quan điểm của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương
5 khóa VIII “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc” trong đó có di sản văn hóa phi vật thể và phù hợp với công ước bảo vệ di sản
văn hóa phi vật thể của UNESCO.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công tác quản lý di sản văn hóa phi vật
thể ở nước ta hiện nay bao gồm: Hiến pháp, luật, các văn bản dưới luật.
Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định chung cho công tác quản lý văn
hóa. Tại khoản 1 Điều 60 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước, xã hội chăm lo xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại”.
Luật Di sản văn hóa số 28/2001/QH10; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Di sản văn hóa số 32/2009/QH12 năm 2009; Luật Di sản văn hóa hợp nhất số
10/VBHN-VPQH năm 2013.
Tại Điều 20, Luật Di sản văn hóa hợp nhất số 10/VBHN-VPQH năm 2013 quy
định:
“Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ di sản
văn hóa phi vật thể ngăn chặn nguy cơ làm sai lệch, bị mai một hoặc thất truyền”. [11]
Luật Di sản văn hóa đã có những quy định riêng đối với di sản văn hóa phi vật
thể trong đó có đề cập đến khái niệm di sản văn hóa phi vật thể, quyền và các nghĩa vụ
cá nhân đối với các di sản văn hóa phi vật thể đặc biệt còn có quy định riêng đối với
việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Bên cạnh Luật Di sản văn
hóa, hệ thống VBQPPL về di sản văn hóa phi vật thể còn có những văn bản sau:
- Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành Luật Di sản văn hóa;
- Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020, (Ban hành kèm theo Quyết định số
21


581/QĐ-Ttg ngày 06 tháng 5 năm 2009 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển văn
hóa đến năm 2020);
- Quyết định 36/2005/QĐ – Ttg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24 tháng 5 năm 2005
về việc lấy ngày 23 tháng 11 hàng năm là “Ngày di sản văn hóa Việt Nam”. Nội dung

quyết định đã phần nào khẳng định giá trị của di sản văn hóa, giúp cho người dân tôn
vinh và quan tâm hơn đến các di sản văn hóa, trong đó có di sản văn hóa phi vật thể;
- Quyết định số 3465/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch ngày 13
tháng 10 năm 2015 về việc công bố Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Quyết định đã công bố 17 di sản văn hóa phi vật thể nằm trong Danh mục di sản văn
hóa phi vật thể quốc gia, trong đó có tới 13 di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc
thiểu số (dân tộc Tày có nghi lễ hát then ở tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Thái Nguyên).
- Quyết định số 3247/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch ngày 16
tháng 09 năm 2016 về việc công bố Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Theo Quyết định này, 7 di sản văn hóa phi vật thể đã được đưa vào Danh mục di sản
văn hóa phi vật thể quốc gia, trong đó có Tết cá của người Tày ở tỉnh Hà Giang.
- Quyết định số 4036/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch ngày 21
tháng 11 năm 2016 về việc công bố Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Quyết định đã công bố Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia bao gồm 17 di
sản văn hóa phi vật thể, trong đó tỉnh Bắc Kạn có 2 di sản văn hóa được công nhận là
di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
1.4.2. Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi
vật thể
Di sản văn hóa phi vật thể từ lâu đã trở thành một phần không thể thiếu trong
đời sống tinh thần và tâm linh của nhân dân. Do đó việc bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa phi vật thể là điều cần thiết. Để hoạt động này diễn ra hiệu quả cần có sự
chỉ đạo, tổ chức của các cơ quan nhà nước.
Điều 17 Luật Di sản văn hóa hợp nhất năm 2013 quy định:
“Nhà nước bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể thông qua các biện
pháp sau đây:
1. Tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, phân loại di sản văn hóa phi vật thể.
2. Tổ chức truyền dạy, phổ biến, xuất bản, trình diễn và phục dựng các loại hình di sản
văn hóa phi vật thể.
22



3. Khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân nghiên cứu, sưu tầm, lưu giữ,
truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể.
4. Hướng dẫn nghiệp vụ bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể theo đề
nghị của tổ chức, cá nhân nắm giữ di sản văn hóa phi vật thể.
5. Đầu tư kinh phí cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể,
ngăn ngừa nguy cơ làm mai một, thất truyền di sản văn hóa phi vật thể”. [11]
Trên cơ sở các quy định của Luật Di sản văn hóa, Bộ VHTT&DL đã ban hành
Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL quy định về việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật
thể và lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể đưa vào Danh mục di sản văn hóa
phi vật thể quốc gia. Thông tư đã cụ thể rõ các quy định đối với công tác kiểm kê và
lập hồ sơ khoa học đối với những di sản văn hóa phi vật thể đủ điều kiện theo quy định.
Cụ thể:
Điều 4, Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL quy định:
“ Đối tượng kiểm kê
1. Đối tượng kiểm kê là di sản văn hóa phi vật thể đang tồn tại, bao gồm các loại hình
sau đây:
a) Tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam;
b) Ngữ văn dân gian, bao gồm sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò, vè, câu đố, truyện cổ
tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các biểu đạt khác được
chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết;
c) Nghệ thuật trình diễn dân gian, bao gồm âm nhạc, múa, hát, sân khấu và các hình
thức trình diễn dân gian khác;
d) Tập quán xã hội, bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ và các
phong tục khác;
đ) Lễ hội truyền thống;
e) Nghề thủ công truyền thống;
f) Tri thức dân gian, bao gồm tri thức về thiên nhiên, đời sống con người, lao động sản
xuất, y, dược học cổ truyền, ẩm thực, trang phục và các tri thức dân gian khác.
2. Ưu tiên kiểm kê di sản văn hoá phi vật thể đang bị mai một cần bảo vệ khẩn cấp” [36].

Trên cở sở các VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên, chính quyền địa
phương tiến hành các hoạt động quản lý giá trị di sản văn hóa phi vật thể, tổ chức các
hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Tùy vào từng loại hình di sản, điều kiện
23


kinh tế, xã hội địa phương lựa chọn các biện pháp bảo tồn thích hợp. Cơ quan quản lý
nhà nước có thể sáng tạo, học hỏi kinh nghiệm của các địa phương xây dựng mô hình
bảo tồn và phát huy giá trị di sản phù hợp, phát huy được hiệu quả tối ưu.
1.4.3. Tổ chức hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể
Để thực hiện tốt công tác quản lý di sản văn hóa phi vật thể, Nhà nước đã hình
thành một hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương được
quy định trong Luật Di sản văn hóa hợp nhất số 10/VBHN-VPQH năm 2013, cụ thể
như sau:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hóa. Chính phủ quy định cụ thể
trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc phối
hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về
di sản văn hóa
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý
nhà nước về di sản văn hóa.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm quản lý nhà nước
về di sản văn hóa theo phân công của Chính phủ.
- Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình thực hiện
việc quản lý nhà nước về di sản văn hóa ở địa phương theo phân cấp của Chính phủ [11].
Sơ đồ hệ thống quản lý nhà nước về văn hóa – di sản văn hóa phi vật thể

CHÍNH PHỦ

Bộ Văn hóa Thể
thao và Du lịch

Sở Văn hóa
TT&DL

UBND cấp tỉnh

Phòng Văn hóa
– Thông tin

UBND cấp
huyện

Công chức Văn
hóa – Xã hội

UBND cấp xã

: Chỉ đạo trực tiếp
24


: Chỉ đạo chuyên môn
Như vậy, công tác quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể cấp tỉnh đã
được cụ thể hóa về tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ. Hoạt động QLNN về di sản
văn hóa phi vật thể cấp tỉnh sẽ chịu sự quản lý và phân cấp của cơ quan QLNN cấp trên
(Chính phủ, Bộ VHTT&DL).
1.4.4. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa phi vật thể
Công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể là một trong
những yêu cầu cấp thiết xuất phát từ thực trạng các di sản văn hóa phi vật thể ngày
càng bị mai một, mất dần đi giá trị truyền thống tốt đẹp mà ông cha ta đã tạo dựng, hun

đúc từ ngàn đời nay. Thực trạng trên đòi hỏi Nhà nước phải vào cuộc huy động, quản lý
và sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả để thực hiện công tác bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa phi vật thể.
Trước tiên là về nhân lực, nhân lực hay con người là yếu tố quyết định đến hiệu
quả công tác quản lý cũng như hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Nhân lực ở
đây bao gồm: Các cán bộ, công chức thực hiện chức năng QLNN về di sản văn hóa phi
vật thể; các nghệ nhân, những người đang nắm giữ, sở hữu di sản văn hóa phi vật thể;
nhân dân, những người hưởng thụ văn hóa tinh thần.
Đối với cán bộ, công chức, để hoạt động quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa có hiệu quả, cơ quan quản lý nhà nước cần xây dựng chính sách nguồn
nhân lực phù hợp trong đó có chính sách thu hút nhân tài, tiếp nhận và có cơ chế ưu đãi
đối với công chức có trình độ chuyên môn cao, sử dụng con người đúng với trình độ
chuyên môn và vị trí công việc, xây dựng cơ chế khen thưởng phù hợp thúc đẩy động
lực làm việc đồng thời cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên
môn của cán bộ công chức, cử cán bộ công chức xang học hỏi kinh nghiệm từ địa
phương và các nước bạn. Có cơ chế sử dụng nhân lực đúng người, đúng việc, giao việc
đồng thời giao quyền tự chủ gắn trách nhiệm công việc.
Đối với nghệ nhân, những người đang nắm giữ và sở hữu di sản văn hóa phi vật
thể, cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường các chính sách hỗ trợ các nghệ nhân, đặc
biệt là các nghệ nhân có hoàn cảnh khó khăn. Ngoài ra, cơ quan quản lý nhà nước cần
có các cơ chế chính sách khuyến khích, động viên các nghệ nhân, những người đang
nắm giữ di sản tham gia vào các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
25


×