Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Rèn luyện kĩ năng làm một bài văn tự sự cho học sinh khối lớp 6 (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.17 KB, 21 trang )

SÁNG KIẾN
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Trong chương trình Trung học Cơ sở môn Ngữ văn là một trong những
môn Khoa học Xã hội có vai trò rất quan trọng. Môn học này tác động rất sâu
sắc đến đời sống tình cảm, tâm hồn của mỗi con người. Nó hướng con người
đến đỉnh cao của chân, thiện, mỹ; đại thi hào văn học Nga: Mắc xim Gocki từng
viết: “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào
bản thân và làm nảy nở con người khát vọng hướng đến chân lý”. Văn học
“chắp đôi cánh” để các em đến với mọi thời đại văn minh, để vươn tới tương lai
với ước mơ, hoài bão, lý tưởng cao đẹp. Nhưng từ lâu môn Ngữ văn khiến học
sinh có suy nghĩ đó là môn học không dễ đạt điểm cao, phần tiếng Việt khô
khan, phần văn dài dòng nên ngại học, ngại viết. Vì thế đối với mỗi thầy cô giáo
dạy môn ngữ văn, THCS nói chung, và môn Ngữ văn 6 nói riêng, ngoài việc
cung cấp kiến thức nội dung bài học theo SGK, chuẩn kiến thức kĩ năng, tài liệu
học tập,… còn phải không ngừng tìm tòi, đổi mới sáng tạo phương pháp giảng
dạy để tạo hứng thú cho các em. Song một nhiệm vụ cũng không kém phần
quan trọng nữa là giáo viên dạy Ngữ văn ở THCS là: làm thế nào giúp học sinh
rèn luyện tốt kĩ năng làm văn nhất là văn tự sự.
Qua thực tế khi giảng dạy môn Ngữ văn 6 tôi thấy học sinh giỏi môn Ngữ
văn là chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Khi chấm bài tập làm văn đa số các em
biến bài văn tự sự thành văn tả dài dòng, khô khan, vốn từ nghèo nàn. Vậy làm
thế nào để nâng cao chất lượng dạy học tập làm văn nhất là văn tự sự cho học
sinh lớp 6? Để tìm câu trả lời cho câu hỏi này là cả quá trình. Với vai trò là một
người giáo viên đứng lớp trực tiếp giảng dạy các em, tôi đã tìm tòi phân tích
thực trạng và lựa chọn: “Rèn luyện kĩ năng làm một bài văn tự sự cho học sinh
khối lớp 6”.

2. Mục đích nghiên cứu
Khi chọn hướng nghiên cứu: “Rèn luyện kĩ năng làm một bài văn tự sự cho
học sinh khối lớp 6” với mục đích cung cấp cho học sinh một con đường nhanh


trong khi làm bài viết. Ngoài ra với mục đích để trao đổi với đồng nghiệp cùng


nhau bổ khuyết, xây dựng cho giải pháp càng hoàn thiện hơn trong quá trình áp
dụng.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối với đề tài sáng kiến này tôi chỉ nghiên cứu và dừng lại ở 2 vấn đề:
- Các yếu tố tự sự cơ bản tạo nên một tác phẩm tự sự.
- Trên cơ sở khai thác các yếu tố nghệ thuật cơ bản tạo nên một tác
phẩm tự sự, qua đó rèn kĩ năng làm một bài văn tự sự cho các em.
Qua việc nghiên cứu này cung cấp cho học sinh những giải pháp giúp các
em làm một bài văn đúng và hay.
Những biện pháp này chỉ áp dụng trong phạm vi văn bản tự sự trong
chương trình Ngữ văn 6.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Sáng kiến này được vận dụng vào thực tế giảng dạy lớp 6/4, thuộc Trường
trung học cơ sở Ngô Thì Nhậm.

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận
Sách Ngữ văn 6 hiện nay là dạng tích hợp của ba phân môn Văn học –
tiếng Việt – Tập làm văn, sự tích hợp đó đã tạo nên một nét mới đối với việc


giảng dạy của giáo viên, với học sinh Trung học cơ sở nói chung và học sinh lớp
6 nói riêng.
Trong quá trình tiếp cận thể lọai văn tự sự cũng như cách thức viết văn tự

sự. Tôi nhận thấy, việc học sinh muốn kể lại một câu chuyện đã trở nên khó
khăn so với chương trình cũ. Để kể được câu chuyện hay, học sinh cần phải nắm
được các yếu tố kể chuyện trong văn tự sự. Ngòai ra cần phải có sự kết hợp giữa
miêu tả và biểu cảm.
Thông thường học sinh có thói quen khi giáo viên yêu cầu kể thì cứ kể chứ
không quan tâm đến các yếu tố kể chuyện. Vì vậy học sinh làm văn kể chuyện
còn nhiều thiếu sót.
Ở phân môn tập làm văn lớp 6 trọng tâm là phương thức biểu đạt tự sự và
phương thức biểu đạt miêu tả.
Phương thức tự sự là kiểu bài các em học sinh lớp 6 được làm quen ở học
kì I.
Tự sự là phương thức chủ yếu để thông báo sự việc, tìm hiểu sự vật, đáp
ứng yêu cầu nhận thức của người đọc, người nghe. Trước đây, người ta thường
gọi tự sự một cách nôm na là văn kể chuyện. Hiểu theo nghĩa này thì có thể coi
tự sự là phương thức kể chuyện, kể lại một chuỗi sự nối tiếp nhau theo một trình
tự hợp lí, có mở đầu, có diễn biến và có kết thúc. Những trình tự thường gặp
trong văn kể chuyện là trình tự thời gian, trình tự không gian, trình tự cuộc đời
các nhân vật, trình tự sự việc… Kể chuyện tức là kể về đời, kể về người theo
một điểm nhìn nào đó, nhằm một mục đích, nội dung ý nào đó của người kể.
Thông thường, người kể hay gửi gắm trong câu chuyện của mình một vấn đề mà
cuộc sống đặt ra. Vấn đề đó có thể rất rộng lớn, liên quan tới đất nước, xã hội,
thời đại. Nhưng vấn đề đó có thể rất rộng lớn, liên quan tới đất nước, xã hội,
thời đại. Nhưng vấn đề đó cũng có thể rất nhỏ hẹp, chỉ liên quan tới một cuộc
đời, một khía cạnh tâm hồn, tình cảm của con người. Qua câu chuyện, người kể
bày tỏ hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp thái độ khen chê của mình đối với nhân vật,
đối với sự việc. Do đó văn kể chuyện thường mang đậm dấu ấn chủ quan của
tác giả.
Do đó, khi viết bài văn tự sự giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh nắm
được các đặc điểm của văn tự sự để các em hoàn thành bài viết của mình.


2. Cơ sở thực tiễn


Là một giáo viên dạy văn, lại thường xuyên dạy các em khối 6, bản thân
tôi luôn trăn trở trước mỗi bài tập làm văn của các em: Làm thế nào để các em
thực sự say mê, khi viết một bài tập làm văn, làm thế nào để các em dễ dàng kể
lại một câu chuyện, một câu chuyện trong đời sống, một câu chuyện trong
tưởng tượng… thể hiện được tư duy tình cảm của mình trong nội dung câu
chuyện, ý nghĩa của chuyện.
Qua việc giảng môn Ngữ văn ở trường THCS tôi thấy phương pháp tự sự
là một kiểu bài có vị trí quan trọng trong chương trình Ngữ văn của các em,
giúp các em phát huy được năng lực văn học của mình. Với những lí do trên, tôi
đã chọn đề tài: “Rèn luyện kĩ năng làm một bài văn tự sự cho học sinh khối lớp
6”.

3. Thực trạng của vấn đề
Hiện nay học sinh bậc Trung học cơ sở còn khá nhiều mặc hạn chế trong
việc làm văn, đặc biệt là học sinh đầu cấp THCS (lớp 6). Vì các em vừa mới ở
bậc tiểu học chuyển lên lại phải tiếp xúc với chương trình thay sách giáo khoa.
Những hạn chế mà các em học sinh THCS nói chung và học sinh lớp 6 nói riêng
thường mắc phải là:
- Các em chủ yếu là được dạy học vần, đặt câu, viết chính tả. Khi làm văn
lại theo khuôn mẫu chưa có tính sáng tạo và đào sâu, năng lực diễn đạt còn yếu.
- Phân môn tập làm văn của bậc tiểu học cũng chỉ học sơ lược về thể loại
kể chuyện, không chuyên sâu vào các yếu tố kể chuyện.
Chính vì những thực trạng trên nên khi các em rời khỏi bậc tiểu học lên
THCS phải tiếp cận với môn ngữ văn khá xa lạ (có cả ba phân môn: Văn học tiếng Việt - Tập làm văn) vừa ngỡ ngàng, vừa phức tạp vì một bài phải học
nhiều phân môn khác nhau nhưng có mối quan hệ với nhau (theo hướng tích
hợp). Nhất là đối với phân môn Tập làm văn học sinh khó có thể tiếp thu nhanh
chóng về thể loại kể chuyện. Đó chính là cái khó mà giáo viên dạy Ngữ văn 6

phải nhận lấy; đồng thời người giáo viên dạy Ngữ văn 6 còn phải rèn luyện cho
học sinh nắm vững kiến thức để làm nền tảng cho các em lên những lớp cao
hơn.
Do chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 6 theo quan điểm giáo dục tích
hợp hiện đại nên việc dạy và học của giáo viên và học sinh gặp không ít khó
khăn.


4. Các giải pháp tiến hành
4.1 Các yếu tố nghệ thuật cơ bản tạo nên một tác phẩm tự sự
a. Cốt truyện
Cốt truyện là yếu tố đầu tiên của văn tự sự. Có thể coi đây là một trong
những nét đặc trưng để phân biệt giữa văn tự sự với phương thức biểu đạt khác
như văn miêu tả, văn nghị luận,… Tùy thuộc vào quy mô dài ngắn khác nhau
của tác phẩm mà cốt truyện có thể phức tạp hoặc đơn giản, nhiều tình tiết hoặc
ít tình tiết. Tuy nhiên dù ở mức độ nào thì cốt truyện của văn tự sự cũng phải
đảm bảo gồm một chuỗi sự việc nối tiếp nhau trong một thời gian và không gian
cụ thể, có nguyên nhân, có diễn biến, có điểm mở đầu và điểm kết thúc. Đặc
biệt là cốt truyện phải có ý nghĩa nhất định. Thực tế cho thấy, chính sức hấp dẫn
của cốt truyện sẽ góp phần rất lớn trong việc tạo nên thành công của tác phẩm.
Và ngược lại, nếu cốt truyện quá sơ sài, nhạt nhẽo thì sẽ không đủ điều kiện để
tạo nên một tác phẩm hay, có sức chinh phục người đọc, người nghe.
Cốt truyện thường tạo nên bởi một loại chất liệu cơ bản. Đó là các sự kiện
với những tình tiết cụ thể. Hệ thống sự kiện các tình tiết này không phải do nhà
văn tạo ra mà thường đã có sẵn trong cuộc sống vốn dĩ đầy biến động, phong
phú và phức tạp. Xét trong phạm vi gia đình thì có quan hệ con cái – bố mẹ, anh
chị - em, vợ - chồng, mẹ chồng – nàng dâu… Xét về phạm vi xã hội thì có quan
hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng, quan hệ giữa con người
với thiên nhiên, quan hệ giữa các dân tộc. Từ mối quan hệ ấy nảy sinh ra biết
bao nhiêu vấn đề : vấn đề đấu tranh giữa cái tốt với cái xấu, cái mới với cái cũ,

sự cao thượng và thấp hèn; vấn đề tình yêu thương, niềm tin, ước mơ, hi vọng…
Đối với các em học sinh khi làm một bài văn tự sự, việc tìm cốt truyện
cũng rất khó khăn. Qua việc chấm bài của các em thường tạo ra những cốt
truyện đơn giản, khuôn sáo, thiếu sự hấp dẫn. Ví dụ ở bài viết số 2, tôi yêu cầu
“Kể về một việc tốt mà em đã làm” hầu hết các em đều chọn cốt truyện là giúp
bà cụ lớn tuổi qua bên kia đường, việc trả lại người bị mất ví hoặc giúp em nhỏ
bị lạc trở về với gia đình mình. Đa phần những cốt truyện này thường có sẵn
trong những bài tập đạo đức mà các em được học ở chương trình lớp 5. Có
nghĩa là câu chuyện các em học sinh kể còn sơ sài, tình tiết còn ít, sự kiện, diễn
biến câu chuyện thường đơn giản khiến cho bài văn mất đi sự hấp dẫn, không


những thế có nhiều bài còn làm chưa đúng trọng tâm yêu cầu mà đề ra. Do đó
tôi luôn định hướng cho các em xây dựng cốt truyện khi làm bài.
Cụ thể:
Cần tạo tình huống cho cốt truyện. Tình huống được tạo nên phải thật sự
bất ngờ. Việc đưa ra tình huống và xử lí tình huống cũng đòi hỏi phải linh hoạt,
khéo léo, không nên hấp tấp, vội vàng giải quyết ngay tình huống vừa đưa ra mà
nên chọn thời điểm giải quyết tình huống một cách hợp lí đối với người đọc và
người nghe.
Trong chuỗi các tình tiết đưa vào cốt truyện, người kể chuyện phải biết
nhấn mạnh vào tình tiết quan trọng và lướt qua những tình tiết phụ tạo nền để
làm nổi bật tình tiết chính.
Không nên chọn cốt truyện đơn giản khi kể, dù là kể chuyện người thật,
việc thật hay kể chuyện sáng tạo thì cốt truyện cũng phải bắt rễ từ hiện thực
cuộc sống.

b. Nhân vật
Văn tự sự chính là kể chuyện – kể chuyện đời, chuyện người. Do đó, nhân
vật là một yếu tố nghệ thuật hết sức quan trọng không thể thiếu được của mỗi

tác phẩm tự sự. Có thể khẳng định rằng nhân vật đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Trước hết, nhân vật là những con người bằng xương, bằng thịt, có tên tuổi,
có diện mạo, tính cách, có cuộc đời riêng (Vợ chồng ông lão đánh cá trong
truyện cổ tích Ông lão đánh cá và con cá vàng theo lời kể của Pu-skin, chàng
dũng sĩ Thạch Sanh trong truyện cổ tích cùng tên…)
Thế giới nhân vật trong tác phẩm tự sự rất đa dạng, phong phú. Nếu xét về
vai trò thì có nhân vật chính, nhân vật phụ. Nhân vật chính là những người
thường xuất hiện nhiều, đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện chủ đề của
tác phẩm, chi phối toàn bộ diễn biến của cốt truyện. Còn nhân vật phụ là những
nhân vật xuất hiện ít hơn, đóng vai trò bổ trợ để làm nổi bật hình tượng nhân vật
chính cũng như chủ đề của tác phẩm (Trong truyền thuyết Thánh Gióng, Thánh
Gióng là nhân vật chính, người mẹ, sứ giả, nhà vua, dân làng… là nhân vật phụ.
Trong truyện cổ tích Cây bút thần của Trung Quốc, Mã Lương là nhân vật
chính, cụ già trong mơ, tên địa chủ, nhà vua,… là nhân vật phụ.)


Tuy nhiên, qua bài làm của các em, tôi thấy các em chỉ quan tâm đến diễn
biến của câu chuyện mà chưa khắc họa được chân dung nhân vật mình muốn kể.
Các em chưa cân nhắc xem với bài viết như vậy cần bao nhiêu nhân vật là đủ?
Nhân vật nào là nhân vật chính, nhân vật nào là nhân vật phụ. Bởi vậy, theo
kinh nghiệm đứng lớp tôi đã hướng dẫn các em như sau:
Nhân vật được xây dựng trong tác phẩm tự sự phải xuất phát từ nguyên
mẫu ngoài đời, không nên bịa đặt tùy ý làm cho chân dung của nhân vật được
kể thêm phi lí.
Khi kể về một nhân vật phải quan tâm đến thao tác miêu tả ngoại hình để
làm nổi bật tính cách của nhân vật. Nhiều khi nhân vật chỉ cần khắc sâu bằng
một nét đặc điểm ngoại hình hay tính cách nào đó cũng gây ấn tượng đậm nét
cho người đọc. Từ đó chân dung của nhân vật cùng với đặc điểm ngoại hình sẽ
góp phần làm nổi bật cho chủ đề tư tưởng của tác phẩm.


c. Các chi tiết nghệ thuật
Như trên đã trình bày, cốt truyện phải được tạo nên bởi một chuỗi những
sự việc, những chi tiết nghệ thuật. Có những chi tiết lớn, đóng vai trò chính để
dẫn dắt cốt truyện, lại có những chi tiết nhỏ, chỉ đóng vai trò bổ trợ làm rõ
những chi tiết lớn. Tuy nhiên, dù lớn hay nhỏ thì xuất hiện của các chi tiết nghệ
thuật đều có ý nghĩa trong việc bộc lộ chủ đề của tác phẩm cũng như làm nổi
bật đặc điểm của các nhân vật (về cả ngoại hình lẫn tính cách).
Thế nhưng, khi đưa chi tiết vào tác phẩm, các em học sinh chưa có sự lựa
chọn thật tinh tế, công phu. Số lượng chi tiết nhiều hay ít không quan trọng.
Điều đáng lưu tâm ở đây là mỗi chi tiết dù lớn hay nhỏ đều có ý nghĩa đóng một
vai trò nào đó trong việc thể hiện dụng ý về nghệ thuật của người viết.
Thông thường, ở những tác phẩm nghệ thuật thành công, cũng xuất hiện
những chi tiết nghệ thuật đặc sắc được coi là điểm sáng. Chẳng hạn như chi tiết
kết thúc truyện ngắn Bức tranh của em gái tôi (Tạ Duy Anh) cũng là một chi tiết
bất ngờ làm sáng lên toàn bộ cốt truyện. Đó chính là chi tiết người anh “giật
sững người”. “ngỡ ngàng”, “hãnh diện”, “xấu hổ”, “muốn khóc” khi nhận ra cậu
bé đang ngồi suy tư, mơ mộng trong bức tranh mà em gái vẽ khi tham gia trại
thi vẽ quốc tế chính là mình. Chi tiết này góp phần lí giải một loạt những chi tiết
ở trên : người anh thì luôn luôn mặc cảm về sự “bất tài”, cho rằng mình “bị đẩy


ra ngoài” nên đem lòng ghen ghét đối với em. Như vậy, các chi tiết nghệ thuật
đóng vai trò rất là quan trọng trong việc làm văn tự sự về các tác phẩm văn học.

d. Ngôi kể và lời kể, lời thoại trong văn tự sự
* Ngôi kể
Có thể kể chuyện theo ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba,cũng có thể kết hợp
cả hai ngôi kể trên. Mỗi ngôi kể đều có ưu thế của nó.
Kể theo ngôi thứ nhất tức là người kể tự xưng “tôi” (không nhất thiết phải

chính là tác giả), trực tiếp xuất hiện để dẫn dắt toàn bộ diễn biến của câu
chuyện, tức là kể lại những gì mình nghe, mình thấy, mình trải qua, và vì thế có
thể trực tiếp nói ra những cảm tưởng, ý nghĩ của mình. Ở tác phẩm Dế Mèn
phưu lưu kí, Bức tranh của em gái tôi, tác giả Tô Hoài và Tạ Duy Anh đã sử
dụng ngôi kể này. Các nhân vật tự xưng tôi : chú Dế Mèn, người anh trai là
những người trực tiếp tham gia câu chuyện, và đã gửi gắm trong lời kể những
suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của mình. Các câu chuyện được kể theo ngôi thứ nhất
thường là câu chuyện tường thuật, hồi ức. Chẳng hạn như: “Chao ôi có biết đâu
rằng : hung hăng, hống hách, láo chỉ tổ đem thân mà trả nợ những cử chỉ ngu
dại của mình thôi. Tôi đã phải trải cảnh như thế. Thoát nạn rồi, mà còn ân hận
quá, ân hận mãi. Thế mới biết, nếu đã trót không suy tính, lỡ xảy ra những việc
dại dột, dù về sau có hối cũng không thể làm lại được” (Dế Mèn phiêu lưu kí –
Tô Hoài).
Kể theo ngôi thứ ba là người kể tự giấu mình, không xuất hiện trực tiếp,
gọi các nhân vật bằng chính tên gọi của chúng hoặc bằng các đại từ nhân xưng ở
ngôi thứ ba : ông (ấy), bà (ấy), anh (ấy), chị (ấy), cô (ấy)…Mọi diễn biến hành
động thái độ của các nhân vật đều được miêu tả một cách linh hoạt, tự do,
không bị gò bó. Cách kể này có ưu thế là được tính khách quan của câu chuyện ,
khiến cho người đọc, người nghe có cảm giác toàn bộ diễn biến của câu chuyện
đang diễn ra như nó đã từng có trong cuộc sống, và nhà văn chính là người thư
kí trung thành ghi chép một cách trung thành và đầy sáng tạo. Hầu như đa số
các tác phẩm tự sự, đặc biệt là các truyện cổ dân gian đều kể theo ngôi này:
“Hùng Vương lúc về già, muốn truyền ngôi, nhưng nhà vua có những hai mươi
người con trai, không biết chọn ai cho xứng đáng…” (Truyền thuyết Bánh
chưng, bánh giầy).


Tuy nhiên, trong thực tế, có những trường hợp có thể kết hợp cả hai ngôi
kể trên, tức là có khi kể ở ngôi thứ nhất (xưng “tôi”), có khi lại kể ở ngôi thứ ba
(dùng danh từ hoặc đại từ ở ngôi thứ ba để gọi nhân vật).

* Lời kể và lời thoại
Lời kể và lời thoại trong văn tự sự cũng đòi hỏi phải thực sự dụng công.
Trước hết, hãy nói về lời kể. Thông thường nhắc tới lời kể là người ta nghĩ
ngay tới lời dẫn dắt cốt truyện, giới thiệu thời gian không gian theo kiểu “Ngày
xửa ngày xưa, ở tại một làng nọ…”, hay “Buổi sáng hôm ấy”…, “Có lần…”,
“Một hôm”. Lời kể còn là lời giới thiệu nhân vật – giới thiệu về lai lịch, tên
tuổi, đặc điểm hình dáng, tính tình : “Ngày xưa, ở miền đất Lạc Việt, cứ như
bây giờ là Bắc Bộ nước ta, có một vị thần thuộc nòi rồng, con trai thần Long
Nữ, tên là Lạc Long Quân. Thần mình nòi rồng, thường ở dưới nước, thỉnh
thoảng lên sống trên cạn, sức khỏe vô địch, có nhiều phép lạ” (truyền thuyết
Con Rồng cháu Tiên). Tuy nhiên trong các tác phẩm, lời kể rất linh hoạt, bao
gồm trần thuật, miêu tả, tường thuật. Có nghĩa là ngay trong cùng một đoạn văn
tự sự đã phải bao gồm tất các hình thức ấy.
Còn lời thoại cũng phải rất sáng tạo. Người viết văn tự sự phải chọn lời
thoại thật hợp với văn cảnh, hợp với nhân vật (liên quan tới tuổi tác, nghề
nghiệp, tính cách…). Lời nhân vật là thiếu nhi thì hồn nhiên, ngây thơ, pha chút
nũng nịu; lời nhân vật người già thì điềm đạm…Đặc biệt lời thoại phải có kèm
đệm chêm xen những từ ngữ đưa đẩy để làm rõ thái độ của nhân vật. Các nhà
văn thường dùng kiểu ngôn ngữ đối thoại sát với đời thường, thậm chí có thể sử
dụng ngôn ngữ địa phương để tăng thêm tính chân thực cho nhân vật. Câu văn
trong đối thoại cũng không nhất thiết phải đầy đủ kết cấu C – V, có thể dùng
kiểu câu tỉnh lược.

e. Thứ tự kể trong văn tự sự
Việc sắp xếp thứ tự kể trong một tác phẩm tự sự là cả một nghệ thuật. Do
đó giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết các thứ tự trong văn tự sự.
Người ta có thể kể theo thứ tự thời gian, chuyện xảy ra trước kể trước,
chuyện xảy ra sau kể sau. Đây là trình tự thường thấy ở các truyện kể dân gian.
Để làm nổi bật diễn biến của cốt truyện, tác giả dân gian thường dùng một tập
hợp gồm các từ ngữ chỉ thời gian đặt ở đầu các đoạn truyện : Ngày xửa ngày

xưa…; Hồi ấy…; Một hôm…; Từ đó…, v.v…


Ví dụ: Truyện Con Rồng cháu Tiên : “Ngày xưa… Bấy giờ…Ít lâu sau…
Thế rồi một hô…”.
Ta cũng có thể kể chuyện theo trình tự các nhân vật. Kể diễn biến cuộc đời
của nhân vật này rồi lại chuyển sang kể diễn biến cuộc đời của nhân vật khác.
Trình tự kể chuyện này thường thấy ở các truyện Nôm.

4.2. Trên cơ sở khai thác các yếu tố nghệ thuật cơ bản tạo nên một tác
phẩm tự sự, qua đó rèn kĩ năng làm một bài văn tự sự cho các em.
Bước đầu để học sinh xoáy vào trọng tâm của thể loại bắt buộc giáo viên
phải hướng dẫn học sinh cách tìm hiểu các dạng đề bài của văn kể chuyện. Khi
đề cập vấn đề này, đòi hỏi giáo viên phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu sự khác
nhau của các hình thức kể chuyện. Đó chính là yêu cầu giúp học sinh sau này
khi kể chuyện sẽ phân biệt được yêu cầu của đề bài không còn nhầm lẫn về yêu
cầu thể loại. Sau khi đọc kỹ đề bài giáo viên yêu cầu học sinh gạch chân những
từ, ngữ quan trọng trước.
Ở đây khi nêu dẫn chứng minh họa, tôi sẽ đào sâu vào ba hình thức cơ bản
của thể loại văn tự sự mà học sinh thường gặp đó là:
+ Kể chuyện đã học.
+ Kể chuyện đời thường.
+ Kể chuyện tưởng tượng.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu sự khác nhau của ba hình thức kể
chuyện

a. Kể chuyện dân gian đã học
Đây là kiểu bài yêu cầu học sinh kể lại một truyện dân gian đã học. Quá
trình kể lại truyện và quá trình chuyển ngôn ngữ của văn bản truyện thành
truyện kể theo ngôn ngữ của mình. Chính vì thể từ một cốt truyện giống nhau

nhưng mỗi học sinh lại có cách kể khác nhau.
Như đã nêu ở trên hình thức kể chuyện này khá dễ dàng đối với học sinh
vì đã được học sinh đọc, nghe hoặc xem nên khi gặp dạng đề này hầu hết học
sinh đều có tâm trạng thoải mái để kể.
Ví dụ: Kể lại chuyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh” bằng lời văn của em.
- Giáo viên: Câu chuyện này em đã đọc (nghe) chưa? Ở đâu?
- Học sinh: Đã đọc rồi trong sách giáo khoa Ngữ văn 6.


- Giáo viên: Đề văn này thuộc hình thức nào của thể loại kể chuyện? Tại
sao em xác định như vậy?
- Học sinh: Đề văn thuộc hình thức kể chuyện đã học. Vì đây là câu chuyện
kể của người xưa mà em đã được học.
- Khi giáo viên hướng dẫn học sinh vào việc tìm hiểu đề, xác định được
hình thức kể, ngôi kể, lời kể. Sau đó giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh làm dàn ý
cho câu chuyện.
Lập dàn ý : Kể lại truyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh” bằng lời văn của em
* Mở bài: Giới thiệu truyền thuyết “Sơn Tinh, Thủy Tinh”.
* Thân bài:
- Vua Hùng kén rể
+ Vua Hùng Vương thứ 18 có con gái là Mỵ Nương.
+ Vua muốn kén rể xứng đáng.
- Hai người tài cùng đến cầu hôn.
+ Sơn Tinh - Người vùng Tản Viên, có tài lại: làm nổi lên cồn bãi, núi đồi.
+ Thủy Tinh - Người ở miền biển. Tài năng: gọi gió, hô mưa.
- Hùng Vương băn khoăn
+ Vua Hùng thấy hai người đều tài giỏi.
+ Quyết định: ai đưa lễ vật đến sớm thì cưới Mỵ Nương làm vợ. - Lễ Vật:
voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao.
- Cuộc giao tranh dữ dội.

+ Nguyên nhân
~ Sơn Tinh đến sớm, đón dâu về núi.
~ Thủy Tinh đến trễ, tức giận, quyết cướp lại Mỵ Nương.
+ Diễn biến cuộc giao tranh.
~ Thủy Tinh tấn công: làm dông bão, dâng nước sông.
~ Sơn Tinh phản công: dời núi, dựng thành lũy, nước cao bao nhiêu, thì núi
cao bấy nhiêu.
~ Đánh nhau mấy tháng. Thủy Tinh đành rút quân.
* Kết bài: Hàng năm, Thủy Tinh nhớ mối hờn cũ, dâng nước đánh Sơn
Tinh. Nhưng năm nào cũng vậy, vẫn không thắng nổi, đành phải rút quân.
Giáo viên hướng dẫn học sinh về nhà hoàn tất câu chuyện. Học sinh cần
lưu ý các điểm sau:


Giáo viên diễn giảng: Dựa theo truyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh” trong sách
giáo khoa để viết (kể). Vì thế các em có thể lấy những chi tiết đã có trong
truyện. Nếu muốn làm bài có nhiều sáng tạo học sinh có thể tưởng tượng thêm
những chi tiết khác để kể.
Khi trình bày tốt nhất nên tuân thủ cách kể theo trình tự thời gian, theo sự
phát triển của hành động.
Khi kể cần giữ lại các chi tiết chính. Với những chi tiết phụ học sinh có thể
lược bớt để truyện đỡ dài, tập trung và ngắn gọn hơn.
Đây là bài văn tự sự, không phải là bài tả cảnh vì thế cần tập trung vào việc
kể. Để kể được sinh động, lôi cuốn, có thể vừa kể, vừa xen thêm việc miêu tả
(Lưu ý: miêu tả không phải là yêu cầu chính của bài viết này).

b. Kể chuyện đời thường
Kể chuyện đời thường là kể những câu chuyện diễn ra hoặc có thể diễn ra
trong đời sống thường ngày mà học sinh có thể được chứng kiến hoặc nghe kể
lại. Kể chuyện đời thường là kể về người thật, việc thật. Khi kể, không nhất

thiết phải xây dựng truyện có tình tiết, diễn biến bất ngờ mà phải dựa trên
những điều quan sát, chứng kiến và bộc lộ tình cảm, cảm xúc một cách chân
thành. Các chi tiết đưa vào chuyện phải chọn lọc, không được gặp đâu kể đấy,
nhớ gì kể đấy nhằm làm nổi bật chủ đề và gây ấn tượng đối với người đọc,
người nghe.
Hình thức kể này, dễ tạo nên tình cảm, cảm xúc cho học sinh vì câu chuyện
chủ yếu thể hiện tình cảm theo dòng hồi tưởng của nhân vật kể.
Để kể được câu chuyện theo hình thức này bắt buộc người kể (học
sinh) phải trực tiếp ở trong câu chuyện thuật lại những chuyện có thật diễn ra
xung quanh mình.
Giáo viên : So với đề kể chuyện đã học thì đề kể chuyện về bản thân có gì
khác?
Học sinh : Giữa hai dạng đề có sự khác nhau. Kể chuyện đã học là chúng
ta kể lại câu chuyện có sẵn, do tác giả sáng tạo ra ta chỉ việc kể lại qua lời văn
của mình hoặc đóng vai vào nhân vật nhưng phải kể theo đúng trình tự sự việc.
Còn kể chuyện đời thường chúng ta chính là tác giả của câu chuyện, có
mặt trong câu chuyện hơn nữa bản thân lại là nhân vật chính trong truyện.
Ví dụ: Kể lại một kỉ niệm mà em nhớ nhất về thầy (cô giáo) cũ của em.


Giáo viên: Điều gì khiến em có thể kể lại kỉ niệm đó?
Học sinh: Đó là một kỉ niệm mà em không thể nào quên.
Giáo viên: Em kể lại kỉ niệm đó bằng hình thức nào?
Học sinh: Em đã hồi tưởng lại để kể vì kỉ niệm đó khó phai trong tâm trí
em.
Giáo viên: Kỉ niệm đó gợi cho em suy nghĩ gì? (buồn, vui …)
Học sinh 1: Kỉ niệm đó làm cho em rất vui vì đó là lời khen của thầy cô
dành cho em.
Học sinh 2: Kỉ niệm đó là kỉ niệm buồn đối với em vì em đã mắc lỗi đối
với thầy (cô) đã dạy dỗ em nên người.

Giáo viên: Kỉ niệm buồn, vui đó nhằm nói lên điều gì nơi con người chúng
ta?
Học sinh: Thể hiện tình cảm của các em về vấn đề đã mang đến niềm vui,
nỗi buồn đó.
Giáo viên: Khi kể về một câu chuyện thuộc về bản thân thì lời kể là của
ai? Kể theo ngôi thứ mấy? Xưng như thế nào?
Học sinh: Lời kể trong đề văn trên là của bản thân em kể theo ngôi thứ
nhất, xưng tôi (em).
Giáo viên diễn giảng: Kể chuyện đời thường bắt buộc người kể có mặt trực
tiếp trong câu chuyện và người kể (học sinh) là nhân vật chính. Câu chuyện sẽ
được tái hiện lại qua dòng hồi tưởng của người kể và phải thể hiện được tình
cảm vui, buồn, thương, nhớ … đồng thời qua câu chuyện đó ta rút ra được bài
học gì?
Tóm lại, kể chuyện về bản thân là kể lại sự việc thật, con người thật và tình
cảm thật của người kể.
Lập dàn ý: Kể lại một kỉ niệm mà em nhớ nhất về thầy (cô giáo) cũ của em
* Mở bài:
- Không khí tưng bừng đón chào ngày 20 - 11 ở trong trường lớp, ngoài xã
hội.
- Bản thân mình: nghĩ về thầy cô giáo và bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm vui
buồn cùng thầy cô, trong đó có một kỉ niệm không thể nào quên.
* Thân bài:
- Giới thiệu về kỉ niệm (câu chuyện):


+ Đó là kỉ niệm gì, buồn hay vui, xảy ra trong hoàn cảnh nào, thời gian
nào?...
- Kể lại hoàn cảnh, tình huống diễn ra câu chuyện (kết hợp nghị luận và
miêu tả nội tâm):
+ Kỉ niệm đó liên quan đến thầy (cô) giáo nào?

+ Đó là người thầy (cô) như thế nào?
+ Diện mạo, tính tình, công việc hằng ngày của thầy (cô).
+ Tình cảm,thái độ của học sinh đối với thầy cô.
- Diễn biến của câu chuyện:
+ Câu chuyện khởi đầu rồi diễn biến như thế nào? Đâu là đỉnh điểm của
câu chuyện?...
+ Tình cảm, thái độ, cách ứng xử của thầy (cô) và những người trong cuộc,
người chứng kiến sự việc.
- Câu chuyện kết thúc như thế nào? Suy nghĩ sau câu chuyện: Câu chuyện
đã để lại cho em những nhận thức sâu sắc trong tình cảm, tâm hồn,trong suy
nghĩ: tấm lòng, vai trò to lớn của thầy (cô), lòng biết ơn, kính trọng, yêu mến
của bản thân đối với thầy (cô).
* Kết bài:
Câu chuyện là kỉ niệm, là bài học đẹp và đáng nhớ trong hành trang vào
đời của tuổi học trò.

c. Kể chuyện tưởng tượng
Kể chuyện tưởng tượng là kiểu bài sáng tạo, yêu cầu người viết, người kể
kể lại một chuyện nào đó bằng trí tưởng tượng sáng tạo trên cơ sở những chi tiết
đã có trong sách vở hay thực tiễn nhưng phải có ý nghĩa.
Trong các dạng đề văn tự sự thì kể chuyện tưởng tượng là dạng gây khó
cho học sinh nhưng lại thu hút sự chú ý của học sinh nhiều hơn. Khó ở chỗ
không có câu chuyện cũng như các sự việc trong câu chuyện mà bắt buộc học
sinh phải “tưởng tượng”. Nhưng khó mà lại có sự thu hút lớn đối với lứa tuổi
này, nhiều học sinh có trí tưởng tượng rất phong phú.
Kể chuyện tưởng tượng có sự khác biệt so với kể chuyện đã học và kể
chuyện đời thường… Kể chuyện tưởng tượng thì đặc điểm chính là trí tưởng
tượng của người kể, nghĩa là người kể phải bịa ra một câu chuyện nhưng câu



chuyện đó phải có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống. Đồng thời kết hợp với
biện pháp tu từ nhân hóa.
Giáo viên cần so sánh sự khác nhau về hình thức kể chuyện tưởng tượng
và kể chuyện đời thường.
Giáo viên: So với đề kể chuyện đời thường thì kể chuyện tưởng tượng có
gì khác?
Học sinh: Hai dạng đề trên có sự khác nhau: Kể chuyện đời thường trong
đó bản thân người kể đóng vai trò chính, phải có mặt trực tiếp trong câu chuyện
và phải kể những gì có thật. Còn kể chuyện tưởng tượng thì người kể phải bịa ra
nhưng dựa trên cơ sở có thật của sự việc, sự vật được kể, người kể phải có tình
cảm sâu sắc đối với sự vật, sự việc đó.
Ví dụ: Em hãy tưởng tượng cuộc tranh cãi gay go giữa xe đạp, xe máy và ô
tô trong nhà em về việc so bì hơn thiệt. Em sẽ dàn xếp cuộc tranh cãi này như
thế nào?
Giáo viên: Ta thấy đề bài trên có gì khác lạ? Tại sao lại có sự khác lạ đó?
Học sinh: Sự khác lạ của đề bài là sự tranh cãi giữa xe đạp, xe máy và ô tô.
Sự khác lạ đó có được là do sự tưởng tượng mà ra vì cả ba sự vật trên đều vô tri,
vô giác nên không thể nào tranh cãi được.
Giáo viên: Cuộc tranh cãi đó có diễn ra thật hay không?
Học sinh: Hoàn toàn không có thật, do tưởng tượng mà ra.
Giáo viên: Để kể một chuyện như thế này người kể phải làm gì?
Học sinh: Người kể phải tự mình đặt ra nhưng phải dựa trên thực tế.
Lập dàn ý: Em hãy tưởng tượng cuộc tranh cãi gay go giữa xe đạp, xe máy
và ô tô trong nhà em về việc so bì hơn thiệt.
* Mở bài
- Ở bãi xe của thư viện, dưới cây Si cổ thụ.
- Ô tô bóng nhoáng đậu bên Xe máy.
- Xe đạp chậm rãi đi tới.
* Thân bài
Xe máy

- Chê Xe đạp cũ kỹ chậm chạp, không phù hợp với thời đại văn minh, nếp
sống công nghiệp.


- Tự đề cao: kiểu dáng đẹp, văn minh, nhiều loại khác nhau, được ưa
chuộng nhiều ở Việt Nam, từ người bình thường đến giàu có đều chọn phương
tiện đi lại này, chở được hai người (mẹ và con ngồi sau xe, cả gia đình); đi làm,
đi học tiện lợi. tốc độ nhanh mà dễ luồn lách vì gọn, nhỏ,... xứng đáng được tôn
vinh.
Ô tô
- Phản bác Xe máy kiêu ngạo, coi thường Xe đạp.
- Chê Xe máy tuy có nhiều tác dụng, được ưa chuộng nhưng lại quá nhiều,
gây ùn tắc giao thông, không những thế còn là nguyên nhân gây ô nhiễm môi
trường vì khói xăng dầu; phóng nhanh vượt ẩu, luồn lách, đèo nặng,... nên cũng
hay gây tai nạn. (có thể lấy số liệu về tai nạn do Xe máy gây ra).
- Tự đề cao: là phương tiện sang trọng, hiện đại, trẻ con, người lớn ai cũng
thích; người giàu có hoặc làm to mới đi ô tô, người thường mấy ai có; được
dùng trong những dịp quan trọng (đi xa, cưới hỏi, đem lại cho con người nhiều
tiện lợi), trời mưa nắng ngồi ô tô (mưa không tới mặt nắng chẳng tới đầu), sức
chở lớn hơn Xe máy, Xe đạp, chỗ ngồi êm ái, có thể nghe nhạc, xem phim, đi
nhanh,… Giá trị vật chất cũng lớn hơn.
Xe đạp tự nhận xét:
- Đúng là có nhiều nhược điểm về tốc độ, về giá trị vật chất, về hiện đại
văn minh.
- Nhưng là phương tiện có ích: đã tham gia các chiến dịch lớn trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ. Ngày nay vẫn gần gũi quen thuộc với con
người.
+ Người già đi Xe đạp, tập thể dục, rèn luyện thân thể,... chậm mà an toàn.
+ Trẻ em đến trường với màu áo trắng học trò.
- So sánh với Ô tô, Xe máy:

+ Không gây ô nhiễm như ô tô, Xe máy,...
+ Không làm mất trật tự: tiếng máy nổ, tiếng còi to như Ô tô, Xe máy,...
+ Không gây ùn tắc hay cản trở giao thông, không chiếm diện tích rộng
như Ô tô, Xe máy,...
+ Tốc độ vừa phải, dễ làm chủ nên ít gây tai nạn giao thông.
+ Người lớn, trẻ con, người già, trẻ,... đều dùng được, dễ điều khiển.
+ Không tốn xăng dầu.


* Kết bài
Cây Si già lên tiếng:
- Tất cả mọi phương tiện giao thông đều đáng quý, có công trong cuộc
sống của con người, là phương tiện giúp con người đi lại nhanh hơn, đỡ tốn sức.
- Mỗi phương tiện có vai trò riêng phù hợp với hoàn cảnh xã hội, với mỗi
người, do đó không thể loại trừ nhau mà phải cùng nhau tồn tại để giúp ích cho
con người.
- Dù là phương tiện nào cũng phải chấp hành tốt luật lệ giao thông và bảo
vệ môi trường.
- Cả Ô tô, Xe máy, Xe đạp,... đừng tranh cãi mất công.

5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Để đánh giá kết quả đã đạt được, giáo viên dựa vào bài kiểm tra chất lượng
học kì.
Kết quả khi chưa áp dụng:
Tổng
số
42

Giỏi


Khá

SL

%

SL

%

2

4.76

1

2.38

Trung bình
SL
%

Yếu-kém
SL
%

19

20


45.24

47.62

Kết quả khi áp dụng:
Tổng
số
42

Giỏi

Khá

SL

%

SL

%

7

16.67

8

19.05

Trung bình

SL
%

SL

%

16

11

26.19

38.10

Yếu

Sau một thời gian nhận thấy thực trạng bài làm văn của học sinh lớp 6
trường chưa tốt, tôi đã kịp thời tìm ra nguyên nhân bài làm văn của các em đạt
kết quả chưa cao. Tôi nhanh chóng tìm ra giải pháp của bản thân cá nhân tôi
mong rằng chất lượng bài làm của các em từng bước nâng cao dần lên. So với
chất lượng những năm trước thì chất lượng của năm học này đã có bước chuyển
biến đáng kể cụ thể giảm tối đa hoc sinh yếu kém.
Tuy nhiên kết quả như vậy chưa phải là cao nhưng đó cũng là một sự thay
đổi chất lượng bài làm của các em.


III. KẾT LUẬN
1. Một số lưu ý
Để trở thành người thợ giỏi ở bất cứ một ngành nghề nào người thợ cũng

phải trải qua quá trình học tập và rèn luyện lâu dài. Để viết tốt một bài văn cũng
vậy, học sinh phải trải qua quá trình rèn luyện nghiêm túc có sự hướng dẫn của
giáo viên.


Để áp dụng có hiệu quả những biện pháp này, người giáo viên thực sự tâm
huyết, có tinh thần trách nhiệm, dành thời gian nhiều. Do học sinh phải thực
hiện phần bài tập ở nhà nhiều nên giáo viên phải thu vở bài tập về nhà để chấm,
sửa cho các em.
Giáo viên thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, theo dõi quá trình học sinh
làm bài. Điều quan trọng là giáo viên biết động viên, khuyến khích, tuyên
dương học sinh đúng lúc, kịp thời. Bên cạnh đó, với học sinh điểm số rất quan
trọng nên khi chấm bài tập hoặc khi các em trình bày thì giáo viên nên cho học
sinh điểm số và có điểm cho tinh thần tự giác.
Nếu giáo viên làm tốt điều đó thì các em sẽ rất tự giác và có hứng thú làm
bài tập ở nhà cũng như trên lớp. Trong trường hợp giáo viên có quên thu bài thì
cũng sẽ được các em “nhắc nhở”.
Bên cạnh việc động viên, khuyến khích, giáo viên cũng cần có biện pháp
đối với những học sinh còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại như yêu cầu các em ở
lại sau buổi học để làm bài tập, mượn bài của bạn chép lại nhiều lần

2. Bài học kinh nghiệm và ý kiến đề xuất
Trong dạy học nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng, người giáo
viên phải luôn không ngừng tìm tòi học hỏi để nâng cao trình độ nhận thức và
trình độ chuyên môn. Sự sáng tạo là yêu cầu cần phải có người giáo viên khi
làm công tác dạy học. Trên cơ sở đó giúp học sinh của mình tiếp thu bà, hình
thành kĩ năng, kĩ xảo tốt hơn.
Tuy nhiên khi áp dụng những biện pháp nào đó thì giáo viên phải tìm hiểu
kĩ những hạn chế của học sinh mình. Nếu thành công sẽ là động lực rất lớn làm
cho người giáo viên tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong việc sáng tạo.

Người giáo viên cần ý thức được vai trò của mình. Khi lên lớp giáo viên
phải có tinh thần trách nhiệm cao. Như vậy mới có thể tận tâm, mới vui buồn
khi học sinh làm tốt hay không tốt. Đó là động lực giúp giáo viên tìm tòi, sáng
tạo trong công tác của mình. Nhờ vậy mà học sinh lĩnh hội trị thức tốt hơn.
Phải nói rằng qua việc thực hiện đề tài này tôi đã rút ra được cho mình
nhiều bài học từ việc xác định kiến thức bổ sung, soạn giáo án đến việc giảng
dạy.


Đề xuất của tôi là thư viện nhà trường nên bổ sung các tác phẩm có đoạn
trích được học. Đặc biệt là các tác phẩm nước ngoài, chân dung của một số nhà
thơ lớn, các tài liệu tham khảo, sách nâng cao cho giáo viên học sinh.

3. Lời kết
Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh viết một bài văn tự sự trong
chương trình Ngữ văn 6. Đó cũng là những gì tôi tích lũy trong quá trình dạy
văn tự sự trong thời gian qua.
Qua quá trình giảng dạy, tìm hiểu, trao đổi với đồng nghiệp, thông qua tiết
dự giờ, tham khảo tài liệu… tôi đã tích lũy được cho mình một số kinh nghiệm,
nó được tôi áp dụng vào bài dạy khi lên lớp tại trường trung học cơ sở Ngô Thì
Nhậm.
Khi áp dụng những kinh nghiệm trên vào bài dạy, sau một thời gian chất
lượng bài viết của học sinh đã được nâng lên rõ rệt, giảm được số bài không đạt
yêu cầu, và một số bài tốt cũng tăng lên.
Những biện pháp trên được tôi rút ra từ thực tế cũng như thông qua trao
đổi với đồng nghiệp, có thể vẫn còn hạn chế. Vậy tôi mong tiếp thu ý kiến đóng
góp của Ban giám hiệu, Hội đồng khoa học nhà trường… để từ đó có thể trao
đổi, rút kinh nghiệm giúp tôi nâng cao chất lượng giảng dạy ở bộ môn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Liên Chiểu, ngày 18 tháng 12 năm 2017

Người viết sáng kiến

Nguyễn Tấn Tâm
MỤC LỤC


I. ĐẶT VẤN ĐỀ: ……………………………………………………... 1
1. Lí do chọn đề tài ………………………………......…………....1
2. Mục đích nghiên cứu................................................................... 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................2
3.1. Đối tượng nghiên cứu.......................................................2
3.2. Phạm vi nghiên cứu..........................................................2
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:…………………………….....….......…….3
1. Cơ sở lí luận ……………………………………………………3
2. Cơ sở thực tiễn…………………………………………………..4
3. Thực trạng của vấn đề...................................................................4
4. Các giải pháp tiến hành……………………….….......………….5
4.1. Các yếu tố nghệ thuật cơ bản tạo nên một tác phẩm tự sự.....5
4.2. Trên cơ sở khai thác các yếu tố nghệ thuật cơ bản tạo nên
một tác phẩm tự sự, qua đó rèn kỹ năng làm một bài văn tự sự
cho các em...................................................................................10
5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. ……….........…………....18
III. KẾT LUẬN: ……………………………………….......….............20
1. Một số lưu ý…………………………………………………..20
2. Bài học kinh nghiệm và ý kiến đề xuất……………………….20
3. Lời kết…………………………………………………………21




×