Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Phân tích công tác đào tạo nguồn cán bộ của cục thuế thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.97 KB, 11 trang )

PHÂN TÍCH CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGUỒN CÁN BỘ CỦA CỤC THUẾ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1. Những thông tin liên quan đến Tổ chức:
Tổng cục thuế- Cục thuế Thành Phố Hà Nội.

Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của cơ quan Thuế

(Theo Quyết định số 76/2007/QĐ-TTg ngày 28 tháng 5 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ)

1.Vị trí và chức năng
Tổng cục Thuế là tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính, chịu trách nhiệm trước Bộ
trưởng Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các khoản thu
1


nội địa, bao gồm: thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác của Ngân sách nhà nước
(sau đây gọi chung là thuế); tổ chức thực hiện quản lý thuế theo quy định của
pháp luật.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
Tổng cục Thuế thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm theo quy định
của Luật Quản lý thuế, các luật thuế, các quy định pháp luật khác có liên quan và
những nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm.
3. Cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thuế
Tổng cục Thuế được tổ chức quản lý tập trung, thống nhất thành hệ thống
ngành dọc từ Trung ương đến địa phương, theo đơn vị hành chính.
4. Tư cách pháp nhân của cơ quan quản lí Thuế
1. Tổng cục Thuế có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà
nước và được sử dụng con dấu hình quốc huy.
2. Cục Thuế tỉnh, Chi cục Thuế huyện có tư cách pháp nhân, được mở tài
khoản tại Kho bạc Nhà nước và có con dấu riêng.
3. Công chức thuế được cấp trang phục, phù hiệu, cấp hiệu, số hiệu, phương


tiện làm việc theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
5. Trách nhiệm của cơ quan quản lí thuế đặt tại địa phương với ủy ban nhân dân
các cấp và các tổ chức, cá nhân

2


5.1. Cơ quan quản lý thuế đặt tại địa phương có trách nhiệm báo cáo với Ủy ban
nhân dân cùng cấp về chủ trương, biện pháp tăng cường công tác quản lý thuế và
tình hình thực hiện dự toán thu thuế; phối hợp chặt chẽ với cơ quan tài chính cùng
cấp và các cơ quan khác trong việc quản lý thuế, cung cấp thông tin, số liệu có liên
quan đến việc quản lý ngân sách ở địa phương.
5.2. Trong phạm vi quyền hạn do pháp luật quy định, Ủy ban nhân dân các cấp
có trách nhiệm phối hợp chỉ đạo, kiểm tra và tạo điều kiện cho cơ quan quản lý
thuế trên địa bàn thực thi chính sách, pháp luật về thuế; chỉ đạo các cơ quan chức
năng có liên quan phối hợp với cơ quan quản lý thuế trong việc tổ chức thực hiện
công tác quản lý thuế trên địa bàn.
5.3. Cơ quan quản lý thuế đặt tại địa phương có trách nhiệm phối hợp với các
tổ chức, cá nhân trên địa bàn trong việc thực thi pháp luật thuế theo quy định của
pháp luật.
6. Biên chế
6.1. Biên chế hành chính của Tổng cục Thuế do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết
định trong tổng số biên chế hành chính của Bộ Tài chính.
6.2. Biên chế sự nghiệp của Tổng cục Thuế do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết
định theo quy định của pháp luật.
Cục thuế thành phố Hà Nội trực thuộc bộ máy của ngành thuế có những vi trí
quyền hạn, chức năng theo quy định của pháp luật.
I.Phân tích chung
3



Trong nhiều năm qua, nền kinh tế trong nước luôn phải đối mặt với nhiều khó
khăn thách thức, nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước,
sự vươn lên vượt khó của cộng đồng các doanh nghiệp trong việc duy trì, phát
triển sản xuất kinh doanh và thực hiện ngày càng tốt hơn nghĩa vụ nộp thuế; cùng
sự phấn đấu nỗ lực của hơn 4 vạn cán bộ công chức thuế cho nên ngành thuế cả
nước luôn luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao với số thu năm sau cao hơn
năm trước. Do nguồn thu không ngừng tăng lên, ngân sách nhà nước có điều kiện
đầu tư phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và từng bước nâng cao đời sống
nhân dân. Tuy vậy, nhìn nhận một cách toàn diện thì công tác thuế vẫn còn nhiều
tồn tại cả khách quan lẫn chủ quan, cả về cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện.
Năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã gây ra những ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nền kinh tế trong nước, trong khi ngành thuế vẫn phải đảm bảo
số thu ngân sách gần 255.000 tỷ đồng, trong đó thu từ dầu thô là 65.600 tỷ, thu
nội địa trừ dầu là 189.300 tỷ, tăng 8,6% so với thực hiện năm 2007. Để hoàn
thành nhiệm vụ, toàn ngành thuế đã phấn đấu quyết liệt, thường xuyên, liên tục
trong cả năm, trong đó văn phòng cơ quan Tổng cục Thuế với vai trò đầu tầu
hướng dẫn, điều hành đã chỉ đạo các Cục Thuế địa phương tham mưu giúp
UBND các cấp triển khai việc phân bổ và giao chỉ tiêu dự toán thu cho các đơn vị
kịp thời, với yêu cầu phấn đấu tăng 3% - 5% so với chỉ tiêu pháp lệnh; đồng thời
chỉ đạo toàn ngành phát động phong trào thi đua nhằm phấn đấu hoàn thành các
mục tiêu đã đề ra. Trên tất cả các lĩnh vực công tác khác như tuyên truyền hỗ trợ;
quản lý kê khai, kế toán thuế; ứng dụng công nghệ thông tin; thanh tra, kiểm tra;
4


quản lý nợ... Tổng cục Thuế đều có giải pháp chỉ đạo nhanh nhạy kịp thời. Tụ hội
những nỗ lực thực hiện các giải pháp, nên kết quả thu ngân sách nhà nước năm
2008 do ngành thuế quản lý ước đạt 319.391 tỷ đồng, vượt 25,3% dự toán pháp
lệnh; vượt 20,3 % dự toán phấn đấu; tăng 27,1% so với năm 2007, trong đó: thu

nội địa trừ dầu ước đạt 224.874 tỷ đồng, vượt 18,8% dự toán pháp lệnh, vượt
12,4% dự toán phấn đấu; tăng 29% so với năm 2007.
Năm 2009 sẽ là thời điểm khó khăn và thử thách đối với ngành thuế khi số
lượng công việc sẽ ngày càng nhiều với đòi hỏi ngày càng cao, nên cán bộ trong
toàn ngành thuế xác định phương châm làm việc với tinh thần đoàn kết, sáng tạo
và quyết tâm để hoàn thành nhiệm vụ với quan điểm cái khó ló cái khôn, phát huy
những ý tưởng mới, sáng tạo để khắc phục mọi khó khăn.
Về công tác đào tạo và thanh tra thuế, Trường Nghiệp vụ và Ban Tổ chức cán
bộ cần chủ động xây dựng chương trình và giáo trình theo hướng thay đổi phương
pháp đào tạo truyền thống, chuyển sang đào tạo từ xa, trong đó tập trung đào tạo
kỹ năng cho cán bộ. Trong bối cảnh nguồn lực cán bộ giáo viên ít, cần thuê giáo
viên giỏi để ghi hình sau đó triển khai giáo dục qua mạng tới 700 Chi cục Thuế
trong cả nước để giải quyết tốt các vấn đề kỹ năng cho cán bộ. Năm 2009, Tổng
cục Thuế cũng đẩy mạnh việc thanh tra, đặc biệt là trong nội bộ, tập trung kiểm
tra thủ tục hành chính thuế và các vấn đề hoàn thuế. Về quản lý nội bộ, Văn
phòng và Ban Tài vụ quản trị cần chủ động phối hợp với Cục Công nghệ thông
tin trang bị phần mềm quản lý hiện đại, giúp cho cán bộ có thể làm việc từ xa,
đồng thời có thể theo dõi sát sao tiến độ công việc của cấp dưới. Cùng với đó, cần
5


xây dựng chế độ thưởng phạt phân minh, tránh tình trạng cào bằng, hoặc chỉ có
thưởng không có phạt để tạo sự công bằng văn minh trong môi trường quản lý.
Về trung và dài hạn, cần xây dựng chiến lược cải cách thuế đến năm 2020. Đây
là nhiệm vụ rất khó nhưng vô cùng quan trọng, bởi chỉ có xây dựng chiến lược tốt
mới định hướng được ngành thuế đang ở đâu và sẽ phát triển như thế nào. Đi kèm
với chiến lược cải cách cần có kế hoạch về đào tạo và xây dựng triển khai đề án
dự báo và dự toán nguồn nhân lực, đảm bảo chủ động nhân lực trong công tác
hành thu, nếu làm tốt các giải pháp đột phá này sẽ tạo được chuyển biến trong
toàn bộ ngành thuế.

II.Những hoạt động cụ thể và những kiến nghị về công tác đào tạo bồi dưỡng
cán bộ thuế Tại Cục thuế PT Hà Nội :
Từ tháng 7/2007, cùng với việc triển khai Luật Quản lý thuế, tổ chức bộ máy
của ngành thuế cũng được thay đổi theo mô hình mới để thực hiện quản lý thuế
theo chức năng, thay vì phương pháp quản lý chuyên quản trước đó. Sự kiện toàn
lại tổ chức đặt ra yêu cầu ngày một cao về chất lượng đội ngũ cán bộ công chức
nhằm đáp ứng, bắt nhịp ngay với phương pháp quản lý thuế mới. Theo đó,
Trường nghiệp vụ thuế (trực thuộc Tổng cục Thuế) cũng được thành lập nhằm
thực hiện công tác đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ chuyên sâu, có kỹ
năng quản lý chuyên nghiệp theo từng chức năng, nhiệm vụ được giao. Kể từ khi
thành lập, nhà trường đã liên tục tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn
nghiệp vụ trong hệ thống quản lý thuế và bước đầu, đã tạo điều kiện để đội ngũ
cán bộ công chức thuế thêm một lần tổng hợp lại các kiến thức đã được học từ
6


trước và trang bị, bổ sung thêm nhiều kiến thức, kinh nghiệm thực tế, kỹ năng
quản lý hiện đại, giúp cán bộ quản lý dễ dàng nắm bắt và vận dụng vào thực hiện
nhiệm vụ hiệu quả.
Bên cạnh các lớp đào tạo theo chương trình chung của ngành, Cục Thuế Hà
Nội đã chủ động triển khai công tác này ngay trong năm 2007, từ việc thành lập
Ban chỉ đạo công tác đào tạo, giao nhiệm vụ cụ thể cho đội ngũ giảng viên kiêm
nhiệm, đến lựa chọn, phân loại nhu cầu, đối tượng đào tạo cho phù hợp và hiệu
quả nhất. Đến nay, đã có 382 lượt cán bộ công chức thuộc Cục Thuế và các Chi
cục Thuế đã được tham gia các khoá đào tạo về nghiệp vụ thu nợ; kê khai và kế
toán thuế; tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế; 208 cán bộ công chức được bồi
dưỡng kiến thức tin học cơ bản và tin học ứng dụng, đưa 100% cán bộ công chức
tại văn phòng Cục Thuế và 70% cán bộ công chức tại các Chi cục Thuế biết sử
dụng thành thạo máy vi tính. Cũng qua các lớp tập huấn và bồi dưỡng nghiệp vụ,
100% cán bộ tham gia học tập đều đạt yêu cầu trong các kỳ kiểm tra, sát hạch,

nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, phục vụ tích cực cho công tác. Nhưng điều quan
trọng và có ý nghĩa hơn cả là qua đào tạo, cán bộ thuế đã tự tin hơn khi thực hiện
nhiệm vụ, giải quyết có chất lượng hơn các yêu cầu của người nộp thuế.
Tuy nhiên, so với yêu cầu hiện đại hoá của ngành thuế hiện nay, trình độ của
cán bộ công chức Cục Thuế Hà Nội nói riêng và ngành thuế cả nước nói chung
vẫn còn bất cập, đòi hỏi phải tiến hành ngay các giải pháp cả trước mắt cũng như
lâu dài, nhằm chuẩn hoá đội ngũ, đáp ứng tốt các mục tiêu đề ra.

7


III.Từ thực tế công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thuế ở Hà Nội , xin nêu ra
một số kiến nghị:
Thứ nhất công tác đào tạo và đào tạo lại cần bao gồm cả về mặt kiến thức lý
thuyết và kiến thức thực tế, theo đó phải bố trí nguồn cán bộ hiện có phù hợp với
yêu cầu công việc để đào tạo cho trúng và đúng đối tượng. Việc nâng cao nhận
thức, trình độ cán bộ có thể bắt đầu ngay từ các tổ, đội thuế hay từ các phòng
chức năng thuộc Văn phòng Cục, thông qua việc thường xuyên tổ chức các buổi
thảo luận, cập nhật thông tư, văn bản mới của ngành về quy trình, nghiệp vụ, về
tư tưởng nhận thức của cán bộ đối với các chính sách thuế khi triển khai thực
hiện. Đồng thời, có các buổi thảo luận theo chuyên đề về công tác chuyên môn,
nghiệp vụ, về các trường hợp, vướng mắc thực tế phát sinh hay về kinh nghiệm
nghề nghiệp khi làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ… Cũng từ các đơn vị cơ sở
này, có thể lấy phiếu trưng cầu ý kiến về nhu cầu được đào tạo của cán bộ làm
công tác thuế trong từng lĩnh vực, trên cơ sở đó sẽ xây dựng kế hoạch và đề ra các
giải pháp đào tạo sát với yêu cầu thực tiễn công tác.
Thứ hai, tuỳ theo đặc điểm riêng có của từng địa bàn, cũng như trình độ
chuyên môn, nhận thức của cán bộ thuế để có hướng đào tạo và đào tạo lại hiệu
quả và phù hợp với từng đối tượng.
Thứ ba, công tác đào tạo cũng cần gắn với việc phân loại đối tượng nộp thuế,

phân loại vùng có người nộp thuế với quy mô kinh doanh nhỏ lẻ, vùng có người
nộp thuế chủ yếu về lĩnh vực thương mại, dịch vụ, vận tải, hay sản xuất; khu vực
8


DN có vốn đầu tư nước ngoài hay các DN dân doanh, doanh nghiệp nhà nước đặc
thù... để xây dựng những nội dung đào tạo cho phù hợp với đặc thù quản lý.
Thứ tư là, tăng cường đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên kiêm
chức, có trình độ chuyên môn sâu cả về lý thuyết và thực tế, trang bị cho họ các
kiến thức bổ trợ như kỹ năng thuyết phục, kỹ năng truyền tải kiến thức tới người
nghe. Bên cạnh đó, có thể tổ chức các cuộc thi, hội thi giảng viên kiêm chức giỏi,
cán bộ thuế giỏi, nhằm phát huy tinh thần thi đua học tập, động viên khuyến
khích kịp thời những cán bộ có thành tích trong công tác đào tạo và học tập của
ngành, tạo nên một đội ngũ giảng viên kiêm chức có trình độ đáp ứng với yêu cầu
của việc đào tạo cán bộ ngay tại cơ sở.
Thứ năm là, tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, dành nhiều kinh phí cho
công tác đào tạo; có chế độ khen thưởng kịp thời, xứng đáng đối với đội ngũ
giảng viên kiêm chức, cũng như công chức thuế giỏi, để tạo nên môi trường mà ở
đó, người cán bộ thuế luôn muốn học hỏi, muốn đổi mới, nhiệt tình và tâm huyết
với ngành. Có như vậy mới có một đội ngũ cán bộ tinh nhuệ, chuyên nghiệp, đáp
ứng kịp thời yêu cầu cải cách và hiện đại hoá hệ thống./.

9


10


HẾT


11



×