Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế CHÍNH TRỊ bàn về các CHẾ độ sở hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.57 KB, 21 trang )

BÀN VỀ CÁC CHẾ ĐỘ SỞ HỮU
PHẦN I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU CÁC
QUAN HỆ SỞ HỮU
Hiện nay trong các nước XHCN đang tiến hành cải tổ và đổi mới, đang nghiên
cứu một cách sâu sắc nguyên nhân của những tích cực và tiêu cực, và đã rút ra một
trong những nguyên nhân quan trọng nhất: có sự sai lầm và biến dạng trong lĩnh vực
sở hữu.
Xét cả về mặt lý luận và thực tiễn, vấn đề sở hữu là một trong những đề then
chốt, cơ bản nhất, đồng thời cũng rất phức tạp. Do đó việc cải tổ, đổi mới và phát
triển các quan hệ sở hữu (QHSH) là khâu chủ yếu trong đổi mới lĩnh vực kinh tế,
cũng như các lĩnh vực xã hội khác của xã hội XHCN.
Khi phát hiện ra những sai lầm và biến dạng trong lĩnh vực sở hữu, việc tiến
hành cải tổ và đổi mới các QHSH gặp những trở ngại, khó khăn lớn bởi những lý do


sau đây:
- Sự phức tạp nhiều mặt của chính các QHSH
- Sự phức tạp của cấu trúc các chủ thể và khách thể sở hữu.
- Tính đa dạng, tính đa cấp độ của quá trình xã hội hóa (XHH) thực tế nền sản
suất phản ánh lên các loại, các hình thức sở hữu.
- Sự biến dạng không chỉ là hình thức, mà còn mang tính bản chất của QHSH,
từ đó tác động lên lực lượng sản xuất (LLSX), kiến trúc thượng tầng (KTTT), cơ cấu
nền kinh tế quốc dân.
- Bản thân những vấn đề líý luận nền tảng của học thuyết về CNXH, xây
dựng CNXH một thời gian dài bị hiểu một cách giáo điều, đơn giản, siêu hình, thiên
về coi CNXH là một chân lý sẵn có, đã hòan chỉnh, chỉ việc áp dụng. Tất cả các
QHSH: toàn dân, tập thể, cá nhân, nhóm hiệp hội , các quá trình XHH thực tế đều

không được nghiên cứu nghiêm túc; giữa lý luận và thực tiễn có một khoảng cách rất
xa, nhất là việc áp đặt thực tiễn đi theo một lý luận giáo điều. Sự biến dạng của thực
tiễn lại dưới tác động của lý luận giáo điều làm cho thực tiễn lại càng biến dạng
hơn ... Tính hợp của hai biến dạng đó đưa lại những hậu quả nặng nề nhiều mặt.
- Ngày nay khi nhìn ra những sai lầm, những biến dạng trong lĩnh vực sở hữu,
việc khắc phục và đổi mới còn khó khăn bới chính các chủ thể sở hữu cũng đã bị
1


biến dạng, và các khách thể sở hữu (hệ thống kinh tế- xã hội ) đã trở thành một hệ
thống có cả những lợi ích cá nhân, cục bộ - trở thành vật cản cho quá trình đổi mới.
Tuy nhiên chính cuộc sống, chính công cuộc đổi mới CNXH đang đặt ra đòi

hỏi phải cải tổ, đổi mới thực sự các QHSH.
I - CẦN TIẾP CẬN CÁC QHSH TỪ NHỮNG GIÁC ĐỘ NÀO ?
Khi nói đến vấn đề cải tổ và đổi mới các QHSH, điều đầu tiên cần đề cập tới
là xem xét các QHSH từ những giác độ nào? Bởi vì, nếu không có một xuất phát
điểm nhất quán để xem xét vấn đề này, có thể dẫn tới những cách đánh giá cực đoan,
phiến diện, sẽ không có đầy đủ căn cứ để khẳng định những luận giải đưa ra.
Phải chăng nên tiếp cận vấn đề sở hữu từ những phương diện sau đây:
l . Chế độ sở hữu với tư cách là nền tảng của chế độ xã hội:
Chế độ sở hữu với tư cách là nền tảng của chế độ xã hội, góp phần quyết định
bản chất của chế độ xã hội. Do vậy cải tổ và Đổi mới QHSH XHCN là để có nhiều
CNXH hơn, chứ không phải là xa rời những nguyên tắc của CNXH, xa rời bản chất
của xã hội XHCN.

Tuy nhiên khi khẳng định như vậy, đồng thời chúng ta cũng phải nhận thức
sâu sắc rằng:
a) Chúng ta chưa có một CNXH hoàn chỉnh, chúng ta đang xây dựng nó, rằng
chúng ta đang ở chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, rằng CNXH cũng
như bất kỳ một hình thái xã hội nào khác phải có quá trình trưởng thành (kể cả về
bản chất), đo đó không thể xem xét các QHSH một cách ảo tưởng, thoát ly thực tế
(như là đã có CNXH thuần khiết).
b) CNXH xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập
chế độ công hữu, thì cũng cần hiểu đây là một quá trình lâu dài, đặc biệt đối với
những nước kém phát triển như nước ta. Điều này không hoàn toàn giống như Mác
khẳng định việc quá độ từ CNTB sang CNXH (điều này rất hay bị lãng quên).
2. Cần phải xem xét, xây dựng các QHSH từ phương diện hiệu quả kinh

tế:
Tính hiệu quả của các loại, các hình thức sở hữu không phải bao giờ cũng tỷ
lệ thuận với cấp độ sở hữu (theo tính chất xã hội mà ta hay gọi).
Thực tế ở các nước XHCN đều xuất hiện khuynh hướng sau: quốc doanh kém
tập thể, tập thể thua cá thể, xét về phương diện hiệu quả kinh tế. Nói chung, quy mô
càng to thì hiệu quả càng thấp. ở nước ta TBCN cũng có bức tranh tương tự Như thế,
2


việc nâng cao tính hiệu quả có khi sẽ mâu thuẫn với các mục tiêu xã hội của CNXH.
Do đó khi xác lập hệ thống các QHSH phải tính tới hiệu quả của mỗi thành phần
kinh tế, của mỗi loại, hình thức sở hữu cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Vấn đề bảo đảm tính năng động, tính hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân đồng thời tuân thủ theo những giá trị XHCN trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) là
một việc không dễ dàng.
Ở đây đã từng rơi vào 2 cực đoan: để khẳng định tính chất XHCN: quốc
doanh hoá, tập thể hoá triệt để, không tính tới các điều kiện, tiền đề kinh tế khách
quan, dẫn đến hiệu quả lại phi quốc doanh hoá, phi tập thể hoá một cách tràn lan,
làm tổn hại đến các mục tiêu của XHCN.
Do đó việc đổi mới và hoàn thiện chế độ sở hữu phải nhìn thấy biện chứng sâu
sắc của 2 mặt đó. Phải từ tính hiệu quả để lực chọn các hình thức quy mô sở hữu cho
phù hợp, bảo đảm được những mục tiêu định hướng cơ bản của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
3 . Tiếp cận từ phương diện lợi ích:

Quan hệ sở hữu về thực chất là quan hệ lợi ích một hệ thống các QHSH phù
hợp chính là bảo đảm sự hài hoà giữa các lợi ích : xã hội, tập thể, địa phương, các
thành phần kinh tế khác nhau, các nhóm; các tầng lớp xã hội khác nhau, các cá nhân.
Vấn đề mấu chốt là tạo nên động lực ở mỗi cá nhân con người cũng như của toàn xã
hội . Nếu ở mỗi con người mất đi động lực, thì động lực của toàn xã hội cũng không
có.
Lợi ích đó phải thể hiện ở cả quyền sở hữu, quyền điều tiết và sử dụng TLSX
cũng như kết quả lao động (sản phẩm). Nói tới quyền sở hữu mà không nói tới lợi
ích, không nói tới quyền làm chủ thì đó không phải là một quyền sở hữu đích thực.
Trong một xã hội còn kém phát triển thì lợi ích đó không chỉ phản ánh ở nguyên tắc
phân phối theo lao động, mà còn ở những hình thức phân phối khác (ví dụ theo cổ
phần), và điều đó phải được phản ánh trong các QHSH.

4. QHSH phải được xem xét trong mối tương quan với trình độ XHH
thực tế của LLSX, của nền sản xuất xã hội (đặc biệt là sự phát triển của công cụ
lao động, của KHKT):
Khi hình thức sở hữu phù hợp với trình độ XHH của nền sản xuất (trình độ
XHH thực tê) thì nền sản xuất mới có hiệu quả.
3


Tức là phải xét QHSH trên cở sở những vật yếu kinh tế - kỹ thuật, chính
những mối liên hệ kinh tế - kỹ thuật khách quan mới đan kết nền sản xuất xã hội với
nhau, gắn các chủ sở hữu với nhau ở những cấp độ khác nhau. Những chủ thể sản
xuất tự cung, tự cấp nói chung, không cần có hình thức sở hữu tập thể.

Trong quá trình phát triển và xã hội hoá nền sản xuất ta thấy diễn ra hai khuynh
hướng sau đây:
- Tập trung hoá, liên kết hoá.
- Phân tán hoá, chuyên sâu hoá.
Hai khuynh hướng đó không hề triệt tiêu nhau, mà lại bổ trợ cho nhau.
Rõ ràng, xã hội hoá không chỉ là tập trung hoá, mà với sự phát triển vũ bão
của KHKT đã tạo ra những công cụ, kỹ thuật hiện đại cho phép ở quy mô sở hữu
nhỏ vẫn có hiệu quả cao: Ví dụ các máy công cụ canh tác đa năng nhỏ hợp với các
hộ gia đình, bên cạnh các xí nghiệp lớn, sản xuất tập trung, ra đời các xưởng vệ tinh
gia đình (do công cụ tinh vi, rẻ, từng gia đình có thể trang bị được và sản xuất có
hiệu quả lớn). Mặt khác, khi trình độ của công cụ sản xuất thấp, năng suất và hiệu
quả không cao mà lại đẩy tới những hình thức sở hữu cao, quy mô to, thì đó chỉ là xã

hội hoá mang tính hình thức.
Quá trình XHH không phải là tập thể hoá một chiều, mà xã hội hoá còn đẩy
mạnh cả sự cá thể hoá, cả sự độc lập hoá và tương tác lẫn nhau. Xây dựng hệ thống
QHSH phải thấy hết những khuynh hướng khách quan này.
5 . Loại và hình thức sở hữu phải xem xét trong sự tương hợp với tính đặc
thù của lĩnh vực sản xuất - kinh doanh:
Có những lĩnh vực sản xuất mà trong đó các khâu của quy trình sản xuất có
thể được chuyên môn hoá, quy trình hoá, tiêu chuẩn hoá một cách cao độ(nhue trong
sản xuất công nghiệp hiện đại), lại có lĩnh vực khó có thể cắt đoạn, tiêu chuẩn hoá
một cách rạch ròi, máy móc được (như linh vực sản xuất nông nghiệp). Trong lĩnh
vực nông nghiệp, qua thực tế lâu năm của nhiều nước, người ta đã rút ra một điều có
tính quy luật là: Hợp tác hoá ở những khâu càng xa quá trình sinh học bao nhiêu thì

càng tốt (có nghĩa là HTH chủ yếu ở những khâu dịch vụ, chế biến). Rõ ràng những
tính đặc thù của mỗi lĩnh vực sản xuất - kinh doanh phải được tính tới trong quá
trình xây dựng các QHSH.
6. Phải có quan điểm lịch sử khi xem xét vấn đề sở hữu:
4


Tính chất triệt để của một cuộc cách mạng chính trị - xã hội không hoàn toàn
trùng hợp với tính chất triệt để của cách mạng QHSH cả về quy mô, hình thức, thời
gian và cấp độ, tuy rằng giữa chúng có quan hệ bản chất với nhau.
QHSH có sự kế thừa, bảo lưu (cả những mặt tốt và những nét lạc hậu, tiêu
cực, mà nếu xoá vội đi có khi đưa đến một hậu quả tiêu cực hơn: như muốn xoá

nhanh sở hữu tư nhân, cá thể, kinh tế gia đình).
Cuộc cách mạng về QHSH còn lâu dài và chưa thể nói là đã hoàn tất công
cuộc cải tạo XHCN.
Quan điểm lịch sử còn đòi hỏi xem xét không chỉ các QHSH đã có ở nước ta
và sự ảnh hưởng của chúng, mà còn phải nghiên cứu kỹ các bước đã đi qua của các
nước anh em, của quá trình phát triển chế độ sở hữu ở các nước TBCN (mà ta không
trải qua), bởi vì ngoài phương tiện bản chất xã hội ra, trong QHSH còn chứa đựng
những đặc trưng kinh tế - kỹ thuật khách quan phản ánh quá trình xã hội nền sản
xuất, phản ánh quá trình khách quan thay đổi hình thức và quy mô sở hữu.
Các QHSH cũng có những hình thức và bước đi lịch sử tất yếu.
7. Phải có quan điểm hệ thống khi xem xét các QHSH:
- Các QHSX mà trong đó mấu chốt là QHSH trong bất kỳ phương thức sở hữu

nào cũng tồn tại như một hệ thống. Không một QHSH nào có thể tổn tại tự nó bên
ngoài các mối liên hệ với các QHSX khác, trước hết là quan hệ phân phối và quan hệ
quản lý. Có thể ví các QHSH như một bộ xương của một cơ thể, còn quan phân phối
là hệ tuần hoàn, quan hệ quản lý là hệ thần kinh. Dù bộ xương có vững chắc, nhưng
hệ tuần hoàn, hệ thần kinh không phù hợp thì vẫn cứ cứ là một cơ thể còm cõi,
không sức sống của một nền kinh tế, không đủ để chứng minh tính ưu việt của một
chế độ xã hội.
- Trong thành phần quốc doanh và mỗi thành phần kinh tế khác đều có một
phần kinh tế tương tác mang tính đặc thù giữa chế độ sở hữu, chế độ phân phối, chế
độ quản lý.
Sự tương tác tổng hợp trên toàn bộ nền kinh tế là một chế độ sở hữu mang
tính tỗn hợp, cơ chế quản lý cũng vậy và cơ chế phân phối cũng vậy, mặc dù nó có

tính chủ đạo của nó là tính XHCN. Sự phức tạp chính là xác định cơ chế này.
- Các QHSH và các QHSX tạo nên một hệ thống mở tương tác với 2 hệ thống
khác:
+ Hệ thống kiến trúc thượng tầng.
5


+ Hệ thống lực lượng sản xuất. Sự tương tác này khôg đơn trị một chiều.
QHSH đã hình thức, thì sự biến dạng ở kiến trúc thượng tầng với cơ chế quan liêu
bao cấp lại càng đẩy tới sự biến dạng của QHSH và ngược lại.
Còn đối với lực lựợng sản xuất thì các QHSH nói riêng (và các QHSX nói
chung) có vai trò liên kết, các yếu tố LLSX thành một hệ thống tối ưu nhất. Chất kết

dính trước hết là cơ chế lợi ích. Điều đặc biệt ở đây là: Con người vừa là trung tâm
của các QHSX, QHSH, lại vừa là một yếu tố cấu thành có tính quyết định của
LLSX. Những hình thức sở hữu không bảo đảm lợi ích cho con người, cho mỗi tập
thể lao động sẽ tự làm nó suy sụp bằng việc làm mất tính hệ thống của LLSX, làm
cho LLSX bị suy yếu đi, (điều này chúng ta thấy rất rõ trong cả thành phần kinh tế
quốc doanh và cả các HTX nông nghiệp).
Rõ ràng, con người - những người lao động cụ thể với những lợi ích cụ thể là
trung tâm của các QHSH (dù là sở hữu toàn dân, sở hữu quốc doanh, sở hữu tập thể hay
sở hữu cá thể). Khi ta nói CNXH sẽ xoá bỏ chế độ tư hữu, thì luôn cần nhớ rằng không
phải là xoá đi chính sách nhân, cá thể, tính làm chủ, ý thức độc lập, khát vọng vươn tới
sự sáng tạo, sự khẳng định mình trong tập thể, cộng đồng. Ngược lại đó lại là những
mục tiêu cần vươn tới. Cải tổ các QHSH phải hướng tới đó.

II. NHỮNG BIẾN DẠNG CỦA CÁC QUAN HỆ SỞ HỮU VÀ HẬU QUẢ
CỦA NHỮNG BIẾN DẠNG ĐÓ.
Thực tiễn ở các nước XHCN cũng như ở nước ta đã chỉ rõ: không thể phủ
nhận những thành tựu của chế độ sở hữu mới - sở hữu XHCN. Song cũng cần phải
nhìn nhận một cách khách quan, khoa học những biến dạng của các quan hệ sở hữu
và những hầu quả của chúng.
Có thể nêu lên một số nội dung biến dạng chủ yếu sau:
l . Thay sở hữu toàn dân (SHTD) bằng sở hữu Nhà nước (SHNN) hay coi SHNN là
SHTD đề cao tuyệt đối vai trò của nó trong toàn bộ hệ thống kinh tế XHCN, là làm
suy yếu địa vị của những người lao động, của các tập thể lao động, của các nhóm,
các tầng lớp xã hội thực tế là ngày càng tách những người lao động ra khỏi QHSH,
trên thực tế thay thế chức năng của những người sở hữu (Nhà nước và những người

lao động) bằng chức năng được nhân cách hoá của các các cơ quan chức năng quản
lý điều tiết các TLSX.
2. Quyền sở hữu xã hội của Nhà nước ở cấp cao ngày càng bị vi phạm do quá trình
nảy sinh và phát triển tính địa phương chủ nghĩa, cục bộ ngành, biến các cơ quan
6


quản lý ngành từ chỗ vốn là các khâu của cơ chế quản lý thành các chủ thể của các
QHSH, có quyền định đoạt tất cả, điều tiết các nguồn dự trữ xã hội, TLSX, thực hiện
phân phối và phân phối lại cho các đơn vị sản xuất dưới quyền không theo đúng tính
chất xã hội của QHSH, gây thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội, vi phạm nghiêm trọng
quyền làm chủ của người lao động (vốn là đồng chủ sở hữu). Vi phạm tính hệ thống

của cơ chế quản lý tập trung dân chủ trên toàn bộ nền kinh tế.
3 . Nhà nước hoá đơn điệu các HTX, trên thực tế tồn tại quá trình biến nó thành đơn
vị quốc doanh, thực hiện kế hoạch hoá pháp lệnh từ các cơ quan Nhà nước (huyện,
xã), không còn giữ được là một hình thức kinh tế tập thể, tính chất của sở hữu tập
thể.
4. Tuyệt đối hoá SHQD, SHTT, trên thực tế có khuynh hướng xoá bỏ các loại sở hữu
khác (hoặc Nhà nước hoá nó - như hệ thống HTX tín dụng). các hình thức sở hữu
của các tổ chức xã hội, của các cá nhân, tư nhân, sản xuất nhỏ, tiểu chủ kể cả kinh tế
gia đình một thời gian dài bị coi là mầm mống " hằng ngày hằng giờ đẻ ra CNTB",
là đối tượng của cuộc đấu tranh giai cấp "ai thắng ai" cần xoá bỏ nhanh, tận gốc.
Nhưng thực tế cuộc sống đã đưa ra câu trả lời ngược lại.
5. Hạn chế các hình thức sở hữu quá độ, sở hữu hỗn hợp giữa các loại QHSH, và nếu

có để tồn tại thì luôn luôn có xu thế Nhà nước hoá nó. Do đó một thời gian dài các
hình thức sở hữu như: công ty hợp doanh, Nhà nước - tập thể, tập thể - cá nhân đều
không có điều kiện phát triển, hoặc tồn tại rất hình thức, diễn tướng dưới 2 dạng:
hoặc bị Nhà nước hoá, hoặc bị tư nhân hoá, đội lốt tập thể.
6. Làm nghèo đi và đơn giản hoá hệ thống quan hệ sở hữu XHCN (chỉ còn "ta với
ta").
Những biến dạng trên dẫn đến điều gì?
1. Làm biến dạng chính ngay các quan hệ sở hữu: sở hữu trở nên bị tha hoá theo hai
hướng:
- TLSX, tài nguyên, lao động bí vô chủ hoá, bị sử dụng kém hiệu quả, lãng phí.
- Bị chiếm đoạt, bị lợi dụng làm của riêng.
2. Làm tha hoá lao động:

- Phát triển thái độ vô chủ, thờ ơ, đầu óc tư hữu, vụ lợi đối với SHNN, SHTT, mang
nặng tư tưởng của người làm công.
- Kìm hãm năng lực sáng tạo, khát vọng vươn lên.
3. Làm nặng thêm chủ nghĩa bình quân.
7


4. Phát sinh những hiện tượng kinh tế ngầm và các tệ nạn khác.
5. Hệ thống quản lý mệnh lệnh tập trung, quan liêu lại được coi là dấu hiệu tập trung
dân chủ (quản lý theo kiểu này dễ nhất).
6. Sự biến dạng của QHSH đã phá hoại cơ chế tương tác giữa LLSX và QHSH, ảnh
hưởng tiêu cực đến trạng thái và tính năng động của LLSX, nảy sinh cơ chế kìm

hãm.
Sự đứt đoạn của QHSH khỏi quan hệ biện chứng các mặt của phương thức sản xuất
biểu hiện dưới hai hình thức:
a) Sự phát triển không đúng hướng của LLSX (thiên về quy mô to, vĩ đại), nảy sinh
quan điểm kỹ trị đối với việc giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội, hạ thấp vai trò
của con người trong sự phát triển xã hội (phần để lại cho lĩnh vực xã hội là phần còn
lại sau khi giành cho sản xuất) đó là một trong những nguyên nhân làm cho con
người lao động xa lánh đối với lao động, làm giảm ý thức sáng tạo của người lao
động. (Xin lưu ý là ở các nước TBCN lại lợi dụng rất nhiều nhân tố con người).
Việc coi thường lợi ích cá nhân chính đáng (gắn với sở hữu, gắn với lao động) đã
kìm hãm sự hình thành nhân cách của người lao động mới (chứ không phải ngược
lại).

- Nảy sinh và phát triển khuynh hướng sản xuất không nhằm vào lợi ích thực tế và
nhu cầu của con người:
+ Sản xuất theo kế hoạch của cấp trên;
+ Sản xuất bằng bất cứ giá nào;
+ Độc quyền áp đặt người tiêu đùng, sản phẩm tốt xấu cũng được.
Sản xuất không đối thoại với thị trường, với người tiêu dùng mà vì chỉ tiêu pháp
lệnh của Nhà nước.
b) Mặt khác, lại có khuynh hướng tuyệt đối hoá các QHSH.
+ Đơn giản hoá các mối quan hệ của các hình thức kinh doanh (giao nộp là dễ dàng
nhất):
+ QHSH tách khỏi động thái thực tế của LLSX, khỏi trình độ XHH nền sản xuất.
Trình độ của QHSH đồng nhất với quy mô to.

Không thấy sự phát triển đa dạng, nhiều cấp độ của LLSX quy định tính đa
dạng của các hình thức và cấp độ sở hữu, đã dẫn tới khuôn mẫu hoá, đơn điệu hoá,
đơn điệu hoá các hình thức của đời sống kinh tế, làm nghèo đi, đơn giản hoá cơ cấu
8


kinh tế của CNXH (chỉ còn lại "ta với ta", chỉ có một kiểu xí nghiệp quốc doanh, chỉ
có một kiểu HTX).
Tuyệt đối hoá tập trung trong quản lý kinh tế.
- Các bộ các ngành với cơ chế quan liêu, với tính cục bộ đã trở thành chướng ngại
vật đối với sự phát triển của các lĩnh vực liên ngành, của tiến bộ KHKT và nhiều
lĩnh vực khác của khách quan đòi hỏi. Ta hãy lấy ví dụ về nhập khẩu thiết bị : người

có nhu cầu, người duyệt, người cấp kinh phí, người báo giá, người liên hệ với bạn
hàng nước ngoài, người ký kết, người chuyên chở,vv.. mỗi 'ông" đều có quyền định
đoạt số phận của thiết bị nhập.
Rõ ràng sự biến dạng, sự đứt đoạn của các quan hệ sở hữu (dù rằng trong
ngạch một loại sở hữu) đã triệt tiêu, đã ngăn trở động lực phát triển.
Việc xây dựng các QHSH không tính đến trình độ XHH thực tế của LLSX,
của những điều kiện kinh tế - kỹ thuật cụ thể, của những ngành cụ thể đã phải trả giá
đắt như thế nào. Rõ ràng như là trong lĩnh vực nông nghiệp của các nước XHCN,
việc áp dụng kiểu sản xuất công nghiệp, không tính đến quá trình sinh họ, không
tính đến yếu tố phi kinh tế (như tình yêu của người nông dân với ruộng đất) đã dẫn
đến sự suy thoái của nền nông nghiệp mà phải nhiều năm mới khôi phục được.
III- Nguyên nhân của của sự biến dạng QHSH

Vậy thì tại sao lại có những biến dạng về QHSH? đâu là nguyên nhân chủ quan? đâu
là nguyên nhân khách quan? Phải chăng có thể nêu lên một số nguyên nhân chính
sau đây:
1. Trước hết là nguyên nhân về nhận thức luận, xuất phát từ nhận thức giản đơn, giáo
điều về CNXH, về quá trình xây dựng CNXH:
+ CNXH là công hữu hoá, là tập thể hoá thoát ly khỏi tất yếu kinh tế - xã hội, là làm
chung hưởng chung;
+ Tổ đổi công là mầm mống CNXH;
+ HTX bậc thấp là l/2 CNXH;
+ HTX bậc cao là CNXH.
Đã "quốc doanh" là tất yếu có nhiều tính XHCN, dù làm ăn thua lỗ triền miên.
2. Những nguyên nhân biến dạng phải nhìn nhận chính trong quá trình phát triển của

các QHSH (ở đây khó có thể đồng tình với quan niệm cho rằng QHSH khi mới hình
thành đã có ngay đầy đủ mọi cuộc tình bản chất của nó).
9


a) Tính toàn dân của sở hữu chỉ đạt được sự hoàn thiện khi trong việc chiếm hưũ
TLSX và kết quả lao động, phát triển văn hoá và tinh thần có sự tham gia trực tiếp,
bình đẳng của mỗi con người cụ thể, mỗi tập thể, và toàn xã hội nói chung.
Thực tế để đạt được tính hoàn thiện đó còn là một quá trình lâu dài. SHTD không thể
tồn tại "trừu tượng" mà phải rất cụ thể đối với mỗi người.
Rõ ràng, về mặt khách quan, do chưa hoàn thiện về XHH nền sản xuất, đặc
biệt như nước ta, lao động chưa là lao động xã hội trực tiếp nên SHXH thực tế bị

phân chia giữa các cấp chủ thể, quyền điều hành, phân phối thuộc về các cấp quản lý
bên trên trong cơ cấu kinh tế chung, chính điều đó đã dẫn đến sự vi phạm các mối
quan hệ trực tiếp giữa con người và TLSX (như SHTD đòi hỏi).
Đó là lý do khách quan làm cho SHTD chưa thể đạt tới sự hoàn thiện, mà
được biểu hiện dưới dạng SHNN.
b) SHTD (hay SHNN) không đảm bảo được tính toàn dân còn do sự độc quyền hoá
TLSX và sản phẩm lao động của cơ quan quản lý. Việc phân phối cho ai, trên cơ sở
nào, ở mức độ nào nhiều khi do sự độc quyền điều tiết, chính các quan hệ độc quyền
này đã quyết định địa vị các nhóm, các tầng lớp, các tập thể và mỗi con người trong
nền sở hữu xã hội và trong toàn bộ hệ thống các quan hệ kinh tế - xã hội; do địa vị
khác nhau đó đối với TLSX, làm cho thái độ làm chủ đối với TLSX, đối với lao
động của họ không giống nhau, không đạt tới mức cần có đối với SHTD, thể hiện sự

không bình đẳng hoàn toàn giữa xã hội, các tập thể, nghĩa là có sự sai lệch đối với
nội dung khách quan của quan hệ SH XHCN.
Trên thực tế Nhà nước thay mặt giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân thuân với
sự đa dạng của các lợi ích, với sự khác biệt về trình độ XHH nền sở hữu của các lực
lượng sản xuất khác nhau.
3 . Có khuynh hướng tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế tập trung (KTTT), trong việc
xây dựng QHSH, dùng mệnh lệnh hành chính để thực hiện quá trình tập trung hoá,
XHH một cách phi kinh tế. Nhà nước hoá các quan hệ sở hữu các hoạt động xã hội
khác (Nhà nước hoá chứ không phải pháp chế hoá - là cái mà ta cần có). Nhà nước
trực tiếp đứng ra điều tiết tất cả từ mọi quan hệ vĩ mô đến con người cụ thể. Trên
thực tế tạo nên SHNN.
4. Để cho SHNN trở thành SHTD thì Nhà nước ít nhất phải :

- Đại diện một cách công bằng và bình đẳng lợi ích giống nhau và lợi ích riêng của
các giai cấp, các tập thể và mỗi cá nhân.
10


- Sử dụng một cách công bằng và bình đăng toàn bộ tiềm năng của đất nước vào sản
xuất.
Có nghĩa là mọi thành viên trong xã hội phải có quyền như nhau trong các
QHSH. Nhưng trong trình độ hiện nay, các điều kiện ấy đều chưa ở mức hoàn thiện.
Rõ ràng điều kiện khách quan đó đòi hỏi phải có sự phân cấp sở hữu thành nhiều cấp
độ và hình thức cho phù hợp. Từ đây đòi hỏi phải nghiên cứu xem xét cấu trúc của
hệ thống các chủ thể hệ thống các chủ thể sở hữu: Nhà nước, các tập thể lao động, cá

nhân, các vùng, địa phương, xí nghiệp, hợp tác xã.
Như vậy do chưa đạt tới trình độ XHH cần thiết của nền sản xuất của TLSX,
chưa đạt tới độ chính muồi của SH XHCN mà tồn tại mâu thuẫn khách quan sau:
mâu thuẫn giữa SHTD, SHNN. SHTT với việc phát huy tính năng động, tính hiệu
quả của nền sản xuất đòi hỏi phải trao quyền tự chủ cho mỗi đơn vị, mỗi khâu, mỗi
cá nhân trong quá trình sản xuất: nghĩa là phi tập trung hoá - trong quản lý kinh tế ở
một mức độ cần thiết phù hợp với trình độ xã hội hoá của LLSX.
Tức là làm sao liên kết tính toàn dân, tính XHCN với từng đơn vị cơ sở, với
mỗi con người cụ thể. Không giải quyết tốt mâu thuẫn này, nền sản xuất xã hội bị
suy thoái, bị rối loạn từ bên trong, từ các quan hệ cơ sở của nó. Giải quyết mâu
thuẫn này phải bằng con đường tìm ra một kết cấu sở hữu (gồm nhiều loại, nhiều
hình thức, nhiều cấp độ) phù hợp, cho phép kết hợp hài hoà các lợi ích khác nhau,

định hướng theo XHCN.
5. Hệ thống lý luận về vấn đề sở hữu còn rất non yếu, một thời gian dài lại không
được lưu ý nghiên cứu đúng mức cho nên những giải pháp thực tiễn về QHSH đã
không được trợ giúp một cách kịp thời và có căn cứ khoa học, những hình thức và
quan hệ kinh tế mới chậm được tổng kết để nâng lên thành lý luận chỉ đạo thực tiễn.
Hơn nữa trong thực tiễn lại chưa có một hệ thống đầy đủ luật về các QHSH nên
dễ bị các chủ thể lợi dụng mưu cầu lợi ích cá nhân cục bộ, làm cho các QHSH
lại càng biến dạng hơn.
IV. Một số vấn đề đang đặt ra.
Rõ ràng thực tiến đòi hỏi giải quyết vấn đề sở hữu không thể chỉ bằng kinh
nghiệm, bằng quá trình phát triển tự phát, mà phải thông qua việc giải đáp những
vấn đề lý luận cơ bản. Ở đây việc dùng lý luận khoa học để tổng kết, để phân tích

những quá trình thực tiễn là hết sức quan trọng (đặc biệt là những QHSH bị biến
11


dạng đang gây ra sự rối loạn, trì trệ trong nền kinh tế - xã hội), từ đó đưa ra những
kiến nghị có căn cứ để chỉ đạo thực tiễn.
Mặt khác do tất yếu khách quan trong thực tế đang ra đời nhiều loại, hình thức
QHSH mới mà gắn với chúng là các hình thức, các tổ chức kinh tế cụ thể, có hiệu
quả. Khoa học phải luận chứng cho các quá trình này.
1. Trước hết phải nghiên cứu làm rõ cơ chế của chế độ SH CNXH. Nền kinh tế nhiều
thành phần và sản xuất hàng hoá đòi hỏi phải đoạn tuyệt với quan niệm SHTD,
SHNN, SHTT tồn tại biệt lập với các loại sở hữu với nhau trên tất cả các phương

diện của QHSH, tạo nên các hình thức sở hữu hỗn hợp rất phong phú.
Có thể coi đây là chế độ sở hữu quá độ lên CNXH (các thành phần kinh tế
CNXH cũng chưa đạt tới độ trưởng thành của nó, các thành phần kinh tế khác không
tồn tại dưới dạng nguyên nghĩa). Toàn bộ các dòng TLSX, vốn, vật tư, lao động,
công nghệ, thông tin đang vận động "xuyên qua” nhiều chủ thể sở hữu ở nhiều cấp
độ khác nhau, do đó tính chất CNXH của chế độ sở hữu này được quyết định không
chỉ bởi các thành phần kinh tế CNXH (quốc doanh và tập thể, gia đình), mà còn bởi
sự điều tiết của toàn bộ hệ thống luật và các chính sách cụ thể của cơ chế quản lý.
2. Xuất phát từ sự phát triển của cơ chế quản lý kinh tế mới: hạch toán kinh tế toàn
phần, tự cấp vốn, tự bù đắp chi phí, tự chủ, đi đến kết luận là phải làm rõ về mặt lý
luận của sở hữu Nhà nước, sở hữu quốc doanh, tức là phải giải quyết mối quan hệ sở
hữu thực tế giữa các tập thể lao động và Nhà nước, giữa các tập thể lao động và cá

nhân, người lao động. Một trong những vấn đề mấu chốt là xác định chủ thể sở hữu,
chủ thể quản lý - điều tiết, chủ thể sử dụng, chủ thể kinh doanh giữa những nhân vật
sau đây:
Xã hội - Nhà nước - các cơ quan quản lý ngành (địa phương) - Ban lãnh đạo
xí nghiệp - tập thể lao động - Người lao động (với tư cách là chủ đồng sở hữu).
SHQD chỉ đạt được hiệu quả thực tế cao khi giải quyết hài hoà cả 3 mặt của
QHSH (mặt vật chất cụ thể, mặt kinh tế, mặt pháp lý) giữa các vấn đề trên. Ở đây về
thực chất là phải tìm được một cơ chế lợi ích, nghĩa vụ, trách nhiệm phù hợp. Đây
lại là một vấn đề vướng mắc nhất của SHQD.
Một trong những cơ sở chủ yếu để "phân vai" QHSH trên là các quan hệ kinh
tế và hiệu quả của nó. Chỉ có sự "phân vai" khách quan đó mới bảo đảm được sự kết
hợp có hiệu quả giữa chủ sở hữu TLSX mà đại diện Nhà nước) với lao động (mà chủ

sở hữu là người lao động). Và từ đây có thể lý giải một cách đúng đắn các quan hệ
12


thuê, khoán, đấu thầu, cổ phần dưới CNXH, mới đẩy mạnh được sản xuất hàng hoá
và hạch toán kinh tế.
Rõ ràng khi xem xét QHSH không chỉ đơn giản trả lời câu hỏi: của ai mà còn
phải đồng thời phải trả lời các câu hỏi :
- Ai có quyền sử dụng, điều phối, kinh doanh.
- Ở quy mô nào? Hình thức nào là có hiệu quả nhất?
3. Trong lĩnh vực sở hữu tập thể. Điều quan trọng nhất ở đây là phải quay trở lại với
đúng tính chất của sở hữu tập thể. Nhưng trong nền kinh tế nhiều thành phần thì

quan niệm về sở hữu tập thể sẽ có phạm vi rộng hơn: là sự liên hợp tự nguyện với rất
nhiều hình thức, quy mô, cấp độ khác nhau của các chủ sở hữu trên cơ sở cùng chịu
trách nhiệm, cùng có lợi. Các chủ sở hữu đó có thể là Nhà nước, tập thể, tư nhân và
cá thể.
Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp (kể cả lâm nghiệp), nơi mà sản xuất diễn
ra với các quá trình sống, vấn đề sở hữu ruộng đất, vấn đề mô hình hợp tác xã đang
đặt ra nhiều câu hỏi phải giải đáp. Sự sai lầm trong tập thể hoá triệt để, áp dụng
phươg pháp quản lý theo kiểu công nghiệp, không coi trọng đúng mức vai trò của hộ
gia đình, đã làm cho người nông dân xa lánh đồng ruộng và các TLSX khác, làm
việc như địa vị của người làm công lấy điểm. Đương nhiên như thế cái giá phải trả là
rất đắt.
Ngày nay với việc họ nông dân là đơn vị sản xuất tự chủ, với việc coi đất đai

là sở hữu toàn dân (như luật nêu) đang diễn ra một quá trình hình thành những kết
cấu sở hữu hợp tác - tập thể kiểu mới : ruộng đất - quyền sở hữu tối cao của Nhà
nước giao cho nông dân sử dụng lâu dài, Nhà nước còn bảo đảm điện, thuỷ lợi, một
số TLSX là của HTX, một số tư liệu sản xuất của hộ nông dân tự sắm, sức lao động
của nông dân. Như thế, trên cơ sở hộ nông dân đã và đang hình thành các mô hình
HTX mới có hiệu quả, vì được xây dựng trên những tất yếu kinh tế khách quan và sự
tự nguyện của nông dân. Đương nhiên ở đây còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
cần nghiên cứu và làm rõ.
4. Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tất yếu phải thừa nhận sự tồn tại
nhiều loại, nhiều cấp độ, nhiều hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế liên kết,
liên doanh với nhau làm nảy sinh hàng loạt các hình thức và cấp độ sở hữu mới
mang tính chất hỗn hợp. Điều đó buộc chúng ta phải phân tích kỹ.

13


- Nội dung, phạm vi biện pháp bảo đảm và từng bước tăng cường tính chất XHCN
của hệ thống QHSH (trong đó có việc tăng cương vai trò chủ đạo của thành phần
kinh tế quốc doanh và tập thể).
- Tìm ra cơ chế lợi ích tương tác giữa các loại sở hữu để từ đó pháp chế hoá và có
chủ trương chính sách cần thiết, phù hợp. Đặc biệt là sự quản lý vĩ mô đối với các
thành phần kinh tế.
Khi giải quyết vấn đề QHSH thì điều quan trọng nhất là làm sao cho mỗi
người lao động, mỗi tập thể lao động thành chủ thể sở hữu thực tế (dù là đồng sở
hữu). Lao động với tư cách người chủ và hưởng thụ cũng với tư cách là người chủ.

Do đó nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cho được các hệ thống nguyên tắc, các hình
thức sở hữu, các hình thức kinh tế bao đảm quá trình vật chất hoá và pháp lý hoá địa
vị của người lao động, của các tập thể lao động với tư cách là chủ thể sở hữu TLSX
(theo nghĩa rộng)và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
PHẦN II: CƠ CẤU SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. VỀ CHẾ ĐỘ CÔNG HỮU:
Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất như một viên đá tảng trong hệ thống lý
luận kinh tế của CNXH và trong thực tiễn tổ chức nền kinh tế XHCN. Trước đây,
cũng như ngày nay trong đổi mới, nó vẫn được công nhận như một định lý của
CNXH.

Trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác - Ăng - ghen đã nêu lên nguyên
tắc của chủ nghiã cộng sản là: "Xoá bỏ chế độ tư hữu” và giải thích rõ "Không phải
là xoá bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xoá bỏ chế độ sở hữu tư sản" l . Tất nhiên
thay thế cho chế độ sở hữu tư sản là chế độ sở hữu XHCN – chế độ công hữu.
1
C.Mác-Ph Ăng-ghen; tuyển tập, t.1, NXB Sự thật Hà Nội, 1970, tr 43
Cũng như mọi chế độ xã hội trong lịch sử, bên cạnh chế độ sở hữu chủ đạo
vẫn có những hình thức sở hữu khác kế thừa từ nhiều phương thức sản xuất của lịch
sử. Trong xã hội XHCN, trước hết là trong thời kỳ quá độ, cùng với chế độ sở hữu
công cộng nhưng tư liệu sở hữu chủ yếu, còn nhiều hình thức sở hữu tư nhân cùng
hoạt động, sản xuất kinh doanh.
Chế độ công hữu thể hiện mối quan hệ cơ bản nhất giữa người với người trong

việc chiếm hữu tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất dưới XHCN. Nó quy định mục
14


đích, lợi ích, động lực cũng như và cơ chế tổ chức, sử dụng, điều tiết nền sản xuất xã
hội. Nó là nhân tố bên trong kích thích sự phát triển của xã hội XHCN. Mọi quan hệ
kinh tế dưới CNXH, dù là quan hệ kế hoạch hay quan hệ hàng - tiền, quan hệ kinh tế
đối nội, hay đối ngoại đều chịu sự chi phối của quan hệ cơ bản ấy. Vị trí kinh tế, xã
hộí của chế độ công hữu to lớn như thế, nên ngày nay trong đổi mới tư duy, phát
triển lý luận cũng như trong thực tiễn cải cách kinh tế, thế giới XHCN vẫn khẳng
định nó, lấy nó làm nền tảng kinh tế của sự đổi mới và phát triển. Hơn nữa, người ta
còn xác định sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất là đặc điểm chủ yếu trong việc cải

tạo cách mạng những điều kiện khách quan của sự phát triển nhận thức, là cơ sở xác
định bản chất và hình thức phổ biến của tư duy kinh tế XHCN; cải tạo quan hệ sở
hữu là nội dung cơ bản trong cải cách kinh tế. Cương lĩnh xây dựng CNXH của các
Đảng cộng sản và công nhân trong các nước XHCN đều nêu bật nó lên như một đặc
điểm lớn của CNXH.
Kinh tế chính trị học về CNXH bao giờ cũng xây dựng trên quan hệ cơ bản là
chế độ công hữu.
II. KHẮC PHỤC NHỮNG QUAN NIỆM GIẢN ĐƠN, SƠ LƯỢC VỀ SỞ HỮU
XHCN
Việc khẳng định định lý kinh điển về chế độ công hữu ngày nay gắn liền với
việc nghiên cứu những tầng sâu của sở hữu. Việc nghiên cứu này nằm trong nhiệm
vụ đột phá về chất sự phát triển lý luận kinh tế hình thành tư duy mới. Đổi mới quan

hệ sở hữu, họ nêu lên tính chất nhiều cấp độ, nhiều chủ thể của quan hệ ấy và xem
đó là phép biện chứng về sự phát triển của chúng.
Sự nghiên cứu trên đã phát hiện ra độ sai lệch lớn trên nhiều quan niệm về sở
hữu XHCN. Sai lệch đầu tiên là đã coi chế độ sở hữu càng lớn càng công hữu, càng
thuần khiết càng tốt, càng CNXH. Thứ hai là quan niệm một cách giản đơn sở hữu
toàn dân là sở hữu Nhà nước sử dụng kinh doanh. Thứ ba là không phân biệt sở hữu
và quyền sử dụng tư liệu sản xuất. Thứ tư là, chỉ coi sở hữu Nhà nước mới có tương
lai, còn các sở hữu khác sẽ bị xoá bỏ. Thứ năm là, những sai lệch trên dẫn đến quan
niệm về một chế độ kinh tế tập trung hoá, thống nhất dưới hình trên dẫn đến quan
niệm về một chế độ kinh tế tập trung hoá, thống nhất dưới hình thức duy nhất là sở
hữu Nhà nước, là xu hướng Nhà nước hoá mọi sinh hoạt kinh tế xã hội. Thứ sáu là,
đẫn đến quan niệm độc quyền và hình thành bộ máy quan liêu trong quản lý kinh tế

xã hội. Thứ bảy, song song với những quan niệm về sở hữu như vậy, là quan niệm về
15


đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường, đấu tranh tư tưởng một cách cứng
nhắc, thoát ly khỏi sự biến đổi về chất trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Tất
nhiên trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường vẫn tồn tại, nhưng
môi trường của cuộc đấu tranh đã thay đổi nên cũng phải có biện pháp đấu tranh phù
hợp. Thứ tám là, thể chế dân chủ XHCN bị vi phạm nghiêm trọng, trước hết là dân
chủ trong kinh tế, bắt nguồn từ dân chủ và công bằng về quyền sở hữu và sử dụng tư
liệu sản xuất xã hội.
Những quan niệm ấy đã in dấu ấn sâu sắc lên chính sách cải tạo, tổ chức và

quản lý kinh tế ở nhiều nước XHCN. Trong đó, nổi bật lên là các chủ trương: nhanh
chóng cải tạo hầu hết tư liệu sản xuất, làm hình thành hai hình thức kinh tế thuần
nhất là quốc doanh và HTX với quy mô ngày càng lớn; xây dựng cơ chế quản lý kế
hoạch hoá trực tiếp bằng mệnh lệnh tập trung của Nhà nước Trung ương và hạn chế
quan hệ hàng - liền trong khuôn khổ hình thức chật hẹp thực hiện chế độ phân phối
bình quân, cơ chế bao cấp từ Trung ương; không công nhận các hình thức sở hữu tư
nhân và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, nên phải liên tục cải tạo nhằm hạn chế đến
mức tối đa trong hoạt động của các thành phần kinh tế khác.
Tiến trình xây dựng CNXH ngày càng phát triển, nhu cầu sản xuất và đời sống
xã hội ngày càng cao, tinh tế phức tạp, đặc biệt là vào giai đoạn có sự biến đổi về
chất trên mọi lĩnh vực của thời đại ngày nay thì những cơ cấu tổ chức kinh tế - xã
hội, cơ chế kinh tế và quản lý tập trung theo những sơ đổ giản lược đã không được

thực tiễn chấp nhận. Đi vào đổi mới nhiều nhược điểm và sự suy yếu của chúng đã
bộc lộ. Nhược điểm quan trọng nhất của chúng là dưới những tổ chức và cơ chế ấy
người lao động không có quyền sở hữu và sử dụng thực sự tư liệu sản xuất.
Tình hình khá rõ nét ở nước ta là, chế độ sở hữu tư liệu sản xuất bị xáo trộn
liên tục từ khi bắt đầu cải tạo XHCN đến nay. Sở hữu ruộng đất, trâu bò, cơ sở vật
chất ở nông thôn, do quy mô tổ chức hợp tác xã và cơ chế quản lý không ổn định, đã
làm cho chủ sở hữu và người sở hữu ấy bị thay đổi nhiều lần, đã làm hư hao, mất
mát, cạn kiệt một bộ phận tài sản trong nông nghiệp, lâm nghiệp. Sở hữu tư nhân và
tư liệu sản xuất của nhiều tư nhân trong cải tạo, một phần biến nhanh thành sở hữu
Nhà nước, một phần bị tiêu tán, sở hữu Nhà nước đã không được phân cấp, sử dụng
tốt, không có những người chủ thực sự sở hữu và sử dụng, lại mất cân đối với nguồn
nguyên, nhiên vật liệu nên công suất bị lãng phí lớn. Sở hữu tư nhân, cá thể không

được khuyến khích, khai thác. Sở hữu đã bị xáo trộn thì quản lý phân phối lộn xộn,
16


các quy luật kinh tế không có điều kiện để phát huy tác dụng tích cực.Vì vậy, Nghị
quyết Trung ương VI đã khẳng định thực hiện chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần và thực hiện có kết quả "mục tiêu chung là ổn định một bước quan trọng tình
hình kinh tế - xã hội là vấn đề kinh tế cơ bản và then chốt. Ổn định chế độ sở hữu là
xác lập địa vị làm chủ thực sự của từng đơn vị sản xuất kinh doanh, từng người lao
động đối với từng bộ phận của tư liệu sản xuất xã hội. Từ đó dẫn đến sự ổn định về
quyền sử dụng tư liệu sản xuất, sản phẩm làm ra cũng như quyền hưởng thụ, thừa kế
tài sản …" "Quyền sở hữu, sử dụng và thừa kế tài sản, quyền kinh doanh và

hưởng thu nhập chính đáng cũng như nghĩa vụ với Nhà nước phải được quy
định thành luật để mọi ngườl yên tâm bỏ vốn sản xuất kinh doanh". Tuy nhiên,
việc khắc phục những quan niệm sơ lược về CNXH không thể xa rời các nguyên tắc
của CNXH muốn từ bỏ sở hữu Nhà nước, sở hữu hợp tác xã, không công nhận chế
độ sở hữu XHCN, hoặc hạ thấp vai trò của nó trong thời kỳ quá độ, đánh giá cao vai
trò của sở hữu tư nhân, tư bản và cá thể, đầu tư của tư bản nước ngoài để giải phóng
lực lượng sản xuất.
III. ĐỔI MỚI QUAN NIỆM VỀ SỞ HỮU XHCN
Từ cuối năm 1985 đến nay, trong ý đồ đột phá về lý luận kinh tế của XHCN,
các vấn đề sở hữu XHCN lại được nổi lên như một khâu then chốt. Người ta xem nó
như một vấn đề trung tâm của sự cải tổ kinh tế và xã hội, một khâu mấu chốt trong
đổi mới tư duy kinh tế. Trong những năm cải tổ, khi nói về chính sách nông nghiệp,

chính sách Liên xô , M.X. Goóc-ba-chốp đã đòi hỏi phải thay đổi cả trong lý luận và
thực tiễn các quan niệm hiện tại về sở hữu XHCN.
Nội dung nghiên cứu sở hữu hoạt động ngày nay được tập trung vào ba vấn đề
lớn: một là, quan niệm về sở hữu XHCN, hai là, những quy luật phát triển của sở hữu
XHCN; ba là, những hình thức cơ cấu và cơ chế kinh tế thực hiện các quan hệ sở hữu
dưới CNXH.
+ Về quan niệm, người ta tiếp tục hoàn chỉnh các khái niệm, ví dụ phân biệt sở hữu và
chiếm hữu, quyền sở hữu và quyền sử dụng kinh doanh, nhận thức đúng đắn quyền sở
hữu và quyền sử dụng sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước. Nhưng vấn đề quan trọng
được nhấn mạnh là vận dụng quan niệm biện chứng về sự phát triển để hiểu chế độ sở
hữu XHCN và phê phán những quan niệm giản đơn sơ lược. Trong đó, nhiều quan
niệm mới về tính chất của sở hữu XHCN được đề cập đến như: tính chất nhiều cấp độ,

17


nhiều bậc, nhiều chủ thể, tính phong phú, phức tạp, đa dạng, tính mâu thuẫn, tính kế
thừa và phát triển mới tính chung và tính đặc thù.
+ Về quy luật phát triển của sở hữu, người ta lưu ý đến việc nghiên cứu những quy
luật chung của tiến bộ xã hội, của sự phát triển nền văn minh nhân loại, trong đó bao
gồm cả yếu tố phủ định và yếu tố kế thừa. Tất nhiên kế thừa những yếu tố tiến bộ,
phản ánh sự phát triển xã hội và sự xác lập nhứng hình thức kinh tế xã hội đặc thù
của xã hội mới và phủ định những yếu tố lạc hậu. Chủ nghĩa xã hội phải tìm cho
mình nhưng phương thức ưu việt so với chủ nghĩa tư bản . Ưu việt ấy trước hết là ở
thái độ làm chủ thực sự của người lao động đối với công việc. U'u việt ấy không ra

đời từ chỗ trống không, mà từ sự kế thừa những thành tựu của lịch sử, của văn minh
nhân loại. Do đó, CNXH phải có chương trình đổi mới có tính cách mạng quyền sở
hữu và tổng thể các quan hệ xã hội.
Hiện nay, người ta nêu bật lên tính phức tạp, đa dạng của các hình thức sở hữu
và coi đó như những tính quy luật của sự tiến bộ xã hội. Quan niệm này được xác
định trên cơ sở phủ định quan niệm sai lầm cho rằng xã hội tiến bộ sẽ đi đến những
hình thức giản đơn hoá, thống nhất, sẽ đi từ các hình thức đa dạng đến một hình thức
sở hữu duy nhất. Quá trình vận động hợp quy luật của sở hữu. XHCN là làm phong
phú thêm các hình thức sở hữu, đa dạng hoá tổ chức đời sống kinh tế và mô hình
hạch toán kinh tế.
Sự đa dạng có tính quy luật nay là cơ sở khách quan để phát triển thực sự tính
tự chủ, chủ động, dân chủ hoá đời sống xã hội, tạo điều kiện tự do để so sánh các

phương án khác nhau, tìm ra những chỗ thích hợp nhất với các điều kiện cụ thể hiện
có. Tất nhiên về nguyên tắc, sự đa dạng nói đây đều nằm trong một hệ thống nhất
của XHCN, trong cơ cấu kinh tế - xã hội của XHCN và theo chế độ dân chủ tập
trung.
Bình đẳng trước pháp luật các hình thức sở hữu cũng như sự tác động
lẫn nhau nhằm đạt hiệu quả cao cũng là một nguyên tắc của hệ thống sở hữu
dưới CNXH, trong đó sở hữu XHCN giữ vai trò chủ đạo.
Qúa trình hình thành sở hữu XHCN luôn tương ứng với qúa trình xã hội hoá
trên thực tế lao động và sản xuất - một quy luật của sự tiến bộ kinh tế, cần được sự
quan tâm nghiên cứu vận dụng, chống tính tự phát vô chính phủ, phân tán, tản mạn
của sản xuất nhỏ, thủ công lạc hậu.
18



Sự vận động và phát triển của chế độ sở hữu tuỳ thuộc vào trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là một quy luật phổ biến cần đặc biệt tôn trọng.
+ Nghiên cứu những hình thức và cơ chế thực hiện chế độ sở hữu XHCN
đang được xem là một vấn đề cơ bản của kinh tế - chính trị học về CNXH. Nó là một
hướng nghiên cứu sâu cơ cấu phức tạp bên trong các quan hệ sở hữu.
Chế độ công hữu ưu việt so với chế độ tư hữu. Nhưng những ưu việt ấy không
tự động hình thành sau khi tập trung tư liệu sản xuất vào các tổ chức kinh tế của nhà
nước và hợp tác xã. Nó chỉ phát huy dưới những hình thức tổ chức kinh tế cụ thể, thể
hiện đúng đắn bản chất của nó, thể hiện tốt nhất lợi ích của người lao động, của tập
thể và toàn xã hội, phản ánh đúng những nguyên tắc cơ bản của CNXH và bảo đảm

tính linh hoạt, năng động trong sản xuất, kinh doanh. Những hình thức như thế,
không thể giản đơn, thống nhất dưới một hình thức duy nhất nào đó, mà cần có
nhiều hình thức phù hợp với điều kiện cụ thể của sản xuất, kinh doanh. Nhưng dù
bao nhiêu hình thức, thì chúng vẫn phải phản ánh bản chất XHCN của nó. Muốn
vậy, trước hết cần xác định những hình thức cơ bản, nền tảng của sở hữu XHCN như
sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể – hợp tác xã. Nhiều người còn cho sở hữu cá nhân
cũng có một hình thức cơ bản của sở hữu XHCN. Từ nguồn gốc ấy, trong thực tiễn
phải tìm kiếm và lựa chọn những hình thức thứ hai, phát sinh, những hình thức quá
độ, hỗn hợp. Thí dụ trong cải tổ ở Liên Xô, người ta đang nghiên cứu hướng cải tổ
sở hữu toàn dân là tiến hành phân cấp chiếm hữu nhiều bậc, định rõ chức năng phân
phối tư liệu sản xuất và kết quả lao động giữa Nhà nước, các khu vực kinh tế , địa
phương, tập thể lao động, từng người và từng vùng. Việc đó nhằm giao quyền cho

các tập thể, các nhóm đến từng người có trách nhiệm quản lý, sử dụng có hiệu quả tư
liệu sản xuất và sản phẩm làm ra. Người ta cũng đang nghiên cứu những hình thức
kết hợp sở hữu của cá nhân, của tập thể, của toàn dân.
Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã có chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần. Nghị quyết Trung ương lần thứ 6 cũng chỉ rõ: " Các hình thức sở hữu về tư
liệu sản xuất vốn có bản chất riêng, nhưng trong hoạt động sản xuất kinh doanh
không ngăn cách nhau mà có nhiều loại hình hỗn hợp đan kết với nhau”. 1
Tuy vậy, việc nghiên cứu có hệ thống các quan hệ sở hữu trong thời kỳ quá độ
nhất là sở hữu XHCN vẫn là một vấn đề cơ bản trong việc tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, hoàn chỉnh hệ thống các quan điểm về đổi mới đây đã chỉ ra.
19



Việc nghiên cứu này cần có sự tổng kết cơ bản những quá trình lịch sử về các loại
hình sở hữu và những bài học kinh nghiệm trong cải tạo XHCN ở nước ta.
Muốn vậy, cần nghiên cứu có hệ thống các loại sở hữu cần thiết trong thời kỳ
quá độ. Trong đó, cần tập trung vào những vấn đề chính dưới dây.
- Lựa chọn những hình thức sở hữu quá độ, hỗn hợp và những cơ chế kinh tế thích
hợp với chúng. Những hình thức và cơ chế ấy vừa kế thừa, cải tạo, sáng tạo mới.
Nguyên tẳc để lựa chọn, trước hết dựa vào trình độ của lực lượng sản xuất của văn
minh lao động và nghiệp vụ quản lý của con người cụ thể, thứ hai là, đem lại khả
năng tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống của người lao động và
tạo nên những quan hệ xã hội lành mạnh. Không nên đi tìm một hình thức, một cơ
chế thống nhất ưu việt đối với tất cả, mà phải có nhiều hình thức, nhiều cơ chế.

- Phân chia quyền sở hữu và quyền sử dụng kinh doanh trong sở hữu tòan dân và sở
hữu hợp tác xã. Đây là một nhiệm vụ chính trong việc củng cố vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế XHCN hiện nay. Nghiên cứu áp dụng các hình thức: liên doanh
liên kết, kinh tế hợp tác, cổ phần, khoán, cho thuê tài sản, thuê và sự phân cấp, phần
quyền. Thông qua các hình thức trên tạo nên sự tác động thi đua và cạnh tranh sự
đan kết giữa các loại sở hữu khác nhaư nhằm kich thích việc nâng cao hiệu quả sản
xuất, kinh doanh.
Nghiên cứu toàn diện chủ trương, chính sách đối với quyền sở hữu và quyền
kinh doanh của chủ nghĩa tư bản Nhà nước, của tư nhân hiện nay là vô cùng quan
trọng để thu hút nguồn vốn lớn, tranh thủ kỹ thuật hiện đại của nước ngoài và trong
nước.
- Quyền sở hữu kinh doanh đất đâ nông, lâm nghiệp là một vấn đề cấp bách hiện

nay đối với sự phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Điều kiện phổ biến trong nông nghiệp nước ta hiện nay là kinh tế tự cấp, tự
túc, kỹ thuật thủ công lạc hậu, bình quân ruộng đất đầu người thấp. Điều kiện này
phù hợp với lao động cá nhân, gia đình. Do đó nên ban hành hành quyền sở hữu
ruộng đất cho hộ nông dân. Sở hữu ấy được coi là sở hữu phát sinh, nên hộ nông dân
có mọi quyền tự do sử dụng, kinh doanh, cho thuê, được thừa kế cho con cháu lâu
dài, trừ quyền mua bán : Việc này cần được nghiên cứu thận trọng, trên cơ sở ruộng
đất đã được hợp tác xã giao khoán,v.v. . Mặt khác cần củng cố sở hữu HTX và
những HTX kiểu mẫu với tỷ lệ thích hợp cùng với những cơ sở dịch vụ sản xuất
20



kinh doanh thuộc sở hữu toàn dân nắm quyền chủ đạo trong từng địa phương. Ngay
trong các HTX, hộ vẫn là đơn vị lao động chính dưới hình thức khoán.
Sở hữu về tiểu thủ công nghiệp cũng cần được nghiên cứu để xác định các
loại hình kinh tế phù hợp như trong cá nhân, tư nhân, hộ gia đình, HTX.
Nói tóm lại , trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, các quan hệ sở hữu
gắn với các thành phần kinh tế tồn tại đan xen, xâm nhập với nhau, tạo ra hằng hà sa
số những hình thức trung gian quá độ rất phức tạp: Tuy nhiên, nhìn trên cục nghiên
cứu để việc nghiên cứu các quan hệ sở hữu, một vấn đề đặt ra cần đươc giải quyết đó
là: xí nghiệp quốc doanh là xí nghiệp như thế nào? nếu không giải quyết được rõ này
thì các biện pháp củng cố hiện nay sẽ không có hiệu lực.
Cũng cần chú ý rằng trong cuộc cách mạng KHKT hiện đại, khi mà về mặt
công nghệ đã có những khả năng kỳ diệu để tăng nhanh dung lượng chất xám trong

những công trình công nghệ, thiết bị nhỏ bé (mini, micro) thì khả năng tái trang bị
cho kinh tế hộ là hết sức lớn, sức sống cho kinh tế hộ, kinh tế quy mô nhỏ được nhân
lên bởi sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng KHKT hiện đại. Đương nhiên
trong nền kinh tế hàng hóa, đồng thời lại đòi hỏi những tất yếu phải liên minh, hợp
tác với nhau trên những khâu, những lĩnh vực, sản phẩm mà bản thân từng hộ độc
lập không thể đứng vững được. Nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm đúng những tất
yếu kinh tế đó để thúc đẩy quá trình hợp tác, tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển
sản xuất, nâng cao hiệu quả, giải quyết tốt những vấn đề xã hội, trước hết là ở địa
bàn nông thôn và nông nghiệp./.

21




×