Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

tiểu luận kinh tế vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.63 KB, 11 trang )

Phần I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu về đề tài:
Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy đường
lối phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong quá
trình phát triển kinh tế của một đất nước. Thực tế cho thấy, Chính phủ
các nước NICs Châu á, sau gần một thập kỷ thực hiện chiến lược thay
thế nhập khẩu, đã nhận ra được những mặt hạn chế của nó, và ngay đầu
thập kỷ 60 đã có sự chuyển hướng chiến lược. Với khoảng thời gian 25 30 năm họ đã đưa đất nước trở thành “ Những con rồng Châu Á”.
Đối với Việt Nam, một đất nước với xuất phát điểm có vị thế thấp
trên trường quốc tế, trải qua và gánh chịu nhiều cuộc chiến tranh, nhưng
với tất cả những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, chúng ta đã từng bước
đi lên, phù hợp với tình hình thực tế khách quan trong nước và nước
ngoài, đặc biệt những năm gần đây, GDP tăng bình quân hàng năm từ
7% - 8% và các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét chung là chúng ta đã
có những bước khởi đầu tốt đẹp trong giai đoạn phát triển mới. Nhưng
để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và liên tục trong thời gian tới còn rất
nhiều khó khăn. Vấn đề đặt ra là cần có sự lựa chọn thích hợp cho
đường lối phát triển của mình, nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Có
rất nhiều hoạt động tác động tới tăng trưởng kinh tế, trong đó có đầu tư,
đây là yếu tố có tính chất quyết định, không thể thiếu trong tất cả các
hoạt động sản xuất, kinh doanh ở các cấp độ, cơ sở khác nhau, có ảnh
hưởng trực tiếp tới tiềm lực kinh tế, tiềm lực sản xuất, kinh doanh, tạo
việc làm, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội…

1


Trong các hoạt động đầu tư có đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà
nước, đó là một công cụ tài chính của Nhà nước, góp phần ổn định, tăng
trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội của một quốc gia, tạo
tiền đề cho quốc gia phát triển bền vững. Đứng trước tầm quan trọng đó


thì việc nghiên cứu những tác động, ảnh hưởng của nó tới tăng trưởng
kinh tế xã hội là một việc làm rất có ý nghĩa. Hiểu được các chính sách
tài khoá của Chính phủ hoạt động như thế nào sẽ phần nào giúp người
làm kinh tế có thể dễ dàng tham gia vào các hoạt động quản lý kinh tế
hơn và có thể nắm bắt được các quy luật vận động của nền kinh tế. Đó
cũng chính là đề tài mà nhóm thực hiện.
Do sự hiểu biết còn hạn chế, cùng với những khó khăn trong việc
thu thập và xử lý số liệu, nên chắc hẳn báo cáo này còn nhiều sai sót.
Chúng em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo tận tình của các thầy
cô cùng toàn thể bạn đọc để đề tài này được hoàn chỉnh hơn.
Phần II: PHẦN NỘI DUNG
1 NSNN LÀ NGUỒN TÀI TRỢ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI Ở
CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM:
1.1 Thế Giới: (có thể tìm tài liệu tổng quát hoặc đưa ví dụ nước nào
chak cung ok)
1.2 Việt Nam: Tình hình sử dụng nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách
Nhà nước trong lĩnh vực Kinh tế xã hội ở Việt Nam
Trước hết, đó là vấn đề quy hoạch, do còn có nhiều tồn tại nên đã
làm giảm đáng kể hiệu quả vốn đầu tư. Chất lượng các quy hoạch chưa
cao, hầu hết các quy hoạch thiếu rõ ràng, chưa phù hợp với các giải

2


pháp, nhất là giải pháp về huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư,
tổ chức thực hiện. Hiện còn có sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các loại
quy hoạch: quy hoạch của cấp tỉnh, thành phố không tuân thủ và phù
hợp với quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực
không phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển KTXH. Tình hình này
dẫn đến việc sử dụng chưa hợp lý, kém hiệu quả các nguồn nguyên

nhiên liệu, nguồn tài nguyên thiên nhiên
Bên cạnh đó, việc quản lý quy hoạch lại rất linh hoạt, lỏng lẻo.
Chưa thực hiện việc công khai các quy hoạch để mọi người dân được
biết, cùng giám sát việc thực hiện quy hoạch. Kế hoạch đầu tư hàng
năm của các cấp, các ngành chưa dựa vào định hướng trong quy hoạch
được duyệt. Các cơ quan chức năng và quản lý Nhà nước còn rất linh
hoạt trong việc điều chỉnh quy hoạch theo ý tưởng của nhà đầu tư, chủ
đầu tư.
Tiếp theo đó, ở khâu chuẩn bị dự án đầu tư (báo cáo nghiên cứu
tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi) nhiều khi lại rất kém, biểu hiện
bằng việc phải phê duyệt điều chỉnh dự án nhiều lần, nhất là những dự
án do địa phương quản lý, thời gian triển khai dự án thường kéo dài hơn
nhiều so với phê duyệt ban đầu. Nhiều dự án phê duyệt lần đầu chỉ
mang tính hình thức để được xếp hàng chờ vốn; có dự án được phê
duyệt chỉ để đi vận động vốn như là dự án đưa ra để kêu gọi nguồn vốn
ODA. Sau khi có tín hiệu được xem xét bố trí vốn mới hoàn chỉnh dự án
để phê duyệt lại.
Mặt khác, nhà nước lại chưa thực sự kiểm soát được các hoạt
động đầu tư, nhất là đối với nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước,

3


nguồn vốn của khu vực tư nhân và dân cư. Việc phân bổ nguồn vốn đầu
tư từ ngân sách nhà nước còn nhiều vấn đề phải được nghiên cứu cải
tiến. Theo đó, do chưa có định hướng đúng về cơ cấu đầu tư theo
ngành và lĩnh vực, cơ cấu theo vùng lãnh thổ chưa phù hợp với mục
tiêu đầu tư, dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế rất chậm và kém
hiệu quả.
Nhà nước hiện chỉ định hướng một cách rất tương đối và mang

tính hình thức đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn trái
phiếu Chính phủ (cả 2 nguồn vốn này chỉ chiếm khoảng 20% tổng
nguồn vốn xã hội). Về thực chất rất khó xác định và điều hành cơ cấu
này bởi theo luật ngân sách hiện hành, ngân sách nhà nước bao gồm
ngân sách TƯ, ngân sách địa phương. Nguồn ngân sách địa phương
quản lý rất hạn hẹp, lại co kéo bởi nhiều mục tiêu và nhiệm vụ cấp bách
của địa phương. Hội đồng nhân dân các cấp quyết định việc phân bổ cụ
thể cho từng dự án cũng như cơ cấu của nguồn vốn này.
Mặt khác, hiện có khoảng 50 khoản đầu tư mang tính hỗ trợ và
theo mục tiêu cụ thể. Đó là các mục tiêu rất quan trọng của nền kinh tế;
tuy nhiên, chính vì vậy mà khi tổng hợp theo địa bàn tỉnh, thành phố, cơ
cấu vốn đầu tư lại chưa

hợp lý, các lĩnh vực được coi là quốc sách,

các mục tiêu quan trọng của tỉnh, thành phố lại nhận được tỷ trọng
khiêm tốn
Ngoài ra, việc bố trí kế hoạch vốn đầu tư hàng năm cho từng dự
án cụ thể khó có thể tập trung, dứt điểm do nguồn vốn có hạn, nhưng
những yêu cầu đặt ra trong cuộc sống rất lớn, nhất là đối với các tỉnh,
thành phố điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, hạ tầng kinh tế - xã hội

4


còn thiếu và yếu. Do vậy, hầu hết các dự án đều phải đồng loạt triển
khai để đảm bảo cân đối vùng, miền, ngành, lĩnh vực, đơn vị hành chính
tương đương, đảm bảo mục tiêu về giảm nghèo, an sinh xã hội Kết quả
là, mỗi năm hàng chục nghìn dự án được triển khai, vốn cân đối nhỏ
giọt, hầu hết là quá thời gian qui định, số dự án hoàn thành trong năm ít,

gây lãng phí vốn, dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp.
2 TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH KÍCH CẦU NĂM 2008-2009 ĐẾN
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
2.1 Chính sách kích cầu:
Theo lý thuyết kinh tế, khi nền kinh tế gặp khó khăn, phát triển quá
nóng hoặc suy thoái, thì hai công cụ chính mà chính phủ sẽ dựa vào là (i)
chính sách tiền tệ – tăng giảm lãi suất và một số biện pháp khác để điều
chỉnh cung tiền trong nền kinh tế và (ii) chính sách tài khóa – chính sách
thuế và chi tiêu của chính phủ (ví dụ như gói kích cầu). Trong kinh tế học,
gói kích cầu thường được hiểu là việc sử dụng chính sách tài khóa (miễn
giảm thuế, tăng chi tiêu của chính phủ) để hỗ trợ nền kinh tế trong cơn
suy thoái. Mục tiêu của biện pháp kích cầu thông qua chính sách tài khóa
là nhằm tăng cường các hoạt động kinh tế trong giai đoạn suy thoái bằng
việc làm tăng tổng cầu trong ngắn hạn. Ý tưởng kinh tế của gói kích cầu
là khi tăng chi tiêu sẽ hạn chế được khả năng tổng cầu sụt giảm hơn nữa
gây ra đổ vỡ nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái kinh tế, vấn đề cơ
bản của nền kinh tế chính là thiếu hụt cầu, chứ không phải là thiếu năng
lực sản xuất.

5


2.2 Tác động Chính sách kích cầu năm 2008-2009 đến NSNN Việt
Nam:
Về thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế thuế, đến 31/8 đã có trên
125 nghìn lượt doanh nghiệp và 937 nghìn đối tượng được hưởng chính sách ưu
đãi về thuế.
Tổng thu ngân sách được miễn, giảm, giãn đến hết 7/2009 khoảng 14,7
nghìn tỷ đồng, ước cả năm khoảng 20 nghìn tỷ đồng, trong đó giảm, giãn thuế
thu nhập doanh nghiệp khoảng 9,9 nghìn tỷ đồng; giảm thuế giá trị gia tăng

khoảng 4,47 nghìn tỷ đồng; miễn thuế thu nhập cá nhân khoảng 4,507 nghìn tỷ
đồng; giảm thu lệ phí trước bạ khoảng 1,14 nghìn tỷ đồng.
Ngoài ra, giảm, giãn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa
xuất nhập khẩu năm 2009 khoảng 7 nghìn tỷ đồng, trong đó giảm thu do giảm
thuế 50% tại khâu nhập khẩu ước khoảng 5 nghìn tỷ đồng; giãn nộp thuế 180
ngày cho máy móc thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng ước khoảng 2
nghìn tỷ đồng.
“Tuy nhiên, do thuế giá trị gia tăng có tính chất liên hoàn nên việc giảm,
giãn thuế này ảnh hưởng không lớn đến số thu ngân sách Nhà nước”, báo cáo
cho biết.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá, việc thực hiện các ưu đãi về thuế là
khẩn trương, đúng đối tượng, góp phần giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh
doanh, tạo chuyển biến tích cực cho nền kinh tế.
Ngoài các khoản kể trên, Chính phủ đã cho phép mua dự trữ quốc gia về
gạo trị giá 1,3 nghìn tỷ đồng, xăng dầu trị giá 1,5 nghìn tỷ đồng; ứng chi hỗ trợ
hộ nghèo ăn Tết Kỷ Sửu 2009, hỗ trợ doanh nghiệp khó khăn, hỗ trợ thay thế xe
công nông, xe ba bánh, khắc phục thiên tai.. tổng cộng khoảng 7 nghìn tỷ đồng.

6


Trên cơ sở thông tin cập nhật đến nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết,
quy mô gói kích thích kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội khoảng 122 nghìn tỷ
đồng, tương đương 6,9 tỷ USD. Ước thực hiện trong năm 2009 đã sử dụng hết
khoảng 100,6 nghìn tỷ đồng, tương đương 5,7 tỷ USD. Số còn lại sẽ được sử
dụng trong năm 2010 và 2011.
3 GIẢI PHÁP
3.1 Những tồn tại trong tài trợ cho phát triển kinh tế xã hội từ Ngân
sách nhà nước
Tồn tại được nhắc đến nhiều nhất trong việc tài trợ cho phát triển

kinh tế từ Ngân sách nhà nước trong giai đoạn hiện tại là việc thực hiện
chính sách kích cầu của chính phủ. Bản thân các giải pháp kích thích
kinh tế và gói kích cầu cũng đã bộc lộ một số vướng mắc, tồn tại và
không ít hệ lụy, trong đó có những hệ lụy chưa bộc lộ một cách đầy đủ.
Trước hết, cơ chế hỗ trợ lãi suất 4% thực hiện trong ngắn hạn, diện
cho vay rộng, đối tượng được hỗ trợ lãi suất còn có sự trùng lặp giữa
Quyết định số 497/QĐ-TTg với quyết định số 131/QĐ-TTg và Quyết định
số 443/QĐ-TTg, điều kiện, thủ tục cho vay chặt chẽ hơn so với cho vay
theo cơ chế thông thường.
Vì vậy, khó kiểm soát việc sử dụng và chuyển dịch vốn vay. Việc
triển khai đồng thời nhiều cơ chế hỗ trợ lãi suất cùng với việc thực thi
chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng làm cho tổng
phương tiện thanh toán và tín dụng tăng ở mức cao đã và sẽ gây sức ép
tăng lãi suất thị trường và là nguy cơ tái lạm phát.
Nợ xấu ngân hàng có thể tăng, do lãi suất cho vay đồng Việt Nam
sau khi được hỗ trợ khá thấp, doanh nghiệp nhập khẩu chuyển sang vay

7


tiền đồng để mua ngoại tệ, gây sức ép tăng tỷ giá và căng thẳng thanh
khoản trên thị trường ngoại hối.
Ngoài ra, doanh nghiệp có vốn tự có gửi vào ngân hàng thương
mại để hưởng lãi suất cao (từ 7-10%/năm), cho nên đã xuất hiện tình
trạng bất bình đẳng, ỷ lại và có thể triệt tiêu động lực trong kinh doanh do
một số doanh nghiệp hưởng hỗ trợ lãi suất 4%/năm.
Bên cạnh đó, đã xuất hiện hiện tượng không lành mạnh trong hoạt
động tín dụng, trong tiếp cận nguồn vốn vay, như sử dụng vốn vay không
đúng mục đích, đảo nợ…
Thứ hai, cùng với tăng chi ngân sách, tác dụng của giảm, miễn

thuế đã gây giảm thu ngân sách, tăng bội chi ngân sách đáng kể (có khả
năng 6,9%), nhưng tác dụng kích thích kinh tế, kích cầu đầu tư và tiêu
dùng không nhiều, không như mong đợi.
Thứ ba, tình trạng triển khai chậm các chương trình dự án, giải
ngân chậm, đầu tư dàn trải và kém hiệu quả, vì vậy rất khó hoàn thành
nhiệm vụ thực hiện các khoản đầu tư của nhà nước trong năm 2009.
Ngay việc bù lãi suất 4% với số tiền 17-18 nghìn tỉ đồng (tương
đương 1 tỉ đô la Mỹ), nhưng theo Ngân hàng Nhà nước, qua thực hiện
hơn 8 tháng mới giải ngân được khoảng 60-70%; dự tính đến cuối năm,
bù lãi suất khả năng đạt 10.000 tỉ đồng.
Như vậy số tiền chưa được giải ngân còn khá nhiều, phải giải ngân
tiếp trong năm 2010. Chắc chắn lại có tình trạng chuyển nguồn vốn đầu
tư, vốn chi ngân sách nhà nước của năm 2009 sang năm 2010 sẽ không
hề nhỏ hơn những năm trước.

8


3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài trợ từ Ngân sách Nhà
nước để phát triển kinh tế- xã hội
Có thể nói việc sử dụng chính sách tài khóa thông qua gói kích cầu
kết hợp với biện pháp tiền tệ thông qua giảm lãi suất là những bước đi
đúng đắn và bài bản của chính phủ để hỗ trợ nền kinh tế Việt Nam đang
phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức gây ra do hệ quả của nền
kinh tế thế giới suy thoái.
Kích cầu thực chất là biện pháp giải cứu nền kinh tế trong lúc khẩn
cấp, vì thế theo tôi, nên đưa về quỹ đạo bình thường để tạo ra môi
trường bình đẳng, môi trường tiếp cận các nguồn vốn không có phân biệt
đối xử giữa các đối tượng. Cần có giải pháp và chính sách toàn diện hơn
để mọi đối tượng có cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn vốn. Ví dụ, Nhà

nước nên có chủ trương áp dụng lãi suất thấp cho tất cả những đối
tượng, giúp doanh nghiệp giảm chi phí vốn vay.
Bên cạnh đó, Nhà nước nên có biện pháp tháo gỡ những nút thắt
giúp doanh nghiệp giảm bớt những chi phí không cần thiết, trong đó có
chi phí về thuế. Hiện nay các doanh nghiệp không ngại nộp thuế mà họ
ngại chính các thủ tục chi phí cho thủ tục kèm theo. Vì thế, Nhà nước
cần tập trung chính sách, vốn, cơ chế giải quyết môi trường kinh doanh,
tạo ra sự bình đẳng, để các doanh nghiệp tự giảm bớt được chi phí dưới
sự hỗ trợ của Nhà nước.
Ngoài ra, nên có sự đánh giá toàn diện gói kích cầu, đồng thời có
sự chấn chỉnh kiểm tra, chấn chỉnh kịp thời các sai phạm và lệch lạc.
Nếu lượng tiền tung vào lưu thông càng lớn sẽ tiềm ẩn nguy cơ tái lạm

9


phát, nếu tái lạm phát trở lại tình hình sẽ nghiêm trọng hơn. Vì thế, cần
có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn ngay từ bây giờ.
Đồng thời, khẩn trương tái cơ cấu nền kinh tế, chuẩn bị tích cực
cho sau khủng hoảng. Trong đó, tập trung tái cơ cấu ngành nghề, lĩnh
vực, tái cơ cấu đầu tư, vốn đầu tư và tái cơ cấu thị trường… đảm bảo
cho kinh tế của chúng ta phát triển ổn định và bền vững.
Mặt khác, Để nâng cao hiệu quả sử dụng tài trợ từ Ngân sách Nhà
nước để phát triển kinh tế- xã hội , Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế,
chính sách trong quản lý đầu tư. Tránh tình trạng tuổi thọ của các văn
bản quá ngắn, cấp thực hiện không thể điều chỉnh kịp, ảnh hưởng tiến
độ dự án, bị động trong kế hoạch vốn Tăng cường công tác quy hoạch,
tránh tình trạng độc quyền quy hoạch. Nâng cao chất lượng các hoạt
động tư vấn trong tất cả các bước như lập dự án đầu tư, thẩm định dự
án, thiết kế kỹ thuật, lập tổng dự toán Khắc phục tình trạng đấu thầu

hình thức, hạn chế tình trạng khép kín trong hoạt động đầu tư trong một
đơn vị quản lý.
Cải tiến công tác kế hoạch đầu tư phát triển, trên cơ sở kế hoạch
trung hạn hoặc kế hoạch 5 năm, thay vì kế hoạch hàng năm như hiện
nay. Trước mắt đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu thí điểm xây dựng kế
hoạch tài chính trung hạn tại 4 tỉnh, thành phố và 6 bộ, ngành. Theo đó,
các bộ ngành và địa phương sẽ chủ động hơn trong việc lựa chọn các
dự án để đưa vào danh mục đầu tư hàng năm, tránh được tình trạng
dàn trải trong đầu tư, rút ngắn thời gian triển khai thực hiện dự án, góp
phần nâng cao hiệu quả đầu tư.

10


PHẦN III: KẾT LUẬN

11



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×