LỜI NÓI ĐẦU
Văn hóa đó là cái cân bằng khi xã hội có nhiều nguy cơ biến động, hoặc có thể
hiểu rằng, mọi vật chất có thể mất đi nhưng còn đọng lại đó chính là văn hóa. Bất kể
quốc gia nào, tổ chức nào, giáo phái nào muốn trường tồn thì phải có văn hóa riêng, văn
hóa cơ quan, văn hóa công sở cũng không nằm ngoài quy luật đó. Theo đó thực trạng
văn hóa công sở có mức độ ảnh hưởng tới sự phát triển của cơ quan, doang nghiệp bởi
đôi khi văn hóa sẽ trở thành một tập tục, một thói quen của cơ quan, tổ chức.
Văn Hóa công sở không phải là một cở sở có đầy đủ những thiết bị, vật dụng hiện
đại, lại càng không phải là một trụ sở được xay dựng hoành tráng.... Mà văn hóa công sở
chính là hành vi ứng xử của những cán bộ công chức, viên chức trong các mối tương tác
để công việc trôi chảy, thành công.
Đánh giá thực trạng văn hóa công sở ở Việt Nam hiện nay, ta thấy còn mang tính
tình cảm nhiều, mặc dù đã có công văn của chính phủ ban hành quy chế văn hóa công sở
tại cơ quan hành chính nhà nước nhưng vẫn chưa được thực hiện bằng thể chế và diều
luật sao cho phù hợp và linh hoạt. Trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh văn hóa công
sở trở nên quan trọng, cần phải được chú trọng nhiều hơn nữa ở các công sở, cơ quan
hành chính nhà nước và doang nhiệp.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CÔNG SỞ
I.
Khái niệm về văn hóa công sở.
1. Văn hóa là gì?
- Văn hóa là một trong những mặt cơ bản của đời sống xã hội
- Văn hóa là một hệ thống các giá trị chân lý, chuẩn mực, mục tiêu mà con người
cùng thống nhất với nhau trong quá trình tương tác và hoạt động sáng tạo, nó
được bảo tồn và chuyển hóa cho những thế hệ nối tiếp sau.
- Văn hóa là toàn bộ những hoạt động sáng tạo, giải trí của nhân dân một nước,
Văn hóa là tất cả những gì làm cho dân tọc này khác với một dân tộc khác.
2. Khái niệm văn hóa văn hóa công sở.
2.1. Khái niệm công sở.
Công sở là một tổ chức đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Nhà nước,
có tư cách pháp nhân, được pháp luật nhà nước điều chỉnh để tiến hành
quản lý các công việc có tính chuyên ngành và phục vụ lợi ích công.Công
sở được phân biệt với các tổ chức xã hội khác xét trên nội dungcông việc,
hình thức tổ chức.
2.2.
Khái niệm văn hóa công sở.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách
nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại
học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa
khác nhau về văn hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới. Văn hóa được đề cập đến
trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như: dân tộc học, dân gian học, văn hóa học,xã hội
học, kinh tế học, ... và trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó định nghĩa về văn hóa cũng
khác nhau.Từ văn hóa có rất nhiều nghĩa, trong tiếng Việt văn hóa được dùng theo nghĩa
thông dụng để chỉ học thức, lối sống; theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển
của một giai đoạn; trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản
phẩm tinh vi, hiện đại, cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống ... Theo Đại từ điển tiếng
Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam do Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB
Văn hóa -Thông tin, xuất bản năm 1998, thì: “Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh
thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng: “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống, và đòi hỏi của sự sinh tồn”[1]
Tổng Giám đốc UNESCO, Federio Mayor định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa là
tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và cộng đồng trong quá khứ
và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên các giá trị, các
truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”[2]
Với những ý nghĩa đó, văn hóa có mặt ở mọi nơi, ở mọi hoạt động sản xuất vật chất, tinh
thần của con người. Có thể nói văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo, tích lũy, bảo tồn, duy trì và phát triển theo dòng lịch sử phát triển
của nhân loại.
Các tài liệu nghiên cứu về công sở đều cho thấy công sở là một thiết chế xã hội. Công sở
trong xã hội tồn tại như một hiện tượng văn hóa, đồng thời là một chủ thể văn hóa gắn
liền với các yếu tố tổ chức quyền lực và tâm lý, tình cảm của con người. Có thể thấy văn
hóa công sở xuất phát từ chính vai trò của công sở trong đời sống xã hội và trong hoạt
động của bản thân bộ máy hành chính. Có thể dễ dàng nhận thấy văn hóa công sở là một
dạng đặc thù của văn hóa xã hội bao gồm tổng thể các giá trị, chuẩn mực, cách hành xử
trong hoạt động công sở mà các thành viên trong công sở thừa nhận và tuân theo để ứng
xử với nhau trong nội bộ công sở và phục vụ xã hội.
3. Đặc trưng của văn hóa công sở
Văn hóa công sở là tổng hợp của hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần, là
thành quả trí tuệ sáng tạo của con người, thể hiện bản chất nhà nước và bản sắc dân tộc
của mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn lịch sử. Chính vì vậy văn hóa công sở có những
đặc trưng sau:
Tính hệ thống: Văn hóa công sở có tính tổ chức nhà nước và tổ chức xã hội;
Tính giá trị: Văn hóa có giá trị thẩm mỹ, bởi nó giúp mỗi người luôn vươn tới cái hay,
cái đẹp. Với giá trị đạo đức, văn hóa sẽ điều chỉnh hành vi của con người. Đặc trưng này
làm cho văn hóa công sở có tính điều chỉnh xã hội, cộng đồng;
Tính nhân sinh: Văn hóa do con người tạo ra vì vậy nó mang tính nhân sinh;
Tính lịch sử: Văn hóa công sở là sản phẩm của một quá trình, được tích lũy trong
một thời gian dài, từ thời kỳ này sang thời kỳ khác.
Từ những đặc trưng trên, văn hóa công sở mang những bản chất cơ bản như:
- Mức độ tự quản cá nhân là trách nhiệm, mức độ độc lập và cơ hội mà các cá nhân
trong công sở đó có được để thực hiện sự sáng tạo của mình;
- Tính chính quy là mức độ áp dụng quy chế, điều lệ, nội quy để kiểm soát hành vi của
các cá nhân trong công sở;
- Sự hỗ trợ của cấp trên, sự nhiệt tình quan tâm của người quản lý trong việc giúp đỡ cấp
dưới của mình;
- Sự hòa đồng là mức độ gắn bó giữa các thành viên với công sở, mức độ gắn bó này
phản ánh sự gắn bó và thống nhất về mục tiêu và lợi ích của cá nhân với mục tiêu lợi ích
của công sở;
- Hệ thống các chuẩn mực và giá trị, nội dung của các tiêu chuẩn đánh giá, khen thưởng,
kỷ luật, hình thức và mức độ thực hiện;
- Khả năng chịu đựng các xung đột nội bộ và xung đột với bên ngoài, là mức độ các
xung đột tồn tại trong các mối quan hệ cá nhân, các nhóm hoặc các bộ phận cũng như
thái độ, thiện ý, sự trung thực, cởi mở, …
- Khả năng chịu đựng rủi ro, là mức độ mà các thành viên được khuyến khích sáng tạo,
dám nghĩ, dám làm và chấp nhận may rủi;
- Hình ảnh bên ngoài của công sở, là sự trang trọng, uy nghi, lịch sự, bề thế hay thiếu
trang trọng, không lịch sự...
4. Các yếu tố cấu thành văn hóa công sở
Văn hóa công sở được cấu thành từ các yếu tố sau:
Thứ nhất, các yếu tố hình thành hệ thống giá trị văn hóa công sở. Đó là các yếu tố
truyền thống, hiện đại, trình độ học vấn, trình độ văn minh, giá trị cấu trúc, giá trị chức
năng và giá trị vật chất. Các giá trị này có thể được bộc lộ chính thức hay không chính
thức như: mọi thành viên trong công sở đều phải biết cư xử với nhau, đi làm đúng giờ,
tôn trọng nhân cách và đời tư của đồng nghiệp, … đem lại hiệu quả giao tiếp hành chính
cao. Có thể nói văn hóa là nền tảng tinh thần của hoạt động công sở, nó biểu hiện sức
mạnh tiềm tàng và bản lĩnh của các thành viên trong công sở.
Thứ hai, giá trị truyền thống và hiện đại. Tất cả những hoạt động lưu truyền từ
trong lịch sử của công sở và được lưu giữ tồn tại đến ngày nay đã tạo ra những giá trị
văn hóa mang tính truyền thống. Tuy nhiên văn hóa công sở không phải là bất biến, nó
được phát triển và thích ứng với hoàn cảnh và môi trường, vì vậy nó mang các giá trị
hiện đại.
Thứ ba, trình độ học vấn và trình độ văn minh. Trình độ học vấn là một yếu tố cần
và đủ cấu thành nên văn hóa công sở. Trình độ học vấn là chìa khóa để con người bước
vào nền văn hóa tiên tiến hơn. Không ngừng nâng cao trình độ học vấn giúp cho con
người vươn tới đỉnh cao của sự sáng tạo, góp phần nuôi dưỡng con người phát triển toàn
diện hơn. Còn trình độ văn minh là sự đánh dấu mỗi thời kỳ phát triển của lịch sử. Thế
giới đã trải qua ba giai đoạn lớn của nền văn minh nhân loại: nền văn minh nông nghiệp,
nền văn minh công nghiệp và nền văn minh trí tuệ. Nền văn minh nông nghiệp xuất hiện
cùng với sự xuất hiện của nền văn minh lúa nước; nền văn minh công nghiệp xuất hiện
khi có sự ra đời của máy hơi nước của James Watl; nền văn minh trí tuệ xuất hiện khi
các “công nhân cổ cồn” xuất hiện, lúc này các chú robot được thay cho sức lao động của
con người. Con người được giải phóng sức lao động chân tay, bước vào đỉnh cao của
khoa học và công nghệ, chiếm lĩnh tri thức, làm chủ tri thức, lấy tri thức cải tạo điều
kiện tự nhiên, xã hội và con người. Vai trò của văn hóa càng được phát huy nếu như nó
được gắn liền với văn minh ngay trong hoạt động của các công sở.
Thứ tư, giá trị của Chân - Thiện - Mỹ.
Một trong những yếu tố cấu thành cơ bản của văn hóa công sở được thể hiện là nền tảng
mang tính nhân bản - giá trị của “Chân”, nó được biểu hiện ở ba khía cạnh là: giá trị của
cái đúng, của chân lý; giá trị của nền tảng quy phạm đạo đức, quy phạm pháp luật; giá trị
của tri thức khoa học.
Vai trò của văn hóa còn thể hiện nền tảng mang tính nhân ái (cái Thiện), giá trị của
“Thiện” biểu hiện ở các khía cạnh: giá trị của lương tâm; giá trị của đạo đức; giá trị của
của cái tốt. Sự vô cảm, thiếu “cái tâm” trong hoạt động công vụ sẽ mất đi giá trị “cái
thiện” trong mỗi con người.
“Cái Mỹ” thường gắn với các giá trị vật chất và hành động cụ thể trong thực tiễn hoạt
động công sở. Văn hóa thẩm mỹ công sở là vấn đề đem đến hiệu lực và hiệu quả cao
trong hoạt động công sở. Cái đẹp thể hiện qua phong thái, cử chỉ, hành vi, sắc thái tình
cảm của người thừa hành công vụ, đồng thời cái đẹp còn thể hiện văn hóa công sở minh
bạch, lịch sự, trang trọng.
Chân - Thiện - Mỹ qua thời gian luôn sàng lọc, nâng niu những giá trị tốt đẹp còn đọng
lại ở mỗi thời đại, mỗi nền văn minh, mỗi quốc gia, dân tộc và đặc biệt ở mỗi con người,
đem lại những giá trị tốt đẹp nhất cho con người.
5. Vai trò của văn hóa công sở
5.1.
Văn hóa công sở tạo điều kiện cho các bên tham gia vào quan hệ hành
chính ở công sở thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
Văn hóa công sở thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân thông
qua quá trình giao tiếp hành chính góp phần hình thành nên những chuẩn mực, giá
trị văn hóa mà cả hai bên cùng tham gia vào. Mối quan hệ ứng xử giữa người dân
với cán bộ, công chức, viên chức và giữa các thành viên trong công sở với nhau
phải được cân bằng bằng cán cân của hệ thống giá trị văn hóa.
Văn hóa công sở giúp cho cán bộ, công chức, viên chức và người dân biết phương
hướng, cách thức giải quyết công việc, giúp họ hiểu rõ những công việc cần làm, phải
làm; đặc biệt giúp họ thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách hiểu biết, tự nguyện. Qua đó
người cán bộ, công chức, viên chức thực hiện việc trao đổi quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia quan hệ ở công ở một cách tốt đẹp hơn.
5.2.
Văn hóa công sở là điều kiện phát triển tinh thần và nhân cách cho con
người.
Khả năng gây ảnh hưởng, để người khác chấp nhận giá trị của mình là một
nghệ thuật. Nhờ có văn hóa con người có thể hưởng thụ những giá trị vật chất và
tinh thần như ý thức, trách nhiệm, nghĩa vụ, lòng tự trọng, … Từ đó phát triển tinh
thần và nhân cách của mỗi cán bộ, công chức, viên chức góp phần vào sự phát
triển, cải cách nền hành chính công.
5.3. Văn hóa công sở đem lại giá trị toàn diện cho con người.
Giá trị là cái tồn tại, tác động mạnh mẽ đến hoạt động của công sở. Giá trị của
văn hóa công sở cũng gắn bó với các quan hệ trong công sở, đó là:
- Giá trị thiết lập một bầu không khí tin cậy trong công sở;
- Sự tự nguyện phấn đấu, cống hiến cho công việc;
- Được chia sẻ các giá trị con người cảm thấy yên tâm và an toàn hơn;
- Biết được giá trị trong văn hóa ứng xử thì cán bộ, công chức, viên chức tránh
được hành vi quan liêu, cửa quyền, hách dịch trong giao tiếp hành chính với người dân;
- Các giá trị làm đơn giản hóa các thủ tục hành chính, các quy định nhưng vẫn
đảm bảo đúng chính sách của nhà nước, của pháp luật làm cho hoạt động của công sở
thuận lợi hơn.
5.4.
Văn hóa công sở vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển con người.
Việc bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa công sở không chỉ là nhiệm vụ của
mỗi cơ quan, tổ chức mà còn là nhiệm vụ của mỗi cán bộ, công chức, viên
chức đối với công việc của mình ở các vị trí, cương vị khác nhau trong thực
thi công vụ và cung cấp dịch vụ công.
Trong hoạt động công sở, quan hệ ứng xử và môi trường chính trị - hành chính
mang đậm mà sắc văn hóa nhân bản (cái chân), nhân ái (cái thiện) và nhân văn (cái mỹ)
là sự kết nối những giá trị truyền thống đến hiện đại. Con người không ngừng học tập,
sáng tạo để tiếp thu những tri thức mới của nhân loại - đó là những yếu tố cấu thành văn
hóa công sở, đồng thời khẳng định vai trò của văn hóa trong sự phát triển của mỗi cơ
quan, công sở hiện nay.
6. Sự cần thiết của việc xây dựng và nâng cao văn hóa công sở
Yếu tố văn hóa xuất hiện trong công sở xuất phát từ chính vai trò của công
sở trong đời sống xã hội và trong hoạt động của bộ máy hành chính mà nó là một
bộ phận cấu thành. Một công sở chỉ làm tròn nhiệm vụ và chức năng của nó khi
tạo dựng được mối quan hệ tốt giữa cán bộ, công chức trong công việc, các chuẩn
mực xử sự, các nghi thức tiếp xúc hành chính, các phương pháp giải quyết các bất
đồng trong cơ quan, cách lãnh đạo, quản lý và ý thức chấp hành kỷ luật trong và
ngoài công sở của cán bộ, công chức. Đây là vai trò của nếp sống văn hóa trong
công sở.
Văn hóa còn có vai trò to lớn trong việc xây dựng nề nếp làm việc khoa
học, có kỷ cương, dân chủ. Nó đòi hỏi các thành viên trong công sở phải quan tâm
đến hiệu quả công việc chung của công sở, nó giúp cho mỗi cán bộ công chức tự
nhìn lại mình, đánh giá mình, chống lại những biểu hiện thiếu văn hóa như tham
ô, móc ngoặc, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, cơ hội. Bên cạnh đó yếu tố văn
hóa còn giúp cho mỗi thành viên trong công sở phải tôn trọng ý thức kỷ luật, danh
dự của công sở, quan hệ thân ái, đoàn kết, hợp tác vì sự nghiệp chung của cơ
quan, đơn vị.
Vai trò của văn hóa còn được thể hiện trong sự định hướng giải quyết đúng
đắn các vấn đề trong từng thời kỳ và mối quan hệ giữa hiện đại hóa công sở với
việc thực hiện sự công bằng cho các thành viên trong công sở. Chỉ có như vậy
mới phát huy được các biện pháp hành chính trong chống tham nhũng, hối lộ,
quan liêu, đặc quyền đặc lợi trong công sở.
Vai trò của văn hóa trong hoạt động công sở còn thể hiện trong quan niệm
về sự bình đẳng và thực hiện bình đẳng. Theo ý nghĩa văn hóa, bình đẳng là mọi
thành viên trong công sở đều có cơ hội như nhau trong học tập, đào tạo, việc làm,
chế độ, chính sách...
II.
Một số nội dung về văn hóa ứng xử nơi công sở:
Phép ứng xử văn hóa là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, ngay từ khi dựng
nước, các vua Hùng đã cùng “tắm chung một dòng sông, uống chung một nguồn
nước” với người dân. Bác Hồ - là tấm gương lớn về ứng xử văn hóa rất gần gũi
với mọi người dân, không hề quan cách. Bác dạy thiếu nhi: chăm ngoan, kính
thầy, yêu bạn. Bác dạy bộ đội: trung với Đảng, hiếu với dân. Bác dạy công an:
kính trọng dân. Bác dạy cán bộ Nhà nước: đức độ với dân. Tất cả đều là lối ứng
xử có văn hóa.
Ứng xử văn hóa của người Việt thường biểu hiện sự tế nhị, khoan hòa,
nhường nhịn và thẳng thắn. Tùy mỗi hoàn cảnh và mối quan hệ để ứng xử sao cho
phù hợp. Trong phép ứng xử của người Việt Nam, bao giờ đối tượng ứng xử cũng
được trân trọng, trừ kẻ thù xâm lược và cái ác. “Có trước có sau” là thể hiện lối
ứng xử cao đẹp. Đối với thế giới tự nhiên cũng vậy, con người là một thực thể vừa
mang tính xã hội, vừa mang tính tự nhiên. Con người không thể tách rời thiên
nhiên. Việc bảo vệ giữ gìn môi trường sinh thái là cách ứng xử khôn ngoan của
con người với tự nhiên, cần phải được chú trọng thỏa đáng. Có như vậy, con
người mới tránh được “sự trả thù” của tự nhiên như bão, lũ, thiên tai...
Thực hiện NQTW5 (khóa VIII) của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó có việc xây dựng tư tưởng đạo đức lối
sống là nội dung căn bản bao trùm. Văn hóa ứng xử và ứng xử có văn hóa sẽ góp
phần tích cực vào việc giữ gìn bản sắc tốt đẹp và xây dựng lối sống văn hóa, bất
kỳ ai, bất kỳ lĩnh vực nào cũng rất cần phải quan tâm và không ngừng hoàn thiện.
1. Chào hỏi:
a) “Lời chào- gây thiện cảm”: Người nước nào cũng trọng lời chào. Vậy
mà không ít cán bộ, công chức không biết dùng lời chào để gây thiện cảm với
người khác ở công sở.
Khi gặp nhau thì nam chào nữ trước, cấp dưới chào cấp trên, trẻ chào già
trước, người mới đến chào người đã đến trước, người từ ngoài vào chào người ở
trong
phòng.
Buổi sáng gặp nhau ở công sở nhất thiết phải chào nhau. Sau ngày lễ, sau
chuyến đi công tác xa về, kèm theo lời chào còn cần bắt tay nhau, thăm hỏi nhau.
Gặp nhau ở hành lang cũng cần hỏi nhau, thay vì cúi mặt hoặc nhìn đi chỗ
khác. Câu chào hỏi có thể muôn hình, muôn vẻ: "Anh khoẻ không ?"; "Đi đâu vội
thế, anh ?"; "Em vận chiếc áo này hợp lắm"; "Thời tiết hôm nay nóng quá"...
Nếu trong cơ quan có người không mấy thiện cảm với chúng ta thì chúng ta
phải chủ động chào trước nhằm gây thiện cảm với người đó, xua tan sự lạnh nhạt.
Khi thủ trưởng bước vào phòng, chúng ta cần đứng dậy để chào hoặc xoay hẳn
người lại, nhìn thủ trưởng để chào. Khi thủ trường đi cùng khách thì phải chào cả
thủ trưởng và khách. Khi thủ trưởng đi ra nhân viên cũng phải đứng dậy chào.
Kết thúc một ngày làm việc, công chức cùng phòng nên chào nhau hoặc chào
những người gặp ở nhà để xe. Kết thúc một tuần làm việc, bạn nên chào thủ
trưởng hay đồng nghiệp bằng một lời chúc "Chúc ngày nghỉ vui vẻ".
Lời chào là cách khẳng định rằng đến thời khắc đó tôi vẫn quý anh, và anh vẫn
quý tôi. Bỗng nhiên không chào nhau là thể hiện "tình trạng chiến tranh" trong
quan hệ giữa người với người. Khổng Tử dạy rằng: Người quân tử, lúc yên không
quên lúc nguy, lúc còn không quên lúc mất, lúc thịnh không quên lúc loạn thế mới
yên được thân.
hi nhớ: “Hãy chào mọi người bằng nụ cười !”
b) Thủ trưởng chào nhân viên
Có nhiều lý do khiến không ít nhân viên tránh mặt để không phải chào thủ trưởng.
Có người nghĩ rằng họ chào trước thủ trưởng là biểu hiện nịnh bợ. Tuy nhiên, nếu
được thủ trưởng chào họ thì họ coi đó là sự trân trọng.
Một điều tối kỵ là thủ trưởng không đáp lại lời chào hỏi của nhân viên. Dù
thủ trưởng vô tình không nghe thấy lời chào của nhân viên thì ông ta vẫn bị nhân
viên lan truyền nhận định rằng thủ trưởng là người coi thường cấp dưới.
* Thăm hỏi cấp dưới
Tập thể nhân viên là nước, chức vụ của thủ trưởng là thuyền. Những đợt sóng
ngầm bất mãn có thể tích tụ lại lật thuyền vào ngày mai.
Thăm hỏi, chúc tụng cấp trên là việc không lạ tuy nhiên thăm hỏi cấp dưới
là việc không phải thủ trưởng nào cũng quan tâm.
Khi được thủ trưởng thăm hỏi, cấp dưới rất cảm động vì sự quan tâm đó.
Đối với cấp dưới, lời thăm hỏi của cấp trên có tác dụng như một lời khen. Bạn nên
thật lòng quan tâm đến cấp dưới. Khi thăm hỏi, bạn nên nhìn thẳng vào mắt người
được thăm hỏi với cái nhìn ấm áp và thực tâm muốn biết tình cảm của họ.
Nếu bạn làm việc đó không thật lòng như đóng kịch thì tác dụng sẽ phản lại.
Nếu thủ trưởng thỉnh thoảng lại hỏi một nhân viên nào đó: "Anh tên là gì? Quê ở
đâu?" nghe câu hỏi đó, nhân viên sẽ coi thủ trưởng là người giả dối.
c) Chào khách đến liên hệ công việc
Khi tiếp khách (cấp trên, cấp dưới hoặc ngang cấp) hoặc khách (nhân dân) đến
liên hệ công việc, điều đầu tiên là chào bằng tiếng nói như; chào chú, chào bác,
chào anh, chào chị…Nếu đang bận rộn hoặc khách đông thì có thể gật đầu chào
chung hoặc chào bằng nụ cười thiện cảm (dù bất kỳ là người mà chúng ta không
ưa thich); sau đó chúng ta hỏi như là: Thưa chú (bác, cô, anh…) đến liên hệ việc
gì? Cần làm gì?.... Nếu trong phòng làm việc thì chúng ta có thể mời khách ngồi
ghế, rót nước mời xong chúng ta bắt đầu giải quyết công việc cho khách.
d) Bắt tay như thế nào: Bắt tay nhau là một cử chỉ chào nhau thân thiện.
Tục bắt tay ở Việt Nam đã có hơn một thế kỷ, vậy mà đến nay, nhiều cán bộ, công
chức cũng chưa quen với phép xã giao này.
Đầu tiên và hơn hết là một cái bắt tay chắc chắn nếu thủ trưởng là đàn ông chìa
tay ra. Nếu thủ trưởng không chìa tay thì bạn chỉ nên chào rõ ràng và hơi cúi đầu
kính cẩn chứ đừng cố bắt tay thủ trưởng. Nếu là phụ nữ chìa tay ra bạn cũng nên
bắt tay chắc chắn, nhưng đừng bóp quá mạnh hoặc giữ tay phụ nữ quá lâu. Kể cả
người cùng giới, bạn cũng đừng nên giữ tay đối phương quá lâu, hoặc giật tay lâu
và mạnh thái quá
Khi bắt tay nên dịu dàng, hồn nhiên, chân thành, còn nếu bóp mạnh là thô bạo,
hời hợt là vô lễ, vồ vập là sỗ sàng. Mùa đông giá lạnh khi bắt tay phải tháo găng,
phụ nữ có thể không cần tháo găng khi bắt tay nam giới. Không được đút tay
trong túi áo, túi quần còn một tay đưa ra bắt tay người khác. Người chưa quen thì
không chủ động bắt tay khách, nên chờ người giới thiệu hoặc chủ động giới thiệu
để làm quen rồi mới bắt tay. Tay đang ướt, đang bẩn có thể xin lỗi không bắt tay
người khác chìa ra nhưng phải nói lời xin lỗi: "Xin lỗi, tay đang bẩn".
Không chủ động bắt tay người có cương vị cao hơn mình, nhất là đối với khách
phụ nữ. Cần đứng dậy, người hơi cúi bắt tay người có cương vị cao hơn mình
nhưng không khúm núm, cong gập người.
Khi có nhiều người cùng giơ tay cho mình bắt, phải bắt tay người có tuổi tác,
cương vị cao hơn trong xã hội. Không nên dùng hai tay nắm chặt tay phụ nữ,
nhưng để tỏ rõ sự tôn kính thì nên đưa cả hai tay ra đón lấy tay người hơn mình về
cương vị xã hội và tuổi tác. Không nên bắt tay người nọ chéo tay người kia mà
phải kiên nhẫn đợi đến lượt mình. Không được dùng đồng thời hai tay phải, trái
để bắt tay hai người. Không được vừa bắt tay vừa hút thuốc, hoặc tay kia đút túi
quần. Khi bắt tay không ngoảnh mặt sang hướng khác.
Chỉ người có cương vị hoặc tuổi tác cao hơn mới được vỗ vai cấp dưới hoặc
người trẻ tuổi hơn. Chỉ nên xoa đầu trẻ nhỏ. Bạn nên thận trọng khi đụng chạm
vào cơ thể người khác, nhất là người khác giới.
Tuy nhiên, Trong môi trường làm việc hiện đại, cả phụ nữ và nam giới đều phải
bắt tay. Do đó, tư tưởng người đàn ông phải chờ phụ nữ đưa tay ra bắt trước đã trở
thành lỗi thời. Không nhất thiết phân biệt trước sau, nam nữ.
2. Trang phục:
Trong những năm gần đây, đời sống người dân được cải thiện, miếng cơm manh
áo không còn là những gì quá xa xỉ, có nhiều chủng loại quần áo với giá cả khác
nhau để lựa chọn. Thế nhưng vẫn có những hiện tượng một số người thiếu ý thức
ăn mặc khi đến nơi công cộng. Không chỉ dừng lại tình trạng thiếu ý thức trong ăn
mặc, những vi phạm về thuần phong mỹ tục trong trang phục đối với một bộ phận
thanh niên cũng đáng cảnh báo. Nhiều mốt được các nhà may mặc, thiết kế thời
trang và người tiêu dùng trẻ tuổi lựa chọn quá hở hang, không phù hợp phong tục,
vóc dáng người Á Đông. Hiện các nước phát triển trong khu vực, nhân viên, công
chức phần lớn mặc đồng phục phù hợp tính chất công việc và tác phong công
nghiệp của thời kỳ CNH, HĐH. Đây cũng là một trong những nét đẹp làm nên bộ
mặt của thành phố văn minh công nghiệp.
Hãy biết quan tâm đến vẻ bề ngoài của bản thân. Đừng nghĩ rằng đó chỉ là công
việc của phụ nữ hay do công việc bận tối mắt tối mũi, thời gian đâu mà nghĩ đến
chuyện đầu tóc, phấn son. Ấn tượng ban đầu để đánh giá về bạn chính qua trang
phục và cách trang điểm của bạn. Bạn sẽ không gây được thiện cảm với sếp, với
đồng nghiệp nếu bộ quần áo bạn vận đến công ty trông thật nhàu nát hay quá sặc
sỡ. Chúng ta cũng khó có thể thành công trong giao tiếp với đối tác với bề ngoài
bê bối như vậy. Dù là một doanh nhân thành đạt hay đơn giản chỉ là một nhân
viên, quần áo, đầu tóc sẽ tạo nên phong cách của bạn. "Quần áo không tạo nên
con người mà chỉ nói lên người mặc nó là người thế nào".
Trong điều kiện hiện nay, chúng ta chưa trang bị đồng phục làm việc nơi công
sở cho cán bộ, công chức thì chúng ta cần chú ý một só cách ăn mặc nơi công sở
như sau:
- Không mặc áo quần màu sắc hoa hòe sặc sỡ, may cầu kỳ, màu qúa chói mắt
như; đỏ, vàng chóe, xanh lá cây rực rỡ….Không nên đến công sở với bộ đồ nhàu
nát.
- Không mặc quần áo quá chật, vải quá mỏng, quá ôm sát, vào người (nhất là
đối với nữ giới) như: áo pull, quần jean, váy quá ngắn, áo không cổ hoặc cổ áo
quá rộng, …..
- Tốt nhất nên dùng sơ mi, quần âu hay com-lê, màu sắc trang nhã phù hợp. Khi
dự lễ những nơi trang trọng nữ nên mặc áo dài hay com-lê, nam nên thắc cà vạt
hoặc mặc vét-ton thêm phần lịch sự hơn.
3. Phát ngôn:
Người xưa đã kết luận: “Ngôn là người”. Ngôn ở đây không chỉ hiểu là
giọng nói mà còn là cách nói, kiểu nói, cung cách trò chuyện. Đó còn là sự ứng xử
tình huống, nghệ thuật giải quyết xung đột. Thực tế cuộc sống cho thấy chính văn
hóa hành vi trong giao tiếp sẽ nói lên thật nhiều sự thanh lịch đích thực của một
con
người.
Lời ăn tiếng nói trong cuộc sống hằng ngày là những gì rất giản dị như cơm ăn
áo mặc hằng ngày. Nhưng nói làm sao cho đẹp, có nghi lễ là điều cần có sự rèn
luyện và tu dưỡng của mỗi cá nhân. Hiện nay có một vài trường hợp CBCC nói
tục, chửi thề, chính từ sự dễ dãi trong lời ăn tiếng nói, dẫn đến sự buông thả trong
lối sống là một trong những nguyên nhân làm con người phát triển lệch lạc. Khi
đất nước xây dựng kinh tế tri thức thì những câu nói theo kiểu "xã hội đen" hay
những lời lẽ thô tục là không thể chấp nhận được. Một xã hội văn minh là một xã
hội cần tránh những lời không hay.
Ông cha ta thường dạy "Tiên học lễ, hậu học văn", cho thấy lễ tiết là một
trong nghi thức được coi trọng mang sắc thái văn hoá của dân tộc. Trong các gia
đình xưa, lễ giáo được xem như một nghi thức truyền thống. Chính vì thế, nếp
sống của các gia đình xưa chuẩn mực, có quy tắc. Con cái phải biết vâng lời cha
mẹ, người ít tuổi phải lễ độ với người nhiều tuổi hơn. Cuộc sống hiện đại không
đòi hỏi con người phải giữ những nghi lễ quá khắt khe kiểu phong kiến. Lớp trẻ
có thể phát huy tính sáng tạo, tự do phát triển. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa
là phát triển tự do bừa bãi, không có lề thói, không có chuẩn mực đạo đức, dẫn
đến vi phạm những quy tắc cơ bản thông thường trong giao tiếp ứng xử như việc
cần phải biết cảm ơn, xin lỗi hay những quy tắc chào hỏi…, tôn trọng người trên,
nhường nhịn chỉ bảo kẻ dưới trong công sở.
Tuy nhiên phải cẩn thận với tính hài hước: Sự hóm hỉnh, tính hài hước có
thể làm những người xoay quanh bạn vui vẻ. Nhưng nhiều người đã phải chịu
khốn đốn sau khi kể những chuyện cười với mục đích chỉ đùa vui. Họ không để ý
rằng những trò đùa gây cười vô hại với họ nhưng lại làm tổn thương người khác,
có thể người đó đang giữ một chức vụ cao hơn và cho rằng bạn "nói kháy" họ.
Những câu chuyện đùa bỡn có liên quan đến những người thuộc cấp, phụ nữ,
người mắc bệnh đồng tính luyến ái, người khuyết tật, người cao tuổi, dân tộc, tôn
giáo .v.v…không thích hợp trong môi trường làm việc nơi công sở.
4. Giao tiếp điện thọai nơi công sở:
Theo khảo sát của thì đến gần 90% người sử dụng điện thoại quên "màn"
chào, hỏi, xin lỗi, cám ơn... mà thường là thiếu chủ ngữ như "ai đấy", "có việc gì",
"gặp ai"...hoặc “Alô” thật to, nói oang oang làm người nghe và xung quanh khó
chịu. Đã đến lúc mọi người phải có ý thức rèn luyện kỹ năng giao tiếp điện thoại;
Các chuyên gia đề nghị khi giao tiếp qua điện thoại, chúng ta nên bắt đầu với câu:
"Alô, phòng (tên đơn vị), (hoặc tên người) xin nghe. Xin lỗi, ông (bà) muốn gặp
ai ạ?"; khi gọi đi có thể xác nhận là mình gọi đúng đơn vị hoặc người khách mà
mình cần giao tiếp không, ví dụ như:”Xin lỗi, có phải (tên dơn vị hoặc người cần
gặp) không?”; nếu bị người khác gọi hoặc chúng ta gọi nhầm thì phải xin lỗi, ví
dụ: “Xin lỗi tôi bị nhầm, cám ơn….” Hay “Xin lỗi, anh (chị) đã gọi nhầm”. Khi
nói chuyện điện thọai điều chỉnh âm vực của giọng nói của mình vừa đủ nghe,
tránh nói to ảnh hưởng đến công việc của người xung quanh. Kết thúc buổi nói
chuyện nên chào, ví dụ như: "Xin cám ơn. Chúc ông (bà) khỏe. Hẹn gặp lại!" hay
“ chào(ông, bà, cô, chú)...” và gác máy nhẹ nhàng (tránh dập máy mạnh làm đối
phương hiểu nhầm là không vừa lòng họ, nhất là người bên đầu dây kia là người
lớn tuổi hoặc lãnh đạo của mình mà chúng ta như thế là sự vô lễ và cũng không
lịch sự). Một lời tạm biệt tử tế sẽ tạo cơ hội giao tiếp tốt cho chúng ta trong công
việc.
Giao tiếp điện thọai cần chú ý chuẩn bị.
- Hãy luôn biết rõ mình muốn nói về nội dung gì và chắc rằng bạn có đủ tài liệu
để diễn đạt điều bạn muốn nói. Làm như thế bạn sẽ tiết kiệm được thời gian cho
bạn và cho cả người nghe.
- Điều chỉnh cách nói chuyện cho thích hợp với từng đối tượng: Những người bận
rộn thường thích cách tiếp cận trực tiếp, nói ngắn gọn và hạn chế nói chuyện
phiếm. Những người khác thì thích nói chuyện thân mật hơn. Cứ thế, bạn điều
chỉnh cho thích hợp (trừ phi họ quá đáng hay bất lịch sự).
- Hạn chế nói chuyện riêng: Nói chuyện phiếm thì vui đấy nhưng nó làm mất thời
gian. Và sẽ khó chịu khi bạn đang có nhiều việc phải làm tại công sở và ảnh
hưởng đến môi trường làm việc xung quanh.
- Hãy trả lời thẳng vào vấn đề: Những câu trả lời dài dòng thường gây hiểu lầm
và thể hiện tính không chuyên nghiệp. Nếu bạn không biết câu trả lời, hãy nói bạn
sẽ gọi cho họ sau khi đã có đáp án chính xác. Nếu bạn đưa ra một phán đoán sai
lầm cho người tin tưởng bạn, họ sẽ không bao giờ tin bạn nữa.
- Cuối buổi nói chuyện, hãy xác nhận lại những điều đã trao đổi; Như thế cả hai
có thể xem mình đã thống nhất với nhau được điều gì để có thể đưa ra cách giải
quyết thích hợp.
- Đừng nói chuyện riêng khi đang dùng điện thoại: Như thế sẽ khiến bạn không
trao đổi được gì. Nếu có chuyện gấp, hãy nói người ta giữ máy để nói tiếp sau đó.
*Ghi chú: một số điều cần tránh khi sử dụng điện thọai di dộng ở công sở:
- Tắt diện thọai, hoặc để chế dộ rung trong khi dự họp; nhất là những cuộc họp
quan trọng;
- Trong cuộc họp không được bấm máy chọc người khác để điện thọai DĐ reo
lên làm cho không khí trong cuộc họp không được nghiêm túc;
- Khi có điện gọi đến phải xin phép người chủ trì ra ngòai để trả lời, hoặc trả lời
khéo không làm ảnh hưởng dến người xung quanh và cuộc họp.
- Hạn chế điện thoại không đúng mục đích. Nếu gặp khách thích rông dài, hãy
thông báo sắp cúp máy.
- Trước khi gọi điện hãy ghi các chủ đề cần trao đổi, ghi rõ mục tiêu, chuẩn bị các
tài liệu nếu cần trả trả lời hay làm việc.
5. Phong cách làm việc:
Trong giai đọan Tác phong công nghiệp, đó chính là yêu cầu tối thiểu mà bất cứ
nhân viên nào cũng phải có. Để tạo cho mình một phong cách làm việc, việc trước
tiên nên làm là đừng để “nước đến chân mới nhảy”. Công việc cần phải được lên
kế hoạch cụ thể. Những việc cần làm phải được làm ngay để tránh việc tự nhiên
sao nhãng. Cần phải biết quý trọng thời gian. Hàng ngày chúng ta có 8 giờ làm
việc. 8 giờ tuy dài nhưng là rất ngắn ngủi đối với những người biết việc. Vì nếu
khi công việc có sự thay đổi đột ngột mới cuống cuồng làm thì mọi kế họach
trong cơ quan, đơn vị bị chậm trễ bởi một thành viên gây ra mà ảnh hưởng chung
đến cả tập thể. Làm việc có mục tiêu rõ ràng cũng là một tiêu chí quan trọng tạo
nên phong cách làm việc của chúng ta.
Khi mà các cơ quan, đơn vị ngày càng tiến tới phong cách làm việc chuyên
nghiệp thì họ cũng yêu cầu ở nhân viên mình một tác phong tương tự. Tạo cho
mình một tác phong công nghiệp chính là bạn đang thể hiện bạn là một người
chuyên nghiệp.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ VĂN HÓA CÔNG SỞ TẠI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
I.
Một số thực trạng về văn hóa công sở hiện nay:
Nói đến thực trạng thì ai cũng biết trong cơ quan hành chính, thực trạng về
văn hóa công sở tại các cơ quan hành chính nhà nước hiện nay:
1. Ứng xử nơi công sở:
Công sở là nơi công dân, các cơ quan hữu quan, bạn đồng nghiệp
trong ngành… đến liên hệ, công tác. Vì vậy, cán bộ, công chức làm
việc ở đây cần có những ứng xử văn minh, thanh lịch trong giao tiếp.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay ở một số công sở, chúng ta vẫn bắt gặp
những cách ứng xử thiếu thanh lịch.
Ăn nói, giao tiếp cũng là một biểu hiện văn hóa nơi công sở, nhưng xung
quanh việc này vẫn còn nhiều điều đáng bàn. Là cơ quan công quyền nhưng
một số người vẫn mang nặng tư duy cửa quyền khi tiếp xúc với dân. Vì thế,
không ít nơi, chúng ta vẫn phải nghe những câu hỏi thiếu chủ ngữ, kiểu
như: “Cần gì?”, “Đi đâu?”, “Gặp ai?” hoặc bắt gặp những khuôn mặt cau
có, thái độ hách dịch, lạnh lùng.
Xưng hô nơi công sở là biểu hiện văn hóa. Trong thời kỳ mở cửa, cùng với
hội nhập và phát triển kinh tế, các luồng văn hóa nước ngoài cũng theo đó
mà vào. Có nhiều luồng gió mát nhưng cũng không ít luồng gió độc. Làm
sao điều chỉnh những hành vi ứng xử để bảo tồn văn hóa mà vẫn du nhập
được văn minh, tiến bộ nhân loại? Điều này hết sức khó. Nó đòi hỏi mọi
thành viên trong xã hội phải biết tự mình điều chỉnh quan điểm hành vi ứng
xử sao cho phù hợp.
2. Thái độ và cách làm việc trong công sở:
Thực trạng văn hóa công sở trong thái độ làm việc, cách làm việc và mọi cử
chỉ của các cơ quan trong công việc vẫn còn thấp kém, không có sự chủ
động, nghiêm túc trong giờ làm và trong mọi công việc không được xử lý
tốt.
Môi trường công sở ở một số cơ quan Nhà nước hiện nay đã tạo cho người
ta nhiều khoảng thời gian ngồi chơi xơi nước dẫn đến tình trạng "buôn
chuyện”, dòm ngó chức vụ tạo bè, kéo cánh để tranh ghế, tranh chức và
cuốn hút người lao động vào vòng xoáy của quyền lực mà quên đi cả nhiệm
vụ chuyên môn của mình.
Ở nhiều nơi vẫn xảy ra tình trạng khách cứ phải chờ đợi lâu, còn cán bộ
đang bận… trà nước, tán gẫu. Có cơ quan, còn nửa tiếng mới hết giờ làm
việc, nhưng khi có khách đến liên hệ công việc, cán bộ tiếp dân đã trả lời là
hết giờ nhận giấy tờ, mai quay lại. Thái độ tuỳ tiện thiếu trách nhiệm này
làm ảnh hưởng không nhỏ đến hình ảnh các “công bộc” của dân.
Lại có những cá nhân lấy cớ vì hiệu quả chung của công việc mà cố tình
không thừa nhận năng lực, làm khó dễ cho những thành viên khác.
Trong khi đó, đáng lẽ ra trên cương vị của mình, họ phải là người dẫn dắt
những người đi sau, chỉ bảo và giúp họ tiến bộ, trưởng thành hơn trong từng
công việc được giao.
3. Thời gian đi làm chưa được cải thiện:
Nói người đi làm trễ giờ là người “lười” cũng không hoàn toàn đúng, bởi có
người rất chăm chỉ đôi khi vì một lý do đột xuất nào đó mà đi làm trễ giờ,
tất nhiên không phải thường xuyên. Nhưng hiện tượng đi muộn về sớm
trong đội ngũ cán bộ công chức của ta hiện nay cũng không hiếm với nhiều
lý do khác nhau, chẳng hạn như bận việc riêng, hư xe hay rẽ vào đâu đó để
bàn “công chuyện" chẳng ai kiểm soát được lý do ấy chính đáng hay không
mà hoàn toàn dựa vào sự tự giác.
Ở một số nước người ta dùng máy quét để quản lý giờ làm việc của công
chức. Còn khi không có máy quét thì ta quản lý bằng các biện pháp giáo
dục nâng cao ý thức tự giác của mỗi người. Tấm gương về tư tưởng và đạo
đức Hồ Chí Minh đã học rồi, bây giờ đến giai đoạn mỗi cơ quan, mỗi đơn
vị, mỗi cá nhân tổ chức chương trình hành động làm theo gương Bác. Thiết
nghĩ xây dựng một quy chế làm việc trong công sở, từ giờ giấc đến thái độ
lao động, từ trang phục đến lời ăn tiếng nói, sao cho văn minh và hiện đại,
lịch sự và hiệu quả, cũng là một việc làm thiết thực và giàu ý nghĩa.
4. Trách nhiệm đối với công việc:
Tình trạng nhiều cán bộ, công chức còn chưa nghiêm túc trong giờ làm
việc, thiếu trách nhiệm vào việc mình làm. Nhiều cán bộ, công chức vẫn
uống rượu, bia vào buổi sáng, buổi trưa tại những cơ quan làm việc.
Nhưng điều cần phải chống và chống một cách quyết liệt là thái độ thờ ơ,
thiếu tinh thần trách nhiệm đối với công việc mà mình được giao. Có cơ
quan cán bộ, nhân viên đến sở rồi mới rủ nhau đi ăn sáng, ngồi trước máy vi
tính nhưng là để chơi games hay facebook, đến cơ quan không để làm việc
mà để tán gẫu, bàn tán việc riêng.
II.
Những biểu hiện thiếu văn hóa trong công sở hiện nay.
Đầu tiên là những biểu hiện thiếu văn hóa trong việc thiết lập hệ thống mục
tiêu cá nhân trong công sở. Nếu mục tiêu chung của công sở là hoàn thành một
cách tốt nhất chức năng, nhiệm vụ được giao, thì mục tiêu của từng cán bộ, công
chức rất phong phú và đa dạng. Để đánh giá một tổ chức đó có lớn mạnh hay
không, điều đầu tiên phải xem xét sự dung hòa của 2 nhánh mục tiêu này. Thực tế
trong nhiều công sở ở ta hiện nay không có sự giao thoa giữa mục tiêu chung của
công sở và mục tiêu riêng của từng cán bộ, công chức, mà biểu hiện thường thấy
nhất đó là nhiều nhà quản lý chỉ xem công sở là một đòn bẩy, một phương tiện để
tiến thân, còn công chức đi làm là để có thu nhập. Cán bộ, công chức không quan
tâm đến sứ mệnh của tổ chức mình đang phục vụ.
Trong công sở còn có sự “đối đầu” giữa nhà quản lý với công chức, viên
chức dưới quyền, tuy không phổ biến. Sự đối đầu này có 2 nguyên nhân cơ bản đó
là mối quan hệ về quyền lực và uy tín trong công sở; phát sinh mâu thuẫn và giải
quyết mẫu thuẫn chưa thoả đáng về lợi ích giữa các cá nhân. Nếu chúng ta ví công
sở là một con thuyền đang ngược dòng nước, nhà quản lý là người cầm lái và cán
bộ, công chức trong công sở là các tay chèo, thì lúc đó chúng ta mới nhận thức hết
sự nguy hiểm của tình trạng mất đoàn kết trong công sở!
Thời gian gần đây, một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức
nhà nước tỏ ra thờ ơ, vô cảm trước nguyện vọng của công dân. Đây là một biểu
hiện kém văn hóa của những người thực thi pháp luật. Đành rằng pháp luật là là
chuẩn mực, nghiêm túc, “bất vị thân” nhưng áp dụng pháp luật luôn là một nghệ
thuật. Bản thân pháp luật không biến con người thành gỗ đá mà chỉ có những
người vô cảm mới biến pháp luật thành vô hiệu. Bên cạnh đó, trong điều kiện dân
trí và sự hiểu biết pháp luật của đại bộ phận người dân còn hạn chế; hệ thống pháp
luật và các chính sách của Nhà nước ta chưa hoàn chỉnh, thì cán bộ, công chức,
viên chức Nhà nước ngoài việc áp dụng pháp luật còn có trách nhiệm tuyên
truyền, hướng dẫn cho người dân hiểu về chính sách, pháp luật. Cán bộ, công
chức là người thay mặt Nhà nước để thực thi chính sách và đồng thời cũng là
người phản ánh với Nhà nước những bất cập, thiếu sót của chính sách do nhà
nước ban hành để có sự điều chỉnh phù hợp với thực tế, nhưng cán bộ, công chức
nhiều lúc giải quyết công việc chưa thấu tình, đạt lý hay hợp lý mà chưa hợp tình
thì khó có thể làm hài lòng người dân.
Không tôn trọng hoặc xem nhẹ kết quả làm việc của đồng sự là một trong
những thực tế tồn tại trong một số công sở hiện nay. Thông thường thì người ta rất
trọng dụng người có tài, nhưng người có tài thực sự thì hay có chứng tật mà đã là
có chứng tật thì người ta cứ chiếu vào tật để mà đánh giá, nhận xét. Nhiều khi
đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, viên chức, tuy có tiêu chí mức độ hoàn
thành nhiệm vụ chuyên môn, nhưng lắm lúc kết quả đánh giá lại thiên về những
điều không ăn nhập gì với chuyên môn. Vì vậy, mới có chuyện người tài bị cô lập,
họ rơi vào trạng thái “cô đơn trong công sở”, họ không phát huy được năng lực
của mình và kết cục tất yếu là “chảy máu chất xám”.
Đã có nhiều văn bản cấm hút thuốc, sử dụng chất có cồn trong giờ làm việc,
nhưng xem ra việc thực thi hẳn còn nhiều điều phải xem lại. Có cán bộ, công chức
từng tuyên bố: “Thà bỏ việc chứ không bỏ thuốc lá!” … Sử dụng chất có cồn
trong giờ làm việc là một vấn đề phổ biển hiện nay ở các công sở. Thật ra ra
không nhiều người muốn như vậy, nhưng việc trao đổi thông tin, quan hệ công tác
giữa các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp là nhiệm vụ thường xuyên, đi liền với đó
là quan hệ giao tiếp thông qua tách trà, ly rượu, đã tiếp khách thì thường là phải có
rượu, bia, vì “phi tửu bất thành lễ”, nếu không thì e không phải đạo, không hiếu
khách, mà đã tiếp khách thì cả chủ và khách đều phải vui vẻ, nhiệt thành, tạo nên
không gian văn hoá ẩm thực rất đa dạng và chứa đựng nhiều cảm xúc. Nếu việc
giao lưu ẩm thực ở mức độ vừa phải thì không sao, song thực tế thường hay quá
đà, đây đã làm mất thời gian, tổn hại sức khoẻ và gây lãng phí tiền bạc của tập thể,
cá nhân.
Lãng phí là một biểu hiện thiếu văn hóa hiện nay ở một số công sở. Lãng
phí thời gian làm việc: Buôn chuyện tại công sở, làm việc riêng trong giờ hành
chính hoặc trong thời gian đi công tác. Lãng phí nguồn lực công như: Tiền điện
thoại, tiền điện, vật tư văn phòng… Đỉnh điểm của sự lãng phí đó là lãng phí cơ
hội. Xét trên góc độ tổ chức, nếu công sở không hoàn thành nhiệm vụ hoặc có
hoàn thành nhưng chậm tiến độ, hiệu quả không cao thì chắc chắn sẽ lãng phí
(giảm đi) sự kỳ vọng, tin tưởng từ bên ngoài đối với công sở. Ở khía cạnh cá
nhân, nếu anh không hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao hoặc chậm trễ tiến độ thì
anh sẽ mất cơ hội cho những lần giao nhiệm vụ tiếp theo.
II. Suy nghĩ về thay đổi VHCS:
Sau hàng loạt những dẫn chứng từ góc nhìn thực tế nêu trên người viết tự đặt ra
nhiều câu hỏi, trong đó tập trung vào “Nguyên nhân gốc rễ là gì?” và mục tiêu “Có thể
thay đổi được không? Có xây dựng được VHCS với những giá trị chuẩn mực nâng cao
được hình ảnh của người công chức hay không?...”.
1. Nhận định về nguyên nhân:
Văn hoá và hành xử văn hoá của mỗi người là hội tụ của nhiều yếu tố, gổm từ
lịch sử, nền tảng học vấn, truyền thống gia đình, dân tộc, văn hoá vùng miền,
những giá trị tiếp nhận và chuyển hoá từ hội nhập… Chính vì vậy, chúng ta –
những công chức đã xây dựng được những truyền thống văn hoá, những giá trị hình
ảnh hiện hữu đáng trân trọng và cần tiếp tục, thường xuyên bổ sung, điều chỉnh và
phát triển trở nên tốt đẹp hơn nữa. Nguyên nhân của những hành vi, hiện tượng
không phù hợp với các giá trị văn hoá vốn có đã nêu ở phần trên một phần lớn bắt
nguồn từ việc thả lỏng (thiếu khắt khe) với bản thân, trong các đơn vị, tổ chức đôi
khi những giá trị khuôn mẫu về văn hoá cũng chưa được quan tâm đầy đủ từ lãnh
đạo đến nhân viên… Những thay đổi (sự thiếu quan tâm) tiêu cực đó đều xảy ra
nhiều tập trung vào thời điểm có những đột phá về sự phát triển kinh tế - chính trị xã hội, khi nhu cầu khối lượng công việc tăng đột biến và bắt buộc cá nhân, gia
đình, tổ chức đơn vị….đều dành ưu tiên vào việc “bắt kịp tốc độ”. Cá nhân người
viết cho rằng không ai muốn bản thân mình là người hành xử “thiếu văn hoá” mà
việc để xảy ra những hiện tượng này phần lớn do đã được chấp nhận như một thói
quen, tập quán sau một quãng thời gian thiếu sự quan tâm, ưu tiên (như đã phân
tích ở trên).
Nguyên nhân là vậy thì việc thay đổi cũng phải từ gốc rễ căn bản. Chúng ta không
thể chỉ thay đổi đơn thuần VHCS chỉ trong môi trường công sở mà nó phải được
xây dựng và thay đổi từ cả cá nhân, nhà trường, gia đình, xã hội…
2. Thay đổi từ nhận thức đến hành động:
Như vậy, điểm mấu chốt để thay đổi, xây dựng một VHCS tốt đẹp đó là nhận
thức cá nhân. Nếu hôm nay chúng ta đã nhận thức được những tiếng chuông cảnh
báo, chúng ta đã nhìn nhận được những hành vi, hiện tượng cần thay đổi thì tự thân
trước hết cần luôn có ý thức cải tạo, đề cao tinh thần xây dựng một văn hoá đẹp ở
mọi nơi, tuyên truyền cho con cái, gia đình, đồng nghiệp, bạn bè những giá trị cần
gìn giữ phát huy, từng bước loại trừ những thói quen, tật xấu.
Khi nhận thức đã thực sự được kích hoạt rằng luôn phải có động thái thay đổi
cho một VHCS tốt đẹp hơn nữa chúng ta sẽ thực sự thay đổi được hành vi và các
chuẩn mực sẽ được thiết lập. Điều này sẽ mạnh mẽ hơn việc điều chỉnh hành vi, thái
độ, xây dựng VHCS bằng những quy định bắt buộc. Với tư duy đó, những người lãnh
đạo trước tiên cần nêu cao tấm gương, gương mẫu trong ý thức, hành động của cá
nhân. Luôn đề cao hiệu quả của công tác tuyên truyền và thông qua nhiều kênh và hình
thức đa dạng, tăng cường gợi ý, lắng nghe, trao đổi và hoà mình nhiều hơn việc chỉ
đạo thông qua mệnh lệnh. Bên cạnh đó, một trong những nội dung quan trọng các nhà
lãnh đạo cần quan tâm đó là nghiên cứu, xây dựng và phổ biến đến toàn bộ cán bộ,
công chức những giá trị của công sở, vị trí công việc, đó là những giá trị làm nên một
công sở năng động, tận tuỵ, luôn hướng tới mục tiêu cao đẹp. Từ đó những chuẩn mực
khung được hình thành và từng bước ăn sâu vào tâm thức từng cán bộ công chức.
Với những cán bộ, công chức nói chung, song song với việc thay đổi nhận thức cá
nhân là những hành vi, hành động luôn được thường trực ý thức tự giác kiểm tra nhắc
nhở của chính bản thân. Đây là chìa khoá giúp chính chúng ta truyền đạt lại cho con
cái, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp những giá trị, phẩm chất, lý tưởng mà mình đang
theo đuổi.
Tin rằng những nỗ lực cá nhân cùng với tổ chức, đơn vị, các đoàn thể và xã hội
nói chung sẽ tạo ra những nhìn nhận quan trọng làm cơ sở để xây dựng, bồi đắp nên
những khuôn khổ VHCS tốt đẹp, những giá trị truyền thống dày thêm và trong mỗi cán
bộ, công chức của NHTW luôn hãnh diện, tự hào với nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và
nhân dân đã trao, cũng như vinh dự được làm việc trong một môi trường VHCS văn
minh, minh bạch./.
III.
Một số nhiệm vụ, phương hướng đề ra.
1. Nâng cao ý thức của mỗi cá nhân:
Rất nhiều ý kiến đã chỉ ra những điểm còn hạn chế trong văn hóa công sở
của cán bộ, công chức, viên chức hiện nay như: đi họp muộn, nói chuyện
riêng trong buổi họp, cách ứng xử không nhã nhặn với khách và đồng
nghiệp, trang phục không phù hợp trong khi đi làm, tác phong làm việc
không chuyên nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm với công việc được giao…
2. Chấp hành tốt các quy định đã đặt ra:
Chúng ta đang phấn đấu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có
phong cách ứng xử chuẩn mực trong hoạt động công vụ, có phẩm chất đạo
đức tốt, góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Thiết nghĩ, tại
các công sở, đặc biệt là những nơi tiếp xúc với nhân dân, cán bộ công chức
cần nghiêm chỉnh tuân theo các quy định cụ thể về trang phục, cách giao
tiếp, trong đó đặc biệt cần tôn trọng dân, chú ý ứng xử với dân một cách có
văn hóa. Điều đó góp phần tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh nơi công
sở.
3. Thực hành dân chủ cơ sở:
Văn hóa công sở tại các cơ quan hành chính thể hiện ở quyền được thông
tin và cách thức cung cấp thông tin cho công chúng. Công dân đến công sở
phải có quyền nhận được những thông tin mà họ cần. Bưng bít thông tin với
quần chúng là tạo cơ sở cho nạn tham nhũng, hối lộ. Thực hành dân chủ cơ
sở chính là biểu hiện của việc nâng cao văn hóa công sở tại các cơ quan
hành chính Nhà nước. Bên cạnh đó, văn hóa công sở còn thể hiện ở cách
thức cung cấp thông tin. Cán bộ, công chức ở các cơ quan Nhà nước nên
chủ động cung cấp thông tin và thể hiện sự trân trọng đối với công chúng.
4. Gương mẫu, tận tụy phục vụ nhân dân:
Mặc dù vẫn còn nhiều ta thán về tình trạng công chức nhà nước tại các cơ
quan hành chính nhà nước còn “hành” dân, nhưng có thể thấy từ khi thực
hiện chương trình xây dựng cơ quan, đơn vị có đời sống văn hóa, chương
trình xây dựng văn hóa công sở đã được cải thiện nhiều thông qua đội ngũ
công chức ngày càng gương mẫu hơn với những tiêu chí: công chức có
chuyên môn, nghiệp vụ; ứng xử văn hóa; ăn mặc đẹp, gọn gàng, lịch sự; tiết
kiệm (thời gian, văn phòng phẩm, tiết kiệm điện…); công sở sạch đẹp, an
toàn, nhằm cải tiến lề lối làm việc, đẩy mạnh thực hiện đề án “cải cách thủ
tục hành chính nhà nước”, áp dụng cơ chế một cửa, công khai minh bạch và
từng bước đơn giản thủ tục hành chính công.
Để thực hiện được yêu cầu nói trên, ngoài việc thường xuyên giáo dục nâng
cao văn hóa cho các đối tượng giao tiếp ở công sở còn cần tới những quy
tắc, quy chuẩn ứng xử theo các chế tài bắt buộc của văn hóa công sở do Nhà
nước quy định và các chế tài xử lý vi phạm, khen thưởng, động viên.
Chính phủ và Bộ Tài chính dựa vào nhu cầu thực thi văn hóa công sở để cấp
kinh phí thỏa đáng cho các cơ quan hành chính Nhà nước, hàng năm đưa
chương trình bồi dưỡng về văn hóa công sở vào chương trình đào tạo lại
cán bộ, công chức. Từng ngành, từng địa phương, từng cơ quan dựa trên các
quy định của Chính phủ cụ thể hóa thành các quy định của ngành, địa
phương, cơ quan mình.
IV.
Các giải pháp xây dựng văn hóa công sở.
1. xây dựng hệ giá trị chuẩn.
Xây dựng hệ giá trị chuẩn về “Văn hóa công sở” là yêu cầu trước tiên. Bên cạnh đó,
phải có chế tài cụ thể và đủ mạnh để xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm những chuẩn
mực về văn hóa trong công sở. Giá trị văn hóa không thể cân, đo, đong, đếm được mà nó
phải được hình thành từ trong ý thức, tạo dựng niềm tin và động lực của mỗi cá nhân.
Chỉ khi nào cán bộ, công chức có niềm tin vững chắc vào những giá trị văn hóa mà công
sở đang theo đuổi, khi đó những biểu hiện thiếu văn hóa tại các cơ quan nhà nước mới bị
dẹp bỏ dần. Sẽ không thừa nếu nói rằng để đạt được những giá trị văn hóa công sở, chỉ
thực hiện được bằng cách cấp trên làm trước, cấp dưới làm sau; lãnh đạo làm gương để
nhân viên noi theo, tất cả cán bộ, công chức, viên chức cùng hành động!
2. xây dựng bầu không khi làm việc.
Xây dựng và gìn giữ bầu không khí làm việc nơi công sở là một trong những điều quan
trọng hiện nay. Không thể có một công sở văn hóa nếu trong nội bộ luôn tồn tại những
căng thẳng, soi xét lẫn nhau; cấp dưới nghi ngờ cấp trên, cấp trên đề phòng cấp dưới…
Không thể là văn hóa, nếu cán bộ, công chức khi làm việc chỉ để đến tháng nhận lương,
ngoài ra không quan tâm đến những vấn đề khác. Con người không phải là con rô-bốt
biết nói, mà con người là một thực thể xã hội với các mối quan hệ và cảm xúc rất đa
dạng, phức tạp. Vì vậy, công sở không phải là “công xưởng” mà là môi trường xã hội
thu nhỏ, ở đó mỗi cán bộ, công chức với sự tích cực của mình, họ sẽ tạo nên bầu không
khí làm việc của công sở. Nếu không khí làm việc cởi mở, tin tưởng lẫn nhau sẽ khơi
nguồn được sự sáng tạo của các thành viên và ngược lại, nếu bầu không khí nặng nề,
căng thẳng sẽ là rào cản đối với hoạt động của công sở.
3. Xây dựng tác phong chuyên nghiệp.
Chuyên nghiệp, hiểu theo nghĩa chung nhất là mỗi người chuyên tâm vào công việc của
mình, toàn tâm, toàn ý để hoàn thành công việc của mình một cách tốt nhất; chuyên
nghiệp là có sự hiểu biết rộng và giỏi một lĩnh vực cụ thể. Trong hành chính công vụ,
chuyên nghiệp còn là biết cách phối hợp,điều tiết công việc phù hợp với tiến độ và môi
trường xung quanh để tạo nên hiệu quả tốt nhất; tác phong làm việc năng động, khoa học
kết hợp với việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào công việc. Tác
phong chuyên nghiệp đòi hỏi nhà quản lý và các nhân viên phải thực hiện tốt những nội
dung cơ bản:
- Một trong những hạn chế khá phổ biến của cán bộ, công chức là làm việc chưa khoa
học, thiếu tâm huyết. Biểu hiện ở việc không tuân thủ thời gian, làm việc chậm chạp, lề
mề; làm việc không có kế hoạch dẫn đến làm việc thường bị động, hiệu quả thấp, nhiều
khi mang tính đối phó cho xong việc. Do đó, phải từng bước thiết lập tác phong làm
việc khoa học, làm việc theo kế hoạch, tiết kiệm thời gian.
- Dẫu biết rằng, trong công sở mọi người phải thống nhất vào mục đích chung, nhưng
mỗi người có một nhiệm vụ riêng. Khả năng độc lập tác chiến cho phép cán bộ, công
chức phát huy được tính sáng tạo của mình để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao,
nó thể hiện rõ năng lực của từng người. Tính độc lập còn giúp cán bộ, công
chức tránh được những khó khăn nếu có sự thay đổi, điều động, luân chuyển vị trí công
tác. Đồng thời, tính độc lập trong công việc không loại trừ khả năng phối hợp trong hoạt
động của cán bộ, công chức, vì một khi đã làm chủ được công việc mình thì họ luôn biết
mình phải hợp tác với ai để công việc hiệu quả cao nhất.
- Nếu như cán bộ, công chức không trang bị cho mình những kiến thức mới, phù
hợp thì sẽ khôngthể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Cái khó nhất là mỗi cán bộ, công
chức có ý thức hết được việc tự học để nâng cao trình độ hay không. Nếu muốn học để
chuẩn hóa bằng cấp, công chức có thể đăng kí các khóa đào tạo; nếu học để nâng cao
hiểu biết (đây là mục đích cao nhất, đáng quý nhất) thì cán bộ, công chức có thể học mọi
lúc, mọi nơi.
- Vô trách nhiệm là biểu hiện yếu kém của một bộ phận cán bộ, công chức hiện
nay. Sự thiếu trách nhiệm sẽ dẫn đến cách làm việc qua loa, cẩu thả, thậm chí nó là ngọn
nguồn của thói thờ ơ, vô cảm.Do đó, ngay từ khi mới vào làm việc hoặc triển khai việc
mới mỗi công chức hãy xây dựng cho mìnhý thức làm việc có trách nhiệm, hãy xem việc
của công sở như là việc của chính mình và dốc toàn tâm, toàn lực để hoàn thành công
việc được giao.
- Chuyên nghiệp trong công việc, đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức phải chuyên
nghiệp trong giao tiếp, ứng xử. Giao tiếp trong công sở là một khoa học và là một nghệ
thuật. Hiệu quả giao tiếp của công chức góp phần xây dựng một nhà nước thân thiện với
nhân dân, phục vụ nhân dân, ngoài ra giao tiếp hiệu quả giúp công sở hạn chế được
những rủi ro như hiểu lầm, khiếu kiện… Đối với cá nhân, giao tiếp tốt còn mở rộng các
mối quan hệ xã hội và nắm bắt nhanh chóng các cơ hội đến với bản thân.
- Chuyên nghiệp trong công việc còn biểu hiện ở tính kỷ luật, tích cực tham gia hoạt
động do đoàn thể trong công sở. Chuyên nghiệp cũng đồng nghĩa với sự cạnh tranh lành
mạnh trong cơ hội thăng tiến. Một cán bộ, công chức chuyên nghiệp còn phải biết làm
việc hết sức và chơi hết mình; thư giãn đúng lúc, đúng cách là biện pháp tốt nhất để phục
hồi lại năng lượng đã mất.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng, cùng với nhận thức của người dân
không ngừng được nâng lên, những biểu hiện thiếu văn hóa trong các cơ quan nhà nước
sẽ là những rào cản cho sự phát triển chung của xã hội. Do đó nhận thức đúng đắn và
tích cực xây dựng văn hóa công sở sẽ góp phần quan trọng trong việc xây dựng nền
hành chính công vụ hiện đại, hiệu quả và thân thiện với nhân dân.
Thực tế đã chứng minh không thể coi nhẹ nhân tố con người trong sự phát triển của các
cơ quan, công sở. Nói đến con người chính là nói đến văn hóa, vì toàn bộ những giá trị
văn hóa làm nên những phẩm chất, năng lực và tinh thần của con người. Vận dụng các
yếu tố văn hóa trong việc thúc đẩy mọi hoạt động của công sở như xây dựng hệ thống
thi đua - khen thưởng công bằng, minh bạch, tạo ra bầu không khí làm việc phát huy tối
đa sự sáng tạo, cống hiến của cán bộ, công chức, viên chức, tạo động lực làm việc hăng
say … sẽ kích thích, loại bỏ được sức ỳ trong công việc.
Yếu tố văn hóa xuất hiện trong công sở xuất phát từ chính vai trò của công sở trong đời
sống xã hội và trong hoạt động của bộ máy hành chính. Một công sở chỉ làm tròn nhiệm
vụ và chức năng của nó khi tạo dựng được mối quan hệ tốt giữa cán bộ, công chức, viên
chức trong công việc, các chuẩn mực ứng xử, các nghi thức tiếp xúc hành chính, ý thức
chấp hành kỷ luật trong và ngoài cơ quan.
CHƯƠNG III
KẾT LUẬN
Từ thực trạng văn hóa công sở trên cho thấy, nhận thức về văn hóa công sở
của các ngành, các cấp, các địa phương nhìn chung chưa đầy đủ, một số cơ
quan, đơn vị chưa thấy được mối liên hệ qua lại giữa trình độ văn hóa công
sở với hiệu quả, năng suất của công việc tại công sở. Cần phải nhìn nhận
rằng, chúng ta còn thiếu các quy định chuẩn mực về văn hóa công sở và các
chế tài xử lý vi phạm, thiếu đào tạo, bồi dưỡng về văn hóa công sở. Điều đó
đã dẫn đến hiệu quả công việc của các cơ quan hành chính Nhà nước thấp,
cản trở quá trình hội nhập.
Thực tế cho thấy, nơi nào cán bộ công nhân viên chức càng gương mẫu,
thực hiện tốt quy chế văn hóa công sở, nơi đó càng có sự đoàn kết, thống
nhất nội bộ cao, chất lượng, hiệu quả công việc tốt hơn, nhiệm vụ chính trị
luôn đảm bảo, thực hiện tốt mục tiêu, kế hoạch đề ra. Chính điều này đã góp
phần quan trọng nâng cao hiệu quả của công tác cải cách hành chính, đồng
thời nhận được sự đồng tình cao của quần chúng nhân dân.
Ngoài ra, để tạo môi trường văn hóa tốt trong công sở, vấn đề quan trọng là
người đứng đầu một cơ quan phải tạo được cơ chế tốt để các nhân viên có
điều kiện phát triển, một môi trường hòa đồng thân thiện có tính đoàn kết
cao. Và điều cốt lõi là người lãnh đạo cần giải quyết tốt được bài toán về
quyền lợi của mỗi thành viên trong cơ quan sao cho công bằng, phù hợp với
năng lực làm việc và khả năng cống hiến của từng người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ngày 02/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ về qui
chế văn hóa công sở tại các cơ quan hành chính nhà nước
2. Quyết định số 454/2008/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN về Quy chế văn hóa công
sở của Ngân hàng Nhà nước
3. Quyết định số 2228/QĐ-NHNN ngày 8/10/2014 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ
sung một số điều của Quyết định số 454/QĐ-NHNN về Quy chế văn hóa công sở của
NHNN
4. Công văn số 5973/ NHNN- VP ngày 21/8/2013 về việc triển khai thực hiện
“
Năm đẩy mạnh trật tự kỷ cương và văn hoá công sở”.
5. Kế hoạch số 74/KH-CĐNHNNTW ngày 14/4/2013 của Ban Chấp hành Công đoàn
Cơ quan NHTW.