Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ ODA CỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.17 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
----------

TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: “HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ ODA CỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM”.

Giảng viên

: Nguyễn Thị Vân Nga

Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Anh Vũ

A18335

Nguyễn Quỳnh Phương

A18464

Tạ Anh Trung

A18580

Lê Minh Quang

A18663

Nguyễn Việt Nga

A18684



Võ Khánh Linh

A21691

Nguyễn Thùy Linh

A21768

Phạm Việt Hùng

A21880

Trần Lê Minh

A21964

Nguyễn Hồng Hường

A22291

HÀ NỘI - 2015


Mục lục

Trang 2


LỜI MỞ ĐẦU

Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc tiếp nhận vốn đầu
tư nước ngoài đóng vai trò rất quan trọng để một mặt tích lũy nguồn vốn cho chúng ta
xây dựng và phát triển, mặt khác rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế của nước ta
so với các nước khác. Trong thu hút vốn đầu tư, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là
một kênh vốn đầu tư phát triển quan trọng đối với nước ta. Nói đến viện trợ ODA là
không thể không nhấn mạnh tới vai trò chủ chốt của Nhật Bản. Nhật Bản được coi là
nhà tài trợ số một thế giới về viện trợ phát triển chính thức (ODA) với phần lớn tâp
trung ở Châu Á.
Liên tiếp nhiều năm qua, Nhật bản luôn đứng số 1 trong nhóm quốc gia viện trợ
(ODA) nhiều nhất cho Việt Nam.Nguồn vốn ODA của Nhật Bản nói riêng đóng vai trờ
quan trọng góp phần giúp Việt Nam đạt được phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và
cải thiển đời sống của nhân dân.
Mục đích của bài viết là phân tích, làm rõ vai trò của ODA Nhật Bản đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn này.
Trên cơ sở đó để đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của
ODA Nhật Bản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Phương pháp
nghiên cứu chủ yếu là thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu từ sách báo và website.


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ ODA NHẬT BẢN
1.1. Khái niệm
ODA là tên gọi tắt của ba chữ tiếng Anh: Official Development Assistance, có
nghĩa là Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ phát triển chính thức.
Năm 1972, OECD, Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển đã đưa ra khái niệm
ODA là “một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích chính là thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài chính của giao
dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất 25%”.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần thu nhập quốc gia từ các nước
phát triển sang các nước đang và chậm phát triển. Liên hiệp quốc, trong một phiên họp
toàn thể của Đại hội đồng vào năm 1961 đã kêu gọi các nước phát triển dành 1% GNP

của mình để hỗ trợ sự nghiệp phát triển bền vững về kinh tế và xã hội của các nước
đang phát triển.
Theo Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ban
hành kèm theo Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính Phủ thì ODA
được định nghĩa như sau: “Hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt là ODA) được hiểu là
hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính Phủ nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam với Nhà tài trợ là Chính phủ nước ngoài, các tổ chức tài trợ song
phương và các tổ chức liên quốc gia hoặc liên chính phủ.
Một cách khái quát, chúng ta có thể hiểu ODA bao gồm các khoản viện trợ
không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại, hoặc tín dụng ưu đãi của các Chính phủ, các tổ
chức liên Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp
quốc (United Nations -UN), các tổ chức tài chính quốc tế dành cho các nước đang và
chậm phát triển.
1.2. Đặc điểm của ODA
− Vốn ODA là nguồn vốn có tính ưu đãi của các nước phát triển, các tổ chức
quốc tế đối với các nước đang và chậm phát triển.
− Với mục tiêu trợ giúp các nước đang và chậm phát triển, vốn ODA mang tính
ưu đãi hơn bất cứ nguồn tài trợ nào khác. Thể hiện:
+ Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn dài
(chỉ trả lãi, chưa trả nợ gốc). Vốn ODA của WB, ADB, Ngân hàng Hợp tác


quốc tế Nhật Bản (Japanese Bank for International Cooperation - JBIC) có
thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm.
+ Thông thường vốn ODA có một phần viện trợ không hoàn lại, phần này
dưới 25% tổng số vốn vay. Ví dụ OECD cho không 20-25% tổng vốn ODA.
Đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại.
+ Các khoản vay thường có lãi suất thấp, thậm chí không có lãi suất. Lãi suất
giao động từ 0,5% đến 5% /năm (trong khi lãi suất vay trên thị trường tài
chính quốc tế là trên 7% /năm và hàng năm phải thoả thuận lại lãi suất giữa

hai bên). Ví dụ lãi suất của ADB là 1%/năm; của WB là 0,75% /năm; Nhật
thì tuỳ theo từng dự án cụ thể trong năm tài khoá. Ví dụ từ năm 1997-2000
thì lãi suất là 1,8%/năm.
− Vốn ODA thường kèm theo các điều kiện ràng buộc nhất định:
Tuỳ theo khối lượng vốn ODA và loại hình viện trợ mà vốn ODA có thể kèm theo
những điều kiện ràng buộc nhất định. Những điều kiện ràng buộc này có thể là ràng
buộc một phần và cũng có thể là ràng buộc toàn bộ về kinh tế, xã hội và thậm chí cả
ràng buộc về chính trị. Thông thường, các ràng buộc kèm theo thường là các điều kiện
về mua sắm, cung cấp thiết bị, hàng hoá và dịch vụ của nước tài trợ đối với nước nhận
tài trợ. Nguồn vốn ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận và lợi ích
của nước viện trợ. Các nước viện trợ nói chung đều không quên dành được lợi ích cho
mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị, vừa thực hiện xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tư
vấn vào nước tiếp nhận viện trợ.
− ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ:
Vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu
trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, các nước nhận ODA
phải sử dụng sao cho có hiệu quả, tránh lâm vào tình trạng không có khả năng trả nợ.
1.3. Phân loại ODA
1.3.1. Theo hình thức cung cấp
− ODA không hoàn lại: là hình thức cung cấp vốn ODA mà nước tiếp nhận
không phải hoàn trả lại cho các Nhà tài trợ.
− ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): là khoản vay với các điều
kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ, bảo đảm “yếu tố


không hoàn lại” (còn gọi là “thành tố hỗ trợ”) đạt ít nhất 35% đối với các
khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc;
− ODA vay hỗn hợp: là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay
ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại, nhưng
tính chung lại có “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản

vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
1.3.2. Theo phương thức cung cấp
− ODA hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ
thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc
cho vay ưu đãi.
− ODA phi dự án: Bao gồm các loại hình sau:
+ Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển giao
tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hóa, hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ hoặc hàng hóa
được chuyển qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ ngân sách.
+ Hỗ trợ trả nợ (hỗ trợ ngân sách).
− ODA hỗ trợ chương trình: là khoản vốn ODA dành cho một mục đích tổng
quát với thời gian nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ
được sử dụng như thế nào.
1.3.3. Theo nhà tài trợ
− ODA song phương: là nguồn vốn ODA của Chính phủ một nước cung cấp cho
Chính phủ nước tiếp nhận. Thông thường vốn ODA song phương được tiến
hành khi một số điều kiện ràng buộc của nước cung cấp vốn ODA được thoả
mãn.
− ODA đa phương: là nguồn vốn ODA của các tổ chức quốc tế cung cấp cho
Chính phủ nước tiếp nhận. So với vốn ODA song phương thì vốn ODA đa
phương ít chịu ảnh hưởng bởi các áp lực thương mại, nhưng đôi khi lại chịu
những áp lực mạnh hơn về chính trị.
1.3.4. Căn cứ theo mục đích
− Hỗ trợ cơ bản: Là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng kinh tế, xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản cho vay ưu đãi.
− Hỗ trợ kỹ thuật: Là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công
nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu


tư, phát triển thể chế và nguồn nhân lực… hình thức hỗ trợ này chủ yếu là viện

trợ không hoàn lại.
1.3.5. Căn cứ theo điều kiện
− ODA không ràng buộc nước nhận: việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng
buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng.
− ODA có ràng buộc nước nhận:
+ Bởi nguồn sử dụng: Có nghĩa là việc mua sắm hàng hóa, trang thiết bị hay
dịch vụ bằng nguồn vốn ODA chỉ giới hạn cho một số công ty do nước tài
trợ sở hữu hoặc kiểm soát (đối với viện trợ song phương) hoặc các công ty
của các nước thành viên (đối với viện trợ đa phương).
+ Bởi mục đích sử dụng: Chỉ được sử dụng cho một số lĩnh vực nhất định
hoặc một số dự án cụ thể.
1.4. Ưu điểm và bất lợi khi tiếp nhận ODA
1.4.1. Ưu điểm
Lãi suất thấp (dưới 2%, trung bình từ 0.25%năm). Thời gian cho vay cũng như thời
gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm) . Trong
nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tổng
số vốn ODA.
Vì vậy đây là một nguồn vốn có tác dụng to lớn trong việc phát triển kinh tế của các
nước chậm và đang phát triển.
1.4.2. Bất lơi
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng
thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng
hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một
số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi
cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế
giới).
− Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan
bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá
của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa
thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ, yêu cầu



có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ
đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao.
− Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường
gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp,
thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo.
− Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt
nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước
tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ
sản xuất.
− Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông
thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của
nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia
gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
− Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA hoàn lại
tăng lên.
− Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu
hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý, trình độ quản lý thấp,
thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án
khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này
còn thấp có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần.
1.5. Mục tiêu cấp ODA của Nhật Bản cho VN
Nhật Bản đã công bố chính sách viện trợ ODA mới cho Việt Nam với 3 mục tiêu
chính:
− Thúc đẩy tăng trưởng,
− Cải thiện đời sống - xã hội,
− Hoàn thiện cơ cấu.
Nhật Bản cho phép sử dụng Viện trợ phát triển chính thức (ODA) của mình để hỗ
trợ các lực lượng quân sự nước ngoài trong những chiến dịch phi chiến đấu như cứu

trợ thảm họa, xây dựng cơ sở hạ tầng và các hoạt động của lực lượng bảo vệ bờ biển.
Nhật Bản đã sử dụng viện trợ nước ngoài một cách hiệu quả và chiến lược hơn để
góp phần đảm bảo "lợi ích quốc gia" trong bối cảnh ngân sách bị hạn chế và những nỗ
lực thúc đẩy nền kinh tế: cụ thể là để duy trì hòa bình, an ninh và thịnh vượng của đất


nước, tạo môi trường quốc tế ổn định, minh bạch cũng như duy trì và bảo vệ trật tự
quốc tế trên cơ sở các giá trị phổ quát.
Giới chức Bộ Ngoại giao Nhật Bản lưu ý đây là lần đầu tiên tài liệu này đề cập tới
lợi ích quốc gia là một trong số các mục tiêu của việc cấp ODA.
Năm 2014, chính phủ của Thủ tướng Shinzo Abe đã nới lỏng các quy định cấm về
xuất khẩu vũ khí, chỉnh sửa Hiến pháp để cho phép quân đội Nhật Bản ra nước ngoài,
tham chiến cùng quân đội đồng minh. Theo quy tắc viện trợ ODA mới chỉnh sửa, môi
trường an ninh khu vực và toàn cầu đang biến đổi trầm trọng, không quốc gia nào có
thể tự bảo vệ hòa bình và ổn định của mình bằng cách riêng của mình. "Hỗ trợ phát
triển là một trong những công cụ hiệu quả nhất (trong ngoại giao) và có ý nghĩa như là
một sự đầu tư cho tương lai". Theo quy tắc này, năm 2014 Nhật Bản đã ký kết các thỏa
thuận viện trợ cho Việt Nam các tàu tuần tra để bảo vệ các vùng biển tranh chấp với
Trung Quốc. Ngày 5.2.2015 qua, Cảnh sát biển Việt Nam đã nhận tàu tuần tra đầu tiên
trong loạt 3 chiếc đã qua sử dụng do chính phủ Nhật Bản viện trợ.

1.6. Chính sách ODA của Nhật Bản tại VN
Tháng 11-1992, Chính phủ Nhật Bản là nước phát triển đầu tiên tuyên bố nối lại
viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam, góp phần khai thông mối quan hệ
của Việt Nam với các tổ chức tài chính quốc tế chủ chốt. Từ đó đến nay mặc dù nền
kinh tế Nhật có những thời điểm gặp khó khăn nhưng chính phủ Nhật Bnả luôn là nhà
tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam.
Chính sách ODA của Nhật Bản chủ yếu thực hiện thông qua 2 tổ chức là Ngân
hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản(JBIC) và Cơ quan hợp tác và phát triển Nhật
Bản(JICA) được thành lập vào tháng 10 năm 1999. 2 tổ chức trên là tổ chức xúc tiến

hợp tác quốc tế và trực tiếp tổ chức thực hiện tài trợ thông qua việc triển khai các dự
án nhằm hỗ trợ kỹ thuật
1.6.1. Chính sách cơ bản về ODA của Nhật Bản:





Hỗ trợ tinh thần tự lực của các nước phát triển
Tăng cường an ninh , an toàn cho con người
Đảm bảo sự công bằng
Tận dụng kinh nghiệm, chuyên môn


− Hợp tác với cộng đồng quốc tế
1.6.2. Về lĩnh vực ưu tiên:
ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam trước đây nhằm vào 5 lĩnh vực ưu tiên:
− Phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế, trong đó chú trọng hỗ trợ
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
− Hỗ trợ cải tạo và xây dựng các công trình điện và giao thôgn
− Hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nhất là phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn
và chuyển giao công nghệ mới tại các vùng nông thôn
− Hỗ trợ phát triển giáo dục và y tế
− Hỗ trợ bảo vệ môi trường
Từ năm 2007 ,Chính sách ODA mới của Nhật Bản ưu tiên hỗ trợ hàng đầu vào 3 lĩnh
vực sau:
− Thúc đẩy tăng trưởg kinh tế. Để thực hiện mục tiêu này, Nhật Bản sẽ tập trung
hỗ trợ vào lĩnh vực cải cách kinh tế như hoàn thiện môi trường đầu tư , hỗ trợ
phát triển kinh tế tư nhân, nâng cấp kết cấu hạ tầng giao thông vân tải, điện
lực, công nghệ thông tin,….

− Cải thiện đời sống dân cư và các lĩnh vực xã hội
− Hoàn thiện thể chế , pháp luật. Nhật Bản sẽ hỗ trợ Việt Nam cải cách hành
chính, trong đó có cải cách chế độ công chức thông qua việc sử dụng kinh
nghiệm và các công nghệ tiên tiến của Nhật Bản.
1.6.3. Về cơ chế vay vốn ODA của Nhật Bản
ODA Nhật Bản được chia ra làm 2 loại là ODA song phương và ODA đa phương.
Trong đó , ODA song phương bao gồm viện trợ và tín dụng. ODA đa phương được
thực hiện thông qua các tổ chức quốc tế mà Nhật Bản đóng góp vào nhu Ngân hàng
Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á.
1.6.4. Về thời hạn và điều kiện vay vốn ODA của Nhật Bản
ODA cung cấp với lãi suất thấp.Ví dụ, các khoản vay trong năm tài hcinhs năm 1998
có tỷ lệ lãi suất trung bình 1,3% với thời gian đáo hạn trung bình cho một dự án vay là
23 năm. Thêm vào đó , có thể gia hạn thêm từ 7-10 năm sau. Việt Nam là một trong
các nước nằm ở khu vực ưu tiên cấp ODA hàng đầu của Nhật Bản.
1.6.5. Về thể thức cho vay
− Triển khai theo dự án:


+ Dự án vay vốn: cung cấp để đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị, tư vấn kỹ
thuật.
+ Cho vay để thực hiện trợ giúp kỹ thuật, chuyển giao công nghệ.
+ Cho vay thông qua trung gian tài chính:cung cấp vốn vay cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp hoặc
nông nghiệp.
− Loại phi dự án:
+ Cho vay nhập khẩu hàng hóa.
+ Cho vay để tiến hành tái cơ cầu lại nghành , lĩnh vực.
+ Cho vay theo chương trình định hướng vào lĩnh vực then chốt.
1.6.6. Quy trình xin vay và triển khai dự án
Được thực hiện qua một số bước như sau: Chuẩn bị dự án, Nộp hồ sơ xin vay, Thẩm

định sự án,Thỏa thuận, thống nhất giữa các bên về nội dung hợp đồng vay,Triển khai
dự án,Kết thúc, đánh giá dự án hoặc điều chỉnh


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ODA NHẬT BẢN VÀO VN
2.1. Quy mô và cơ cấu
2.1.1. Quy mô
− Việt Nam là một trong những thị trường thu hút được rất nhiều vốn ODA.
Hiện có khoảng 50 nhà tài trợ song phương và đa phương đang hoạt động,
cung cấp nguồn ODA và vốn vay ưu đãi cho nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế, xã
hội của Việt Nam.
− Tổng vốn ODA ký kết trong các điều ước quốc tế cụ thể từ năm 1993 đến
2012 đạt trên 58,4 tỷ USD, chiếm 71,69% tổng vốn ODA cam kết, trong đó
vốn vay ưu đãi đạt 51,6 tỷ USD và chiếm khoảng 88,4%, vốn ODA không
hoàn lại đạt 6,76 tỷ USD và chiếm khoảng 11,6%.
− Trong hai thập kỷ qua, tổng nguồn vốn ODA giải ngân đạt 37,59 tỷ USD,
chiếm trên 66,92% tổng vốn ODA ký kết.
− Theo số liệu thống kê, tỷ trọng ODA vốn vay trong tổng vốn ODA tăng dần từ
80% trong thời kỳ 1993-2000 lên 93% thời kỳ 2006-2010 và gần đây đã ở
mức 95,7% trong hai năm 2011-2012. Nhật Bản là nhà tài trợ song phương lớn
nhất cho Việt Nam trong giai đoạn 1993-2012 với khoảng 19,81 tỷ USD chiếm
khoảng 30% tổng khối lượng ODA của cộng đồng quốc tế cam kết dành cho
Việt Nam, trong đó viện trở không hoàn lại khoảng 1,5 tỷ USD.
2.1.2. Cơ cấu
− Cơ cấu theo hình thức viện trợ

+ Tín dụng ưu đãi


Hợp tác vốn vay là hình thức cho vay của chính phủ đối với chính phủ các nước đang

phát triển với các điều kiện cho vay mềm dẻo hơn như lãi suất thấp và thời hạn vay
dài. Tại Việt Nam, hợp tác vốn vay chủ yếu dung cho xây dựng cơ sở hạ tầng như giao
thong vận tải, điện lực, phát triển nông thôn. Hợp tác vốn vay do Ngân hàng Hợp tác
Quốc tế Nhật Bản (JBIC) thực hiện.
Tỷ lệ vốn vay chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số cơ cấu ODA Nhật Bản (87,3%).
Cho đến nay thì Nhật Bản đã cùng hợp tác với các nhà đầu tư của ta để xây dựng
những dự án như: Dự án xây dựng cầu Bãi Cháy, dự án cầu Cần Thơ, dự án xây dựng
nhà ga hành khách Quốc Tế sân bay Tân Sơn Nhất, dự án đường hầm Hải Vân, dự án
nhà máy nhiệt điện Phả Lại,dự án nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ,…
+ Viện trợ không hoàn lại
Hợp tác viện trợ không hoàn lại là việc trao tặng vốn cho chính phủ các nước đang
phát triển mà không kèm theo nghĩa vụ hoàn trả. Mục đích của hợp tác viện trợ không
hoàn lại là đáp ứng cho những nhu cầu căn bản của con người (nâng cao mức sống cho
tầng lớp người dân nghèo đói nhất), đào tạo nhân lực và xây dựng cơ sở hạ tầng. Hợp
tác viện trợ không hoàn lại do Bộ Ngoại giao thực hiện, trong đó các dự án hợp tác
viện trợ không hoàn lại cho địa phương hoặc viện trợ không hoàn lại hỗ trợ cho các tổ
chức phi chính phủ (NGO) của Nhật Bản do Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam thực
hiện.
Viện trợ không hoàn lại chiếm 7,3% trong tổng số cơ cấu ODA Nhật Bản.Viện trợ
không hoàn lại tập trung vào việc xóa đói giảm nghèo và giải quyết nhu cầu thiết yếu
của con người, cải thiện, nâng cao đời sống con người.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống
nhân dân đối với nước ta. Chính phủ Nhật Bản cũng đã viện trợ không hoàn lại để phát
triển những dự án như: xây dựng TT đào tạo nguồn nhân lực, viện trợ học bổng phát
triển nguồn nhân lực, cầu Miền Bắc-Trung,xây lại cầu ở đồng bằng song Cửu
Long,xây dựng cảng cá Vũng Tàu, nâng cao điều kiện sống ở Nam Đàn Nghệ An,
nâng cấp bệnh viện (bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Nhi Trung
ương, bệnh viện Trung ương Huế, bệnh viện Đà Nẵng,…). Sản xuất Vác xin Sởi, nhà
máy nước Gia Lâm, mở rộng hệ thống cấp nước Hải Dương, nâng cấp hệ thống cấp



nước miền Bắc, nâng cấp thiết bị trồng rừng Tây Nguyên, trồng rừng ven biển khu vực
Nam Trung Bộ.
+ Hợp tác kỹ thuật
Hợp tác kỹ thuật là hình thức cử chuyên gia, nghiên cứu phát triển, chương trình đào
tạo, cung cấp thiết bị nhằm hỗ trợ các nước đang phát triển đào tạo nguồn nhân lực và
xây dựng thể chế. Hợp tác kỹ thuật của Chính phủ Nhật Bản phần lớn do Cơ quan Hợp
tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) thực hiện.
Khác với vốn vay chủ yếu dành cho phát triển cơ sở hạ tầng (giao thông vận tải) thì
hợp tác kỹ thuật chủ yếu tập trung cho phát triển nguồn nhân lực, xây dựng thể chế
thông qua chuyên gia kỹ thuật và kiến thức thích hợp cho Việt Nam. Chương trình đào
tạo kỹ thuật và cử các chuyên gia đơn lẻ là hai hình thức hợp tác cơ bản.VD: chương
trình tình nguyện viên cấp cao tại Việt Nam (2001), chương trình nâng cao năng lực
cộng đồng (1998), dự án hợp tác kỹ thuật: Phục hồi rừng đầu nguồn miền Bắc, Thụ
tinh nhân tạo bò, Nâng cao kỹ thuật môi trường nước,…Tuy nhiên, ODA Nhật Bản
giành cho Việt Nam trong cơ cấu hợp tác kỹ thuật còn hạn chế, chiếm 5,4 %.

− Cơ cấu ODA của NB cho VN
+ Xây dựng thể chế:
Xây dựng thể chế làm cơ sở cho xã hội và kinh tế có vai trò quan trọng không thể thiếu
cả đối với tăng trưởng kinh tế và khắc phục các vấn đề về môi trường sinh hoạt và xã


hội. Chính phủ Nhật Bản đang hỗ trợ cho việc thúc đẩy hoàn thiện hệ thống pháp lý,
cải cách chế độ công chức và cải cách tài chính của Việt Nam.

+ Phát triển cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Cơ
sở hạ tầng của Việt Nam vẫn bị đánh giá là lạc hậu, nhỏ bé, thô sơ và phân bổ không
đều. Phát triển cơ sở hạ tầng sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc xóa đói giảm nghèo, phát

triển kinh tế, kích thích đầu tư trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vì vậy mà
chính phủ Nhật Bản luôn đề cao vai trò của cơ sở hạ tầng trong sự phát triển của đất
nước ta. Nguồn ODA của Nhật Bản vào Việt Nam luôn ưu tiên cho việc phát triển cơ
sở hạ tầng. Phát triển cơ sở hạ tầng là ngành tiếp nhận vốn ODA lớn nhất với tổng giá
trị hiệp định ký kết đạt khoảng 9,88 tỷ USD thời kỳ 1993-2008.
Kể từ năm 1994 đến nay, nhiều công trình quan trọng sử dụng vốn ODA như: QL 1A,
QL5, QL18, QL10, hầm đường bộ Hải Vân, cầu Mỹ Thuận, cầu Bãi Cháy, các cảng
Sài Gòn, Cái Lân, Tiên Sa, Hải Phòng, Nhà ga T2 sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất,
đường sắt cao tốc Bắc - Nam… đã đưa vào khai thác với lượng hàng hóa, hành khách
thông qua tăng trưởng xa so với dự kiến.
Ngoài ra vẫn còn rất nhiều dự án lớn đang triển khai bằng nguồn vốn ODA như dự án
cầu Thanh Trì, đường vành đai 3, Nhà ga T2 sân bay Quốc tế Nội Bài, cầu Nhật Tân ở
Hà Nội và mạng lưới quốc lộ nối các thành phố chính ở khu vực miền Bắc,…

+ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Nông nghiệp là một lĩnh vực rất quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam. Nhật Bản cũng đã rất chú trọng trong việc phát triển nông – lâm – ngư nghiệp
của Việt Nam. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, khi xã hội Việt Nam còn nhiều vấn
đề khi dân số tăng nhanh trong khi diện tích đất đai, rừng bị thu hẹp hay KHKT còn
nghèo nàn, lạc hậu và hơn hết là việc thiếu trầm trọng những kỹ sư có kỹ thuật, tay
nghề. ODA của Nhật cũng đã không ngừng hỗ trợ cho Việt Nam trong lĩnh vực nông
nghiệp. Nhật Bản hỗ trợ cho Việt Nam chủ yếu trong 3 lĩnh vực: cải thiện thu nhập
cũng như đời sống người nông dân, nâng cao hệ thống giáo dục nông nghiệp ở Việt
Nam, phát triển thủy sản ở Việt Nam.


Các chương trình và dự án ODA ký kết trong thời kỳ 1993-2008 đạt tổng trị giá
khoảng 5,5 tỷ USD, trong đó có nhiều dự án quy mô lớn như dự án giảm nghèo các
tỉnh vùng núi phía Bắc, dự án phát triển sinh kế miền Trung, chương trình cấp nước
nông thôn, giao thông nông thôn và điện khí hóa nông thôn, chương trình thủy lợi

đồng bằng sông Cửu Long và nhiều dự án phát triển nông thôn tổng hợp kết hợp xóa
đói, giảm nghèo khác. Ngoài ra, khoảng 12.409 km đường nông thôn và 35.343 m cầu
nhỏ nông thôn được cải tạo nâng cấp, 111 cầu nhỏ nông thôn được xây dựng đã góp
phần hỗ trợ phát triển nông nghiệp và cải thiện một bước quan trọng đời sống người
dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong việc tiếp cận
tới các dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục.

+ Giáo dục
Giáo dục là một trong những lĩnh vực quan trọng trong sự phát triển bền vững của một
quốc gia. Phát triển giáo dục là một trong những động lực thúc đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, là điều kiện tiên quyết để phát triển nguồn
nhân lực, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh. Giáo dục đào
tạo đang là mục tiêu hang đầu của các quốc gia đang phát triển và Việt Nam cũng
không phải ngoại lệ. Chính vì vậy, Nhật Bản rất chú trọng trong việc phát triển giáo
dục – đào tạo ở Việt Nam.
Quan hệ hợp tác về giáo dục và đào tạo giữa hai nước Việt Nam – Nhật Bản đã phát
triển dưới nhiều hình thức: hợp tác giữa hai chính phủ, giữa các trường học, giữa các
tổ chức, giữa các cá nhân. Những năm gần đây, Nhật Bản là một trong những nước
viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho ngành giáo dục và đào tạo của Việt Nam.
Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, ODA Nhật Bản hỗ trợ cho việc thực hiện cải cách
giáo dục ở tất cả các cấp học (giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông,
giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề), đào tạo giáo viên, tăng cường năng lực công
tác kế hoạch và quản lý giáo dục, cung cấp học bổng đào tạo đại học và sau đại học ở
nước ngoài, cử cán bộ, công chức đào tạo và đào tạo lại tại nước ngoài về các lĩnh vực
kinh tế, khoa học, công nghệ và quản lý. Chính phủ Nhật Bản nhận khoảng trên 100
học sinh sinh viên Việt Nam sang Nhật Bản đào tạo hang năm. Trong 5 năm (19941999), chính phủ Nhật đã viện trợ 9,5 tỉ yên để xây dựng 195 trường tiểu học ở các
tỉnh miền núi và vùng ven biển hay bị thiên tai.


Về phía Việt Nam , Việt Nam cũng đã mời nhiều giáo sư, chuyên gia Nhật Bản sang

giảng dạy, tiếp nhận các học giả Nhật Bản sang tìm hiểu về văn hóa, lịch sử Việt
Nam.Với sự trợ giúp của chính phủ Nhật Bản, Việt Nam đang thí điểm dạy tiếng Nhật
tại một số trường phổ thông cơ sở tại Hà Nội và TP.HCM. Đến nay, chính phủ Nhật
Bản đã tài trợ nhiều dự án về giáo dục tại các tỉnh, thành phố phía Nam với tổng giá trị
hơn 246.000USD.
+ Y tế
Trong lĩnh vực y tế, vốn ODA không hoàn lại chiếm tỷ trọng cao, khoảng 58% trong
tổng vốn ODA đã được sử dụng để tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật cho công tác
khám và chữa bệnh (xây dựng bệnh viện và tăng cường trang thiết bị y tế cho một số
bệnh viện tuyến tỉnh và thành phố, các bệnh viện huyện và các trạm y tế xã, xây dựng
cơ sở sản xuất kháng sinh, trung tâm truyền máu quốc gia, tăng cường công tác kế
hoạch hóa gia đình, phòng chống HIV/AIDS và bệnh truyền nhiễm như lao, sốt rét;
đào tạo cán bộ y tế, hỗ trợ xây dựng chính sách và nâng cao năng lực quản lý ngành.
Trong thời gian qua, ba bệnh viện đầu ngành là Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện TƯ
Huế và Bệnh viện Chợ Rẫy đều được nhận viện trợ không hoàn lại của Chính phủ
Nhật Bản để nâng câp cơ sở vật chất, trang thiết bị và hợp tác kỹ thuật. Ba bệnh viện
trên đã và đang phát huy các thành quả các dự án đã đạt được, góp phần nâng cao chất
lượng các dịch vụ chăm sóc y tế và mô hình bệnh viện vệ tinh tại các bệnh viện tuyến
dưới ở mỗi khu vực thông qua công tác đào tạo cán bộ và chỉ đạo tuyến.
Trong lĩnh vực y tế dự phòng, Nhật Bản đã hỗ trợ rất tích cực cho công tác tiêm chủng
mở rộng, góp phần đáng kể vào thành quả của ngành y tế như: thanh toán bại liệt, loại
trừ uốn ván sơ sinh, khống chế bệnh sởi, phòng và hạn chế lây nhiễm HIV/AIDS, các
dịch bệnh nguy hiểm như SARS, cúm A H5N, H1N1.
Đáng chú ý, Nhật Bản cũng đã giúp Việt Nam xây dựng nhà máy sản xuất vaccine sởi
hiện đại nhất Đông Nam Á năm 2006, sau đó chuyển giao cho Việt Nam năm 2009,
hiện cung cấp khoảng 2,5 triệu liều vaccine sởi/ năm cho chương trình tiêm chủng mở
rộng. Cuối tháng 5 này, dự án chuyển giao kỹ thuật sản xuất vaccine kết hợp Sởi –
Rubella sẽ tiếp tục được thực hiện, và cho tới năm 2018, vaccine kết hợp Sởi – Rubella
sẽ được đưa ra thị trường.



Mặt khác, đối với chương trình dự án vốn vay ưu đãi, Bộ Y tế đã triển khai dự án phát
triển bệnh viện tỉnh và bệnh viện vùng tại 3 tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hà Tĩnh tập
trung đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp trang thiết bị cho bệnh viện tỉnh. Giai đoạn 2,
bắt đầu triển khai tại 10 bệnh viện tỉnh, tổng kinh phí gần 90 triệu USD, góp phần tăng
cường chất lượng dịch vụ y tế. Hiện nay phía Việt Nam và Cơ quan hợp tác quốc tế
Nhật Bản JICA đang chuẩn bị đầu tư bệnh viện Chợ Rẫy 2, nguồn vốn ODA Nhật Bản.
+ Cấp thoát nước
Ngoài các lĩnh vực trên thì lĩnh vực cấp thoát nước cũng được Nhật Bản chú trọng
trong nhiều năm qua nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc
tế. Chính vì vậy, Nhật Bản đã, đang và sẽ hỗ trợ xây dựng mới hoặc cải tạo hệ thống
cung cấp nước, thoát nước và xử lý nước thải ở Việt Nam.
Dự án “Thoát nước Cải thiện Môi trường Hà Nội” 29,289 tỉ Yên mở rộng ra ngoài
phạm vi của sông Tô Lịch và tăng cường khả năng thoát nước ra sông Nhuệ, góp phần
giải quyết tình trạng úng ngập, cải thiện môi trường hiện nay ở Hà Nội và dự án
“Thoát nước Cải thiện Môi trường TP Hải Phòng” 21,306 tỉ Yên nâng cấp hệ thống
thoát nước và xử lý chất thải lỏng ở thành phố này. Mới đây, dự án xử lý nước thải Yên
Xá đã tiếp tục được phê duyệt đầu tư bằng nguồn vốn ODA của Nhật Bản với công
suất 270.000 m3/ngày đêm, sẽ thu gom và xử lý nước thải phục vụ khu vực có diện tích
4.874ha.
Ngoài ra,JICA còn tiến hành xây dựng hệ thống xử lý rác thải nhằm cải thiện môi
trường nước và nâng cấp hệ thống thoát nước tại Hà Nội và TP Hải Phòng. Một loạt
các công trình xử lý chất thải được thực hiện bằng nguồn vốn ODA như: Nhà máy xử
lý nước thải Bắc Thăng Long - Vân Trì, trạm xử lý nước thải Kim Liên, Trúc Bạch, hồ
Bảy Mẫu…
2.2. Đánh giá thực trạng thu hút ODA của Nhật vào VN
2.2.1. Thành tựu
Trong vòng 17 năm trở lại đây, nguồn vốn ODA Nhật Bản đã đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, thúc đẩy phát triển nông nghiệp nông
thôn xóa đói giảm nghèo, và đóng góp trong một số lĩnh vực xã hội của Việt Nam



Đóng góp cho phát triển kinh tế :


ODA Nhật Bản góp phần rất lớn thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta. Như ta đã biết, để tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
cần hội đủ rất nhiều yếu tố, trong đó có hai yếu tố vốn và kĩ thuật. Trong giai đoạn
1992 – 2007, tổng số vốn ODA Nhật Bản cam kết dành cho Việt Nam đạt khoảng 13 tỉ
USD, chiếm khoảng 30% tổng số khối lượng ODA của cộng đồng quốc tế cam kết
dành cho Việt Nam. Nhật Bản cũng là nước đứng đầu trong thực hiện và giải ngân
nguồn vốn này, với tổng số vốn thực hiện lên tới hơn 5,2 tỉ USD.
Ở Việt Nam, mô hình kinh tế công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu đã tạo cho nước ta
cơ hội phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, quá trình này ban đầu gặp không ít khó khăn
do sự yếu kém về cơ sở hạ tầng kinh tế, trong khi Việt Nam còn là một đất nước
nghèo, nhu cầu về xây dựng các cơ sở vật chất phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đối lập với khá năng đáp ứng nội tại của nền kinh tế. ODA của Nhật Bản cũng như
các nhà tài trợ khác, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: giao thông vận tải, bưu chính
viễn thông, năng lượng và công nghiệp – những lĩnh vực đòi hỏi vốn và kĩ thuật hết
sức tiên tiến, nhưng ngân sách Việt Nam còn hạn chế; khu vực tư nhân trong và ngoài
nước trong thời gian đầu phát triển thì không mặn mà bởi vốn cao mà thời gian thu hồi
vốn thì chậm, chưa kể đây là những lĩnh vực nhạy cảm, ảnh hưởng đến an ninh quốc
phòng nên gặp phải rào cản rất lớn từ phía Nhà nước. Những dự án lớn, những công
trình trong lĩnh vực giao thông và điện đã hoàn thành và đưa vào sử dụng góp phần tạo
điều kiện cho Việt Nam mở rộng tái sản xuất, tạo môi trường thuận lợi thu hút nguồn
vốn trong nước và vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế Việt Nam. Đó cũng là động lực mạnh mẽ cho sự tăng trưởng vượt bậc
của Việt Nam trong những năm gần đây
Bên cạnh việc cung ứng về vốn, các dự án ODA còn mang lại công nghệ, kĩ thuật hiện
đại, nghiệp vụ chuyên môn và trình độ quản lí tiên tiến. Hợp tác kĩ thuật là một bộ

phận của ODA Nhật Bản, được Chính phủ Nhật Bản đặc biệt coi trọng. Các chương
trình hợp tác kĩ thuật do Chính phủ Nhật Bản thực hiện tiến hành ở Việt Nam với rất
nhiều hình thức đa dạng đã góp phần chuyển giao, cải tiến trình độ công nghệ cũng
như tiếp thu công nghệ ở nước ta. Các dự án hợp tác kĩ thuật đã góp phần chuyển giao
công nghệ cho các kĩ sư, kĩ thuật viên, nhân viên y tế… của nước ta bằng cách cho họ
tham gia vào các dự án phát triển thuộc nhiều lĩnh vực cụ thể như nông nghiệp, lâm
nghiệp, đánh cá, y tế, nghiên cứu về dân số và kế hoạch hóa gia đình, dạy nghề và các


hoạt động nghiên cứu liên quan đến các lĩnh vực đó…Ngoài ra, các khảo sát về phát
triển được tiến hành nhằm kiểm tra lại khả năng thành công của các dự án từ các khía
cạnh kĩ thuật, kinh tế, tài chính – cũng góp phần vào việc cải tiến trình độ công nghệ
của nước ta. Nhìn chung, các dự án ODA của Nhật Bản vào Việt Nam đều có trình độ
công nghệ cao.
Bên cạnh việc hỗ trợ vốn và kĩ thuật, ODA Nhật Bản có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án
hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính hay hỗ trợ cải cách cơ cấu
kinh tế…Điều này giúp cải tạo môi trường đầu tư của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc
tế, từ đó thu hút được thêm vốn đầu tư nước ngoài. Đó là chưa kể việc Việt Nam mới
chỉ được coi là nền kinh tế đang chuyển đổi, chưa được công nhận là nền kinh tế thị
trường, điều luôn khiến các doanh nghiệp Việt Nam phải chịu thiệt thòi khi đứng trên
các sân chơi lớn. Việc cải cách cơ cấu kinh tế sẽ góp phần đắc lực trong việc rút ngắn
khoảng thời gian chuyển đổi này. Thêm vào đó, ODA Nhật Bản cũng đã góp phần bù
đắp một lượng lớn vốn cho thâm hụt ngân sách của nước ta. Theo tính toán của các
chuyên gia Nhật Bản bằng các biện pháp kinh tế lượng, trong khoảng 10 năm kể từ khi
nối lại viện trợ cho Việt Nam (1991-2001), ODA Nhật Bản đã góp phần tăng GDP của
Việt Nam thêm 1,57%, dự trữ tiền mặt lên 4,65%, nhập khẩu thêm 5,94% và xuất khẩu
thêm 3,84% trong năm 2000.
− Đóng góp đối với việc thúc đẩy nông nghiệp nông thôn và kết hợp với công
tác xóa đói giảm nghèo.

Thông qua các dự án lớn trong lĩnh vực này, ODA của Nhật Bản giúp cho nông dân
nghèo tiếp cận với các nguồn vốn để tạo ra các ngành nghề phụ, phát triển nông – lâm
ngư nghiệp, phát triển hạ tầng nông thôn như: giao thông, điện, nước sạch,…Qua đó,
đã góp phần hỗ trợ phát triển nông nghiệp và cải thiện một bước quan trọng đời sống
người dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong việc
tiếp cận tới các dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục. Số liệu điều tra mức
sống của người dân trong thời gian qua cho thấy tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 58% vào năm
1993 xuống còn 37% vào năm 1998, 18,1% vào năm 2004 và 14,8% vào năm 2007.
Kết quả này cho thấy Việt Nam đã vượt được mục tiêu phát triển thiên niên kỉ (MDGs)
đã cam kết với thế giới. Việt Nam được coi là một trong những nước thành công nhất


trong việc thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo. Và để đạt được điều đó thì không
thể không kể đến những đóng góp to lớn của Nhật Bản.
− Đóng góp đối với một số lĩnh vực xã hội
Nhờ lượng vốn lớn và hợp tác kĩ thuật đa dạng, ODA của Nhật đã góp phần vào sự
phát triển của ngành giáo dục đào tạo Việt Nam từ cấp trung ương đến địa phương, từ
giáo dục tiểu học đến đào tạo sau đại học. Nguồn vốn này đã giúp chúng ta, trước hết
là khắc phục được những khó khăn về cơ sở hạ tầng giáo dục, đồng thời tạo điều kiện
cho ngành giáo dục Việt Nam theo kịp và hòa nhập vào nền giáo dục của khu vực và
thế giới. Ngành giáo dục và đào tạo của chúng ta đã đưa ra được định hướng đào tạo,
nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ tiên tiến vào một số lĩnh vực chủ chốt
như: khoa học cơ bản, khoa học xã hội và nhân văn, kinh tế, nông lâm nghiệp, điện tử
viễn thông, tự động hóa, dược, môi trường,…Bên cạnh đó, một lượng lớn nguồn vốn
ODA được đầu tư vào lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là các
vùng sâu vùng xa đã góp phần trang bị lại cơ sở vật chất cho rất nhiều bệnh viện tuyến
từ trung ương đến địa phương, giải quyết những khó khăn trong việc chăm sóc, chữa
trị, đặc biệt là các bệnh xã hội và nâng cao sức khỏe cộng đồng, dân số kế hoạch hóa
gia đình. Nhờ đó mà chỉ số phát triển con người (HDI) cũng như chỉ số phát triển quốc
gia của Việt Nam đều được cải thiện. HDI đã tăng từ 0,646 năm 1995 lên 0,691 năm

2003, đứng thứ 112 trong tổng số 177 nước được xếp hạng. Điều này phản ánh những
thành tựu đạt được trong các lĩnh vực phát triển con người chủ chốt như mức sống, y
tế và giáo dục.
Ngoài ra, như đã đề cập ở trên, việc hỗ trợ Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng và tăng
cường cải cách cơ cấu hành chính, pháp luật khiến cho môi trường đầu tư của Việt
Nam ngày càng trở nên hấp dẫn. Ngày càng nhiều luồng vốn FDI từ nước ngoài đổ
vào Việt Nam, trong đó đặc biệt là của các công ty Nhật Bản, đã taoh ra một số lượng
lớn việc làm cho dân cư. Tính đến hết năm 2003, các doanh nghiệp FDI của Nhật Bản
đã tạo ra công ăn việc làm cho khoảng 39.000 người lao động Việt Nam. Đây là một
trong những tác động to lớn của ODA Nhật Bản đối với Việt Nam
2.2.2. Hạn chế
Nâng cao hiệu quả sử dụng ODA là một trong những vấn đề quan trọng mà Việt Nam
phải giải quyết. Một trong những nguyên nhân chính của việc sử dụng ODA chưa có
hiệu quả là nhận thức và hiểu về bản chất của ODA chưa được chính xác và đầy đủ


trong quá trình huy động và sử dụng. Nhận thức cho rằng ODA là cho không và trách
nhiệm trả nguồn vốn vay ODA thuộc về Chính phủ. Nhận thức sai lệch như vậy dẫn
đến tình trạng kém hiệu quả trong việc thực hiện một số chương trình và dự án ODA.
Thực tế, mặc dù hầu hết ODA là dưới dạng các khoản vay ưu đãi với lãi suất thấp, thời
gian trả nợ và ân hạn dài, ODA không phải là thứ cho không và việc sử dụng ODA là
một sự đánh đổi. Nếu sử dụng ODA không hiệu quả, gánh nặng trả nợ sẽ tăng lên.
• Tốc độ giải ngân
Tỉ lệ giải ngân ODA ở Việt Nam vẫn còn thấp. Từ năm 1993 đến 2006, vốn ODA đã
giải ngân là 15,9 tỉ USD, chỉ chiếm 42,9% tổng số ODA cam kết (32 tỉ USD). Tỉ lệ
giải ngân bình quân chỉ khoảng 50% trong những năm gần đây. Tỉ lệ giải ngân bình
quân của Việt Nam cũng thấp hơn của các nước ASEAN. Tỉ lệ ODA trong GDP của
Việt Nam dao động từ 3,5% đến 4,5%, thấp hơn một số nước có cùng trình độ phát
triển kinh tế


Nhà tài trợ

Tỉ lệ giải ngân bình quân
của một số nước ASEAN
(%)

Tỉ lệ giải ngân bình quân
của Việt Nam (%)

Ngân hàng thế giới
18%/năm
15%/năm
Ngân hàng phát triển Châu
20%/năm
18%/năm
Á
Nhật Bản (JBIC)
15%/năm
9,3%/năm
Tỉ lệ giải ngân vốn ODA của Việt Nam và một số nước ASEAN giai đoạn 2001-2005
(Nguồn MPI)
Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa để đẩy nhanh tiến độ giải ngân ODA vì so với sự
tăng lên của vốn cam kết mỗi năm, kết quả đạt được còn xa với mong đợi. Theo dự
đoán của các chuyên gia Ngân hàng phát triển Châu Á, nếu Việt Nam cải thiện được tỉ
lệ giải ngân ODA, tốc độ tăng trưởng GDP có thể tăng từ mức 8 – 8,4% như hiện tại
lên tới 9% thì Việt Nam có thể trở thành nước có mức thu nhập trung bình vào năm
2009, sớm hơn mục tiêu là năm 2010.
Có một vài nguyên nhân giải thích vì sao ODA lại giải ngân chậm ở Việt Nam:



Thứ nhất: thông thường phải mất một thời gian dài để các chương trình và dự
án ODA được triển khai. Khoảng 50% nguồn vốn ODA ở Việt Nam được dành cho các
dự án cơ sở hạ tầng, lĩnh vực cần nhiều thời gian hơn để tiến hành và thậm chí kết thúc
chậm hơn từ 3 đến 5 năm so với các dự án ở các lĩnh vực khác (trong các khâu đền bù,
giải phóng mặt bằng; chất lượng nhà thầu; lựa chọn tư vấn ở các khâu của dự án). Điều
này đã dẫn đến việc giải ngân chậm. Một số nước đang phát triển khác, chẳng hạn như
một số nước ở Châu Phi, chỉ sử dụng một phần ba nguồn vốn ODA cho các dự án cơ
sở hạ tầng và có tỉ lệ giải ngân cao hơn.
Thứ hai: năng lực quản lí và giám sát thực hiện dự án chương trình ODA của
Việt Nam còn hạn chế và bất cập, đặc biệt là khi có sự tham gia của chính quyền địa
phương.
Thứ ba: khuôn khổ pháp lý về quản lý và sử dụng vốn ODA chưa đồng bộ và
việc hiểu các văn bản này cũng không thống nhất. Hơn nữa, sự khác nhau trong nhận
thức giữa các đối tác Việt Nam và các nhà tài trợ còn lớn, làm hạn chế việc thực hiện
các dự án. Trong Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ gần đây (2007), các nhà tài trợ cho
Việt Nam đã khẳng định rằng việc giải ngân ODA sẽ được cải thiện mạnh mẽ nếu cách
thức thực hiện của Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ hài hòa được với nhau.
Có những ví dụ rất khó tin về vấn đề trên: Đơn cử như việc tranh luận về cao độ đặt bệ
trụ của cầu (thuộc dự án 44 cầu tuyến Thống Nhất) đã mất tới 8 tháng trời. Theo phía
Nhật Bản, bệ trụ nên đặt thấp, dưới lòng sông để đảm bảo thông thoáng dòng chảy,
những cơ quan thẩm định ở Tổng công ty Đường sắt Việt Nam lại dứt khoát không
đồng ý vì cho rằng rất khó đảm bảo an toàn khi vừa thi công vừa chạy tàu.
• Năng lực quản lý và tình trạng thất thoát
Cơ cấu tổ chức và năng lực cán bộ trong công tác quản lý và thực hiện ODA còn yếu
và chưa đáp ứng những yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả ODA. Theo bảng xếp hạng
về cảm nhận tham nhũng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế công bố tháng 9 năm 2008,
trong 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt Nam xếp tới thứ 121. Sự thất thoát và tham
nhũng ở dự án PMU18, những dự án lớn trong lĩnh vực dầu khí, vụ hối lộ PCI vừa qua
là những ví dụ về hạn chế trong quản lý và theo dõi ODA. Thách thức về đảm bảo sự
minh bạch và trách nhiệm trong quản lí ODA từ phía Việt Nam đang là một vấn đề hết

sức cấp thiết.


Vụ hối lộ quan chức Việt Nam của công ty PCI (Pacific Consultant International,
viết tắt PCI, công ty Tư vấn Quốc tế Thái Bình Dương, Nhật Bản) là vụ việc nổi đình
đám trong năm 2008 tại Việt Nam, liên quan đến việc đưa hối lộ của một số quan chức
công ty PCI Nhật Bản với Ban quản lý dự án PMU tại thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể
là ông Huỳnh Ngọc Sỹ, Phó giám đốc Sở giao thông Công chính Thành phố Hồ Chí
Minh kiêm Giám đốc Ban quản lý PMU Đông – Tây.
Sự kiện PCI đã gây một cú sốc lớn trong dư luận Nhật. Ngay cả những người dân
bình thường ở Nhật cũng biết. Có lẽ nhiều người Nhật đã bàng hoàng khi thấy trong
vụ PCI số tiền chi tiêu bất chính quá lớn (chỉ một dự án mà số tiền bất chính lên tới
820.000 đô la) và nhất là tiền hối lộ đó được cho là đưa cho quan chức của một nước
mà GDP đầu người mới là 850 đô la.
Nhật đã phải đi đến quyết định tạm ngừng cấp ODA cho Việt Nam trong năm 2009,
đồng thời đóng băng lượng tài trợ khoảng 700 triệu đô la đã cấp trong 2008. Hầu hết
nguồn vốn này tập trung cho các cơ sở dự án hạ tầng quan trọng. Sự kiện này làm xấu
đi hình ảnh đất nước Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế.
Sau đó, ủy ban hỗn hợp Việt Nam – Nhật Bản phòng chống tham nhũng liên quan
tới ODA Nhật Bản đã được thành lập. Trước thái độ của Chính phủ Việt Nam trong
chống tham nhũng và xử lí nghiêm khắc các hành vi vi phạm liên quan đến các cá
nhân của Việt Nam, ngày 23/02/2009, Nhật Bản mới quyết định nối lại ODA cho Việt
Nam.
• Phân cấp
Phân cấp trong quản lý và sử dụng ODA đã được thực hiện và thu được những kết quả
quan trọng như mở rộng đối tượng hưởng thụ và nâng cao quyền tự chủ của chính
quyền địa phương. Tuy nhiên, việc phân cấp ODA chưa đáp ứng được những yêu cầu
của đổi mới quản lý nguồn lực công. Chính sách phân cấp trong quản lý và sử dụng
ODA chưa có sự thống nhất giữa trung ương và địa phương. Những hạn chế về năng
lực của đội ngũ cán bộ ở địa phương trong chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ cũng

là nhân tố làm hạn chế việc phân cấp và sử dụng hiệu quả nguồn vốn này. Sự phối hợp
kém giữa chính quyền trung ương và địa phương, giữa chính quyền địa phương và các
nhà tài trợ đã dẫn tới sự chậm trễ trong quá trình thiết kế và thực hiện dự án. Tình
trạng này cũng dễ dẫn đến việc sử dụng ODA lãng phí và kém hiệu quả. Để nâng cao


hiệu quả sử dụng ODA, cần phải đầu tư nhiều hơn vào việc xây dựng năng lực cho
quản lý và điều hành ở địa phương.


Trả nợ

Vấn đề trả nợ ODA cũng cần được đặt ra từ bây giờ. Ở Việt Nam, việc huy động ODA
mới chỉ tập trung vào việc thu hút càng nhiều ODA với các điều kiện dễ dàng, tuy
nhiên nguồn lực và khả năng trả nợ vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Theo số liệu
từ MPI, tổng nợ của Việt Nam hiện nay khoảng hơn 22 tỷ USD và chiếm khoảng 37%
GDP. Với mức nợ an toàn là 40% GDP theo như khuyến cáo của IMF, khả năng vay
nợ của Việt Nam không còn nhiều. Do vậy, Việt Nam cần quan tâm đến nguồn trả nợ
và vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng ODA trở nên quan trọng cho việc trả nợ ODA

2000
Tổng nợ
(Tỷ USD)
GDP (%)

2001

2002

2003


2004

2005

2006

11,8
11,9
11,8
13,3
16,7
39,0
37,4
34,0
34,1
36,8
Tổng các khoản nợ của Việt Nam (Nguồn MPI)

18,9
35,8

22,2
36,6

Qua việc đánh giá thực trạng thu hút ODA Nhật Bản vào Việt Nam, có thể thấy,
nhìn chung, Việt Nam đã thu hút và sử dụng ODA Nhật Bản khá hiệu quả. Tuy nhiên,
chúng ta cũng gặp phải những vấn đề không nhỏ dẫn đến thu hút chưa xứng đáng với
tiềm năng, thậm chí gây ra tình trạng lãng phí với nguồn vốn này.



×