Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Đảng bộ quận cầu giấy lãnh đạo đổi mới, kiện toàn HTCT phường trong giai đoạn hiện nay LV ths XDDCQNN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 128 trang )

CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CCB

Cựu Chiến binh

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ĐCT

Đảng chính trị

HTCT

Hệ thống chính trị

HĐND

Hội đồng nhân dân

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

UBND



Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


2

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Tổng kết 25 năm đổi mới, 20 thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã héi, 10 năm thực hiện Chiến lược phát
triển kinh tế- xã hội (2001-2011), Đại hội XI của Đảng đã rút ra 5 bài học
kinh nghiệm, trong đó có bài học về sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân
tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện
mới, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, trong đó có lĩnh vực chính trị mà nội dung cốt lõi là tiếp tục đæi mới,
kiện toàn HTCT, là đòi hỏi khách quan và cấp bách bảo đảm cho đổi mới
chính trị tương thích với đổi mới kinh tế; giữ vững ổn định chính trị một cách
tích cực cho sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH trong bổi cảnh toàn
cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo HTCT, đồng thời là bộ
phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu
sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Trong thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, HTCT, nhất là HTCT cấp
cơ sở đã có nhiều đổi mới, dân chủ XHCN, bản chất của chế độ ta, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước, từng bước được thực hiện

trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực, tạo động lực to lớn
cho phát triển và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, nhất là ở cơ sở,
HTCT còn nhiều bất cập chưa thực sự tạo động lực cho phát triển, nhất là
phát triển kinh tế: Tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và đoàn thể
chính trị - xã hội chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối
quan hệ chưa rõ ràng. Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm; thiếu cơ chế,
chính sách cụ thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát


3

hiện và sử dụng người tài; chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình
đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn
là khâu yếu. Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và hiệu quả
hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội chưa nâng kịp với đòi hỏi của
tình hình nhiệm vụ mới; cơ cấu tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chưa phù hợp;
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của HTCT chưa tương xứng với yêu
cầu của nhiệm vụ. Trong đó, HTCT cấp xã (xã, phường, thị trấn) hiện nay còn
nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực
hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, vi phạm
quyền làm chủ của dân còn khá phổ biến. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ
phận trong HTCT chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ; nội
dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế
tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng;
chính sách đối với cán bộ cơ sở chưa thoả đáng. Nghị quyết số 12-NQ/TW
Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đã chỉ rõ: « Một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể
cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá

nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục
bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc... Đội ngũ cán bộ cấp Trung
ương, cấp chiến lược rất quan trọng nhưng chưa được xây dựng một cách cơ
bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa phương, chưa
thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng
bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số trường
hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu
công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ


4

quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước ». Đã đến lúc
cần nhận thức lại và tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng trong đổi mới,
kiện toàn HTCT nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN,
thực hiện tốt hơn nữa quyền dân chủ của nhân dân.
Quận Cầu Giấy là một trọng quận mới được thành lập (1997).Mặc dù
vậy, trong quá trình xây dựng và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ
thành phố Hà Nội mà trực tiếp là Đảng bộ quận, HTCT phường đã có những
đổi thay vượt bậc: hệ thống tổ chức Đảng, Chính quyền, MTTQ các đoàn thể
chính trị- xã hội từng bước được kiện toàn; sự phối hợp giữa các tổ chức của
HTCT phường trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị ngày càng gắn bó hơn,
hiệu quả hơn; phương thức hoạt động của mỗi thành tố cũng như của cả hệ
thống từng bước được đổi mới theo hướng dân chủ, hiệp thương và hiệu quả;
pháp lệnh dân chủ cơ sở ngày càng được thực thi, quyền làm chủ của nhân
dân ngày càng được phát huy. Tuy nhiên, HTCT phường vẫn còn bộc lộ khá
nhiều những yếu kém, hạn chế cần được nhận thức đúng và có giải pháp tháo
gỡ kịp thời, hiệu quả, nhất là trong việc thể chế hoá chủ trương của thành phố
và của quận thành chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, giữ gìn
trật tự xã hội, an ninh quốc phòng và quản lý đô thị. Tất nhiên, trong quá trình

đổi mới, kiện toàn HTCT sự lãnh đạo toàn diện của Đảng luôn được giữa
vững và tăng cường, song sự nhanh nhạy, sáng tạo trong xử lý những tình
huống chính trị vẫn còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nhận thức lại và giải
quyết thiết thực hơn.
Mặc dù, vấn đề đổi mới HTCT phường cũng đã có không ít sự chú ý và
quan tâm của các cấp lãnh đạo và của các nhà khoa học, song đối với những
quận mới được thành lập như quận Cầu Giấy, việc nghiên cứu có hệ thông để
từ đó đề xuất những giải pháp toàn diện nhằm tiếp tục đổi mới, kiện toàn
HTCT phường, bảo đảm mở rộng và phát huy quyền dân chủ của nhân dân vấn


5

đang còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, nếu không muốn nói vẫn là
khoảng trống. Chính vì vậy, là cán bộ sở tại, có nhiều năm gắn bó với quận, tác
giả đã quyết định lựa chọn và thực hiện đề tài: Đảng bộ quận Cầu Giấy lãnh
đạo đổi mới, kiện toàn HTCT phường trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời
với việc hoàn thành đề tài luận văn này, tác giả xem đây vừa là trách nhiệm của
bản thân, vừa là nghĩa vụ, quyền lợị và hy vọng góp một phần nhỏ trong công
cuộc đổi mới, phát triển quận Cầu Giấy thành một trong những điểm sáng của
Thủ đô.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam trong những năm qua, vấn đề HTCT nói chung và HTCT
các cấp từ Trung ương đến cơ sở (cấp xã) nói riêng đã được nhiều nhà lý luận,
nhà khoa học, nhà quản lý ở cấp Trung ương và cấp cơ sở quan tâm nghiên
cứu. Trong đó mảng đề tài về sự lãnh đạo của đảng đối với HTCT nói chung,
HTCT phường xã nói riêng cũng được sự quan tâm nghiên cứu và có những
đóng góp đáng kể cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Theo nội dung liên
quan đến đề tài, có thể tóm tắt một số tình hình nghiên cứu đó, như sau:
* Các công trình nghiên cứu về HTCT

Về vấn đề này nổi nên một số công trình tiêu biểu sau:
- TS. Lưu Minh Trị, “Đổi mới và kiện toàn HTCT ở cơ sở nông thôn
ngoại thành Hà Nội (cấp xã) trong giai đoạn hiện nay”, Nxb hà Nội, năm
1993. Đây là một trong những công trình nghiên cứu về HTCT ở cơ sở Hà
Nội những năm đầu đổi mới. Công trình phác họa những nét cơ bản về đặc
điểm, thực trạng HTCT cơ sở ngoại thành Hà Nội; đề xuất đổi mới, kiện toàn
HTCT cấp cơ sở nông thôn nghoại thành Hà Nội trong giai đoạn mới.
- GS. Nguyễn Đức Bình, GS, PTS. Trần Ngọc Hiên, GS. Đoàn Trọng
Truyến, TS Nguyễn Văn Thảo, PGS, PTS. Trần Xuân Sầm (đồng chủ nhiệm),
“Đổi mới và tăng cường HTCT ở nước ta trong giai đoạn mới”, Nxb Chính trị


6

Quốc gia, Hà Nội, 1999. Đây là công trình nghiên cứu khá toàn diện về
HTCT nước ta giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Công trình nghiên cứu
làm rõ những vấn đề lý luận về HTCT, khái niệm, bản chất, đặc điểm, cấu
trúc...của HTCT; khảo sát thực trạng HTCT và đề xuất những quan điểm, giải
pháp đổi mới tăng cường HTCT nước ta trong giai đoạn mới. Đề tài có ý
nghĩa lý luận, thực tiễn, góp phần định hướng cho công tác nghiên cứu, xây
dựng HTCT ở nước ta.
- PGS, TS. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), “HTCT cấp cơ sở và dân
chủ hoá đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
Công trình khoa học đã nghiên cứu một cách khá bài bản về HTCT cấp cơ sở
vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc nước ta; trên cơ sở đó tìm hiểu mối
quan hệ giữa HTCT và dân chủ hóa xã hội, từ đó đề xuất giải pháp đổi mới
HTCT nhằm thực hiện và phát huy dân chủ hóa xã hội nông thôn vùng dân
tộc thiểu số miền núi phía Bắc nước ta.
- Nguyễn Tiến Thuận, “Kiện toàn HTCT ở Thanh Hoá trong giai đoạn

hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành
Chủ nghĩa Cộng sản khoa học, năm 2002. Mặc dù chỉ là luận văn thạc sỹ song
tác giả cũng có một số đóng góp đáng kể trong việc phác họa những nét đặc
thù của HTCT « xứ Thanh » rất tiêu biểu và đã đưa ra những kiến nghị góp
phần hoàn thiện HTCT cấp tỉnh.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá IX
về “ Đổi mới và nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở xã, phường, thị trấn”,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
- TS. Vũ Hoàng Công HTCT cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và giải pháp,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- GS, TS. Lê Hữu Nghĩa (chủ nhiệm): « Đổi mới các quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong HTCT ở Việt Nam", 2006. Đề


7

tài KX.10 – 03. Đây là kết quả nghiên cứu của đề tài cấp nhà nước đã được
công bố. Công trình khoa học này đã nghiên cứu một cách toàn diện cả cơ sở lý
luận và thực tiễn quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
trong HTCT ở Việt Nam; trên cơ sở đó đề xuất quan diểm, giải pháp đổi mới
các quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong HTCT
ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
- GS, TS. Đào Trí óc chủ nhiệm, "Xây dựng cơ chế pháp lý bảo đảm
sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng,
Nhà nước và các thiết chế tổ chức trong HTCT”, Đề tài KX.10 - 07, Hà
Nội, năm 2006; Đề tài khoa học là công trình độ sộ nghiên cứu một cách
khá tổng quát, toàn diện về cơ chế pháp lý bảo đảm sự kiểm tra, giám sát
của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước và các thiết
chế tổ chức trong HTCT. Trên cơ sở đó công trình đề xuất những giải pháp
xây dựng dựng cơ chế pháp lý bảo đảm sự kiểm tra, giám sát của nhân dân

đối với hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước và các thiết chế tổ chức
trong HTCT.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá X
về “ Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với của HTCT”
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2007.
- Võ Trọng Khoa,“Hoàn thiện HTCT ở cơ sở nông thôn trên địa bàn
tỉnh Kon Tum hiện nay”, Luận văn thạc sĩ khoa học chuyên ngành Chính trị
học, năm 2007. Luận văn tập trung làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng HTCT ở
cơ sở nông thôn trên địa bàn tỉnh Kon Tum, từ đó đề xuất giải pháp đổi mới,
hoàn thiện HTCT ở cơ sở nông thôn.
- PGS, TS. Lê Minh Thông (chủ biên), Cơ sở lý luận về tổ chức và
hoạt động của HTCT trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. Công trình tập trung phân


8

tích cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của HTCT trong quá trình xây
dựng CNXH ở nước ta; trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp đổi mới,
kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt động của HTCT nước ta trong
giai đoạn mới.
- GS, VS Nguyễn Duy Quý (chủ biên) “HTCT nước ta thời kỳ đổi mới”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008; Công trình khoa học làm rõ quá trình
phát triển lý luận của Đảng ta về HTCT; nhận diện HTCT nước ta, bản chất,
đặc trưng và thực trạng; từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp xây dựng, hoàn
thiện HTCT nước ta trong thời kỳ đổi mới.
- TS Trịnh Thị Xuyến (chủ biên) “Kiểm soát quyền lực nhà nước - một
số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội 2008. Công trình khoa học làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm soát
quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN;

phân tích những hình thức, nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước và đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng việc kiểm soát quyền lực Nhà nước
ta trong giai đoạn hiện nay.
- GS,TS. Dương Xuân Ngọc, “Tiếp tục đổi mới, kiện toàn HTCT nước
ta trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2010. Đây là công trình
chuyên sâu phân tích về đặc trưng HTCT Việt Nam thời kỳ đổi mới, đề xuất
những giải pháp tiếp tục đổi mới HTCT nhằm tạo ra sự tương thích giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị đáp ứng yêu cầu phát triển, trước hết là phát
triển kinh tế và dân chủ hóa xã hội.
Nhìn chung, các công trình, bài viết nói trên đã luận giải các vấn đề
như khái niệm; cấu trúc, nội dung, quan điểm, nguyên tắc và phương
hướng; mục đích và giải đổi mới HTCT ở nước ta trong thời kỳ phát triển
mới của đất nước nhằm thực hiện tốt nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền
lực thuộc về nhân dân.


9

* Các công trình về Đảng lãnh đạo đổi mới, kiện toàn HTCT và
HTCT phường:
- GS, TS. Phạm Ngọc Quang: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội, Tạp chí Cộng sản (số 5), 2004. Công trình khoa
học tập trung giải quyết trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn về phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, từ đó đề xuất giải pháp
tiếp tục đổi mới có hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
và xã hội trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.
- GS, TS. Hoàng Chí Bảo: Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền lãnh
đạo nhà nước và xã hội trong sự nghiệp đổi mới- Một số vấn đề đặt ra, Tạp chí
Cộng sản (17), 2006. Công trình khoa học tập trung làm rõ vai trò của Đảng
Cộng sản Việt Nam cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội sự nghiệp đổi mới

và đề xuất những giải pháp nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
- GS, TS. Mạch Quang Thắng; Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, 2001. Bài viết luận giải về
nguồn gốc sự cầm quyền của Đảng, do sự ủy thác của nhân dân; những điều
kiện bảo đảm cho sự cầm quyền của Đảng, nâng cao tầm trí tuệ, kiên định,
sáng tạo hơn nữa chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng phải
trong sạch, vững mạnh, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với HTCT và xã hội.
- Nguyễn Văn Biết: Đổi mới sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với các cơ quan
Nhà nước cấp tỉnh trong điều kiện nước ta hiện nay, luận án tiến sỹ Chính trị
học, Hà Nội, 2007. Luận án tiến sỹ của tác giả tập trung làm rõ cơ sở lý lận,
thực trạng sự lãnh đạo của tỉnh ủy đối với các cơ quan Nhà nước cấp tỉnh, từ đó
đề xuất phương hướng, giải pháp tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của tỉnh ủy đối
với các cơ quan Nhà nước cấp tỉnh ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.


10

- Trần Quang Cảnh: Đổi mới phương thức lãnh đạo của huyện uỷ đối với
chính quyền huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn hiện nay, luận văn thạc
sỹ Khoa học chính trị, Hà Nội, 2007. Luận văn tập trung làm rõ cơ sở lý luận,
thực trạng phương lãnh đạo của huyện ủy đối với chính quyền huyện Mê Linh,
từ đó đề xuất giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của huyện
ủy đối với chính quyền huyện trong giai đoạn hiện nay.
- GS, TS. Lê Hữu Nghĩa, GS. TS Hoàng Chí Bảo, PGS. PTS Bùi Đình
Bôn: Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị- xã hội
trong HTCT ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. Công trình
khoa học này tập trung giải quyết trên cả hai bình diện- lý luận và thực tiễn
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị ở Việt Nam, từ đó đề

xuất những quan điểm, giải pháp đổi mới mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
các tổ chức chính trị nhằm từng bước kiện toàn HTCT, hoàn thiện nền dân chủ
XHCN bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân.
- PGS, TS. Trần Đình Hoan: Quan điểm và nguyên tắc đổi mới HTCT ở
Việt Nam giai đoạn 2005- 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. Công
trình này của tác giả có tính tổng kết thực tiễn quá trình đổi mới HTCT Việt
Nam từ đó đề xuát những quan điểm và nguyên tắc bảo đảm cho cho công cuộc
đổi mới HTCT giai đoạn 2005- 2020 đúng định hướng XHCN và tạo điều kiện
cho phát triển kinh tế- xã hội.
- GS, TS. Trần Ngọc Hiên: Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng, Tạp chí Lý luận chính trị (số 2),2010. Bài viết tập trung làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn, nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm
quyền của Đảng trong gia đoạn hiện nay.
- GS, TS. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên): Đảng Cộng sản cầm quyền,
nội dung và phương thức cầm quyền của đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2010. Đây không chỉ là công trình khoa học nhằm luận giải những vấn đề lý


11

luận về Đảng Cộng sản cầm quyền, mà hơn thế nữa còn phân tích sâu sắc nội
dung, phương thức cầm quyền của Đảng; đánh giá thực trạng phương thức cầm
quyền của Đảng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; phân tích những điều
kiện và yêu cầu đảm bảo sự cầm quyền của Đảng; đề xuất những giải pháp đổi
mới phương thức cầm quyền của Đảng.
- PSG, TS. Nguyễn Viết Thông: Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng thể
hiện trong các văn kiện Đại hội XI, tạp chí Tuyên giáo, (sô 10), 2011.Trên cơ
sở khẳng định những điểm mới trong tư duy lý luận của Đảng về vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong Đại hội XI, tác giả đề xuất
những định hướng bảo đảm và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam trong giai đoạn mới.
- PGS, TS. Đỗ Ngọc Ninh (chủ nhiệm): Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các Đảng bộ phường ở Thủ đô Hà Nội trong giai đoạn hiện
nay. Đây là công trình của tập thể tác giả đi sâu làm rõ cơ sở lý luận và thực
trạng về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ phường ở thủ đô Hà
Nội, từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng bộ phường của thu đô trong giai đoạn hiện nay.
- PGS, TS. Dương Xuân Ngọc (chủ biên) Đổi mới mối quan hệ giữa
Đảng, Chính quyền và các đoàn thể nhân dân cấp phường trong điều kiện
kinh tế thị trường Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Đây là công trình
nghiên cứu về quan hệ giữa Đảng, chính quyền và các đoàn thể cấp phường ở
nước ta trong điều kiện mới- phát triển kinh tế thị trường; đánh giá thực trạng
mối quan hệ và đề xuất quan điểm và giải pháp tiếp tục đổi mới mối quan hệ
giữa Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân cấp phường trong điều kiện
kinh tế thị trường.
Đánh giá chung: Các công trình nghiên cứu đã tiếp cận sự lãnh đạo của
Đảng đối với HTCT nói chung, HTCT phường nói riêng và kết quả của các


12

công trình nghiên cứu trên có giá trị tham khảo và phục vụ tốt việc nghiên
cứu và thực tiễn đổi mới, kiện toàn HTCT, trong đó có HTCT phường. Tuy
nhiên, các công trình trên chưa tập trung làm rõ những vấn đề:
- Cơ sở lý luận về sự lãnh đạo của Đảng đối với HTCT nói chung, sự
lãnh đạo của Đảng bộ quận trong đổi mới HTCT phường nói riêng.
- Thực trạng sự lãnh đạo của Đảng bộ quận Cầu Giấy trong đổi mới,
kiện toàn HTCT phường trong thời gian qua.
- Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng
bộ cấp quận trong đổi mới, kiện toàn HTCT phường đáp ứng yêu cầu phát triển

kinh tế và dân chủ hoá xã hội trong giai đoạn hiện nay. Chính sự thiếu hụt này
đã gợi mở cho tác giả lựa chọn và thực hiện đề tài: Đảng bộ quận Cầu Giấy
lãnh đạo đổi mới, kiện toàn HTCT phường trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu đã có được, nghiên cứu
đề tài này, tác giả mong muốn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề còn thiếu
hụt nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về Đảng lãnh đạo HTCT và đánh
giá đúng thực trạng vai trò lãnh đạo của Đảng bộ quận Cầu Giấy, thành phố Hà
Nội trong đổi mới, kiện toàn HTCT phường trên địa bàn quận, luận văn đề xuất
quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ quận
trong đổi mới, kiện toàn HTCT phường đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và dân
chủ hoá xã hội trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau:
- Khái quát một số vấn đề lý luận về Đảng lãnh đạo HTCT nói chung, vai
trò của các cấp ủy Đảng trong đổi mới, kiện toàn HTCT phường.


13

- Đánh giá thực trạng vai trò lãnh đạo của Đảng bộ quận Cầu Giấy
trong đổi mới, kiện toàn HTCT phường trên địa bàn quận.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng bộ quận Cầu Giấy trong đổi mới, kiện toàn HTCT phường trên địa bàn
quận đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và dân chủ hoá xã hội trong giai đoạn
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu:Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ quận Cầu giấy
trong đổi mới, kiện toàn HTCT phường trên địa bàn quận.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung:Theo sự phân cấp hành chính bốn cấp, tổ chức Đảng ở
nước ta bao gồm: Tổ chức đảng Trung ương; tổ chức đảng cấp tỉnh, thành; tổ
chức đảng cấp huyện, quận, thị xã và tổ chức đảng cấp cơ sở- xã, phưởng, thị
trấn, luận văn tập trung nghiên cứu vai trò lãnh đạo của Đảng bộ quận trong
đổi mới, kiện toàn HTCT phường trên địa bàn quận.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu chủ yếu về vai trò lãnh đạo của Đảng
bộ quận Cầu Giấy trong đổi mới, kiện toàn HTCT phường trên địa bàn quận.
- Về thời gian: Luận văn tập trung khảo sát vai trò lãnh đạo của Đảng
bộ quận Cầu Giấy đối với HTCT phường từ khi thành lập quận (1997) đến
nay, chủ yếu từ sau Đại hội lần thứ XI.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng về Đảng Cộng sản cầm quyền, về HTCT cấp cơ
sở và vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng, đổi mới, kiện toàn HTCT cấp
cơ sở để giải quyết những vấn đề do luận văn đặt ra.
- Phương pháp nghiên cứu: trên cơ sở cách tiếp cận từ giác độ chuyên
ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, luận văn sử dụng phương


14

pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm nền tảng. Trên cơ sở đó,
luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích tài liệu;
khảo sát thực tiễn, điều tra, phân tích, tổng hợp, so sánh; kết hợp lôcgíc và
lịch sử, khái quát hoá...
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm một số nhận thức chung về vai trò lãnh đạo

của Đảng nói chung, của Đảng bộ quận nói riêng trong đổi mới, kiện toàn
HTCT phường.
- Luận văn góp phần làm sáng rõ đặc trưng cơ bản của HTCT phường;
yêu cầu đổi mới, kiện toàn HTCT phường trong điều kiện mới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo,
phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành Xây dựng Đảng và
Chính quyền nhà nước, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, Chính trị
học ở các bậc đào tạo khác nhau, đặc biệt giúp các cấp uỷ đảng trong nhận
thức và giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra về vai trò lãnh đạo của
Đảng trong đổi mới, kiện toàn HTCT.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phục lục,
luận văn gồm 3 chương và 8 tiết, 109 trang.


15

Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ QUẬN TRONG ĐỔI MỚI, KIỆN TOÀN
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ PHƯỜNG
1.1. Đảng lãnh đạo HTCT
1.1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm đảng chính tri: Đảng chính trị là một hiện tượng đặc thù
của xã hội được phân chí thành giai cấp và được tổ chức thành nhà nước.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đặc biệt trong xã hội đương đại,
ĐCT ngày càng khẳng định vai trò to lớn trong hệ thống tổ chức quyền lực,
trực tiếp tập hợp lực lượng, lãnh đạo đấu tranh giai cấp vì mục tiêu giành, giữ,
sử dụng quyền lực nhà nước và định hướng chính trị cho phát triển xã hội và
bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền.

Trong đời sống xã hội hiện nay, ĐCT tồn tại dưới nhiều hình thức khác
nhau và được tổ chức và thực hiện quyền lực theo các phương thức khác
nhau. Tuỳ theo cách tiếp cận mà có những định nghĩa khác nhau về ĐCT. Có
thể kể đến một số định nghĩa sau:
Theo nhà nghiên cứu người Pháp M. Duverger, ĐCT là tổ chức của
những người tự nguyện, được lập ra để tranh cử vào các cơ quan công quyền
[25, tr.25]
Theo Jay M. Shafrits, tác giả cuốn Từ điển Chính quyền và chính trị
Hoa Kỳ, ĐCT là tổ chức tìm cách nắm quyền lực chính trị bằng cách bầu
thành viên của mình vào các cơ quan nhà nước, nhờ đó, tư tưởng chính trị của
họ được phản ánh trong chính sách công [25, tr.26]
Theo từ điển Bách khoa Triết học (Liên Xô cũ), ĐCT là một tổ chức
chính trị thể hiện những lợi ích của một giai cấp, hay một tổ chức xã hội, liên
kết những đại diện ưu tú nhất của giai cấp để lãnh đạo giai cấp đạt tới mục
đích, lý tưởng nhất định.


16

Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, ĐCT được xem là bộ phận
tích cực nhất và có tổ chức của một giai cấp, làm công cụ đấu tranh cho lợi
ích của giai cấp mình.
ĐCT là một tổ chức xã hội tự nguyện, liên minh của những người cùng
tư tưởng, theo đuổi những mục đích chính trị nhất định; cố gắng giành ảnh
hưởng lãnh đạo đối với đời sống chính trị và tổ chức xã hội, ra sức giành và
giữ chính quyền để thực hiện đường lối của mình. Là một bộ phận cấu thành
của kiến trúc thượng tầng, ĐCT hành động bằng thuyết phục, truyền bá các
quan điểm tư tưởng, bằng cách tập hợp những người cùng chí hướng. Tùy
theo giai cấp đóng vai trò như thế nào trong đời sống và trong sự phát triển xã
hội (vai trò cách mạng tiến bộ, bảo thủ, phản động) mà đảng của nó thể hiện

vai trò đại diện cho lợi ích của giai cấp tương ứng.
ĐCT ngày nay thường có mục tiêu nhất định được thể hiện trong cương
lĩnh hoặc tuyên ngôn có tính chất cương lĩnh, tiến hành một chính sách nhất
định, có những nguyên tắc tổ chức nhất định và có một tổ chức nội bộ tương
ứng với những nguyên tắc đó[1]
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, ĐCT là bộ phận tích cực,
có tổ chức nhất của của một giai cấp. ĐCT là phạm trù lịch sử, gắn liền với
sự phân chia xã hội thành giai cấp và sự không đồng nhất của các giai cấp đó;
gắn liền với sự khác nhau về lợi ích của giai cấp và của các tầng lớp hợp
thành giai cấp. ĐCT là một trong những công cụ lợi hại nhất mà nhờ đó giai
cấp đấu tranh cho lợi ích của mình. Những tổ chức tiền thân của ĐCT xuất
hiện ngay khi xã hội phân chia thành giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhưng
lịch sử thực sự của ĐCT chỉ bắt đầu trong điều kiện đấu tranh giai cấp đã phát
triển đến trình độ nhất định của đấu tranh chính trị, khi mục tiêu giành chính
quyền được đặt ra trực tiếp. Lênin viết: «Cuộc đấu tranh của các chính đảng là
biểu hiện hoàn chỉnh, đầy đủ và rõ rệt nhất cuộc đấu tranh chính trị của các


17

giai cấp » [52, tr.164]. Trong xã hội hiện đại, tương ứng với cơ cấu giai cấp,
có thể có mô hình một đảng, hai đảng hoặc đa đảng, song về thực chất, ĐCT
luôn mang bản chất giai cấp. Bởi vậy, khi xem xét ĐCT, không nên theo tên
gọi hoặc theo cương lĩnh của nó mà phải xem xét theo việc làm cụ thể:
Nhận rõ được cuộc đấu tranh của các đảng, thì không nên tin ở lời nói
mà nên nghiên cứu lịch sử thực sự của các đảng, nghiên cứu chủ yếu là việc
họ làm chứ không phải là những lời họ nói về bản thân họ, xem họ giải quyết
các vấn đề chính trị như thế nào, xem thái độ của họ như thế nào trong các
vấn đề có liên quan đến lợi ích thiết thân của các giai cấp trong xã hội: địa
chủ, tư bản, nông dân, công nhân. [ 52, tr.355].

Bởi vậy, xét về bản chất, ĐCT nào cũng mang bản chất giai cấp, tuyệt
nhiên không có ĐCT phi giai cấp, siêu giai cấp; ĐCT luôn tồn tại vì lợi ích
giai cấp và vì mục tiêu giành quyền lực nhà nước để bảo vệ lợi ích giai cấp.
Như vậy, dù có những cách diễn đạt khác nhau thì ĐCT vẫn là tổ chức
chính trị của những người cùng chí hướng; đại diện cho lợi ích cao nhất của
một giai cấp hay tầng lớp xã hội; được tổ chức chủ yếu nhằm giành quyền
lực nhà nước.
ĐCT một khi trở thành đảng cầm quyền, dù đại diện cho giai cấp nào
thì cũng luôn có chức năng chủ yếu là tập hợp, giáo dục cử tri tham gia vào
đời sống chính trị; cung cấp nguồn nhân lực cho bộ máy chính quyền nhà
nước và hoạch định đường lối, chính sách quốc gia nhằm duy trì sự thống trị
về chính trị và thực hiện lợi ích của giai cấp.
* Đảng cầm quyền (ruling party) là khái niệm chỉ đảng giành chiến
thắng trong các cuộc bầu cử dân chủ và cạnh tranh; đảng nắm giữ những vị trí
chủ chốt trong hệ thống quyền lực nhà nước cỏ khả năng kiểm soát quá trình
hoạch định và thực thi chính sách công; đảng lãnh đạo những người của đảng
trong hệ thống quyền lực nhà nước thực hiện mục tiêu của đảng thông qua


18

chính sách của nhà nước. Đảng cầm quyền phản ánh vị thế, năng lực, tính hợp
hiến và tính phù hợp với xu thế (có đảng cầm quyền phù hợp với xu thế tiến bộ,
song cũng có đảng cầm quyền không phù hợp với xu thế tiến bộ). Đảng cầm
quyền là Đảng lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội chủ yếu bằng nhà nước.
* Đảng Cộng sản cầm quyền là Đảng của giai cấp công nhân sau khi
lãnh đạo giai cấp và nhân dân lao động đấu tranh giành được chính quyền,
tiếp tục lãnh đạo xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội với phương thức mới, chủ yếu lãnh đạo bằng nhà nước nhằm phát triển
kinh tế, dân chủ hóa xã hội và tiến tới mục tiêu cuối cùng là giải phóng triệt

để con người.
Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền từ sau khi Đảng
lãnh đạo cách mạng tháng 8/1945 thành công, lập nên Nhà nước dân chủ dân
dân. Từ đó, Đảng lãnh đạo toàn dân thực hiện sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng CNXH. Sau năm 1975, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ
thành công, nước nhà thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng
lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng CNXH và
bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN. Thực tiễn cách mạng nước ta, từ
khi Đảng ra đời, có thời kỳ trong xã hội cũng tồn tại nhiều đảng phái, như
chúng ta đều biết, trước và sau năm 30 của thế kỷ XX, ở nước ta đã từng tồn
tại nhiều tổ chức đảng đối lập: Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu, Nguyễn
Phan Long (1926); Đảng Thanh niên lao vọng ở Nam Kỳ (1926); Đảng Việt
Nam quốc dân do Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Đoàn Trần Nghiệp
(1927). Sau năm 1940 có Đảng Đại Việt thân Nhật của Nguyễn Trường Tam,
Việt Nam Quốc dân đảng của Vũ Hồng Khanh (Việt quốc), Việt Nam Cách
mạng đồng minh (Việt cách) của Nguyễn Hải Thần… Cách mạng tháng Tám
thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập, trong bộ
máy nhà nước, ngoài Đảng cộng sản còn hai đảng khác là đảng Việt quốc và
Việt cách. Tuy nhiên, khi ngọn lửa toàn quốc kháng chiến bùng lên (12/1946),


19

với bản chất ươn hèn, hai đảng Việt quốc và Việt cách đã "tan biến thành mây
khói", chỉ còn lại duy nhất Đảng Cộng sản, với bản lĩnh, năng lực và phẩm
chất riêng của mình đã trụ vững trong lòng dân tộc và được dân tộc thừa
nhận, suy tôn là người lãnh đạo duy nhất. [ 12, tr.10-11]
Ngay nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân

dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập
trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản; Đảng lãnh đạo công cuộc
đổi mới, CNH, HĐH, hội nhập quốc tế vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng thế giới.
* HTCT:
Ở nước ta, thuật ngữ HTCT lần đầu tiên được Đảng ta đưa ra trong Hội
nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa VI (3/89). Sau đó, Đại hội
VII, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (1991), thuật ngữ HTCT được diễn đạt khá đầy đủ trong các điều 9,
10,11, 12. Từ đó trở đi, khái niệm HTCT được sử dụng rộng raĩ không chỉ
trong nghị quyết, trong các công trình nghiên cứu khoa học mà cả trong sinh
hoạt chính trị thường nhật. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển 2011), thuật ngữ HTCT
được đề cập đầy đủ ở mục IV. Tuy nhiên, cho đến nay, xuất phát từ cách tiếp
cận khác nhau, giới nghiên cứu đưa ra những định nghĩa không hoàn toàn
giống nhau. Có thể nêu ra một vài định nghĩa như sau:
- HTCT là hệ thống các tổ chức, các thiết chế chính trị - xã hội và các
mối quan hệ giữa chúng với nhau hợp thành cơ chế chính trị của một chế độ
xã hội. Cơ chế đó bảo đảm việc thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp
thống trị trong quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội khác.


20

- HTCT của một quốc gia là một cấu trúc của xã hội bao gồm các tổ
chức chính trị đặc trưng của xã hội (Nhà nước, các đảng phái chính trị, các
tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể - phong trào chính trị...) tồn tại và
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật chính thức hiện hành, cùng với tổng

thể các mối quan hệ ràng buộc, gắn kết các tổ chức đó thành một chỉnh thể,
thông qua đó giai cấp cầm quyền thực hiện quyền lực chính trị của mình
trong xã hội [42, tr.15]
Dù sao, mỗi quan niệm cũng có những ưu thế và hạn chế nhất định.
Khái quát lại, có thể xem HTCT là một hệ thống các tổ chức chính trị bao
gồm: nhà nước, đảng chính trị và các đoàn thể chính trị - xã hội, cùng các
mối quan hệ ràng buộc, gắn kết các tổ chức đó thành một chỉnh thể để tác
động vào các quá trình của đời sống xã hội nhằm củng cố, duy trì và phát
triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Từ đây có thể quan niệm HTCT Việt Nam, cốt lõi của nền chính trị Việt
Nam, là hệ thống các tổ chức: Nhà nước CHXHCN Việt Nam, Đảng cộng sản
Việt Nam, Mặt trân tổ quốc và các tổ chức CT-XH khác(Tổng Liên đoàn lao
động, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội liên hiệp thanh niên, Hội nông dân và Hội
Cựu chiến binh), cùng các mối quan hệ ràng buộc, gắn kết các tổ chức đó
hợp thành cơ chế dân chủ XHCN bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về dân
dưới sự lãnh đạo Đảng.
HTCT Việt Nam, trải qua quá trình xây dựng và trong quá trình hoàn
thiện đã và đang thể hiện tính ưu việt của mình. Có thể khái quát một số đặc
trưng cơ bản của HTCT nước ta như sau:
- Thứ nhất: HTCT Việt Nam là HTCT quá độ từ HTCT dân chủ nhân
dân tiến lên HTCT xã hội chủ nghĩa. Sự quá độ của HTCT nước ta được qui
định bởi tính quá độ chính trị của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Chính
vì vậy, HTCT nước ta vừa mang những đặc trưng của của HTCT dân chủ


21

nhân dân vừa mang những đặc trưng của HTCT XHCN. Và, do đó trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện HTCT đòi hỏi chúng ta phải tính đến việc sử
dụng những hình thức, giải pháp, những bước đi quá độ.

- Thứ hai: HTCT nước ta là HTCT nhất nguyên, dưới sự lãnh đạo duy
nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tính nhất nguyên của HTCT nước ta được qui định, trước hết, bởi nó
được xây dựng và hoạt động trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; mục tiêu của nó không ngoài việc xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân; hai
là, sự lãnh đạo duy nhất của Đảng còn được qui định bởi bản chất cách mạng
và khoa học của Đảng, một đảng và ở Việt Nam chỉ duy nhất có Đảng Cộng
sản mới là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền
phong của nhân dân và của cả dân tộc; ba là, thực tiễn hơn 70 năm lãnh đạo
cách mạng nước ta Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giành được trọn niềm tin
của nhân dân và của cả dân tộc. Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới vì mục
tiêu: dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn thể hiện là lãnh tụ chính trị, là lực lượng lãnh đạo duy nhất
Nhà nước và xã hội một cách chính đáng, hợp hiến, hợp pháp.
- Thứ ba, trong HTCT nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, song có tính tới và thừa nhận nguyên tắc tự nguyện,
hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động. Nguyên tắc này phản
ánh tính đa dạng trong tổ chức và hoạt động, song thống nhất ở mục đích
nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống cũng như của mỗi tổ
chức trong HTCT, bảo đảm và phát huy quyền dân chủ của nhân dân.
Trong HTCT nước ta, Đảng Cộng sản, Nhà nước và các đoàn thể chính
trị- xã hội, thành viên của Mặt trân tổ quốc được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ quan lãnh đạo các cấp của các đoàn thể


22

chính trị- xã hội do bầu cử lập ra, thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bộ phận của HTCT, tổ chức liên

minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp,
các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp
thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động.
Nguyên tắc tập trung dân chủ vừa khẳng định vị thế lãnh đạo của Đảng,
vị trí trụ cột của Nhà nước trong HTCT, đồng thời và quan trọng hơn là khẳng
định, đề cao vai trò chủ thể quần chúng nhân dân và yêu cầu bảo đảm, thực
thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong suốt tiến trình cách mạng
XHCN. Nguyên tắc này, một mặt, khẳng định việc thực hành dân chủ rộng
rãi, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mặt khác khẳng định dân chủ nhất
thiết phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; khắc phục những hiện tượng vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân, hoặc khuynh hướng dân chủ cực đoan và mưu
toan lợi dụng dân chủ "nhân quyền" để gây rối, chống phá chế độ hoặc can
thiệp vào nội bộ nước ta.
Trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế, dù còn những luồng tư
tưởng khác nhau, song tập trung dân chủ vẫn là nguyên tắc qui định và phản
ánh tập trung nhất bản chất dân chủ của Đảng, của Nhà nước và của HTCT
nước ta. Nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất
hành động đồng thời phản ánh tính dân chủ rộng rãi không chỉ trong tập hợp
lực lượng mà còn trong tổ chức và hoạt động nhằm phát huy tối đa sức mạnh
của mỗi cá nhân, mỗi tập thể, mỗi cộng đồng và của toàn dân tộc, phản ánh
tính ưu việt của HTCT nước ta.
- Thứ tư, HTCT nước ta luôn đổi mới và hoàn thiện tương thích với đổi
mới kinh tế và phù hợp với quá trình dân chủ hoá xã hội.


23

Quá trình đổi mới, chỉnh đốn Đảng, đổi mới tổ chức và hoạt động của

Quốc hội; cải cách, xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, từng bước hiện đại; đổi mới, kiện toàn các cơ quan tư pháp bảo
đảm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động và tính mẫu mực trong việc
thực hiện hiến pháp, pháp luật, cũng như sự đổi mới tổ chức và hoạt động của
các tổ chức chính trị - xã hội đã khẳng định HTCT nước ta vừa kế thừa, phát
huy được sức mạnh truyền thống, vừa tiếp thu những thành tựu trong tổ chức
và hoạt động của các thể chế chính trị công hoà dân chủ trên thế giới, hướng
tới xây dựng, hoàn thiện HTCT Việt Nam XHCN, mà mục tiêu chủ yếu của
nó, như Đảng ta đã xác định, là nhằm thực hiện tốt dân chủ XHCN, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Hơn nữa, việc đổi mới, kiện toàn HTCT đều
xuất phát từ đổi mới kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm tiền đề, điều kiện, đồng
thời cũng xem đổi mới kinh tế, phát triển kinh tế như mục tiêu cho đổi mới
chính trị nhằm tạo ra sự phù hợp, tương thích giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị hướng tới một thể chế kinh tế - chính trị thống nhất, hài hoà mở
đường và tạo điều kiện cho dân chủ hoá xã hội và sự phát triển bền vững.
* Quan niệm về đảng lãnh đạo HTCT.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã
hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính
sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ
chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên và
quan trọng nhất là lãnh đạo xã hội chủ yếu bằng nhà nước, công cụ lãnh đạo
đặc hữu của Đảng cầm quyền. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và
phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của HTCT. Đảng lãnh
đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của
HTCT, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng


24


thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời
phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ
chức khác trong HTCT.
Là một bộ phận của HTCT, Đảng lãnh đạo HTCT dưới nhièu hình thức,
phương pháp khác nhau, trong đó có những hình thức và phương thức cơ bản
nhất:
- Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về tổ chức nhà nước và
hoạt động của bộ máy nhà nước, về chủ trương phát triển các mặt của đời
sống xã hội.
- Đảng lựa chọn cán bộ để giới thiệu với nhà nước bố trí sắp xếp vào
các chức vụ trong bộ máy nhà nước.
- Đảng thường xuyên theo dõi kiểm tra hướng dẫn chỉ đạo các cơ quan
nhà nước hoạt động theo đúng đường lối chủ trương chính sách của mình.
- Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua các tổ chức cơ sở do Đảng
thành lập trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và các đảng viên
làm việc trong bộ máy nhà nước.
- Đảng lãnh đạo HTCT, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn
bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
* Đảng bộ quận lãnh đạo HTCT cấp cơ sở:
Theo Hiến Pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, Điều 118:
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực
thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã.


25


Vậy là, quận là đơn vị hành chính ở nội thành phố gồm nhiều phường,
ngang với huyện.
Theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua trong Đại hội XI,
Điều 10:
1: Hệ thống tổ chức của Đảng được lập tương ứng với hệ thống tổ chức
hành chính của Nhà nước.
2. Tổ chức cơ sở đảng được lập tại đơn vị cơ sở hành chính, sự nghiệp,
kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ huyện, quận, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh
Điều 19, ghi nhận:
1. Cấp uỷ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh uỷ,
thành uỷ), cấp uỷ huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi tắt là
huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ) lãnh đạo thực hiện nghị quyết đại hội đại
biểu; nghị quyết, chỉ thị của cấp trên.
Như vậy, Đảng bộ quận là tổ chức Đảng cấp quận thuộc nội thành phố
trực thuộc Trung ương lãnh đạo thực hiện nghị quyết đại hội đại biểu và nghị
quyết, chỉ thị của thành phố. Đảng bộ quận lãnh đạo HTCT phường thực hiện
nghị quyết đại hội đại biểu và nghị quyết, chỉ thị của thành phố; đồng thời
thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, an ninh quốc phòng của quận uy.
Về lĩnh vực chính trị, Đảng bộ quận lãnh đạo HTCT thực hiện nhiệm
vụ tiếp tục đổi mới, kiện toàn HTCT quận, phường theo Nghị quyết đại hội
và nghị quyết, chỉ thị của thành phố và những qui định hợp hiến, hợp pháp
của quận.
1.1.2 Nội dung, phương thức Đảng lãnh đạo HTCT
Về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội được ghi rõ trong Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng.



×