Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Trình bày nhận thức cá nhân về tội phạm rõ và tội phạm ẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.24 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Trang
A. Lời mở đầu……………………………………………………

1

B. Nội dung……………………………………………………….

1

1. Tội phạm rõ……………………………………………………

1

2. Tội phạm ẩn……………………………………………………

3

2.1 Khái niệm………………………………………………

3

2.2. Phân loại tội phạm ẩn………………………………...

4

2.3. Nguyên nhân dẫn tới tội phạm ẩn……………………

6

2.4. Phương pháp xác định tội phạm ẩn………………….



7

2.5. Giải pháp……………………………………………….

7

3. Mối quan hệ giữa tội phạm rõ và tội phạm ẩn………………

8

4. Thực trạng tình hình tội phạm ở Việt Nam hiện nay…….

9

C. Kết luận……………………………………………………….

16

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………….

0


A. LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội ngày càng phát triển kéo theo cùng là sự gia tăng của tội phạm. Thời
gian qua tình hình tội phạm diễn ra khá phức tạp và không ngừng biến hóa về các
chiêu trò khiến nạn nhân vừa bất ngờ, vừa hoang mang lo sợ. Chúng ta không dám
chắc mình sẽ là nạn nhân bất đắc dĩ vào một thời điểm nào đó. Hơn nữa, việc lừa
đảo hay tấn công các nạn nhân bằng những chiêu trò không chỉ xuất hiện ở các

thành phố lớn mà thậm chí ở cả các vùng quê. Mức độ của tội phạm không chỉ gia
tăng về số lượng mà còn diễn ra ngày càng liều lĩnh và manh động. Nhưng do nhiều
nguyên nhân khác nhau mà không phải mọi tội phạm xảy ra trên thực tế đều bị phát
hiện và xử lí về hình sự. Vậy trong khuôn khổ bài tiểu luận này xin được lựa chọn
đề tài: “Trình bày nhận thức cá nhân về tội phạm rõ và tội phạm ẩn” để làm sáng
tỏ vấn đề trên.
B. NỘI DUNG
1. Tội phạm rõ
Có rất nhiều những ý kiến khác nhau về khái niệm tội phạm rõ. Theo ý kiến
đa phần của các tài liệu tội phạm học lưu hành ở Việt Nam đều cho rằng tội phạm rõ
là tội phạm đã bị điều tra, xét xử về hình sự và có trong thống kê hình sự. Theo nhận
định này, thì thời điểm xác định tội phạm rõ là khi tội phạm bị đưa ra xét xử về hình
sự và có trong thống kê hình sự chính thức của cơ quan Tòa án. Bởi lẽ, thống kê xét
xử hình sự của Tòa án có tính chính xác cao, ổn định vì đây là giai đoạn cuối cùng
của quá trình chứng minh, mặt khác số người bị Tòa án xét xử oan cũng là hãn hữu.
Đây cũng là quan điểm được rất nhiều giáo trình tội phạm học khác thừa nhận.
Theo nhận định của PGS.TS Dương Tuyết Miên thì một tội phạm được coi là
tội phạm rõ khi có đầy đủ 3 dấu hiệu sau:
- Dấu hiện tiên quyết để coi tội phạm là tội phạm rõ đó là khi tội phạm đó đã
xảy ra trên thực tế.

1


- Dấu hiệu thứ hai, tội phạm đó đã bị phát hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hay tổ chức, cá nhân… và bị xử lý về hình sự. Đây là dấu hiệu quan trọng
nhất để quyết định tội phạm là tội phạm rõ hay tội phạm ẩn.
- Dấu hiệu thứ ba, tội phạm có trong thống kê hình sự chính thức. Nghĩa là có
trong thống kê của ba cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Công an, Tòa án và Viện
kiểm sát.

Căn cứ vào các dấu hiệu trên có thể thấy rằng thời điểm được coi là tội phạm
rõ là khá sớm ngay từ khi cơ quan cảnh sát nhận được tin báo về tội phạm và có sự
xác nhận của cơ quan cảnh sát hoặc cơ quan áp dụng luật khác là hành vi đó vi
phạm pháp luật. Để xác định tội phạm rõ phải dựa trên thông số về số vụ xảy ra trên
thực tế chứ không phải là số vụ án bị đưa ra xét xử trên thực tế, và chỉ khi làm như
vậy mới phản ánh chính xác về thực trạng của tình hình tội phạm. Thông số về số vụ
án xảy ra được lưu trữ ở cơ quan cảnh sát là đầy đủ nhất, vì thông thường khi có tội
phạm xảy ra, người dân thường báo cho cơ quan cảnh sát biết. Và khi xác nhận là có
tội phạm, cơ quan cảnh sát sẽ lập hồ sơ. Thống kê của cơ quan cảnh sát phản ánh
đầy đủ, bao quát hơn số liệu xét xử của Tòa án, vì nhân tố quan trọng nhất phản ánh
thực trạng của tình hình tội phạm chính là số vụ án xảy ra trên thực tế. Bởi vì không
phải mọi vụ án xảy ra thì đều được các cơ quan chức năng truy tìm ra thủ phạm và
tất cả các bị cáo đều được đưa ra xét xử. Thực tế cho thấy số vụ án hình sự đã tìm ra
thủ phạm và bị đưa ra xét xử có độ chênh lệch khá lớn. Con số vụ án hình sự tìm ra
thủ phạm và bị đưa ra xét xử chiếm tỷ lệ thấp hơn nhiều so với con số vụ án hình sự
xảy ra trên thực tế. Do vậy nếu đánh giá tình hình tội phạm mà chỉ dựa vào số liệu
xét xử của Tòa án thì chắc chắn phản ánh không đúng số lượng của tội phạm trên
thực tế. Đó là chưa kể số liệu xét xử của Tòa án về số vụ sẽ không thể khớp về thời
gian so với số vụ xảy ra trên thực tế, bởi vì nhiều vụ phạm tội xảy ra thời gian khá
lâu sau mới được đưa ra xét xử, hoặc phát hiện ra thủ phạm nhưng vì yếu tố khách
quan nên án bị tồn đọng và xét xử chậm. Như vậy, dựa vào số liệu của cơ quan cảnh
sát thì việc đánh giá sẽ chính xác hơn vì cho dù chưa đưa vụ án ra xét xử do không
2


bắt được người phạm tội nhưng cơ quan cảnh sát vẫn có số liệu về vụ phạm tội xảy
ra. Tuy nhiên cũng cần lưu ý là số liệu của cơ quan cảnh sát vẫn có hạn chế đó là
một trong số ít trường hợp, có một số cá nhân bị cơ quan cảnh sát xác đinh là có tội
nhưng sau đó kết luận của tòa án lại khẳng định họ vô tội hoặc họ phạm tội khác. Ở
đây có sự sai số về người phạm tội hoặc số tội phạm thực hiện.

Có thể nhận thấy rằng, nhận định này đã tìm ra một hướng đi mới trong cách
xác định tội phạm rõ, quan điểm này cũng đã có sự lý giải một cách khoa học, hợp lí
hơn về thời điểm xác định tội phạm rõ. Bởi vì, trên thực đã có những vụ án đã xảy
ra nhưng chưa truy tìm được thủ phạm và do vậy chưa thể đưa ra xét xử hoặc có
những vụ án tuy người phạm tội có tội nhưng sau đó được viện kiểm sát xác định
miễn trách nhiệm hình sự… Đồng thời có những vụ án chưa thể và không được đưa
vào thống kê tội phạm mặc dù nó đã xảy ra trên thực tế.
2. Tội phạm ẩn
2.1 Khái niệm
Bên cạnh tội phạm rõ, trên thực tế còn nhiều các tội phạm đã xảy ra nhưng
không bị phát hiện. Các nhà tội phạm học gọi đó là tội phạm ẩn. “Tội phạm ẩn là số
lượng tội phạm và người phạm tội đã thực hiện trên thực tế nhưng không được
tường thuật với cơ quan có thẩm quyền hoặc chưa bị phát hiện (một cách chính
thức) và do vậy chưa bị đưa ra xét xử, chưa có trong thống kê hình sự chính thức.1
Trên thực tế, số lượng tội phạm ẩn chiếm một tỷ lệ không hề nhỏ trong tổng
số tội phạm. Theo GS.TS Tymothy Mason, số lượng tội phạm ẩn lớn hơn 6 đến 10
lần tội phạm rõ. Còn theo cuộc điều tra về tội phạm ẩn ở Anh tiến hành năm 2000,
tội phạm ẩn chiếm khoảng 70% tổng số vụ phạm tội. 2 Ở Việt Nam, số lượng tội
phạm ẩn rất cao nhưng nước ta không đánh giá được cụ thể con số chính xác vì
chưa có cơ quan có thẩm quyền nào của nhà nước đứng ra đánh giá, thống kê số
lượng tội phạm ẩn. Hơn nữa, việc đánh giá về tội phạm ẩn đòi hỏi những kỹ năng và
1

Tiến sĩ Dương Tuyết Miên, Tội phạm học nhập môn, Nxb.CAND, Hà Nội,2009, tr.192.

2

Theo các tài liệu khoa học được thống kê trong cuốn, TS Dương Tuyết Miên, Tội phạm học nhập môn,
Nxb.CAND, Hà Nội, 2009, tr.202.


3


trình độ cao, các cán bộ có thẩm quyền ở Việt Nam chưa được đào tạo chuyên môn
về vấn đề này. Ngoài ra chính nhà nước cũng chưa nhận thức được tầm quan trọng
của việc nghiên cứu tội phạm ẩn. Phải nghiên cứu tội phạm ẩn mới có thể đánh giá
đầy đủ “bức tranh” về tình hình tội phạm từ đó mới để ra được các biện pháp phòng
ngừa tội phạm hiệu quả.
Một ví dụ về loại tội phạm ẩn tại Việt Nam, căn cứ vào tình hình tội phạm ẩn
thì tội phạm ẩn về ma túy là tội phạm được đánh giá có cấp độ ẩn cao nhất – cấp IV.
Các chuyên gia về tội phạm học cũng như các cơ quan chức năng phòng chống tội
phạm ma túy đã đưa ra kết luận khá thống nhất về độ ẩn của tội phạm về ma túy ở
Việt Nam như sau:
“Căn cứ vào lượng thuốc phiện ước tính còn sản xuất trong nước và lượng
ma túy được thẩm lậu vào Việt Nam, căn cứ vào số lượng ma túy bị bắt giữ qua các
năm, các chuyên gia nghiên cứu tội phạm học nước ngoài đánh giá Việt Nam mới
chỉ phát hiện được từ 5 – 10% tội phạm về ma túy, như vậy tội phạm ẩn về ma túy
tới 90 – 95%”
Hay “Ở Việt Nam, lực lượng chức năng chỉ mới phát hiện, bắt giữ khoảng
18% lượng ma túy ngay tại biên giới, còn trên 80% ma túy lọt vào nội địa”.
Có thể thấy rằng, tình hình tội phạm ẩn nói chung, tội phạm ẩn về ma túy nói
riêng là một vấn đề khó và dù áp dụng phương pháp nghiên cứu, tính toán và xác
định nào thì vẫn mang tính chất đánh giá, nhận định và ước đoán.
2.2. Phân loại tội phạm ẩn
Có hai loại tội phạm ẩn đó là tội phạm ẩn khách quan và tội phạm ẩn chủ
quan.
- Tội phạm ẩn khách quan: là trường hợp tội phạm đã xảy ra trên thực tế,
nhưng do nguyên nhân khách quan, cơ quan chức năng không phát hiện ra vụ phạm
tội – không có thông tin về vụ án. Ví dụ: nạn nhân đã bị giết chết nhưng bị người
phạm tội che giấu bằng thủ đoạn tinh vi và không có người chứng kiến vụ việc.


4


- Tội phạm ẩn chủ quan: là trường hợp tội phạm đã xảy ra trên thực tế, cán bộ
hoặc cơ quan chức năng đã nắm được vụ việc nhưng do nhiều nguyên nhân khác
nhau mà vụ án không được thụ lí, xử lí hình sự và do đó không có trong số liệu
thống kê. Ví dụ: cán bộ điều tra đã được người dân báo về vụ phạm tội nhưng do
nhận hối lộ của người phạm tội nên cơ quan điều tra chỉ lập hồ sơ xử lí hành chính
bằng cách cố ý làm giảm mức độ sai phạm của hành vi để xử lí hành chính.
Có nhiều ý kiến cho rằng, ngoài 2 loại tội phạm ẩn nói trên còn có tội phạm
ẩn thống kê – trường hợp tội phạm đã bị phát hiện và đưa ra xét xử về hình sự
nhưng không có trong thống kê hình sự chính thức. Như đã phân tích các dấu hiện
của tội phạm rõ phía trên, thì việc tội phạm đã bị phát hiện và đưa ra xét xử về hình
sự thuộc dấu hiệu thứ hai để nhận biết tội phạm rõ, còn việc thông số về vụ án
không có trong số liệu thống kê chính thức là do nhiều nguyên nhân khác nhau,
như:
- Kĩ thuật thống kê còn hạn chế. Ví dụ: nếu trong vụ án, bị cáo bị xét xử về
nhiều tội thì thống kê ở nước ta hiện nay chỉ thống kê số liệu về tội nặng nhất trong
vụ án.
- Do bệnh thành tích nên có địa phương không đưa một số vụ án vào số liệu
thống kê. Ví dụ như những vụ việc nổ pháo trái phép ở địa phương…
- Do sai sót của cán bộ thống kê do trình độ chuyên môn còn hạn chế hoặc
thiếu tinh thần trách nhiệm nên thống kê thiếu, không đầy đủ.
2.3. Nguyên nhân dẫn tới tội phạm ẩn
Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng có thể chia làm 4 nhóm sau:
- Nguyên nhân từ phía nạn nhân của tội phạm. Nạn nhân không tố cáo về vụ
phạm tội có thể là do: bị người phạm tội (hoặc người nhà người phạm tội) đe dọa;
không tin tưởng vào cơ quan bảo vệ pháp luật; sợ phiền hà hoặc sợ công khai bí mật
đời tư v.v…Ví dụ như tội xâm hại tình dục trẻ em (XHTDTE), tội phạm XHTDTE

được đánh giá là một loại “tội phạm ẩn. Đối tượng bị xâm hại còn nhỏ tuổi, không
chỉ bị ảnh hưởng đến thể xác, mà còn kéo theo hệ lụy về đời sống tinh thần lâu dài
5


của các em. Vấn đề XHTDTE có tính nhạy cảm, do tâm lý sợ bị mang tiếng, ảnh
hưởng đến tương lai của trẻ em, uy tín của gia đình nên thường không thông báo với
cơ quan chức năng, dẫn đến việc điều tra, khám phá gặp không ít khó khăn.
- Nhóm nguyên nhân từ phía người phạm tội. Người phạm tội thực hiện tội
phạm bằng thủ đoạn quá tinh vi xảo quyệt, bọn tội phạm luôn tìm mọi cách để thực
hiện hành vi phạm tội một cách nhanh gọn, tránh sự phát hiện, điều tra, xử lý của
các cơ quan chuyên môn. Chúng dùng cả kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp và ứng dụng
các thành tựu của khoa học – công nghệ vào quá trình phạm tội. Có trường hợp,
chúng còn giả tạo hiện trường, đánh lạc hướng sự điều tra của các cơ quan chuyên
môn, hoặc tự tử, thủ tiêu, giết người bịt đầu mối,…Hoặc người phạm tội đã đe dọa
nạn nhân, người làm chứng hoặc người phạm tội đã đưa hối lộ v.v…
- Nhóm nguyên nhân từ phía cơ quan chức năng như thái độ thiếu tinh thần
trách nhiệm, cán bộ có hành vi nhận hối lộ để không xử lí vụ việc hoặc do nể nang,
quen biết nên bao che không xử lí vụ việc v.v…
- Nhóm nguyên nhân từ phía người làm chứng. Người làm chứng không dám
tố cáo hoặc đứng ra làm chứng vụ việc do nhiều nguyên nhân khác nhau như: sợ bị
trả thù, sợ liên lụy khó khăn cho bản thân, quen biết hoặc là người thân của người
phạm tội v.v…
2.4. Phương pháp xác định tội phạm ẩn
Phương pháp xác định tội phạm ẩn hiện nay mới chỉ được các nhà tội phạm
học trên thế giới áp dụng. Còn ở Việt Nam, như chúng ta đã biết, vấn đề nghiên cứu
tội phạm ẩn ở Việt Nam còn gặp nhiều hạn chế, và hiện nay chúng ta cũng không
tiến hành áp dụng các phương pháp để xác định số lượng tội phạm ẩn tại Việt Nam.
Các nhà tội phạm học trên thế giới thường áp dụng hai phương pháp điều tra cơ bản
sau:

- Điều tra về tội phạm tự tường thuật: đó là phương pháp điều tra thông qua
việc người tham gia tự tường thuật về tội phạm mà họ đã thực hiện. Để tiến hành
phương pháp này, các nhà nghiên cứu phải cam kết giữa bí mật danh tính của người
6


tham gia tự tường thuật để đảm bảo họ không phải lo lắng về sự tiết lộ thông tin
hành vi phạm tội của mình và cũng không sợ hãi sẽ bị bắt giữ và bị xử lý về hình sự
do đã thực hiện tội phạm.
- Điều tra về nạn nhân của tội phạm: đây là phương pháp điều tra thông qua
việc nạn nhân tham gia tự tường thuật về tội phạm đã xảy ra đối với mình. Với loại
điều tra này, các nhà nghiên cứu cũng phải cam kết giữ bí mật danh tính của người
tham gia vì sự tiết lộ danh tính của họ trong nhiều trường hợp có thể gây bất lợi cho
nạn nhân.
Ngoài ra, việc xác định tội phạm ẩn còn có thể dựa vào một số nguồn khác
như: số liệu từ bệnh viện, trạm y tế để xác định tội phạm ẩn như tội phạm giao
thông, tội cố ý gây thương tích. Số liệu từ các trung tâm tư vấn, trợ giúp pháp lí,
trung tâm hỗ trợ nạn nhân, nhà tạm lánh để xác định tội phạm ẩn đối với một số tội
như nhóm tội phạm tình dục, tội phạm bạo lực gia đình… 3
2.5 Giải pháp
Hiện nay, tính chất các loại tội phạm ngày càng nghiêm trọng, phức tạp, hậu
quả của tội phạm ngày càng lớn. Cùng với đó, tình trạng tội phạm ẩn vẫn luôn là
vấn đề nóng được quan tâm, xảy ra phổ biến và cần có những giải pháp kịp thời để
khắc phục tình trạng trên.
Thứ nhất, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Nhiệm vụ
cụ thể của các cơ quan này là đấu tranh kịp thời với tội phạm. Tức là khi có tội
phạm xảy ra phải nhanh chóng điều tra khám phá, bắt giữ kẻ phạm tội, khắc phục
hậu quả do kẻ phạm tội gây ra, tuyên truyền giáo dục pháp luật thường xuyên cho
nhân dân, xử lý nghiêm minh kẻ phạm tội để quần chúng tin tưởng vào pháp luật và
cơ quan bảo vệ pháp luật. Đồng thời, xây dựng các biện pháp nhằm bảo vệ quyền

lợi chính đáng của phía nạn nhân, xây dựng lòng tin để nạn nhân có thể an tâm khai
báo với cơ quan có thẩm quyền về tội phạm.

3

Theo Tiến sĩ Dương Tuyết Miên, Tội phạm học nhập môn, Nxb.CAND, Hà Nội,2009, tr.203, 204, 205, 206.

7


Thứ hai, phát huy sức mạnh quần chúng trong hoạt động đấu tranh phòng
chống tội phạm. Cần khuyến khích và động viên kịp thời sự tham gia của quần
chúng, giáo dục cho quần chúng thấy rõ được lợi ích chung của toàn xã hội trong
việc đấu tranh phòng chống tội phạm để họ thực sự là tai mắt của các cơ quan nhà
nước. Đồng thời có chế độ khen thưởng thích đáng đối với những người có công
trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thứ ba,cần phải đẩy mạnh công tác bồi dưỡng cán bộ có đủ năng lực và trình
độ chuyên môn cao, nghiệp vụ giỏi, phẩm chất đạo đức tốt để đối phó với những tội
phạm có tính chất nguy hiểm.
Thứ tư, kịp thời xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật. Cần có
các chế tài mạnh đối với những hành vi nhận hối lộ, thiếu tinh thần trách nhiệm, biết
mà không xử lý…
3. Mối quan hệ giữa tội phạm ẩn và tội phạm rõ
Tội phạm rõ và tội phạm ẩn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trước hết, tội
phạm rõ và tội phạm ẩn là hai phần của tội phạm đã xảy ra có quan hệ tỉ lệ nghịch
với nhau. Phần “rõ” càng lớn thì phần “ẩn” càng nhỏ và ngược lại. Phần rõ là phần
mà có thể được khẳng định một cách chắc chắn vì dựa trên các con số thống kê cụ
thể. Trong khi đó, phàn ẩn là phần mà không thể có được sự khẳng định chắc chắn
vì chỉ dựa trên sự suy đoán. Trong đó, phần rõ là một trong các cơ sở của sự suy
đoán này.

Tội phạm nói chung cũng như nhóm tội phạm hay tội cụ thể đều có phần ẩn.
Mức độ ẩn ở những đơn vị thời gian, không gian khác nhau cũng như ở những
nhóm tội hoặc tội khác nhau đều có thể có sự khác nhau. Ví dụ: Tội giết người được
coi là một trong những tội có độ ẩn thấp; trái lại, tội nhận hối lộ hoặc các tội phạm
về ma túy được coi là các tội có độ ẩn cao. Lí do của sự khác nhau về độ ẩn cũng rất
khác nhau nhưng trong đó có thề có lí do từ chính đặc điểm riêng biệt của tội phạm.
Tội phạm rõ so với tội phạm thực tế có thể đạt các tỉ lệ khác nhau ờ các phạm
vi tội danh, phạm vi không gian và phạm vi thời gian khác nhau nhưng luôn có ý
8


nghĩa đặc biệt vì vừa phản ánh thực trạng đấu tranh chống tội phạm của Nhà nước
và xã hội vừa là cơ sở cần thiết để nghiên cứu phần còn lại của tội phạm - Phần ẩn
hay tội phạm ẩn.
Nghiên cứu tình hình tội phạm là nghiên cứu tình hình tội phạm thực bao
gồm cả tội phạm rõ và tội phạm ẩn. “Bức tranh” thực của tội phạm phải là “bức
tranh” tổng hợp của cả tội phạm rõ và tội phạm ẩn. Về lí thuyết, khi nghiên cứu tình
hình tội phạm cụ thể, chúng ta phải bắt đầu và chủ yếu nghiên cứu tội phạm rõ. Các
mô tả, đánh giá, giải thích cũng như dự liệu trước hết và chủ yếu là dựa trên tội
phạm rổ. Nghiên cứu tội phạm ẩn được tiến hành sau và kết quả của nó chỉ được sử
dụng có tính tham khảo thêm khi nghiên cứu tình hình tội phạm.
4. Thực trạng tình hình tội phạm ở Việt Nam hiện nay
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao... Cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội được đẩy mạnh; an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, phục vụ đắc lực công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Thế và lực của Việt Nam ngày càng được củng cố, vững mạnh hơn
bao giờ hết, vị trí Việt Nam ngày càng được khẳng định trên trường thế giới, hội
nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện.
Tuy nhiên, tình hình tội phạm ở nước ta vẫn còn diễn biến phức tạp. Những

năm gần đây, mỗi năm phát hiện trung bình trên 70 ngàn vụ phạm tội các loại, trong
đó khoảng 50 ngàn vụ phạm tội về trật tự xã hội, trên 10 ngàn vụ phạm tội về kinh
tế và gần 10 ngàn vụ phạm tội về ma tuý. So với các nước trên thế giới và trong khu
vực thì tình hình tội phạm ở Việt Nam chỉ ở mức trung bình thấp, nhưng tính chất
phức tạp. Đáng lưu ý, tỷ lệ tội phạm ẩn ở nước ta cao, đặc biệt là trong lĩnh vực tội
phạm về kinh tế, ma tuý.
Tội phạm tập trung chủ yếu ở các thành phố, thị xã, thị trấn (chiếm 70%). Các
tuyến, địa bàn tội phạm xảy ra nhiều: năm thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng,
thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ (chiếm 25% - 30% tổng số vụ phạm tội
9


trên toàn quốc hàng năm); các tuyến Hà Nội và các tỉnh Đông Bắc (Hải Dương, Hải
Phòng, Quảng Ninh, Bắc Giang…), thành phố. Hồ Chí Minh – các tỉnh miền Đông
Nam Bộ (Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu…), các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long (An Giang, Kiên Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Tiền Giang…), các tỉnh
miền Trung - Nam Trung Bộ và Tây Nguyên (Gia Lai, Đắk Lắk, Khánh Hoà, Bình
Định…).
Các loại tội phạm hình sự nguy hiểm, sử dụng bạo lực, hình thành các băng, ổ
nhóm, hoạt động có tổ chức phức tạp, tính chất, mức độ phạm tội ngày càng nghiêm
trọng, có sự móc nối với một số cán bộ công chức nhà nước, hoạt động lưu động,
công khai, trắng trợn, gây tâm lý hoang mang lo sợ trong nhân dân và thường tập
trung vào một số loại tội phạm như: giết người; cướp tài sản; cố ý gây thương tích,
giết người thuê; bảo kê nhà hàng, khách sạn, vũ trường, tổ chức các sòng bạc, cá độ,
ma tuý, mại dâm…
Xu hướng liên kết hình thành các băng, nhóm tội phạm ngày càng gia tăng rõ
rệt, hoạt động có tính chất lưu động ở nhiều địa bàn khác nhau, gây nhiều loại án
khác nhau. ở một số địa phương xuất hiện loại tội phạm có tổ chức, hoạt động theo
kiểu "xã hội đen" núp dưới nhiều vỏ bọc công khai như khách sạn, nhà hàng, nghiệp
đoàn, doanh nghiệp tư nhân… Với tính chất côn đồ hung hãn, thủ đoạn tinh vi như

bảo kê nhà hàng, cho vay nặng lãi, xiết nợ thuê, đâm thuê, chém mướn... hoạt động
ngang nhiên, trắng trợn, táo bạo, thách thức pháp luật như: ở TP. Hồ Chí Minh, Hà
Nội, Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Quảng Ninh, Nam Định, Nghệ An,
Khánh Hoà, Bình Thuận... Điển hình là tổ chức tội phạm do Trương Văn Cam cầm
đầu tại thành phố Hồ Chí Minh, băng nhóm tội phạm Hà Lê (Khánh Hoà), Hai Chi
(Bình Thuận)…
Tội phạm xuyên quốc gia, có tính quốc tế, tội phạm có yếu tố nước ngoài có chiều
hướng gia tăng, đã xuất hiện một số băng nhóm tội phạm là người nước ngoài, hoặc
các đối tượng là người Việt Nam câu kết với các đối tượng người nước ngoài để
thực hiện các hành vi phạm tội như giết người, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái
10


phép các chất ma tuý, đưa người ra nước ngoài bất hợp pháp.... Từ sau khi đẩy
mạnh điều tra triệt phá một số băng, nhóm tội phạm có tổ chức hoạt động theo kiểu
xã hội đen lớn, đặc biệt là băng nhóm Năm Cam và đồng bọn, tình hình các băng,
nhóm tội phạm có xu hướng “co lại” không còn hoạt động công khai, trắng trợn,
thách thức pháp luật như trước nhưng vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Gần
đây, đã phát hiện sự móc nối giữa các băng nhóm hoạt động trên nhiều tuyến, địa
bàn, lĩnh vực; nổi lên một số băng, nhóm thanh, thiếu niên tụ tập, ăn chơi mâu thuẫn
dẫn đến dùng dao, mã tấu đâm, chém lẫn nhau diễn ra phức tạp ở nhiều địa phương.
Cũng đã xuất hiện một số băng, nhóm tội phạm là người nước ngoài, hoặc các
đối tượng là người Việt Nam câu kết với các đối tượng người nước ngoài để thực
hiện các hành vi phạm tội như giết người, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép
các chất ma tuý, đưa người ra nước ngoài bất hợp pháp...
Các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có giảm, nhưng còn diễn biến phức tạp Tội
phạm giết người, trung bình mỗi năm xảy ra khoảng 1.000 vụ. Mặc dù số vụ án giết
người đã được kiềm chế và có xu hướng giảm, nhưng tính chất ngày càng nghiêm
trọng, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, gây ra tâm lý hoang mang, lo
sợ trong quần chúng nhân dân. Trong các vụ án giết người, giết người do nguyên

nhân xã hội chiếm tỷ lệ cao (90%), có nhiều vụ nguyên nhân rất đơn giản chỉ vì mâu
thuẫn, cãi, chửi nhau dẫn đến phạm tội. Đáng chú ý, tình trạng người thân trong gia
đình giết nhau, như vợ giết chồng, chồng giết vợ, bố giết con, con giết bố, cháu giết
ông... có xu hướng tăng. Số vụ giết người để cướp tài sản chỉ chiếm khoảng 10%.
Tội phạm chống người thi hành công vụ gia tăng, xảy ra nghiêm trọng ở nhiều địa
phương.
Tội phạm hiếp dâm, nhất là hiếp dâm trẻ em gia tăng. Đặc biệt tình trạng hiếp
dâm trẻ em xảy ra hết sức nghiêm trọng, trung bình mỗi năm xảy ra 600 vụ. Có một
số vụ hiếp dâm tính chất rất nghiêm trọng. Thời gian gần đây, các vụ hiếp dâm, kể
cả hiếp dâm trẻ em xẩy ra nhiều ở khu vực, gây bức xúc trong dư luận xã hội.

11


Tội cướp tài sản trung bình mỗi năm xảy ra khoảng 1.600 vụ. Tuy nhiên,
những vụ cướp đặc biệt nghiêm trọng, có sử dụng vũ khí nóng xẩy ra nhiều, có
những vụ diễn ra công khai, trắng trợn tại trung tâm thành phố, thị xã, thị trấn, đặc
biệt là tình trạng dùng súng cướp các tiệm vàng giữa ban ngày ở khu vực đông dân
cư và sẵn sàng chống trả quyết liệt khi bị phát hiện, truy bắt. Tình trạng cướp xe ôm,
cướp xe tắc xi xảy ra nhiều ở một số địa phương. Đặc biệt là các vụ cướp xe máy
bằng thủ đoạn sử dụng thuốc mê; dùng gậy, vật cứng, bất ngờ tấn công chủ phương
tiện rồi cướp xe, nhất là ở các địa bàn giáp ranh Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và một số
địa phương khác. Đáng lưu ý là xu hướng hình thành các băng, nhóm tội phạm cướp
mang tính tổ chức, hoạt động lưu động ở nhiều tỉnh, có nhiều đối tượng tham gia
(làm quen qua chát, hoặc lập kế hoạch rủ nhau đi cướp thông qua mạng..) .
Tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên tăng cao trong những năm gần đây,
thậm chí hình thành những băng nhóm học sinh dùng dao lê, côn, kiếm... đâm chém,
sát phạt lẫn nhau. Hoạt động cờ bạc, cá độ bóng đá xảy ra phức tạp, đã phát hiện
một số đường dây cá độ bóng đá lớn (vụ cá độ bóng đá ở TP. Hồ Chí Minh do Hồ
Thị Ngọc Lan cầm đầu với số tiền 2,3 tỷ đồng và 903.870 USD; vụ cá độ, dàn xếp

tỷ số liên quan đến nhiều trọng tài, cầu thủ, huấn luyện viên…).
Tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em (PNTE) có chiều hướng gia tăng và ngày
càng nghiêm trọng. Theo số liệu thống kê từ năm 1998 đến năm 2006, cả nước đã
phát hiện khoảng 5 ngàn PNTE bị buôn bán. Đối tượng phạm tội chủ yếu là bọn lưu
manh chuyên nghiệp và có tiền án, tiền sự về buôn bán PNTE, thường câu kết với
những đối tượng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới tạo thành đường dây khép kín để lôi
kéo, câu móc, lừa gạt đưa PNTE ra nước ngoài. Đối tượng phạm tội là người nước
ngoài ngày càng gia tăng chủ yếu là công dân Đài Loan, Campuchia, Hàn Quốc,
Trung Quốc. Thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm này thường triệt để lợi dụng số
PNTE ở các vùng nông thôn nghèo, có trình độ học vấn thấp, hoàn cảnh kinh tế khó
khăn, thất nghiệp thiếu việc làm để lừa đảo đưa qua biên giới bán cho các chủ chứa
hoặc các tổ chức tội phạm ở nước ngoài ; chúng còn lợi dụng chính sách mở cửa và
12


hội nhập của nước ta, lợi dụng sơ hở của pháp luật trong vấn đề tư vấn môi giới hôn
nhân với người nước ngoài, cho nhận con nuôi, du lịch, thăm thân, đi hợp tác lao
động để lừa gạt PNTE ra nước ngoài bán. Đặc biệt, bọn tội phạm tích cực lợi dụng
công nghệ viễn thông hiện đại, thông qua Internet, chat, game… để thiết lập đường
dây buôn bán PNTE, các đường dây gái gọi qua mạng, qua điện thoại di động, tổ
chức các chuyến du lịch tình dục xuyên quốc gia nên nhiều PNTE, kể cả sinh viên
cũng bị lừa đưa ra nước ngoài bán.
Về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, mặc dù Đảng và Nhà nước có
nhiều chủ trương chính sách và tập trung chỉ đạo quyết liệt chống loại tội phạm này
nhưng tình trạng tiêu cực, tham nhũng còn xảy ra phổ biến, nhất là trong các ngành
và lĩnh vực kinh tế trọng điểm gây thất thoát lớn tài sản của Nhà nước và nhức nhối
cho xã hội. Nổi lên một số nét cụ thể:
Tình hình buôn lậu, gian lận thương mại và lợi dụng chính sách hoàn thuế
VAT vẫn diễn biến hết sức phức tạp. Các vụ buôn lậu xảy ra nhiều ở khu vực biên
giới, tiếp giáp với Trung Quốc, Lào, Campuchia qua các đường buôn bán tiểu mạch,

tại các cửa khẩu, đường biển, đường hàng không vào Việt Nam xảy ra rất nghiêm
trọng mà chưa có giải pháp hữu hiệu để giải quyết tình trạng này. Tội phạm buôn
lậu thường kéo theo cùng với một số loại tội phạm khác như kinh doanh trái phép,
làm hàng giả, trốn thuế và đi cùng với tội đưa và nhận hối lộ làm tha hoá một số lớn
đội ngũ cán bộ công chức nhà nước trong các ngành thuế vụ, hải quan, công an v.v...
Điển hình như vụ án Tân Trường Sanh, truy tố 86 bị can, trong đó hơn một nửa là
cán bộ hải quan; vụ buôn lậu xăng, dầu ở Tiền Giang cũng tương tự. Thời gian gần
đây, lợi dụng chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng, nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng
các kẽ hở của pháp luật, lập hồ sơ giả, kê khai khống, lừa đảo chiếm đoạt hàng ngàn
tỷ đồng từ ngân sách của Nhà nước.
Tình hình sản xuất, buôn bán hàng giả; vận chuyển, tàng trữ, tiêu thụ tiền giả
diễn ra phức tạp ở hầu hết các vùng, miền trong cả nước. Hình thành những tổ chức,
đường dây sản xuất, vận chuyển ở thôn Thống Nhất xã Thủ Sỹ tiêu thụ tiền giả
13


mang tính chuyên nghiệp ở từng cung đoạn khác nhau. Bên cạnh tiền Đồng Việt
Nam giả, các loại ngoại tệ, séc, thẻ tín dụng giả xuất hiện và có chiều hướng gia
tăng. Tội phạm lừa đảo trong lĩnh vực đưa người đi xuất khẩu lao động, tội phạm
tẩy rửa tiền, tội phạm sử dụng công nghệ cao, ... đã xuất hiện trong những năm gần
đây.
Tội phạm tham nhũng, tình trạng tiêu cực xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành,
nhất là trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, đầu tư, xây dựng cơ bản, vi phạm quản
lý đất đai..., gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Có một số vụ án lớn, gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng như: vụ Tân Trường Sanh, EPCO -Minh Phụng; vụ Dệt Nam
Định, vụ thuỷ cung Thăng Long, vụ Mường Tè - Lai Châu, PMU 18... gây thiệt hại
hàng ngàn tỷ đồng. Nguy hiểm hơn là chúng đã làm tha hoá một bộ phận cán bộ
công chức trong các cơ quan, doanh nghiệp, lực lượng vũ trang... làm ảnh hưởng
nghiêm trọng tới lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Trong những năm
qua, mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều giải pháp đấu tranh chống tham

nhũng, tiêu cực, nhưng hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, số vụ
tham nhũng, tiêu cực được phát hiện, đưa ra ánh sáng còn ít.
Gần đây xuất hiện loại tội phạm làm giả cổ phiếu chứng khoán, lừa đảo trong
đầu tư chứng khoán, lừa đảo qua mạng, thâm nhập vào mạng để lấy cắp tiền ở tài
khoản của cá nhân hoặc của ngân hàng, lấy cắp thông tin cá nhân để làm thẻ tín
dụng giả hoặc bán cho đối tượng pham tội khác…
Tội phạm về ma tuý ngày càng diễn biến phức tạp. Nguồn ma tuý từ nước
ngoài vào Việt Nam chưa giảm, tập trung trên các tuyến biên giới, phần lớn là các
tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép các chất ma tuý (chiếm 71%); tổ chức sử
dụng trái phép các chất ma tuý chiếm 12%. Thành phần người phạm tội ma tuý cũng
rất phức tạp: Thanh thiếu niên học sinh, sinh viên, đảng viên, công nhân viên chức,
người nước ngoài, nông dân, phụ nữ, thậm chí có cả trẻ em phạm tội.
Thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm ma túy thường rất tinh vi, xảo quyệt,
được tổ chức một cách chặt chẽ, sẵn sàng sử dụng bạo lực, tấn công, chống trả
14


quyết liệt với các lực lượng đấu tranh chống tội phạm ma tuý, kể cả giết người bịt
đầu mối (ở Lai Châu chúng đã giết chết Trung uý Phạm Văn Cường, cán bộ phòng
Cảnh sátđiều tra tội phạm về ma tuý - Công an tỉnh Lai Châu).
Tỷ lệ người nghiện ma tuý phạm tội ngày càng cao, đặc biệt là trong lứa tuổi
thanh thiếu niên. Hiện nay cả nước có khoảng 170 ngàn người nghiện ma tuý, đây là
số liệu người nghiện có hồ sơ quản lý, còn số người nghiện thực tế lớn hơn nhiều.
Mặt khác, do phương pháp điều trị, cai nghiện của chúng ta hiệu quả còn thấp, tỷ lệ
tái nghiện cao (có nơi tỷ lệ tái nghiện lên đến 90%) nên số các đối tượng nghiện các
chất ma tuý thường xuyên được bổ sung, tạo ra sức ép rất lớn trong mối quan hệ
“cung - cầu” các chất ma tuý, dẫn đến tình trạng buôn bán, vận chuyển các chất ma
tuý ngày một gia tăng.
Thời gian gần đây xuất hiện một số tổ chức tội phạm tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán trái phép các chất ma tuý với số lượng lớn, phạm tội nhiều lần, liên quan

đến cả đối tượng là người nước ngoài tham gia. Thí dụ vụ buôn ma tuý ở Quảng Trị
phát hiện 185 bánh Heroin, vụ buôn lậu ma tuý ở thành phố Hồ Chí Minh có các các
đối tượng người Campuchia, người úc gốc Việt Nam...
Tình trạng sử dụng trái phép các chất ma tuý, đặc biệt là ma tuý tổng hợp diễn ra
phức tạp ở nhiều địa phương, nhất là ở các thành phố lớn, một số tụ điểm hoạt động
trong thời gian dài, công khai, trắng trợn, có sự bảo kê của một số cán bộ cơ sở...
Nhiều tụ điểm tổ chức sử dụng ma túy tổng hợp, ăn chơi thác loạn trong các nhà
hàng, vũ trường, quán bar, karaoke (Hà Nội, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ,
Bình Dương...). Đối tượng chủ yếu là học sinh, sinh viên (85% trong lứa tuổi 16-25,
cá biệt có đối tượng 14 tuổi), có vụ hàng trăm đối tượng tham gia.
Hiện tượng tinh chế, sản xuất heroin có dấu hiệu xuất hiện tại Việt Nam (vụ
Trịnh Nguyên Thuỷ tại Hà Nội). Tình trạng tái trồng cây thuốc phiện xảy ra ở một
số địa phương (Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Thanh Hoá, Đồng Tháp...).
Tình hình tội phạm xảy ra như trên đã tác động làm xuất hiện một số vấn đề
xã hội bức xúc như mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu kiện trong nội bộ nhân dân tuy đã
15


được tập trung giải quyết, nhưng vẫn diễn biến phức tạp, đặc biệt là tình hình khiếu
kiện, tranh chấp đất đai hình thành điểm nóng, ảnh hưởng đến an ninh trật tự ở một
số địa phương. Các loại tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc... chưa giảm, hoạt động
dưới nhiều hình thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Tội phạm vi phạm trật tự an toàn
giao thông, đua xe trái phép, vấn đề tai nạngiao thông đang là vấn đề nhức nhối của
toàn xã hội.
C. KẾT LUẬN
“Tội phạm ẩn” và “tội phạm rõ” là hai vấn đề vô cùng quan trọng khi nghiên
cứu thực trạng tình hình tội phạm. Vì nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn tới tình
trạng nhiều tội phạm xảy ra trên thực tế không bị phát hiện và do vậy không bị xử lí
về hình sự. Do đó, việc nghiên cứu các biện pháp phòng ngừa tình trạng trên là vô
cùng cần thiết. Đồng thời, các cơ quan có thẩm quyền cần nâng cao trách nhiệm,

mỗi một cá nhân trong xã hội cần có ý thức hơn để khắc phục những lỗ hổng trên và
điều này vô cùng có ý nghĩa trong công tác phòng chống, ngăn ngừa, bài trừ tội
phạm, bảo đảm an toàn cho nhân dân trong bất cứ giai đoạn nào.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tội phạm học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.CAND, năm
2012.
2. Giáo trình Tội phạm học, PGS.TS Dương Tuyết Miên (chủ biên),
Nxb.GDVN, năm 2010.
3. Ths. Nguyễn Tuyết Mai, Tạp chỉ luật học số 7/2006, “Tội phạm ẩn về ma
túy – thông số cần được xác định”, năm 2006.
4. PGS.TS Dương Tuyết Miên, Tạp chí luật học số 3/2010, “Bàn về tội phạm
rõ, tội phạm ẩn trong tội phạm học”, năm 2010.

17



×