Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Pháp luật về bảo đảm đầu tư trực tiếp ở nước CHDCND lào thực trạng và phương hướng hoàn thiện luận văn thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.95 KB, 67 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Năm 1986, tại Đại hội lần thứ IV Đảng Nhân Dân Cách Mạng (NDCM)
Lào đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện đất nước, phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện đường lối đổi mới, Nhà
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật nhằm khuyến khích, phát triển kinh tế, phát huy nội lực, thu hẹp dần
khoảng cách giữa Lào với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đầu tư là
một trong những yếu tố then chốt để phát triển kinh tế đất nước. Để thu hút
được các nhà đầu tư, Nhà nước CHDCND Lào phải tạo được môi trường đầu
tư an toàn, tức là hệ thống pháp luật về đầu tư phải hoàn thiện, thủ tục đầu tư
đơn giản. Khi tiến hành đầu tư điều mà nhà đầu tư quan tâm đầu tiên chính là
sự an toàn trong quá trình đầu tư. Quy định bằng pháp luật chính là sự bảo đảm
chắc chắn nhất cho các nhà đầu tư, giúp họ yên tâm và mạnh dạn tiến hành các
hoạt động đầu tư. ý thức được điều đó, Nhà nước CHDCND Lào đã cố gắng
hoàn thiện dần các quy định về bảo đảm đầu tư trong các văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan đến lĩnh vực đầu tư, cụ thể năm 1990 ban hành Luật đầu
tư nước ngoài và được thay thế bằng Luật khuyến khích và quản lý đầu tư nước
ngoài tại CHDCND Lào năm 1994, năm 1995 ban hành Luật khuyến khích đầu
tư trong nước tại CHDCND Lào và đã được sửa đổi bổ sung vào năm 2004.
Việc tìm hiểu các quy định về bảo đảm đầu tư, thấy được những ưu điểm cần
phát huy và chỉ ra những hạn chế để đưa ra những giải pháp khắc phục nhằm
hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm đầu tư trực tiếp ở CHDCND Lào là
hết sức cần thiết. Đó cũng là lý do tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật về
bảo đảm đầu tư trực tiếp ở nước CHDCND Lào - thực trạng và phương
hướng hoàn thiện” làm luận văn tốt nghiệp cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến hoạt động đầu tư tại Lào đã có nhiều công trình nghiên
cứu đề cập đến vấn đề này, ví dụ như: “Hoàn thiện pháp luật kinh tế trong


quá trình đổi mới quản lý kinh tế của Lào”- Trong sách giáo khoa của TS.


2

Xổm Xay Xỉ Hà Chắc năm 2006, NXBTP Viêng Chăn và gần đây là Luận văn
thạc sỹ Luật học của Souliya Pouangpadith về “Các biện pháp khuyến khích
và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Công Hòa Dân Chủ Nhân Dân
Lào”; và trong cuộc Hội thảo theo chủ đề “Kinh nghiệm quốc tế về ưu đãi và
bảo đảm đầu tư” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Ngân hàng Thế giới
tổ chức tháng 08/2004 và trong Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam được tổ
chức tháng 06/2005… Mỗi tác phẩm đề cập đến vấn đề đầu tư ở một góc độ
khác nhau. Nhưng cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp và
cụ thể về vấn đề bảo đảm đầu tư trong pháp luật của Lào.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được viết trên cơ sở lý luận và phép biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật và đường lối phát triển kinh
tế của Đảng NDCM Lào. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng
các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như: Phân tích, tổng hợp, so sánh,
suy diễn logic để nghiên cứu các nội dung cụ thể.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về bảo đảm
đầu tư; nội dung các quy định về bảo đảm đầu tư trực tiếp ở CHDCND Lào.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được tập trung làm rõ những vấn đề
lý luận về bảo đảm đầu tư. Thông qua việc đánh giá thực trạng pháp luật về
bảo đảm đầu tư trực tiếp của CHDCND Lào, nêu lên những ưu điểm và
nhược điểm và đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao
hiệu qủa của hoạt động đầu tư tại CHDCND.
5. Mục đích và Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn là từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và

thực tiễn của đầu tư tại CHDCND Lào để nêu ra phương hướng hoàn thiện
pháp luật về bảo đảm đầu tư trực tiếp ở CHDCND Lào.
Từ mục đích trên nhiệm vụ nghiên cứu luận văn tập trung vào các vấn
đề sau:


3

- Những vấn đề lý luận cơ bản và thực trạng các quy định pháp luật về
bảo đảm đầu tư trực tiếp ở CHDCND Lào.
- Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm đầu tư
trực tiếp ở CHDCND Lào.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Luận văn trình bày một cách khoa học và cụ thể các khái niệm như:
đầu tư, pháp luật bảo đảm đầu tư, quá trình phát triển của các quy định pháp
luật về bảo đảm đầu tư trực tiếp tại CHDCND Lào.
- Luận văn được đánh giá và phân tích cụ thể từng biện pháp bảo đảm
đầu tư và thực trạng các quy định pháp luật về bảo đảm đầu tư trực tiếp ở
nước CHDCND Lào.
- Luận văn đã giúp người đọc hiểu được nội dung các biện pháp và có
giá trị tham khảo đối với những người quan tâm tới vần đề đầu tư ở nước
CHDCND Lào.
- Luận văn đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định
của pháp luật nước CHDCND Lào về bảo đảm đầu tư trực tiếp.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu bởi 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo đảm đầu tư trực tiếp
tại CHDCND Lào;
Chương 2: Thực trạng pháp luật của CHDCND Lào về bảo đảm đầu tư

trực tiếp;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp
luật của Lào về bảo đảm đầu tư ở Lào.


4

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP TẠI CHDCND LÀO
1.1. KHÁI QUÁT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP

1.1.1. Khái quát về đầu tư trực tiếp
Đầu tư là của cải mà có thể buôn bán được, hy vọng rằng nó sẽ tạo ra
thu nhập hay tăng thêm giá trị trong tương lai. Sự nhận thức về mặt kinh tế,
đầu tư là việc buôn bán sản phẩm mà không sử dụng trong ngày hôm nay
nhưng nó sẽ được sử dụng trong tương lai để tạo ra sự giầu có. Về mặt tài
chính, đầu tư là của cải tiền tệ buôn bán với ý của cải của nó sẽ thu nhận hoặc
tăng thêm giá trị trong tương lai và có thể bán với giá cao hơn.[18,tr 4,5]
- Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại
để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả
nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã đưa ra để đạt được kết quả
đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động trí tuệ.
- Đầu tư theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng
các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vụ” hình
để hình thành tài sản mới trong tương tai.
Đầu tư trực tiếp là yếu tố góp phần tạo ra năng lực thực hiện hóa các
nguồn tiềm năng trong và ngoài nước, thông qua hình thức sản xuất kinh

doanh đặc thù: chuyển vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý sang một nước
khác ngoài đất nước của chủ đầu tư.
Vốn đầu tư là việc loại vốn tích lũy được trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh của các cá nhân, tập thể và Nhà nước nhằm thực hiện đầu tư để
mở rộng sản xuất và dịch vụ hay tạo ra năng lực sản xuất mới. Trên giác độ
quốc gia, nguồn vốn đầu tư được chia làm hai loại là nguồn vốn trong nước và
nguốn vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, hoạt động đầu tư cũng được phân chia


5

thành hai hình thức cơ bản là đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Nguồn
vốn đầu tư bao gồm: những tài sản hữu hình như tiền vốn, đất đai, nhà cửa,
thiết bị, vật tư..; những tài sản vụ hình như bằng phát minh, sáng chế, bí quyết
kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hóa… Ngoài ra, các nhà đầu tư còn có thể đầu tư
bằng cổ phiếu, trái phiếu, quyền sở hữu về tài sản khác như quyền thế chấp,
cầm cố tài sản, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên …
Như vậy, đầu tư trực tiếp là một hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn để tạo
lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư. Trong đó, nhà đầu tư có
thể thiết lập quyền sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền
quản lý, điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn nhằm mục đích thu được
lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư đó trên cơ sở tuân theo quy định của pháp
luật đầu tư nước nào đó.
1.1.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội ở nước CHDCND Lào
Đối với các nước đang phát triển, tác dụng chủ yếu của đầu tư trực tiếp
nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước là tăng tích lũy vốn và bù đắp sự thiếu
hụt ngoài tệ. Do thu nhập của các nước đang phát triển thấp nên tích lũy thấp
mà tỷ lệ nhu cầu đầu tư cao, FDI góp phần thu cho ngân sách Nhà nước thông
qua việc đánh thuế vào các công ty nước ngoài. Thông qua hợp tác với nước

ngoài, nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giới.
Đầu tư là việc bỏ nhân lực, tài lực, vật lực vào một công việc, dựa trên
cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế - xã hội. Đầu tư bao giờ cũng có chủ thể xác
định, đối tượng, mục đích và cách thức thực hiện xác định. Đầu tư là việc sử
dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng lực vốn lớn hơn.
Vốn đầu tư là phần tích lũy xã hội của các ngành, các cơ sở sản xuất kinh
doanh, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa
vào tái sản xuất xã hội. Trên bình diện doanh nghiệp, đầu tư là việc di chuyển
vốn vào một hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lại một khoản tiền lớn hơn.
Đầu tư là loại vốn tích lũy được trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
cá nhân, tập thể và Nhà nước nhằm thực hiện đầu tư để mở rộng sản xuất và


6

dịch vụ hay tạo ra năng lực sản xuất mới. Trên giác độ quốc gia, nguồn vốn
đầu tư được chia làm hai loại là nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước
ngoài. Do đó, hoạt động đầu tư cũng được phần chia thành hai hình thức cơ
bản là đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước.
Một yếu tố quan trọng khác đó là thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài, Nước CHDCND Lào còn có thể tiếp nhận được những công nghệ
hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến, tăng thu ngân sách, phát triển ngành nghề
mới. Nó có tác dụng to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước Lào. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò hết sức quan
trọng đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói chung và đối với CHDCND Lào
nói riêng, nó đã góp phần giải quyết được những vẫn đề hết sức quan trọng
đối với tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, không phải FDI chỉ mang lại những tác động tích cực cho
các bên mà nó còn mang lại những tác động tiêu cực đến nền kinh tế xã hội
của các quốc gia nói chung và của Lào nói riêng. Các tác động tiêu cực đó

đước thể hiện ở một số điểm như: (i) Hoạt động FDI thúc đẩy sự phát triển
không đồng đều giữa thành thị với nông thôn, đẩy nhanh quá trình phân hoá
giầu nghèo trong xã hội; (ii) Thông qua FDI, các nước tiếp nhận đầu tư có thể
tiếp nhận phải những thiết bị lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường; (iii) Đầu tư
trực tiếp nước ngoài, trong đó cũng như các nhà đầu trong nước dẫn có thể
làm cho các doanh nghiệp đến sự cạnh tranh với nhau và bị phá sản.
1.2. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ

1.2.1. Khái niệm bảo đảm đầu tư
Bảo đảm đầu tư có thể được hiểu là bảo toàn những lợi ích thiết thực,
chính đáng của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư, hoặc là nói một cách cụ thể,
đó là bảo toàn vốn và các tài sản được các nhà đầu tư đưa vào sản xuất kinh
doanh, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho vốn và tài sản đó mang lại lợi
nhuận cho nhà đầu tư.
Chúng ta đều biết, các nhà đầu tư chỉ yên tâm và mạnh dạn bỏ vốn, tài


7

sản ra sản xuất, kinh doanh khi họ chắc chắn rằng vốn họ bỏ ra sẽ có lãi và cả
vốn lẫn lãi của họ đều được bảo đảm an toàn. Do vậy, bảo đảm đầu tư là một
trong những phương cách có tính chiến lược để khuyến khích đầu tư và thu
hút vốn đầu tư. Trong số các biện pháp bảo đảm đầu tư thì biện pháp chắc
chắn và có hiệu quả nhất là bảo đảm bằng pháp luật. Vì thế, các nhà nước
muốn khuyến khích, thúc đẩy đầu tư đều cố gắng xây dựng, ban hành và bảo
đảm thực hiện các quy định pháp luật về bảo đảm đầu tư [23, tr 343; 27 tr 12,
13].
Bảo đảm đầu tư là những cam kết của nước tiếp nhận đầu tư nhằm đảm
bảo an toàn về mặt pháp lý cũng như về mặt thực tiễn đối với tài sản, vốn, các
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài khi tiến hành các hoạt

động đầu tư tại nước tiếp nhận. Đặc trưng của hoạt động đầu tư kinh doanh là
khả năng xảy ra rủi ro rất lớn, chính vì vậy, khi tiến hành đầu tư, các nhà đầu
tư thường chú trọng tới việc lựa chọn các biện pháp để giảm thiểu rủi ro trong
kinh doanh. Rủi ro có thể được giảm bớt bằng cách chính bản thân các nhà
đầu tư thiết kế và thực hiện những biện pháp bảo đảm riêng của mình (ví dụ
như tiến hành mua bảo hiểm đối với một số bộ phận của dự án đầu tư).
Ngoài ra, những khả năng rủi ro đó cũng có thể được cam kết giảm bớt
hoặc ngăn chặn không cho xảy ra bởi chính Nhà nước tiếp nhận đầu tư. Hai cách
thức giảm thiếu rủi ro trên đây có những điểm phân biệt rõ nét, cụ thể: Nếu các
nhà đầu tư phải chi trả một khoản tải chính không nhỏ để có được sự an toàn
nhất định trong kinh doanh trong cách thức tự bảo đảm đầu tư thì đối với việc sử
dụng những biện pháp bảo đảm đầu tư do nước tiếp nhận đầu tư cam kết thực
hiện thì các nhà đầu tư không phải chi trả bất cứ một khoản tiền nào.
Khi các nhà đầu tư tự tiến hành bảo đảm đầu tư cho mình có nghĩa là
các nhà đầu tư đã cá biệt hóa dự án đầu tư của mình với một khả năng giảm
thiểu rủi ro có thể không tìm thấy ở các dự án đầu tư khác, mặc dù các dự án
đầu tư khác này có thể cùng địa bàn, cùng lĩnh vự đầu tư. Tuy nhiên, với các
biện pháp bảo đảm đầu tư do nhà nước tiếp nhận đầu tư quy định thì những


8

cam kết đó được áp dụng đối với tất cả các dự án đầu tư, không phân biệt về
quy mụ vốn, nguồn gốc vốn cũng như lĩnh vực và địa bàn đầu tư.
Việc các nhà đầu tư mua bảo hiểm hoặc dùng một số biện pháp đảm
bảo tự thân khác cho dự án đầu tư của mình thì kết quả cũng chỉ có thể giảm
thiểu những rủi ro mà nguyên nhân là do những khuyết tật của nền kinh tế thị
trường hoặc do trình độ quản lý kinh doanh yếu kém của nhà đầu tư. Nếu sử
dụng các biện pháp bảo đảm đầu tư do nước tiếp nhận đầu tư ban hành thì các
nhà đầu tư còn tránh được cả những rủi ro về mặt lập pháp hoặc sự thay đổi

bất thường về mặt chính sách đối với các hoạt động kinh doanh của nước tiếp
nhận đầu tư.
1.2.2. Nội dung pháp luật về bảo đảm đầu tư
Luật đầu tư đảm bảo tính thống nhất giữa các văn bản pháp luật khác
có liên quan như: Luật doanh nghiệp, Luật phá sản, Luật thuế… Trong đó,
Luật doanh nghiệp quy định việc thành lập công ty, hình thức, loài hình, kể cả
việc góp vốn của người đầu tư. Pháp luật bảo đảm đầu tư có thể được hiểu
theo hai nghĩa như: theo nghĩa rộng, pháp luật bảo đảm đầu tư bao gồm các
quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện để: (i) Bảo
toàn vốn đầu tư và các tài sản khác của nhà đầu tư; (ii)Tạo một môi trường
thuận lợi cho nhà đầu tư; (iii) Thừa nhận quyền sở hữu hợp pháp của nhà đầu
tư đối với các lợi nhuận sinh ra tư hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, bảo
đảm công bằng và thỏa đáng giữa bên đầu tư và bên nhận đầu tư, bảo đảm
giải quyết kịp thời, thỏa đáng và đúng pháp luật các tranh chấp phát sinh
trong quá trình đầu tư [27, tr 67- 86].
Theo nghĩa hẹp thì đó là sự bảo đảm bằng pháp luật vốn các tài sản
khác được các nhà đầu tư đưa vào sản xuất, đưa vào kinh doanh. Vốn là vấn
đề được quan tâm hơn cả nên yêu cầu bảo đảm vốn được đặt lên hàng đầu.
Không thể bỏ vốn ra và yên tâm sản xuất kinh doanh nếu thiếu các biện pháp
về bảo toàn vốn đầu tư và các tài sản khác của nhà đầu tư. Nhà nước Lào đã
thừa nhận và bảo hộ quyền sở hữu của nhà đầu tư về vốn và tài sản của họ,
bất kể vốn đầu tư của họ dưới hình thức nào.


9

Trong lĩnh vực bảo toàn vốn và các tài sản khác của nhà đầu tư thì pháp
luật bảo đảm đầu tư phải bảo đảm cho vốn và các tài sản khác của nhà đầu tư sẽ
được đảm bảo không bị trưng dụng, trưng thu hoặc bị tịch thu bằng các biện
pháp hành chính; xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hóa.

Pháp luật bảo đảm đầu tư phải tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho nhà
đầu tư, bao gồm môi trường chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý mà quan trọng
nhất là môi trường pháp lý. Pháp luật bảo đảm đầu tư đặc biệt quan trọng khi
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, vì trước khi quyết định đầu tư vào một nước,
nhà đầu tư thường xem xét đến mức độ ổn định của tình hình chính trị, tiềm
năng phát triển của nền kinh tế và môi trường đầu tư của nước đó. Và họ chỉ
thực sự yên tâm đầu tư khi tin tưởng rằng hoạt động đầu tư của họ bảo đảm sẽ
sinh lợi.
Theo tư duy mới, đầu tư nói chung, nhất là đầu tư trực tiếp của nước
ngoài là một loại hình thị trường, bên cạnh các thị trường hàng hóa, lao động.
Trên thị trường này, mọi hoạt động diễn ra theo cơ chế cạnh tranh, theo quy
luật cung cầu, theo so sánh lực lượng giữa đầu tư công nghệ và tiềm năng
kinh tế. Sự điều tiết của nhà nước được thể hiện trong các quy định của pháp
luật về đầu tư, tạo ra một hành lang pháp lý, trong đó nhà đầu tư có tòan
quyền đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vấn đề lời hay lỗ, tồn
tại hay phá sản, mở rộng hay thu hẹp phạm vi kinh doanh trong phạm vi giấy
phép kinh doanh của mình, trước hết và chủ yếu thuộc về quyền hạn và trách
nhiệm của chủ đầu tư. Do đó, nếu môi trường pháp lý không tốt cho hoạt
động đầu tư nước ngoài thì lợi ích đầu tư khó được bảo đảm .
Khi xem xét pháp luật này cần phân biệt giữa bảo đảm đầu tư với
khuyến khích đầu tư. Cả hai biện pháp này đều nhằm tới một mục đích thu
hút vốn đầu tư, nhưng bảo đảm đầu tư được các nhà đầu tư xem xét đầu tiên.
Bảo đảm đầu tư là những quy định tối thiểu được pháp luật dành cho nhà đầu
tư mà căn cứ vào đó, họ lựa chọn hình thức kinh doanh… Khi đó, nhà nước
mới áp dụng biện pháp khuyến khích đầu tư chủ yếu là thuế. Như vậy, bảo
đảm đầu tư được áp dụng cho mọi nhà đầu tư, nó như một nền tảng, cơ sở mà


10


dựa trên nó, khuyến khích đầu tư được áp dụng chỉ cho một số nhà đầu tư
trong một số lĩnh vực được nhà nước đặc biệt quan tâm, chú trọng.
Tóm lại, về pháp luật bảo đảm đầu tư phải bao hàm tất cả những nội
dung trên. Pháp luật bảo đảm đầu tư được thể hiện trong các văn bản quy
phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật như: Hiến pháp, Luật Đầu tư, luật liên
quan đến lĩnh vực đầu tư cũng như các văn bản pháp quy khác, trong các điều
ước quốc tế về bảo đảm đầu tư nước ngoài do các bên hữu quan ký kết… Nhờ
sự phát triển của khoa học pháp lý, của kỹ thuật xây dựng pháp luật cũng như
nhờ sự tham khảo kinh nghiệm của các nước khác và kinh nghiệm áp dụng
luật đầu tư trong thực tế mà các quy định của pháp luật về đầu tư ở nước
CHDCND Lào ngày càng phát triển theo chiều sâu, ngày càng được chính xác
hóa, chọn lọc và đúc rút được kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới và
ngày càng phù hợp hơn với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước Lào.
1.3. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP Ở LÀO

1.3.1. Các quy định về bảo đảm đầu tư trực tiếp theo Hiến pháp
năm 1991
Nghị định năm 1991 về Luật khuyến khích và đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại CHDCND Lào đã quy định, tài sản và vốn đầu tư của nhà đầu từ
nước ngoài tại Lào sẽ được bảo đảm bằng pháp luật của Lào, không bị nhà
nước trưng thu, trưng dụng, quốc hữu hóa. Trường hợp cần thiết sử dụng vào
lợi ích chung, nhà đầu tư nước ngoài sẽ được Nhà nước bồi thường nhanh
chóng, hợp lý và hữu hiệu (Điều 3). Nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư
vào CHDCND Lào theo hai hình thức: (i) Liên doanh với một hoặc nhiều nhà
đầu tư Lào; (ii) Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (Điều 4).
Liên doanh với một hoặc nhiều nhà đầu tư Lào là hình thức đầu tư
nước ngoài, được thành lập và đăng ký kinh doanh theo pháp luật CHDCND
Lào, cùng sở hữu vốn kinh doanh giữa một hoặc nhiều nhà đầu tư nước
ngoài với một hoặc nhiều nhà đầu tư Lào. Việc điều hành, tổ chức hoạt động



11

của liên doanh và mối quan hệ giữa điều chỉnh bởi hợp đồng được đăng ký
giữa các bên và điều lệ về liên doanh phù hợp với pháp luật của CHDCND
Lào (Điều 5).
Nhà đầu tư trong liên doanh phải góp vốn tối thiểu là 30% tổng đầu tư
của liên doanh, vốn góp của một bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài
trong liên doanh sẽ được chuyển đổi sang tiền Lào theo tỷ giá hối đoái của
ngân hàng Lào và phù hợp với pháp luật của CHDCND Lào (Điều 6).
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là hình thức đầu tư nước
ngoài của một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài, mà không có sự tham gia
của nhà đầu tư Lào, được đăng ký theo pháp luật CHDCND Lào, có thể là
một công ty mới hoặc một chi nhánh hoặc một văn phòng đại diện của một
công ty nước ngoài (Điều 7).
Nếu một đầu tư nước ngoài là một chi nhánh hoặc văn phòng đại diện
của một công ty nước ngoài thì phải có điều lệ công ty phù hợp với pháp luật
của Lào và được ủy ban quản lý đầu tư nước ngoài (FIMC) của CHDCND
Lào phê chuẩn. Việc thành lập và đăng ký đầu tư nước phải phù hợp với Nghị
định về doanh nghiệp của CHDCND Lào (Điều 8, 9).
Nhà nước bảo đảm việc đầu tư và quyền sở hữu của nhà đầu tư và quyền
sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở pháp luật CHDCND Lào, nhà đầu
tư nước ngoài được phép thuê đất và chuyển giao các lợi ích phát sinh từ hợp
đồng thuê đất bất động sản, được phép sở hữu các lợi ích từ đất và động sản
khác và chuyển giao các lợi ích phát sinh từ mối quan hệ sở hữu các loại sản
đó.
Nhà đầu tư nước ngoài được tự do vận hành doanh nghiệp của mình
trong khuôn khổ pháp luật CHDND Lào, Chính phủ không can thiệp vào việc
quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (Điều 10).

Nhà đầu tư nước ngoài phải ưu tiên cho công dân Lào trong việc tuyển
dụng lao động, tuy nhiên các doanh nghiệp nước ngoài, có quyền sử dụng các
chuyển gia và người lao động nước ngoài, trong trường hợp cần thiết, nếu có


12

sự phê chuẩn của cơ quan có thẩm quyền. Nhà đầu tư nước ngoài có nghĩa vụ
nâng cao trình độ, kỹ năng cho người lao động Lào thông qua việc đào tạo ở
Lào hoặc ở nước ngoài. Chính phủ CHDCND Lào tạo thuận lợi cho các nhà
đầu tư nước ngoài và thành viên gia đình của họ được vào lãnh thổ Lào, đi lại,
lưu trú trên lãnh thổ Lào, rời khỏi lãnh thổ Lào. Tất cả những người này phải
tuân thủ pháp luật CHDCND Lào. Người nước ngoài làm việc tại Lào phải
chịu thuế thu nhập cá nhân tối đa 10% (Điều11, 12).
Việc quản lý doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài phải sử dụng hệ
thống kế toán tài chính quốc gia CHDCND Lào, tài khoản của nhà đầu tư
nước ngoài được kiểm toán định kỳ bởi cơ quan tài chính có thẩm quyền phù
hợp với các quy định kế toán được tại CHDCND Lào (Điều 14).
Nhà đầu tư nước ngoài được phép chuyển thu nhập và vốn từ hoạt động
đầu tư nước ngoài về nước hoặc sang nước thứ 3 thông qua một ngân hàng Lào
hoặc ngân hàng nước ngoài thành lập tại Lào, phù hợp với pháp luật điều chỉnh
hoạt động ngoài hối và kim loại qỳy của CHDCND Lào. Đối với người nước
ngoài làm việc tại Lào, sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ thuế, phí, lệ phí cũng có
quyền chuyển lợi nhuận của mình về nước hoặc nước thứ 3 (Điều 15).
Trong trường hợp ngoại lệ, nếu có quyết định đặc biệt của Chính phủ
CHDCND Lào, nhà đầu tư nước ngoài có thể được hưởng ưu đãi và lợi ích
đặc biệt như được giảm hoặc miễn thuế lợi tức hoặc thuế xuất nhập khẩu vật
liệu và phương tiện sản xuất, phụ tùng và các tư liệu khác (Điều 16, 17, 18).
Các nhà đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào phải hoạt động kinh
doanh phù hợp với pháp luật CHDCND Lào, tuân thủ các nguyên tắc bảo vệ

môi trường, bảo vệ sức khỏe và an toàn cho người lao động, thực hiện chính
sách bảo hiểm cho người lao động theo quy định của pháp luật của CHDCND
Lào (Điều 20).
Trường hợp có tranh chấp xảy ra giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhau
hoặc giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư Lào, các bên phải tiến hành
thương lượng thông qua hòa giải. Nếu hòa giải không thành, các bên có quyền


13

đề nghị các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế của
CHDCND Lào hoặc áp dụng hình thức khác để giải quyết tranh chấp như:
Hình thức của CHDCND Lào, của nước ngoài hoặc của quốc tế theo sự lựa
chọn các bên (Điều 21).
1.3.2. Các quy định về bảo đảm đầu tư trực tiếp theo Luật Đầu tư
nước ngoài tại Lào
Các văn bản pháp luật của Lào hiện nay về đầu tư trực tiếp nước ngoài
đã có những quy định bảo đảm đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo Hiến pháp
năm 2003 (sửa đổi và bổ sung hiến pháp năm 1991), Chính phủ Lào bảo đảm
thực hiện ổn định, lâu dài chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Lào, đồng
thời sửa đổi, bổ sung chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài theo nguyên tắc
tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Trong Điều 3 Luật đầu nước ngoài
của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, tài sản đầu tư của nhà đầu tư nước
ngoài đã được đảo bảm bằng pháp luật CHDCND Lào.
Đầu tư nước ngoài có ý nghĩa là sự chuyển vốn gồm có: Tài sản, kỹ
thuật và kinh nghiệm vào nước CHDCND Lào, bởi nhà đầu tư nước ngoài
nhằm mục đích kinh doanh. Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân hoặc pháp nhân
nước ngoài đến đầu tư ở CHDCND Lào. Nhà đầu tư trong nước là người hợp
vốn hoặc người hợp tác kinh doanh với nhà đầu tư nước ngoài, g ồm cá nhân
hoặc pháp nhân công dân Lào sống tại CHDCND Lào. Tài sản là bằng tiền tệ,

các đồ vật tài sản về trí tuệ. Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp
liên doanh và hợp tác kinh doanh theo hợp đồng đã ký với nhau tại CHDCND
Lào (Điều 2) [1, tr 132, 134].
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là yếu tố góp phần tạo ra năng lực thực
hiện hóa các nguồn tiềm năng trong và ngoài nước, thông qua hình thức sản
xuất kinh doanh đặc thù: chuyển vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý sang
một nước khác ngoài đất nước của chủ đầu tư.
Sự bảo đảm đầu tư nước ngoài là như: Tài sản và mọi sự đầu tư của nhà
đầu tư nước ngoài ở nước CHDCND Lào sẽ được bảo đảm bởi pháp luật của


14

Lào, các tài sản đầu tư này không bị thu hồi, tịch thu gồm cả Quốc hữu hóa,
ngoại trừ có sự cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích Quốc gia. Nhà
nước trung mua, trung dụng tài sản của nhà đầu tư thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ
được thanh toán hoặc bồi thường theo pháp luật, trừ trường hợp vì lợi ích công
cộng và được bồi thường nhanh chóng, hợp lí hữu hiệu. Nhà nước đã khẳng
định: “Nhà nước Lào khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn
tại CHDCND Lào, bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp vốn, tài sản và các quyền
lợi khác của nhà đầu tư nước ngoài, bảo đảm vốn và tài sản hợp pháp của nhà
đầu tư nước ngoài không bị tịch thu hoặc quốc hữu hoá” (Điều 15).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại CHDCND Lào hiện nay Nhà nước rất
coi trọng các khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, bằng cách cho phép
các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào hầu hết các ngành và lĩnh vực quan
trọng nhất của nền kinh tế quốc dân (trừ quốc phòng và một số ngành thuộc
lĩnh vực ảnh hưởng đến an toàn và an ninh quốc gia). Pháp luật về đầu tư
nước ngoài tại Lào ngày càng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình
sản xuất - kinh doanh của nhà đầu tư. Đặc bịêt là các quy định về cải cách thủ
tục hành chính, các đường lối, chính sách của Đảng NDCM Lào trong quan

hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài. Cụ thể là tranh thủ được vốn và kỹ thuật
hiện đại, kinh nghiệm và phương pháp quản lý tiên tiến, đào tạo đội ngũ cán
bộ quản lý giỏi và đội ngũ công nhân kỹ thuật cao, nhanh chóng tạo chỗ đứng
vững chắc trong sự phân công lao động quốc tế tạo được thế mạnh trên thị
trường quốc tế. Vì vậy, để khuyến khích các tổ chức và cá nhân nước ngoài
đầu tư vốn và kỹ thuật vào Lào, Luật đầu tư định ra một khung pháp lý khá
hoàn chỉnh và hấp dẫn, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của Lào, bình
đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với luật chơi kinh tế trong môi trường
cạnh tranh của nền kinh tế thị trường và phù hợp với phong tục tập quán và
thông lệ quốc tế.
Do có nhiều thuận lợi và đảm bảo lơị ích của người đầu tư, chỉ hơn một
năm sau khi ban hành Luật đâu tư nước ngoài (năm 1988), đã có nhiều công
ty từ nhiều nước đến trình đơn xin phép vào đầu tư tại Lào với hơn 100 dự án,


15

trong đó đã cấp giấy phép đầu tư hơn 80 dự án với trị giá hơn 70 triệu USD.
Mặc dù, Nhà nước đã ban hành luật khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Lào đã được gần 10 năm nhưng trong thời gian hiện nay vẫn
đang có nhiều mảng xám.
1.3.3. Các quy định về bảo đảm đầu tư trực tiếp theo Luật khuyến
khích đầu tư trong nước của Lào
Luật về khuyến khích đầu tư trong nước CHDCND Lào quy định
nguyên tắc, quy chế và điều khoản thi hành về sự khuyến khích, bảo hộ, bảo
đảm và quản lý đầu tư trong nước của Lào với mục tiêu tăng cường, nhằm
động viên mọi bộ phận, lĩnh vực kinh tế đầu tư với sự hợp tác về kinh tế trong
nước, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, lực lượng cốt yếu, nguồn vốn và trí tuệ
của mình nhằm tăng cường năng lực sản xuất có hiệu quả, để phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần giải quyết

đời sống của nhân dân tốt lên và xây dựng đất nước giầu mạnh (Điều 1).
Đầu tư trong nước là sự bỏ vốn và tài sản, kỹ thuật và kinh nghiệm vào
sản xuất kinh doanh của cá nhân, đặc biệt các nhà đầu tư là người Lào, người
ngoài kiều, người ngoài quốc tịch, đã được sinh sống vững chắc ở nước
CHDCND Lào, kể cả người Lào đã sống ở nước ngoài (Điều 2).
Nhà đầu tư trong nước có thể đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh trong tất cả các ngành nghề và mọi lĩnh vực đầu tư của CHDCND Lào,
ngoài trừ các công trình liên quan tới an ninh Quốc gia, có hiệu quả xấu tới
môi trường hiện tại hoặc trong tương lai, về sức khỏe, văn hóa tốt lành của
quốc gia. Nhà nước khuyến khích nhà đầu tư trong nước đầu tư vào công trình
của các ngành nghề, lĩnh vực đầu tư riêng mà đã quy định trong Điều 9 và 10
của Luật này. Nhà nước đề ra chỉ tiêu Chính sách về thuế, thuế thu nhập, nội
quy, các điều khoản thi hành, về sự cung cấp thông tin, phục vụ và thuận lợi
khác cho nhà đầu tư nước ngoài (Điều 3). Nhà đầu tư có thể tham gia đầu tư
vào mọi lĩnh vực kinh tế, mọi ngành kinh tế theo quy định của luật doanh
nghiệp, trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhà đầu tư phải bảo đảm tổng số
vốn đã đăng kí kinh doanh (Điều 4) [1, tr 104, 105].


16

Việc bảo đảm đầu tư trong nước, tài sản, vốn của các nhà đầu tư sẽ
được Nhà nước bảo đảm bằng các quy định cụ thể của pháp luật. Nhà nước
không tịch thu vốn và tài sản đầu tư của các doanh nghiệp khi đầu tư vào
trong nước. Tuy nhiên, trong những trường hợp cần thiết phải sử dụng những
tài sản, vốn đầu tư đó thì các nhà đầu tư sẽ được bồi thường và thanh toán
theo quy định của pháp luật CHDCND Lào (Điều 5). Nhà nước bảo đảm về
việc khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong nước đầu tư vào, sản xuất,
kinh doanh thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần ổn
định và phát triển nền kinh tế quốc gia. Theo luật này, tài sản của nhà đầu tư

kể cả người đầu tư trong nước sẽ được bảo đảm bởi pháp luật, bao gồm nhiều
trong lĩnh vực luật. Với mục tiêu tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi,
khuyến khích đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài, hệ thống pháp
luật của Lào ngày càng được hoàn thiện và đổi mới để phù hợp với yêu cầu
mới. Nhà đầu tư trong nước có quyền và lợi ích như: (i) được Nhà nước tạo
thuận lợi trong việc thành lập và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và
nước ngoài theo quy định của pháp luật; (ii) được Nhà nước bảo đảm quyền
và lợi ích đã thu được hoạt động kinh doanh của nình; (iii) Làm chủ sở hữu tài
sản như (có quyền quản lý, sử dụng, quyền được để lại thừa kế tài sản đã thu
được từ việc đầu tư của mình); (iv) được các cơ quan tổ chức tín dụng tạo
thuận lợi trong việc xin cấp tín dụng; (v) được Nhà nước giúp đỡ về chuyên
gia, kỹ thuật và thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh; (vi) được Nhà
nước khuyến khích, thúc đẩy về thị trường kể cả giá trị hàng hóa từ việc sản
xuất của mình. Đối với nhà đầu tư trong nước có nơi cư trú tại nước, sau khi
đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ lệ phí khác, có thể gửi lợi nhuận và nguồn vốn
trong hoạt động kinh doanh và lợi nhuận khác đúng theo pháp luật về nơi cư
trú của mình hoặc sang nước thứ 3 thông qua tổ chức tín dụng tại CHDCND
Lào theo tỷ giá hối đoái của ngân hàng trong thời điểm đó.
Nhà đầu tư trong nước và thành viên gia đình kể cả chuyên gia, cán bộ
với tư cách là lao động nước ngoài của doanh nghiệp đầu tư trong nước sẽ
được tạo điều kiện thuận lợi trong việc xin cấp hộ chiếu ra vào nhiều lần và


17

sinh sống tại Lào trong thời hạn lâu dài theo quy định của Nhà nước; được
bảo đảm về sở hữu trí tuệ đã đăng ký tại cơ quan hữu quan của CHDCND
Lào. Có quyền khởi kiện lên cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp bị xâm
phạm, thiệt hại về lợi ích trong hoạt động kinh doanh.
1.3.4. Các Nghị định của Chính phủ quy định về hoạt động bảo

đảm đầu tư trực tiếp ở Lào
Theo Nghị quyết của Quốc hội nước CHDCND Lào về quy định thông
qua Luật sửa đổi một số điều Luật khuyến khích đầu tư trong nước và nước
ngoài của Lào, căn cứ Điều 53 khoản 2 Hiến pháp và Điều 3 khoản 2 luật Quốc
hội Nước CHDCND Lào về quyền và nghĩa vụ của Quốc hội; đề nghị của Thủ
tướng Chính phủ số 31/VPTTCP.TK ngày 04/06/2004, ngày 22/10/2004, kỳ
họp thứ 6 của Quốc hội khóa V đã thông qua Luật sửa đổi một số điều của Luật
khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài [1, tr 101, 129]
Nền kinh tế của nước CHDCND Lào là nền kinh tế nhiều thành phần.
Mọi thành phần kinh tế đều được Nhà nước khuyến khích để phát triển và mở
rộng năng lực sản suất, kinh doanh; thực hiện việc chuyển đổi từ kinh tế tự
nhiên sang nền kinh tế hàng hóa gắn với nền kinh tế khu vực và thế giới; thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu ổn định, phát triển và nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Mọi thành phần kinh tế đều phải
tuân theo pháp luật và hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cho nên, Chính phủ Lào đã khẳng định sự tôn trọng của mình
đối với quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài và đặc biệt là quyền tự do
kinh doanh của nhà đầu tư, đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật tất cả
các loại hình doanh nghiệp mà pháp luật cho phép hoạt động, cụ thể như: Bảo
đảm tuyệt đối quyền sở hữu về tài sản của các nhà đầu tư nước ngoài trong
quá trình đầu tư. Trong trường hợp có những tranh chấp kinh tế giữa các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp khác, Nhà nước Lào
sẽ không có sự phân biệt giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các tranh chấp này sẽ được xét xử bởi tòa
án hoặc bất kỳ một phương thức nào do các bên thỏa thuận và được pháp luật


18

cho phép. Các cơ quan Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu

tư nước ngoài, đặc biệt là các thủ tục hành chính, các nhà đầu tư nước ngoài
được phép lựa chọn cơ quan xét xử các tranh chấp kinh tế hoặc được áp dụng
các quy định của bản án của tòa án, trọng tài nước ngoài trong trường hợp các
quốc gia thỏa thuận công nhận và thi hành các quyết định của tòa án, trong tài
nước ngoài theo các hiệp định về tương trợ tư pháp. Điều 3 Luật đầu tư năm
1994 quy định về việc tài sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu
hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính trừ trường hợp thật cần
thiết, vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích Quốc gia, Nhà nước trưng mua,
trưng dụng tài sản của các nhà đầu tư thì nhà đầu tư được thanh toán hoặc bồi
thường theo giá trị thị trường tại thời điểm công bố, việc trưng mua, trưng
dụng, việc thanh toán hoặc bồi thường phải đảm bảo lợi ích hợp pháp của nhà
đầu tư và không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư. Biện pháp bảo đảm đầu
tư, đầu tiên này được áp dụng đối với tất cả nhà đầu tư có hoạt động đầu tư
theo pháp luật của Nhà nước CHDCND Lào, không phân biệt mức độ bảo hộ
nhiều hay ít, dựa trên bất kỳ một tiêu chí nào.
Trên cơ sở nguyên tắc mỗi bên cùng có lợi và hoạt động theo pháp luật
Lào, các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài được đầu tư và tiến hành sản
xuất kinh doanh trong tất cả các kinh tế như ngành nông nghiệp, lâm nghiệp,
công nghiệp chế biến, ngành năng lượng khai thác khoảng sản, thủ công giao
thông vận tải, xây dựng, du lịch thương mại, dịch vụ... Nhà nước luôn tôn
trọng các thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng và cũng sẵn sàng đứng ra
giải quyết nếu như theo yêu cầu của hai bên đặt ra, còn nếu hai bên thỏa thuận
nhờ một cơ quan nào có thẩm quyền nước thứ ba đứng ra giải quyết thì Nhà
nước Lào cũng không ngăn cấm mà còn tôn trọng biện pháp giải quyết đó của
các nhà đầu tư.
Việc bảo hộ nhà nước đối với các hoạt động đầu tư bao gồm sự bảo
đảm về giải quyết tranh chấp xẩy ra trong quá trình thực hiện dự án đầu tư.
Tuy nhiên, một khía cạch liên quan nhà nước có thể bảo đảm cho các nhà đầu
tư một cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp với thông lệ quốc tế, đề cao



19

quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư và để độ tin cậy cũng như độ an toàn
về mặt thực thi các quyết định trong giải quyết tranh chấp về đầu tư.

1.4. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ
ĐỊNH BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ Ở LÀO

1.4.1 Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1991
Sau khi cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ đã kết thúc, Đảng
NDCM Lào lãnh đạo đất nước cách mạng theo con đường xã hội chủ nghĩa,
Đảng nhân Dân cách Mạng Lào lãnh đạo tất cả mọi việc của đất nước, Nhà
nước là đi theo sự nghịêp và con đường chính trị của Đảng, trong ngày 1/ 2/
1975 Nhà nước CHDCND Lào đã khởi đầu Đại hội lớn nhất của Quốc hội tại
Thủ đụ” Viêng Chăn. Đại hội nêu nhiều vấn đề sẽ cần phải giải quyết và bổ
sung, với công việc kế hoạch sáng tạo để phát triển đường lối chính trị, kinh
tế - xã hội, quản lý nhà nước, về việc bảo hộ - bảo đảm đời sống của người
nhân dân trong nước cũng như ngoài nước, làm thế nào cho nó nâng cao ngày
càng tốt lên để thoát khỏi ra sự nghèo nàn, ngu dốt và lạc hậu và có thể được
bước qua đi tới sự giàu mạnh và huy hoàng.
Ngòai ra còn có vấn đề khác nữa mà Nhà nước cần thiết củng cố giải
quyết, bổ sung và phương hướng hoàn thiện trong tương lai…
Thời gian đó vì đất nước mới vừa giải phóng xong, các hệ thống công
tác, cách thức quản lý đất nước được điầu hành theo Nghị quyết, Nghị định
của Chính phủ cũng như lệnh mệnh trực tiếp Chủ tịch nước, chưa ban hành
pháp luật nào để áp dụng điều chỉnh. Để điều hành đất nước cũng chưa có
hiến pháp và văn bản pháp luật chính, chỉ có Nghị quyết, Nghị định Chính
phủ và mệnh lệnh của Chủ tịch nước. Cơ sở kinh tế vẫn còn yếu kém, gốc rễ
của người dân phần lớn là dựa vào thiên nhiên. Công nghệ sản xuất kinh

doanh, kinh tế thị trường và thương mại rất là hẹp, chưa được mở rộng ra
nước ngoài. Cho nên, việc phát triển đất nước rất là gặp nhiều vấn để khó
khăn. Việc ngoại giao, trong khu vực Châu Á cũng có một số nước thì có con


20

đường chính trị gần giống và giúp đỡ nhau trong nhiều bên việc, bởi không
phân biệt là bên nào như: Nước Việt Nam, Trung Quốc, Nga, Cu Ba… đặc
biệt là nước Việt Nam. Việt Nam và Lào là ngoài nước láng giềng đã từng
cùng nhau đứng lên đấu tranh giành độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Đông Dương và giành thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng của mỗi dân
tộc, hai quốc gia đã có quan hệ rất khăng khít trên nhiều lĩnh vực, có sự tương
đồng về nhiều mặt như: chính trị, kinh tế, văn hóa… Hai nước ký hiệp ước
hữu nghị và hợp tác ngày 18/7/1977, cùng nhau đồng lòng coi trọng phát triển
trên tất cả các lĩnh vực, với tinh thần hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc
biệt thành quan hệ hợp tác toàn diện, ưu tiên cho các lĩnh vực như trên hoặc
coi đây là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng đất nước.
Đầu tư là sự nghiệp mới của Đảng trong thời gian đó, vì đất nước Lào
vừa ra khỏi nước thuộc địa, cho nên đầu tư trực tiếp nước ngoài là vấn đề đã
được Đảng và Nhà nước quan tâm từ những năm 1980. Điều đó chứng tỏ rằng
Đảng và Nhà nước đã thấy được vai trò và những mặt tích cực của FDI trong
sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Theo đại hội của Đảng lần thứ IV, năm
1986 đã đánh dấu bước đổi mới từ cơ chế quản lý kinh tế tập trung sang cơ
chế quản lý kinh tế thị trường. Do nhu bước đầu tiên của sự đổi mới kinh tế
thương mại còn gọi là kinh tế thương mại trong giai đoạn đột phá của Lào, đã
và đang tiếp tục vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp cao
quý của đất nước. Tại đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ IV 11/1986 đã rút ra
được từ thực tiễn 10 năm bảo vệ và xây dựng đất nước và không ngừng tăng

cường, củng cố tình đoàn kết, chiến đấu mở rộng sự hợp tác toàn diện với các
nước láng giềng và các nước XHCN anh em khác. Đại hội đã chính thức tiến
hành công cuộc đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đẩy
mạnh và đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoài. Hội đồng nhân dân tối cao
của Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Lào vào ngày 25/7/
1988. Nhìn lại Điều lệ năm 1988, ta thấy hiện thái độ và mong muốn của Nhà
nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài: “Chính phủ nước CHDCND Lào


21

hoan nghênh việc đầu tư nước ngoài ở Lào trên nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền của Lào và hai bên cùng có lợi”(Điều 1: Luật đầu tư nước ngoài
năm1988). Tuy nhiên, những quy định này tại thời điểm năm 1988 chỉ có thể
xem như một lời tuyên ngôn, còn khả năng thực thi của nó thì rất kém.
Sau khi Đảng và Nhà nước Lào thực hiện chính sách mở cửa cho các
nhà đầu tư nước ngoài và thực hiện mở của tiếp đón nhận lấy các nhà đầu tư
tiếp nước ngoài vào CHDCND Lào. Lụât đầu tư nước ngoài đã được công bố
ban hành chính thức ngày 19/9/1988, đây là đạo luật đào tạo cơ sở pháp lý
cho hoạt động FDI tại Lào. Luật cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được
đầu tư rộng rãi vào các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân (trừ một số lĩnh vực
không thể được phép để đảm bảo an ninh Quốc phòng hoặc môi trường) [2, tr
1,2].
Theo Luật đầu tư nước ngoài năm 1988, nhà đầu tư nước ngoài có thể
đầu tư vào Lào dưới một số hình thức như: hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp
doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài.
Nhà nước bảo đảm cho các nhà đầu tư kinh doanh hai bên cùng góp
vốn, vật tư, trang bị kỹ thuật trên cơ sở một hợp đồng sản xuất hàng hóa tại
Lào. Lợi ích sẽ được chia cho hai bên theo tỷ lệ nhất định do hai bên thỏa

thuận trước, lợi ích chia cho bên nước ngoài không được tiêu thụ tại Lào. Đây
thực chất là một dạng của hình thức đầu tư “hợp tác kinh doanh trên cơ sở
hợp đồng, hợp tác kinh doanh”theo pháp luật hiện nay.
Nhà nước cho các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (hình thức đầu
tư nước ngoài của một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài) được thành lập và
đăng ký theo pháp luật của CHDCND Lào, mà không có sự tham gia của nhà
đầu tư trong nước, có thể là một công ty hoặc một chi nhánh hoặc một văn
phòng đại diện của một công ty nước ngoài.
Nhà đầu tư trong liên doanh phải góp vốn tối thiểu là 30% tổng đầu tư
của liên doanh, vốn góp của một bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài


22

trong doanh nghiệp sẽ được chuyển đổi sang tiền Lào theo tỷ giá hối đoái của
ngân hàng CHDCND Lào hợp với pháp luật của Lào (Điều 8, Điều lệ 1988 ).
Nhà nước đầu tư nước ngoài được bảo đảm quyền kinh doanh trong thời hạn
từ 10 đến 15 năm, trường hợp đặc biệt thời hạn có thể kéo dài hơn. Được Nhà
nước Lào bảo hộ vốn, nếu do yêu cầu của nền kinh tế quốc dân phải quốc hữu
hóa xí nghiệp thì được Nhà nước Lào mua lại theo giá cả hợp lý, do hai bên
thỏa thuận. Nhà đầu tư nước ngoài có thể được hưởng các ưu đãi về thuế
(miễn hoặc giảm thuế một hay nhiều lần, thời gian dài hay ngắn, các loại thuế
phải nộp) tùy lĩnh vực đầu tư.
Sang tới năm 1990 - 1991, với việc phát triển đầu tư trực tiếp trong
nước và nước ngoài, Hiến pháp và văn bản pháp luật đầu tư trong tình hình
mới vẫn chưa có gì sửa đổi và bổ sung thêm nhiều lắm. Về việc hoạt động
kinh tế, đầu tư kinh doanh và doanh nghiệp của các nhà đầu tư trong nước và
nước ngoài, vẫn còn phải thực hiện theo pháp luật năm 1988, bởi vỡ chưa có
gì thay đổi vẫn còn sử dụng cũ pháp luật chính văn bản năm 1988 để áp dụng
hoạt động trong thực tế cho công việc quản lý Nhà nước; quản lý bảo vệ, bảo

hộ, bảo đảm đầu tư và các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài về sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2004
Tiếp theo Luật đầu tư nước ngoài năm từ 1988, đến 1991 Hiến pháp
năm 1990 - 1991 (Điều 8, 11, 15, 16) đã quy định vấn đề bảo đảm đầu tư với
nội dung như sau: vốn và tài sản hợp pháp được bảo hộ; tài sản hợp pháp của
cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hóa; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối
với vốn, tài sản và quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài; doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hóa. Những quy định này
đã trở thành nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo cho pháp luật về đầu tư tại Lào.
Tuy Luật đầu tư nước ngoài năm 1988 và 1991 có nhiều điểm thông
thoáng và hợp dẫn, nhưng do tác động của một số yếu tố đã làm cho Luật này
kém hiệu quả và cần phải được tiếp tục sửa đổi, bổ sung. Đó là: (1) Sự cạnh


23

tranh trong việc thu hút đầu tư giữa các quốc gia kêu gọi đầu tư ngày càng
gay gắt; (ii) tình hình kinh tế nước Lào có nhiều thay đổi, nhiều thành phần
kinh tế được thừa nhận và được tạo điêu kiện để phát triển; (iii) một trong
những mục tiêu quan trọng của chiến lược kinh tế - xã hội của nước Lào đến
năm 2000 là
ra sức thu hút đồng vốn đầu tư nước ngoài.
Trong năm 1991 cũng có một số các văn bản pháp luật liên quan đến
bảo đảm đầu tư như Luật phá sản doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật thuế… Đối
với đầu tư là việc thừa nhận một nền kinh tế hàng hóa, với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế. Cơ chế quản lý được thay đổi, từ chế độ quản lý tập
trung, bao cấp của Nhà nước sang cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa có sự quản lý của Nhà nước đã phát huy các tiềm năng của thành phần
kinh tế và chỉ trong một vài năm, bộ mặt kinh tế đất nước đã có những bước

chuyển biến rõ rệt.
Đến ngày 14/3/1994, Quốc hội CHDCND Lào đã thông qua Luật
khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài, tại kỳ hợp thứ 3 khóa III, Chủ tịch
nước đã công bố ban hành. Luật mới này gồm: 5 chương với 31 điều, trong đó
có một số điều được quy định cụ thể hơn, chặt chẽ hơn để các nhà đầu tư
nước ngoài dễ vận dụng. Luật đầu tư nước ngoài năm 1988 đã được sửa đổi
bởi Luật khuyến khích và quan lý đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào, tiếp
đó được Chủ tịch nước công bố áp dụng bằng Sắc lệnh số 23/CTN ngày
21/4/1994.
Nhà nước được đánh giá, đây là đạo luật của đường lối đổi mới đất
nước. Trong đạo luật này, khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngoài
đã được làm rõ hơn, thể hiện quan điểm mới của Đảng và Nhà nước Lào về
vấn đề này. Lần đầu tiên, Nhà nước Lào đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất
cho nhà đầu tư nước ngoài. Những biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư
trực tiếp nước ngoài được mở rộng hơn, bảo đảm cho nhà đầu tư nước ngoài
được hưởng những quyền và lợi ích chính đáng, phù hợp với thông lệ quốc tế.


24

Nói về biện pháp hỗ trợ đầu tư, có nghĩa là những hoạt động chủ động
của Nhà nước Lào nhằm trợ giúp các nhà đầu tư nước ngoài trong những
trường hợp cần thiết. Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Lào không quy
định chi tiết về hỗ trợ đầu tư ngoài trong việc cân đối ngoại tệ đối với các dự
án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập
khẩu thiét yếu (Luật 1994).
Đối với đầu tư trong nước, Quốc hội đã ban hành Luật khuyến khích và
quản lý đầu tư trong nước ngày 14/10/1995 số 03/95 QH, được công bố áp
dụng bằng Sắc lệnh số 17/CTN của Chủ tịch nước ngày 26/10/1995. Luật này
cũng đã dành hẳn một chương quy định về các biện pháp bảo đảm đầu tư và

hỗ trợ đầu tư. Tuy các điều khoản còn sơ sài, chỉ có vài điều về bảo đảm đầu
tư là (Điều 5, 6), ví dụ như: Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài
sản, vốn đầu tư, lợi nhuận, các quyền và lợi ích kợp pháp khác của chủ đầu tư.
Tài sản, vốn đầu tư không quốc hữu hóa, trong trường hợp thật cần thiết vì lý
do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước quyết định trưng
mua hoăc trưng dụng tài sản của chủ đầu tư, thì chủ đầu tư được thanh toán
hoặc được bồi thường theo thời giá thị trường và được tạo điều kiện thuận lợi
để đầu tư vào lĩnh vực, địa bàn thích hợp.
Tuy chỉ ghi nhận bằng hai điều khoản, không đầy đủ và cũng không chi
tiết, nhưng dù sao thì luật cũng đã ghi nhận về bảo đảm đầu tư đối với nhà
đầu tư trong nước.
Từ đó, đến năm 2000 - 2001 Nhà nước đã có Quyết định số 046/TT
ngày 23/03/2001 về tổ chức thực hiện Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài
tại CHDCND Lào, ngoài ra còn một số văn bản pháp luật về bảo đảm đầu tư.
Nhà nước quan tâm về việc mở rộng mối quan hệ hợp tác kinh tế với
nước ngoài, hướng tới việc thực hiện chính sách đổi mới toàn diện, trong đó
đặc biệt quan trọng là lĩnh vực kinh tế, thực hiện mục tiêu chuyển đổi việc
quản lý kinh tế kiểu cũ thành kinh tế kiểu mới, phát huy sức mạnh làm chủ
của người dân, thống nhất chính sách tiền tệ, đẩy mạnh các ngành công
nghiệp năng lượng như: khai thác mỏ, khai thác năng lượng điện... Mặt khác,


25

những đòi hỏi về vốn, về máy móc, trang thiết bị, công nghệ hiện đại và trình
độ lao động và quản lý của người lao động cũng là những nhu cầu cấp thiết,
được coi chính sách hàng đầu để phát triển kinh tế.
Huy động vốn đầu tư không chỉ đem lại lợi ích cho nền kinh tế mà nó
còn góp phần tăng nguồn thu ngân sách, tạo việc làm cho người lao động,
chính sách dành cho người nghèo được quan tâm nhiều hơn, vấn đề trật tư an

toàn xã hội được bảo đảm. Nhận thấy được vai trò to lớn của chính sách đầu
tư, Chính phủ Lào đã ban hành các chính sách khuyến khích, trong đó quy
định các cá nhân, tổ chức không chỉ là nhà đầu tư trong nước mà nhà đầu tư
nước ngoài có quyền đầu tư tại CHDCND Lào, trên nguyên tắc các bên cùng
có lợi và hoạt động trên cơ sở pháp luật của Lào, người đầu tư sẽ được bảo
đảm bởi pháp luật của nước CHDCND Lào.
Về bảo đảm đầu tư, đối với nguyên tắc của pháp luật này đã thể hiện ra
2 nguyên tắc như: (i) Nguyên tắc bảo đảm về chính trị, nguyên tắc này thể
hiện đặc trưng, vị trí, địa lý, chế độ chính trị của Quốc gia; (ii) Nguyên tắc
bảo đảm về kinh tế, nguyên tắc này phản ánh việc không can thiệp vào kinh tế
của nhau, đặc biệt là không làm ảnh hưởng tới các thành phần tư nhân khác.
Theo nguyên tắc luật này, tài sản của nhà đầu tư, kể cả nhà đầu tư
người đầu tư trong nước sẽ được quản lý bởi pháp luật, bao gồm nhiều lĩnh
vực pháp luật như: Luật lao động, Luật bảo hiểm, Luật bảo hiểm trong hợp
đồng, Luật cam kết ngoài hợp đồng hoặc trong hợp đồng và các luật khác…
Chính phủ cũng có những ưu đãi nhất định cho các nhà đầu tư nước ngoài
như: miễn giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu hoặc phương tiện đưa vào sử
dụng sản xuất, kể cả hoạt động phân phối hàng hóa, Nhà nước còn tạo thuận
lợi về chính sách khác cho nhà đầu tư như việc ra vào lãnh thổ CHDCND Lào
kể cả thành viên gia đình của họ, việc chuyển lợi nhuận về nước phù hợp với
pháp luật của Lào và Quốc gia nơi họ là công dân.
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy dưới luật để quy định
chi tiết thi hành. So với Hiến pháp mới năm 2003 (sửa đổi, bổ sung của Hiến
pháp 1991) do Chủ tịch nước CHDCND Lào công bố vào ngày 28/05/2003,


×