Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Giáo dục tình yêu quê hương, đất nước cho học sinh Tiểu học thông qua truyện ngắn viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 76 trang )

Lời cảm ơn
Đề tài “ Giáo dục tình yêu quê hương, đất nước cho học sinh Tiểu học
thông qua truyện ngắn viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng”được
thực hiện trong một thời gian ngắn, điều kiện không ít khó khăn. Để hoàn thành
được bài khóa luận tốt nghiệp này chúng tôi đã khẩn trương thu thập xử lý và
chọn lọc tài liệu, thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra. Những kết quả mà
tôi đã đạt được ngoài sự cố gắng của bản thân còn được sự tận tình, giúp đỡ của
thầy cô giáo tron g khoa Giáo dục Tiểu học và sự động viên, khích lệ của bạn bè.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Võ Thị Bảy đã trực
tiếp hướng dẫn, tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành đề tài này.
Do bước đầu làm quen với khóa luận nên kiến thức, trình độ chuyên môn
của tôi còn hạn chế, vì thế khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
nhận được sự chỉ bảo, nhận xét, đóng góp ý kiến quý báu của thầy cô giáo và các
bạn để khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

Đà Nẵng, tháng năm
Sinh viên


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………1
1.Lí do chọn đề tài………………………………………………………………...1
2. Lịch sử vấn đề ………………………………………………………………….2
2.1 Lịch sử vấn đề nghiên cứu về tình yêu quê hương, đất nước và giáo dục tình
yêu quê hương, đất nước…………………………………………………………..2
2.2 Lịch sử vấn đề nghiên cứu về nhà văn Nguyễn Huy Tưởng………………….4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………..5
3.1 Mục đích nghiên cứu………………………………………………………….5
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………………….5
4. Đóng góp của đề tài…………………………………………………………….6


5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………………6
6. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………..6
7. Cấu trúc đề tài…………………………………………………………………...6
PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………………….8
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Khái quát chung về văn học thiếu nhi……………………………………….8
1.1 Khái niệm văn học thiếu nhi…………………………………………………..8
1.2 Vai trò và ý nghĩa của văn học thiếu nhi………………………………………8


2. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh Tiểu học………………………………….9
2.1 Tính cách……………………………………………………………………...10
2.2 Nhu cầu nhận thức…………………………………………………………….10
2.3 Tình cảm………………………………………………………………………11
3. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và truyện viết cho thiếu nhi…………………12
3.1 Cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng …………………….12
3.2 Truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng………………….14
3.2.1 Giá trị nội dung……………………………………………………………..14
3.2.2 Giá trị nghệ thuật……………………………………………………………14
Tiểu kết…………………………………………………………………………...14
Chương 2. TÌM HIỂU NỘI DUNG GIÁO DỤC TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG
ĐẤT NƯỚC CHO HỌC SINH TIỂU HỌC QUA TRUYỆN VIẾT CHO
THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN HUY TƯỞNG
1. Một số vấn đề về tình yêu quê hương, đất nước…………………………….17
1.1 Khái niệm về tình yêu quê hương, đất nước………………………………….17
1.2 Đặc điểm của tình yêu quê hương, đất nước………………………………….17
1.3 Biểu hiệu của tình yêu quê hương, đất nước………………………………….18
1.4 Mục tiêu giáo dục tình yêu quê hương, đất nước cho học sinh tiểu học……...19
1.5 Ý nghĩa của giáo dục tình yêu quê hương, đất nước cho học sinh tiểu học…..20
2. Nội dung giáo dục tình yêu quê hương, đất nước trong truyện viết cho thiếu

nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng…………………………………………..21
2.1 Giáo dục học sinh tình yêu thiên nhiên quê hương, đất nước………………...21


2.2 Giáo dục học sinh biết ơn những người có công xây dựng, bảo vệ và giữ gìn
đất nước…………………………………………………………………………...24
2.3 Giáo dục cho học sinh ý thức độc lập tự chủ, tự hào dân tộc…………………31
2.4Giáo dục học sinh về truyền thống yêu nước của dân tộc, niềm tin vào chiến
thắng chính nghĩa………………………………………………………………….37
Tiểu kết…………………………………………………………………………...37
Chương 3. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TÌNH YÊU QUÊ
HƯƠNG ĐẤT NƯỚC CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
1. Cơ sở đề xuất biện pháp………………………………………………………42
1.1 Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lí của học sinh………………………………...42
1.2 Căn cứ vào truyệt viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng………49
2.Biện pháp giáo dục tình yêu quê hương đất nước cho học sinh tiểu học…..49
2.1 Mục tiêu giáo dục……………………………………………………………..49
2.2 Biện pháp giáo dục tình yêu quê hương đất nước cho học sinh tiểu học……..50
2.2.1 Giáo dục tình yêu quê hương đất nước thông qua lồng ghép nội dung vào các
môn học…………………………………………………………………………..50
2.2.2 Giáo dục tình yêu quê hương, đất nước thông qua phương pháp kể chuyện.56
2.2.3 Giáo dục cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt đẹp để trở thành người
yêu quê hương, đất nước………………………………………………………….60
2.2.4 Giáo dục thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động tập thể……63
PHẦN KẾT LUẬN……………….……………………………………………...65
1. Kết luận……………………………………………………………………65
2. Một số ý kiến đề xuất……………………………………………………..66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………69






PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Lòng yêu nước
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, nó đã thấm sâu vào trong tiềm thức
của mỗi người Việt Nam. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi,
nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,
khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và cướp nước”[1; trang114]
Suốt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước đã trở
thành một trong những tài sản quý, một giá trị thiêng liêng góp phần làm nên
truyền thống dân tộc Việt Nam. Truyền thống yêu nước còn là đặc trưng tiêu biểu
của tính cách con người Việt Nam. Giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh
tiểu học hiện nay nhằm xây dựng ở các em lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự hào
dân tộc, có đạo đức trong sáng, có ý chí và quyết tâm xây dựng quê hương, đất
nước giàu mạnh. Truyền thống lịch sử rất đáng tự hào với nhiều chiến công hiển
hách, những mốc son, dấu ấn đáng nhớ ấy là kết tinh của lòng yêu nước, ý thức tự
tôn, tự hào dân tộc, tinh thần chiến đấu hy sinh anh dũng của bao thế hệ cha anh đi
trước, đặc biệt là tấm gương của những anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam
đã ngã xuống vì quê hương, đất nước.
Nhắc đến văn học Việt Nam thế kỷ XX không thể không nhắc tới những
sáng tác ấn tượng về mảng văn chương về tình yêu quê hương, đất nước viết cho
thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Sinh thời ông ý thức một cách rõ ràng
về thiên chức của người nghệ sĩ với quan niệm rất tiến bộ, rất nhân văn: Phàm văn
chương mục đích thứ nhất là để dạy dỗ thiếu niên … cốt làm sao cho bao giờ họ
cũng có một tấm lòng bồng bột mà vẫn biết lẽ phải và biết thương nhau. Vì thế
ngay khi hòa bình lập lại ở miền Bắc được ít lâu, với tư cách là người sáng lập và

là Giám đốc đầu tiên của NXB Kim Đồng (1957), Nguyễn Huy Tưởng đã góp
phần quan trọng đặt nền móng, mở ra một tương lai tốt đẹp cho văn chương tuổi
thơ, khi ấy hiện là một mảng đề tài còn nhiều khoảng trống, thiếu vắng những tác
phẩm đỉnh cao. Những truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng khôngchỉ
đa dạng, phong phú về đề tài, bút pháp thể hiện, mà hơn nữa là lòng yêu nước thiết
tha, niềm tự hào dân tộc về những trang sử vẻ vang của dân tộc, là tình nghĩa thủy
1


chung, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào sự chiến thắng của chính nghĩa. Có thể
nói đây là ấn tượng bao trùm, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các truyện viết cho
thiếu nhi của ông.
Giáo dục tình yêu quê hương, đất nước cho học sinh tiểu học có thể thông
qua nhiều con đường khác nhau, song thông qua các truyện ngắn viết cho thiếu nhi
để giáo dục tình yêu quê hương, đất nước cho học sinh tiểu học sẽ giúp các em
hiểu biết rõ hơn về lịch sử nước nhà, mỗi câu chuyện viết cho thiếu nhi lại cung
cấp cho các em những tri thức và thông tin ở một số lĩnh vực nhất định. Qua nội
dung phản ánh, truyện ngắn viết cho thiếu nhi có tác động mạnh mẽ đến nhận thức
và hành vi của bạn đọc nhí không những giúp các em hiểu biết và cảm nhận được
nội dung của tác phẩm, mà còn biết trân quý những giá trị thiêng liêng của đất
nước, lịch sử dân tộc ngàn đời mà tiền nhân đã để lại. Giáo dục truyền thống yêu
nước sẽ trở nên sinh động hơn bao giờ hết với các truyện viết cho thiếu nhi và khi
nhắc tới người ta sẽ nhớ ngay đến cái tên nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, một trong
những tác giả tiêu biểu của các truyện ngắn viết cho thiếu nhi về giáo dục tình yêu
quê hương, đất nước.
Từ thực tiễn trên đây, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài“Giáo dục tình yêu
quê hương đất nước cho học sinh Tiểu học qua truyện viết cho thiếu nhi của
nhà văn Nguyễn Huy Tưởng” để nghiên cứu làm bài khóa luận tốt nghiệp với
mong muốn tìm hiểu và đóng góp một vài giải pháp thiết thực trong việcgiáo dục
truyền thống yêu nước, lịch sử dân tộc, định hướng thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh

tiểu học hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Lịch sử vấn đề nghiên cứu về giáo dục tình yêu quê hương đất nước cho học
sinh tiểu học
Giáo dục tình yêu quê hương, đất nước cho học sinh tiểu học hiện nay đã trở
thành một vấn đề nhận được sự quan tâm của rất nhiều học giả, các bậc phụ huynh,
các ban, ngành và của nhiều phương tiện thông tin đại chúng trong, ngoài nước.
Nội dung giáo dục tình yêu quê hương, đất nước đã được đưa vào nhà trường và
chương trình giáo dục với hình thức tích hợp ở các môn học. Vì thế nghiên cứu về
giáo dục tình yêu quê hương đất nước cho học sinh cũng đã có nhiều công trình
nghiên cứu, tiêu biểu như:
2


Giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho học sinh tiểu học
thông qua giảng dạy môn Lịch sử lớp 4, 5, cô giáo Hoàng Thị Nhân, trường Đại
học Vinh, năm 2011. Công trình nghiên cứu này xoay quanh các vấn đề đó là đề
xuất một số biện pháp và hình thức giáo dục học sinh về truyền thống yêu nước,
lòng tự hào dân tộc; thực nghiệm sư phạm và kết quả thực nghiệm thông qua môn
Lịch sử của học sinh khối lớp 4,5, những kết luận và đưa đề xuất một số hình thức
và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhiệm vụ giáo dục truyền thống yêu nước,
lòng tự hào dân tộc cho học sinh tiểu học thông qua giảng dạy môn Lịch sử lớp
4,5. Đây là công trình trình bày khá đầy đủ về việc giáo dục truyền thống yêu
nước, lòng tự hào dân tộc tích hợp qua môn Lịch lớp 4,5 nhằm hướng dẫn giáo
viên cách tổ chức các hình thức và biện pháp để xây dựng tình yêu quê hương, đất
nước cho các em học sinh. Dù vậy, công trình nghiên cứu này mới chỉ nghiên cứu
trong phạm vi của môn Lịch sử lớp 4,5.
Giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho học sinh thông qua giảng
dạy các truyện truyền thuyết trong chương trình Văn - Tiếng Việt ở tiểu học, cô
giáo Lê Thị Kim Thư, trường Tiểu học Lê Lợi – Thành phố Vinh, Nghệ An, năm

2013 đã khẳng định vai trò và tầm quan trọng của việc đưa nội dung giáo dục tình
yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho học sinh thông qua giảng dạy các truyền thuyết
trong chương trình Văn – Tiếng Việt ở tiểu học. Cô giáo Lê Thị Kim Thư đã nêu
rõ mối quan hệ giữa dạy học và giáo dục trong giảng dạy Văn - Tiếng Việt ở Tiểu
học và khẳng định tầm quan trọng của truyền thuyết trong việc giáo dục lòng yêu
nước, lòng tự tôn dân tộc cho học sinh Tiểu học. Qua đó, công trình nghiên cứu
còn đưa ra đề xuất một số phương pháp nâng cao chất lượng giáo dục lòng yêu
nước, lòng tự hào dân tộc cho học sinh khi dạy truyền thuyết ở Tiểu học. Và chọn
2 truyền thuyết “ An Dương Vương” và “ Con Rồng cháu tiên ” để dạy thực
nghiệm. Nhìn chung, công trình nghiên cứu của tác giả được nghiên cứu và thống
kê khá đầy đủ, chi tiết các khái niệm liên quan và đề xuất các biện pháp tích hợp
nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy cho học sinh Tiểu học.
Giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ ngày nay, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội, năm 2010 và Giáo dục giá trị văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ,
Tạp chí Văn hóa nghệ, số 309, năm 2013 của tác giả Lê Cao Thắng nghiên cứu
tổng quan về các khái niệm lòng yêu nước, văn hóa truyền thống của dân tộc Việt
Nam ta. Khẳng định rõ tầm quan trọng và vai trò của việc giáo dục truyền thống
yêu nước, giáo dục giá trị văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ. Từ đó xây dựng và
3


đề ra các biện pháp để nâng cao tình yêu quê hương, đất nước cho thế hệ trẻ.Qua
đây, giúp người dạy có nhận thức đầy đủ về bản chất, mục tiêu, nguyên tắc giáo
dục truyền thống yêu nước, giá trị văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ.
2.2 Lịch sử vấn đề nghiên cứu về nhà văn Nguyễn Huy Tưởng
Công trình đầu tiên nghiên cứu toàn diện, bao quát về Nguyễn Huy Tưởng là
chuyên luận Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ và
Hà Minh Đức, xuất bản năm 1966. Trong công trình này các tác giả đã dành trọn
chương 1 để khảo sát sự chuyển biến tư tưởng, con đường đến với văn chương và
những bước đường sáng tạo nghệ thuật của nhà văn từ một thanh niên yêu nước

phấn đấu trở thành một nhà văn cộng sản trên mặt trận văn nghệ. Với hướng tiếp
cận, nghiên cứu theo lối biên niên, các tác giả chuyên luận đã phân chia hành trình
sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng thành 4 giai đoạn mỗi thời kỳ là một chương của
chuyên luận. Ở mỗi chương, các tác giả đi sâu phân tích, tìm hiểu giá trị nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm trong sự đối sánh với các sáng tác cùng thời để thấy
được những mặt tích cực cũng như những hạn chế, thiếu sót trong từng tác phẩm.
Năm 1992, nhân kỷ niệm 80 năm ngày sinh Nguyễn Huy Tưởng, Viện Văn
học tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề Nguyễn Huy Tưởng - một sự nghiệp
chưa kết thúc. Trên tinh thần đánh giá một cách chân thực, khách quan, khoa học,
nhiều tham luận tại hội thảo đã có những khám phá, phát hiện sâu sắc nhằm lý giải
những luận điểm còn nhiều tranh luận, những vấn đề bỏ ngỏ cần tiếp tục đào sâu
nghiên cứu.
Năm 1996, bộ sách Nguyễn Huy Tưởng toàn tập do NXB Văn học ấn hành,
đã cung cấp một cách tương đối đầy đủ các tác phẩm của nhà văn trên tất cả các
thể loại, giúp người đọc có điều kiện thuận lợi khi tiếp cận văn nghiệp Nguyễn
Huy Tưởng.
Năm 2006, bộ ba Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng được NXB Thanh niên xuất
bản đã giúp người đọc có những hình dung rõ hơn về quá trình lao động nghệ thuật
miệt mài và những khát vọng lớn của nhà văn muốn cống hiến cho văn học dân
tộc. Tập nhật ký đã thâu tóm, phản ánh toàn bộ sự nghiệp văn chương và cách
mạng của ông, bắt đầu từ việc tìm đường cho đến khi đã trở thành một nhà văn
chuyên nghiệp, một chiến sĩ của Đảng hoạt động trên lĩnh vực văn nghệ.

4


Và đặc biệt phải kể tới những công trình do Nguyễn Huy Thắng - con trai
nhà văn, người đã dành nhiều thời gian nghiên cứu, tìm hiểu về những trước tác
của cha mình, về những tâm sự, suy nghĩ khó nói của ông với mong muốn khắc
họa một cách chân thực, rõ nét gương mặt nhà văn, nhà văn hóa Nguyễn Huy

Tưởng trong cuộc sống đời thường và trong sáng tạo văn chương. Đó là các ấn
phẩm có giá trị như: Nguyễn Huy Tưởng trong vầng sáng hồi nhớ; Nguyễn Huy
Tưởng trước khi là nhà văn; Nguyễn Huy Tưởng với người thân; Nguyễn Huy
Tưởng văn và người…
Nhìn chung, các vấn đề có liên quan đến đề tài giáo dục giá trị văn hóa
truyền thống nói chung và giáo dục tình yêu quê hương đất nước nói riêng khá
phong phú nhưng chưa có nhiều công trình tập trung nghiên cứu về hoạt động giáo
dục giá trị văn hóa truyền thống cho học sinh tiểu học. Đặc biệt, đến thời điểm này,
tôi chưa phát hiện ra công trình nào nghiên cứu về việc giáo dục tình yêu quê
hương, đất nước cho học sinh tiểu học qua truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn
Huy Tưởng. Vì vậy, đề tài này là một đóng góp nhỏ trong việc tìm hiểu nội dung
giáo dục tình yêu quê hương đất nước cho học sinh Tiểu học. Tuy vậy trên đây là
những tài liệu tham khảo hữu ích để chúng tôi có thể hoàn thành đề tài nghiên cứu
của mình.
3.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề lý luận về giá trị, giá trị văn hóa truyền thống dân
tộc, giá trị văn hóa về tình yêu quê hương, đất nước nước và qua những tác phẩm
văn học viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, tôi chọn đề tài “Giáo
dục tình yêu quê hương đất nước cho học sinh Tiểu học qua truyện viết cho thiếu
nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng”với mục đích tìm hiểu việc giáo dục tình yêu
quê hương, đất nước cho học sinh trong tác phẩm. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục lòng yêu quê hương,
đất nước cho học sinh tiểu học, qua đó bước đầu xây dựng đội ngũ học sinh phát
triển toàn diện về tư tưởng, đạo đức, lối sống, góp phần vào việc thực hiện chiến
lược con người, phát triển giáo dục - đào tạo, xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
5



Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có các nhiệm vụ là:
- Nghiên cứu những vấn đề về lí thuyết liên quan làm cơ sở lí luận cho đề tài.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá việc giáo dục tình yêu đất nước cho học sinh trong
truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.
- Vận dụng những giá trị về tình yêu quê hương, đất nước trong truyện viết cho
thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng để giáo dục cho học sinh Tiểu học.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công
tác giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh tiểu học trong thời gian tới.
4. Đóng góp của đề tài
Khi thực hiện nghiên cứu đề tài này, tôi xác định rõ mục đích nghiên cứu là
hệ thống lại các cơ sở lí luận và thực tiễn của việc giáo dục tình yêu quê hương, đất
nước cho học sinh thông qua truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng trên cơ sở đó giáo dục hình thành những phẩm chất yêu quê hương, đất
nước cho học sinh để sau này lớn lên trở thành người có ích cho xã hội. Bên cạnh
đó đề xuất các biện pháp phương pháp cụ thể để giáo dục tình yêu quê hương, đất
nước cho các em. Ngoài ra, đề tài cũng là nguồn tài liệu bổ ích cho sinh viên và
giáo viên Tiểu học trong quá trình tìm hiểu và giáo dục tình yêu thiên nhiên cho
học sinh.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những giá trị văn hóa truyền thống, giá trị văn hóa lòng
yêu nước và việc giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh tiểu học thông qua
truyện ngắn viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.
- Phạm vi nghiên cứu: truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
6



- Phương pháp thống kê, phân loại
7. Cấu trúc đề tài
Đề tài gồm 3 phần
-

Phần mở đầu: Gồm có các tiểu mục sau:
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Lịch sử vấn đề nghiên cứu về giáo dục tình yêu quê hương, đất nước
cho học sinh Tiểu học
2.2 Lịch sử vấn đề về nhà văn Nguyễn Huy Tưởng
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đóng góp của đề tài
5.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6.Phương pháp nghiên cứu
7. Cấu trúc đề tài

- Phần nội dung: gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề chung liên quan đến đề tài
Chương 2: Tìm hiểu nội dung giáo dục tình yêu quê hương đất nước cho học sinh
Tiểu học qua truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng
Chương 3: Đề xuất một số biện pháp giáo dục tình yêu quê hương đất nước cho
học sinh Tiểu học
-

Phần kết luận: Gồm 2 tiểu mục
1. Kết luận
2. Đề xuất

7



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.Khái quát chung về văn học thiếu nhi
1.1. Khái niệm văn học thiếu nhi
Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, văn học thiếu nhi “Theo
nghĩa hẹp, gồm những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa học dành riêng cho
thiếu nhi” [4; trang 353].
Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam quan niệm văn học thiếu nhi
tường tận hơn, chi tiết hơn. Khái niệm văn học thiếu nhi được nhận diện ở nhiều
góc độ: chủ thể sáng tác, nhân vật trung tâm, mục đích sáng tác, đối tượng tiếp
nhận… Cụ thể:
- Mọi tác phẩm được sáng tạo ra với mục đích giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn,
tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm của nó là thiếu nhi, và đôi khi cũng là
người lớn, hoặc là một cơn gió, một đồ vật, một cái cây… Tác giả của văn học
thiếu nhi không chỉ là chính các em mà cũng là các nhà văn thuộc mọi lứa tuổi.
- Những tác phẩm mà thiếu nhi thích thú tìm đọc. Bởi vì các em đã tìm thấy
trong đó cách nghĩ cách cảm cùng những hành động gần gũi với cách nghĩ cách
cảm và cách hành động của chính các em, hơn thế, các em còn tìm được ở trong đó
một lời nhắc nhở, một sự răn dạy, với những nguồn động viên khích lệ, những sự
dẫn dắt ý nhị, bổ ích…trong quá trình hoàn thiện nhân cách của mình.
Như vậy, văn học thiếu nhi là những tác phẩm văn học mà nhân vật trung
tâm hoặc là thiếu nhi, hoặc là người lớn, hoặc là con người, hoặc là thế giới tự
nhiên…nhưng được nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ, có nội dung gần gũi, quen thuộc với
vốn trải nghiệm của trẻ, được các em thích thú, say mê và có tác dụng hoàn thiện
đạo đức, tâm hồn trẻ [5; trang 42].
1.2. Vai trò và ý nghĩa của văn học thiếu nhi
Văn học thiếu nhi có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển

toàn diện nhân cách con người ngay từ thuở ấu thơ, là hành trang cho mỗi người
trên suốt đường đời, bởi lẽ những gì đã lưu giữ được trong thời niên thiếu thường
rất khó phai mờ. Văn học không chỉ góp phần bồi dưỡng tâm hồn, nâng cao năng

8


lực cảm thụ cái đẹp cái hay, mà còn giúp cho trẻ phát triển trí tuệ, mở rộng sự hiểu
biết và hướng tới một lối sống giàu lòng nhân ái.
Không phải ngẫu nhiên mà người ta khẳng định tính giáo dục là tính chất
sống còn của một tác phẩm văn học thiếu nhi. Như nhà văn Tô Hoài, người dành
nhiều tâm huyết cho nền văn học thiếu nhi đã khẳng định “…Một tác phẩm chân
chính có giá trị đối với tuổi thơ là một tác phẩm tham dự mạnh mẽ vào sự nghiệp
nên người của bạn đọc ấy.” [6; trang 263, 264] Bài học mà các em học được là:
đoàn kết sẽ đem lại sức mạnh to lớn cũng như để có được mùa xuân đầy đủ hương
sắc các con vật phải biết “góp chung màu lại” (Phải chung màu lại – Võ Quảng);
“hung hăng, hống hách láo chỉ tổ đem thân mà trả nợ những cử chỉ ngu dại của
mình thôi” (Dế Mèn phiêu lưu kí – Tô Hoài) hay chớ nên bội bạc, tráo trở như tên
Lý Thông (Thạch Sanh – truyện cổ tích),… Đọc các tác phẩm văn học thiếu nhi,
chắc hẳn các bạn nhỏ không khỏi cảm động trước tình bạn sắc son giữa Kay và
Garda (Bà chúa Tuyết – Andersen), tình yêu thương vô bờ mà người mẹ dành cho
đứa con bị thần Chết bắt đi (Người mẹ - Andersen),… Mỗi tác phẩm là một công
trình sư phạm, mà các nhà sư phạm ở đây chính là các tác giả dày công xây dựng.
Không một lĩnh vực nào của cuộc sống mà văn học thiếu nhi chưa chạm tới, ngay
cả những vấn đề tưởng như khó nói như hạnh phúc gia đình, tình yêu và giới tính,
cái sống và cái chết,v.v…Bởi như nhà tâm lý Gerard Severin từng nhận định: “ Trẻ
có quyền biết sự thật. Sự thật giúp trẻ lớn lên”. Chưa bao giờ các bài học trở nên
nhẹ nhàng, gần gũi đến thế. Đó hoàn toàn không phải là những bài thuyết giáo với
những giáo huấn khô khan, cứng nhắc nhưng những tác động tích cực của nó đến
nhân cách của trẻ lại vô cùng mạnh mẽ. Ngoài ra, những câu chuyện ấy đã tạo cho

học sinh nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Chính những những điều đó đã đánh
thức biết bao tình cảm tốt đẹp nơi các em. Qua đó, các em biết yêu cái đẹp – cái
thiện, ghét cái xấu – cái ác,… Từ đó hình thành những phẩm chất đáng quý.
Văn học thiếu nhi cũng là mảnh đất tốt để vun trồng cho những trí tưởng
tượng, sáng tạo cũng như năng lực cảm thụ cái đẹp, cái hay. Ai đó đã từng nói thật
đáng sợ nếu mắt sáng nhưng không cảm nhận được cái đẹp, có khối óc nhưng
không biết suy nghĩ, có trái tim nhưng không biết yêu thương. Văn học góp phần
bồi dưỡng các em những phẩm chất trí tuệ, trái tim biết yêu thương, đào tạo các em
trở thành những con người mới toàn diện.
2. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh Tiểu học

9


Học sinh Tiểu học là một giai đoạn phát triển. Đây là giai đoạn đặt nền
móng cho sự phát triển của giai đoạn tiếp theo. Trong thời kì hiện nay thì học sinh
tiểu học là quá trình phát triển của các giai đoạn tiếp theo. Trong thời kì hiện nay
quá trình phát triển của học sinh Tiểu học có những đặc trưng riêng và có thể tự
động tổ chức từ phía nhà trường trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới của khoa
học giáo dục. Do đó đặc điểm của các quá trình nhận thức của học sinh tiểu học
diễn ra như sau:
2.1. Tính cách
Tính cách của trẻ thường được hình thành từ rất sớm ở thời kỳ trước tuổi đi
học. Lúc này những nét tính cách của các em mới được hình thành và dễ thay đổi
trước tác động giáo dục của gia đình.
Ở lứa tuổi học sinh Tiểu học, ta dễ nhận ra tính xung đột trong hành vi của
các em (khuynh hướng hành động ngay lập tức dưới ảnh hưởng của sự kích thích
bên trong và bên ngoài). Do vậy, hành vi của các em dễ tự phát. Nguyên nhân của
hiện tượng này là sự điều chỉnh ý chí đối với hành vi của lứa tuổi còn yếu, các em
chưa biết đề ra mục đích của hành động và theo đuổi mục đích đến cùng. Tính cách

của các em có nhược điểm thường bướng bỉnh, phản ứng lại những yêu cầu của
người lớn mà các em xem là cứng nhắc để chống lại sự cần thiết phải hy sinh cái
nó “muốn” cho cái nó “phải”.
Các em có nhiều nét tính cách tốt như lòng vị tha, tính hồn nhiên, tính ham
hiểu biết,lòng thương người… Hầu hết các em học sinh Tiểu học đều có tính cách
hồn nhiên và rất cả tin: tin vào sách vở, tin vào người lớn, tin bản thân, đặc biệt các
em rất tin tưởng thầy giáo, cô giáo của mình; những gì thầy, cô nói, thầy, cô làm
đối với các em đều đúng, đều là chân lý. Tuy nhiên niềm tin này còn cảm tính,
chưa có lý trí soi sáng.
Tính hay bắt chước cũng là một đặc điểm quan trọng của lứa tuổi này. Các
em hay bắt chước theo lời nói, việc làm của người mà các em gần gũi, yêu thích,
hâm mộ nhất là ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, bạn bè. Đây là một đức tính có tính
chất 2 mặt: tốt – xấu. Bởi, các em bắt chước cái tốt cũng lắm mà cái xấu cũng
nhiều. Vì vậy, cần phải cho trẻ biết và gần gũi với những tấm gương cụ thể có đức
tính, hành vi, cử chỉ, lời nói tốt, có văn hóa, có đạo đức.
2.2. Nhu cầu nhận thức
Trong những năm đầu của bậc Tiểu học, nhu cầu nhận thức của học sinh
phát triển rõ nét, đặc biết là nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh. Nhu cầu nhận
10


thức là một trong những nhu cầu tinh thần, đối với học sinh Tiểu học nhu cầu này
có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của trí tuệ. Đó là nguồn năng lượng tinh
thần để định hướng và tiến lên trong nhiều tình huống hoặc cảnh ngộ khó khăn để
chạm đến đỉnh cao tri thức của nhân loại.
Tổ chức hoạt động học cho học sinh là biện pháp tốt nhất để giúp nhu cầu
nhận thức của học sinh Tiểu học được nảy sinh, hình thành và phát triển. Nhu cầu
nhận thức của học sinh Tiểu học được hình thành và phát triển nhờ các hoạt động
muôn màu, muôn vẻ trong nhà trường, xã hội, và gia đình. Nhu cầu nhận thức sẽ
được phát triển thuận lợi nếu hoạt động của học sinh không quá căng thẳng thần

kinh, không bị thất bại lặp đi lặp lại trong học tập. Và các em sẽ tự khắc phục khó
khăn để tự mình chiếm lĩnh tri thức, tự học suốt đời.
2.3. Tình cảm
Tình cảm là một mặt rất quan trọng trong đời sống tâm lý nói chung và
nhân cách nói riêng. Đối với học sinh Tiểu học, tình cảm còn có vị trí đặc biệt quan
trọng vì nó là khâu trọng yếu gắn liền nhận thức với hành động của trẻ. Nhờ có
tình cảm tích cực giúp cho trí tuệ của trẻ phát triển mà còn thúc đẩy trẻ hoạt động.
Dù biết trí tuệ phát triển cao là cơ sở để tình cảm, ý chí phát triển theo nhưng
không được xem nhẹ giáo dục tình cảm ở học sinh Tiểu học. Nếu trong giáo dục tri
thức và tình cảm có sự thiên lệch nào đó không những gây khó khăn mà còn gây
hậu quả cho sự phát triển nhân cách sau này và tạo nên một kiểu nhân cách mất cân
đối.
Tình cảm, cảm xúc của học sinh Tiểu học thường là về những sự vật, hiện
tượng,… cụ thể, sinh động. Các em dễ bị kích thích của hệ thống sự vật, hiện
tượng hơn hệ thống tiếng nói, chữ viết.
Học sinh Tiểu học rất dễ xúc cảm, xúc động và khó kìm hãm xúc cảm của
mình. Tính dễ xúc cảm được thể hiện được thể hiện ở các quá trình nhận thức, tri
giác, cảm xúc, hiện tượng, tư duy. Các em suy nghĩ bằng “hình thức”, “xúc cảm”,
“âm thanh”. Các quá trình nhận thức, hoạt động của các em đều chịu sự chi phối
mạnh mẽ của xúc cảm và đều đậm màu sắc xúc cảm.
Học sinh còn chưa biết kìm chế tình cảm của mình, chưa biết kiểm tra sự
thể hiện tình cảm ra bên ngoài. Các em bọc lộ tình cảm một cách hồn nhiên, chân
thật. Nguyên nhân của hiện tượng này là do ở học sinh quá trình hưng phấn mạnh
hơn ức chế, các phẩm chất của ý chí còn chưa có khả năng điều chỉnh và điều
khiển được những cảm xúc của các em.
11


Tình cảm của học sinh Tiểu học còn mỏng manh, chưa bền vững, chưa sâu
sắc.Tuy vậy, những cảm xúc mạnh, những ấn tượng sâu sắc có thể ghi lại dấu ấn

trong tâm hồn các em rất sâu đậm, bền vững.
3.Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và truyện viết cho thiếu nhi
3.1 Cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng sinh ngày 6/5/1912, tại làng Dục Tú, phủ Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội. Cha là một ông
Tú nghèo sống nhờ vợ tần tảo buôn bán. Bảy tuổi cha mất, mẹ gửi ra Hải Phòng ở
với gia đình người chị, học tiểu học ở trường Bonnal. Năm 1932, 20 tuổi, đậu bằng
thành chung và cũng bắt đầu học chữ Hán. Sau ba năm vất vả tìm việc, đến 1935
thi đậu vào ngạch thư ký nhà đoan (cơ quan hải quan- tiếng Pháp: customs office).
Năm 1939, cưới vợ con quan. Song song với đời sống công chức nhà đoan,
Nguyễn Huy Tưởng có một sinh hoạt nội tâm phong phú, rất giàu cung bậc của
người trí thức: chăm đọc sách, chịu khó tìm ý tưởng, hàng ngày viết nhật ký.
Năm 1930, ông tham gia các hoạt động yêu nước của thanh niên học sinh ở Hải
Phòng. Năm 1935 ông làm thư ký nhà Đoan (Thuế quan) ở Hải Phòng, sau đó quay
về Hà Nội. Năm 1938 ông tham gia Hội Truyền bá Quốc ngữ và phong trào hướng
đạo sinh ở Hải Phòng. Năm 1943 ông gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc bí mật và
được bầu làm Tổng thư ký Hội Truyền bá Quốc ngữ Hải Phòng. Sau đó ông tiếp
tục hoạt động ở Hà Nội, Nam Định và Phú Yên. Tháng 6 năm 1945, Nguyễn Huy
Tưởng tham gia ban biên tập tạp chí Tiên Phong của Văn hóa cứu quốc. Tháng 8
năm đó, Nguyễn Huy Tưởng đi dự Đại hội quốc dân ở Tân Trào. Ông còn là đại
biểu văn hóa cứu quốc, giúp biên tập các tờ báo Cờ giải phóng, Tiên Phong. Tiếp
đó ông giữ chức vụ Tổng thư ký Ban Trung ương Vận động đời sống mới. Cách
mạng Tháng Tám thành công, Nguyễn Huy Tưởng trở thành người lãnh đạo chủ
chốt của Hội văn hóa cứu quốc.
Nguyễn Huy Tưởng là đại biểu Quốc hội khóa 1 năm 1946. Tháng 4 năm
đó, vở kịch Bắc Sơn của ông được công diễn ở Nhà hát lớn Hà Nội đem lại thành
công lớn. Tháng 7, ông được bầu là Phó thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam.
Tháng 12 năm 1946, toàn quốc kháng chiến, ông tổ chức và đưa Đoàn văn hóa
kháng chiến lên Việt Bắc. Tiếp tục hoạt động văn hóa, ông là ủy viên Thường vụ
Hội Văn nghệ Việt Nam, thư ký toà soạn Tạp chí Văn nghệ và tham gia tiểu ban

Văn nghệ Trung ương Đảng.
12


Năm 1951, ông tham gia chiến dịch biên giới. Trong hai năm 1953, 1954
ông công tác giảm tô trong cải cách ruộng đất. Sau hòa bình 1954, ông làm Uỷ
viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 1. Ông là người sáng lập và là
giám đốc đầu tiên của Nhà xuất bản Kim Đồng.
Nguyễn Huy Tưởng mất ngày 25 tháng 7 năm 1960 tại Hà Nội. Năm 1995,
Hội Đồng Nhân Dân thành phố Hà Nội đã đặt tên cho một đường phố của thủ đô là
đường Nguyễn Huy Tưởng. Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học
nghệ thuật năm 1996.
Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng đã để lại cho đời sau nhiều tác
phẩm có giá trị về văn chương và lịch sử như: Tiểu thuyết có Đêm hội Long Trì,
(1942), An Tư công chúa (1944), Truyện Anh Lục (1955), Bốn năm sau (1959),
Sống mãi với Thủ đô (1960)…; Kịch gồm có: Vũ Như Tô (1943), Cột đồng Mã
Viện (1944), Bắc Sơn (1946), Những người ở lại (1948), Anh Sơ đầu quân (tập
kịch- 1949), Lũy hoa (1960)…; Truyện ký có: Ký sự Cao Lạng (1951), Chiến sĩ ca
nô…; Truyện thiếu nhi: Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Tìm mẹ, Thằng Quấy, Con cóc là
cậu ông giời, An Dương Vương xây thành Ốc, Kể chuyện Quang Trung, Cô bé gan
dạ… và một tập Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, dày 1.700 trang.
Với khoảng hơn hai năm cầm bút mà Nguyễn Huy Tưởng đã để lại cho đời
một khối lượng tác phẩm khá lớn, những nghĩ văn nhân Việt không có mấy người
được như ông. Ấy là chỉ nói về khía cạnh số lượng tác phẩm, còn về giá trị chẳng
ai có thể tiên định được.
3.2 Truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng
3.2.1 Giá trị nội dung
Nhắc đến văn học Việt Nam thế kỷ XX không thể không nhắc tới những
sáng tác ấn tượng mang phong cách riêng của Nguyễn Huy Tưởng. Xuất hiện
trên văn đàn muộn so với sự thành công của những bạn văn cùng thời, nhưng

với những bước tiến chậm mà chắc chắn, đĩnh đạc của một cây bút luôn nỗ lực
vươn lên với niềm khát khao mãnh liệt mượn văn chương để tỏ lòng yêu nước,
“tô điểm cho non sông những tòa đài hoa lệ lộng lẫy nhất trần gian” (kịch Vũ
Như Tô), đã thôi thúc và giúp Nguyễn Huy Tưởng có được những tác phẩm
13


xuất sắc với lối viết tài hoa. Bao trùm lên sáng tác của nhà văn là âm hưởng sử
thi hùng tráng quyện hòa trong chất men say của lãng mạn, trữ tình với niềm
cảm thức khôn nguôi về lịch sử dân tộc trong quá khứ, hiện tại với lòng yêu
nước thiết tha, sâu nặng.
Mỗi tác phẩm văn chương của ông viết cho thiếu nhi có mỗi đề tài, nội dung,
nhân vật khác nhau nhưng ở câu chuyện nào cũng đều nhất quán một quan điểm
sáng tác tiến bộ, tích cực, hướng về con người với những giá trị nhân văn sâu sắc
cùng truyền thống yêu nước, tự hào dân tộc. Lịch sử dân tộc trong quá khứ và hiện
tại là mạch nguồn xuyên suốt, chủ đạo trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, chi
phối đến cách lựa chọn đề tài, hình tượng nghệ thuật cũng như giọng điệu, văn
phong. Những sáng tác viết cho thiếu nhi của ông giúp mở rộng cho các em biết về
phong tục tập quán, sự kiện lịch sử của dân tộc, những tấm gương anh hùng của
dân tộc, những truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam ta như lòng hiếu thảo,
anh hùng, bất khuất, đoàn kết, yêu quê hương, đất nước, niềm tin vào chính nghĩa
mà nhà văn muốn gửi gắm đến cho các em thiếu nhi cũng như vai trò quan trọng
của nhà trường và gia đình trong việc giáo dục trẻ nhỏ.
Chính vì vậy, truyện viết cho thiếu nhi của ông cho đến nay vẫn được coi là
mẫu mực của nền văn học thiếu nhi Việt Nam, được dạy trong nhà trường ở nhiều
cấp học, thường xuyên được xuất bản dưới nhiều hình thức khác nhau. Đặc biệt
phải kể đến hình thức truyện tranh - từ những truyện cổ tích như Con cóc là
cậu ông Giời, Tìm mẹ, Thằng Quấy đến truyện lịch sử Lá cờthêu sáu chữ vàng, tất
cả đều được các thế hệ họa sĩ Kim Đồng thể hiện thành truyện tranh theo phong
cách truyền thống hoặc hiện đại.

Với những nỗ lực và niềm đam mê sáng tạo, khát khao cống hiến, những tác
phẩm viết dành cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng với giá trị nội dung
đặc sắc đã có nhiều đóng góp trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền văn học dân
tộc. Nổi bật lên trong văn nghiệp của Nguyễn Huy Tưởng là nguồn cảm hứng
mãnh liệt về lịch sử dân tộc với lòng yêu nước thiết tha, sâu nặng.
3.2.2 Giá trị nghệ thuật
Trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn, ông đã để lại cho đời sau nhiều tác
phẩm truyện viết cho thiếu nhi như: Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Tìm mẹ, Thằng
Quấy, Con cóc là cậu ông giời, An Dương Vương xây thành Ốc, Kể chuyện Quang
14


Trung, Cô bé gan dạ... đem đến cho các em niềm thích thú, say mê đến kỳ lạ bằng
một giọng kể chuyện vừa giản dị, chân thành, gần gũi với cuộc sống thường ngày
của các em, phù hợp với tâm tư, suy nghĩ của trẻ thơ. Đó là những nét độc đáo, nổi
bật trong quan niệm của nhà văn về nghệ thuật và con người, trong cảm hứng sáng
tạo, bút pháp thể hiện. Từ đấy ông đã nhen nhóm và truyền cho các em lòng tự hào
dân tộc, yêu quê hương, đất nước. Đấy chính là nét nổi bật nhất của nhà văn tài hoa
này.Nguyễn Huy Tưởng đã tạo ra một hành trình văn chương phong phú, đặc sắc.
Trên nền cảm hứng về đề tài lịch sử dân tộc, nhà văn đã có những hư cấu, sáng tạo
độc đáo mà cho đến nay những vấn đề đặt ra trong sáng tác của nhà văn như: mối
quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống; nghệ thuật với cường quyền; trách nhiệm
của nhà văn với cuộc đời, với nghệ thuật; bút pháp hư cấu, sáng tạo về đề tài lịch
sử… khẳng định vai trò, dấu ấn của phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng đối
với sự phát triển của văn chương dân tộc. Với những nỗ lực sáng tạo cùng tình yêu
lịch sử, yêu quê hương, đất nước, những tác phẩm truyện viết cho thiếu nhi của
ông vẫn thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình và công chúng bạn đọc.
Nguyễn Huy Tưởng xứng đáng được mệnh danh là nhà chép sử bằng văn chương,
nhà văn của Hà Nội với những trang viết tài hoa, độc đáo.
Tiếp cận sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra

được những giá trị vượt thời gian trong nhiều tác phẩm, thấy được ý nghĩa xã hội lịch sử to lớn trong nội dung phản ánh. Đồng thời cũng thấy được những đặc sắc
nghệ thuật trong miêu tả, phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Nguyễn Huy Tưởng
đã tạo dựng được một văn nghiệp đồ sộ, đa dạng với phong cách riêng. Các vấn đề
đặt ra trong kịch Nguyễn Huy Tưởng có tầm khái quát cao, nhân vật giàu sức sống
nội tâm đã in đậm dấu ấn tài hoa của một chủ thể sáng tạo đầy ưu thời mẫn thế,
nhữung truyện ngắn viết cho thiếu nhi của ông với những giá trị đặc sắc về nghệ
thuật không thể lẫn với các cây bút cùng thời… Trong tác phẩm của Nguyễn Huy
Tưởng, cái nhìn thế giới và con người của nhà văn là cái nhìn dân chủ, đầy ưu ái,
thương yêu, không ngừng hướng tới con người… Trong tác phẩm viết cho thiếu
nhi của ông nổi bật ngôn ngữ trí tuệ, đãi lọc, giàu chất thơ của một cốt cách nghệ sĩ
và một tâm hồn mẫn cảm, nhân văn. Nguyễn Huy Tưởng tạo được một phong cách
riêng đầy tài hoa, lịch lãm trong các trang viết của mình… Những vấn đề xưa và
nay, quá khứ và hiện tại, lịch sử và thời sự luôn giao hòa, gắn kết trong cảm hứng
sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng, gợi không khí rất gần mà rất xa, đượm hồn nước
trong cõi nhìn của nhà văn, nhà văn hóa Nguyễn Huy Tưởng.
15


Những nghệ thuật trên đã góp phần to lớn làm nên thành công cho những tác
phẩm viết cho thiếu nhi đặc biệt về mảng đề tài tình yêu quê hương, đất nước. Phải
một lần nữa khẳng định, văn chương viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng
không những có giá trị về nội dung mà cả về văn chương nữa.
Tiểu kết
Ở chương này, tôi nghiên cứu về khái niệm chung văn học thiếu nhi, những
chức năng của văn học thiếu nhi mà trong đó nhấn mạnh đến chức năng giáo dục
của văn học thiếu nhi. Bên cạnh đó, chúng tôi tìm hiểu những đặc điểm tâm lý lứa
tuổi học sinh Tiểu học để từ đó khảo sát, khai thác một cách triệt để các phương
pháp giáo dục tình yêu quê hương đất nước phù hợp với học sinh Tiểu học. Việc
khái lược chung về nội dung và nghệ thuật của những tác phẩm viết cho thiếu nhi
giúp chúng tôi có cái nhìn bao quát về phong cách văn chương của nhà văn

Nguyễn Huy Tưởng. Từ những vấn đề lý luận trên, chúng tôi có cái nhìn tổng quát
và đầy đủ hơn về vấn đề đang nghiên cứu. Đây là tiền đề cơ bản và quan trọng để
chúng tôi tìm hiểu những phương pháp giáo dục tình yêu quê hương, đất nước cho
học sinh Tiểu học trong những tác phẩm viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng ở chương 2.

16


CHƯƠNG 2
TÌM HIỂU NỘI DUNG GIÁO DỤC TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC QUA TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA
NHÀ VĂN NGUYỄN HUY TƯỞNG
1. Những vấn đề liên quan về tình yêu quê hương, đất nước
1.1 Khái niệm về tình yêu quê hương, đất nước:
Quê hương là quê của mình, về mặt là nơi có sự gắn bó tự nhiên về tình
cảm. Nơi đầu tiên sản sinh ra cái gì để từ đó phổ biến rộng ra đến những nơi khác
[8;trang 969].
Đất nước là miền đất đai, trong quan hệ với dân tộc làm chủ và sống trên
đó [8;trang 371].
Tình yêu là tình cảm nồng nhiệt làm cho gắn bó mật thiết và có trách nhiệm
với người, với vật [8;trang1203].
Tình yêu quê hương, đất nước là tình gắn gắn bó, yêu mến, vun đắp, dựng
xây quê hương ngày càng giàu mạnh, đóng góp một phần sức lực của mình cho
công cuộc dựng xây quê hương. Tình yêu quê hương không phải là tình cảm trừu
tượng, nó được biểu hiện rất cụ thể và rõ nét. Đó là dạng tình cảm đã được cụ thể
hóa bằng hành động.
Tình yêu quê hương luôn gắn liền với yêu gia đình, làng xóm, luôn mong
ngóng về quê hương dù ở nơi xa xôi. Mỗi con người sau khi lớn lên, trưởng thành,
vươn mình đến những vùng đất mới nhưng tấm lòng luôn hướng về nơi mình đã

sinh ra và lớn lên.
1.2 Đặc điểm chung của tình yêu quê hương, đất nước
Theo quan niệm xưa lòng yêu nước là gắn liền lí tưởng trung quân ái
quốc, yêu nước cũng chính là trung thành với vua.Tinh thầnđoàn kết kiên cường,
bất khuất chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền dân tộc và nền độc lập tự do
của Tổ quốc, không bao giờ chịu làm nô lệ, làm người dân mất nước hoặc lệ thuộc
người nước ngoài. Tinh thần đoàn kết, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm
là nét nổi bật thể hiện tình yêu nước của con người Việt Nam xưa.Ý thức độc lập
tự chủ, tự cường, tự hào dân tộc, lòng căm thù giặc, tinh thần quyết chiến quyết
17


thắng kẻ thù, tự hào trước chiến công thời đại, tự hào trước truyền thống lịch sử,
biết ơn, ca ngợi những người hi sinh vì đất nước là đặc điểm chung của tình yêu
quê hương, đất nước theo quan niệm xưa.
Theo quan niệm ngày nay tình yêu quê hương, đất nước gắn liền với tình
cảm gắn bó với quê hương đất nước người Việt Nam yêu nước luôn luôn hướng về
cội nguồn, về ông bà, cha mẹ, tổ tiên và quê hương của mình. Khi phải xa quê
hương, đất nước, luôn nhớ về quê hương, hướng về Tổ quốc.Đồng bào, giống nòi
là những gì thiêng liêng nhất gắn bó con người Việt Nam với nhau. Mỗi người dân
Việt Nam yêu nước đều cảm thông sâu sắc với nỗi đau của đồng bào, dân tộc, luôn
mong muốn đồng bào của mình được sống ấm no, hạnh phúc.Người Việt Nam
luôn tự hào về truyền thống văn hóa lâu đời, đậm đà bản sắc dân tộc và có sức
sống mạnh mẽ của dân tộc mình, tự hào về những con người của quê hương, đất
nước, những người anh hùng hào kiệt, những danh nhân văn hóa, tự hào về non
sông gấm vóc và những sản vật phong phú của quê hương.Cần cù và sáng tạo trong
lao động để xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc và xây dựng đất nước ngày
càng giàu đẹp.
1.3 Biểu hiệu của tình yêu quê hương, đất nước
Biểu hiện của tình yêu quê hương thực sự rất nhiều, ngay trong chính hành

động của mỗi người. Là nỗi nhớ thường trực mỗi lần xa quê, là háo hức, mong chờ
khi sắp được lên chuyến xe mang tên trở về, là lòng thổn thức, lưu luyến khi phải
rời xa quê. Đó là tình cảm xuất phát từ tim.
Tình yêu quê hương còn là yêu những gì thuộc về mảnh đất mà mình sinh ra
ấy, yêu làng xóm, yêu những con đường sỏi đá, yêu nắng, yêu gió dù thời tiết khắc
nghiệt. Hơn hết là yêu những con người thuộc về mảnh đất đó, thương dáng mẹ tảo
tần nắng mưa, thương dáng cha nhọc nhằn sớm hôm.
Khi đất nước ngày càng phát triển, quá trình xây dựng nông thôn mới cũng
được đẩy mạnh. Tình yêu quê hương đã được hiển hiện thành hành động. Có nhiều
người thành đạt, xa quê trở về quyên góp tiền bạc và sức lực để cùng xây dựng
trạm xá, làm đường, trồng cây để giúp cho quê hương thoát nghèo. Đó đều là
những biểu hiện thiết thực nhất của tình yêu quê hương, làng xóm.
Yêu quê hương còn phải có trách nhiệm với quê hương, đó là trách nhiệm
bảo vệ, dựng xây. Trách nhiệm ấy không của riêng ai mà của tất cả mọi người.
18


×