Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

BIỆN PHÁP CHỐNG THẤT THU THUẾ đối với các DOANH NGHIỆP tại CHI cục THUẾ QUẬN 12THÀNH PHỐ hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (982.69 KB, 83 trang )

BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM

NGUYỄN THANH NHÃ

BIỆN PHÁP CHỐNG THẤT THU THUẾ
ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
TẠI CHI CỤC THUẾ QUẬN 12
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – 2016

i


BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM

NGUYỄN THANH NHÃ

BIỆN PHÁP CHỐNG THẤT THU THUẾ
ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
TẠI CHI CỤC THUẾ QUẬN 12
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGÀNH: KINH TẾ; MÃ SỐ: 60340410
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Nga

TP. HỒ CHÍ MINH - 2016

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
khoa học của TS. Phạm Thị Nga. Các số liệu, dữ liệu và kết quả công bố trong luận văn
đều có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Tác giả

Nguyễn Thanh Nhã

iii

năm 2016


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Thị Nga đã hướng dẫn

tận tình và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giảng dạy tại Viện Đào tạo sau Đại học,
Trường Đại học Hàng hải Việt Nam đã trang bị kiến thức cho tôi trong suốt thời gian học
tập tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn Viện Đào tạo sau Đại học, xin cảm ơn Ban Giám Hiệu
Trường Đại học Hàng hải Việt Nam đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất về mọi mặt để
tôi hoàn thành khóa học.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến Chi cục Thuế quận 12 nơi tôi công tác đã tạo
điều kiện cho tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp và cùng gia đình, bạn bè, đồng nghiệp,
những người đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề
tài nghiên cứu của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hồ Chí Minh, ngày tháng

năm 2016

Tác giả

Nguyễn Thanh Nhã

iv


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG........................................................................................vii
1. Tính cấp thiết của đề tài..........................................................................................9
2. Mục đích nghiên cứu..............................................................................................10
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................10
4. Phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa của đề tài...................................................11
5. Kết cấu của luận văn..............................................................................................11

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ VÀ CHỐNG THẤT THU
THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP.........................................................................12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ VÀ CHỐNG
THẤT THU THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TẠI CHI CỤC THUẾ QUẬN 12
GIAI ĐOẠN 2010 – 2014...........................................................................................34
Tình hình văn hóa xã hội..........................................................................................36
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỐNG THẤT THU THUẾ TẠI CHI CỤC
THUẾ QUẬN 12 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẾN NĂM 2020.......................53
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................70

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
Chữ viết tắt

Giải thích

CTN

Công thương nghiệp

DN

Doanh nghiệp

ĐTNT

Đối tượng nộp thuế

v



GTGT

Giá trị gia tăng

NSNN

Ngân sách Nhà nước

UBND

Ủy ban nhân dân

vi


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số bảng
Bảng 1.1
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4
Bảng 2.5
Bảng 2.6

Tên bảng
Văn bản pháp lý quản lý và chống thất thu thuế
Các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế trên địa bàn quận
12 giai đoạn 2010 – 2014
Kết quả thu NSNN tại Chi cục Thuế quận 12 theo khoản mục

giai đoạn 2010 – 2014
Kết quả thực hiện thu NSNN tại Chi cục thuế quận 12 năm
2014
Kết quả thực hiện thu NSNN tại các đội thuế của Chi cục
thuế quận 12 năm 2014
Kết quả giải quyết thủ tục hành chính tính giai đoạn 2010 –
2014
Tổng nợ thuế phân theo khó thu, khả thu và chờ xử lý tại chi
cục thuế quận 12 giai đoạn 2010 - 2014

vii

Trang
21
36
38
39
40
44
46


DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hình
Hình 2.1

Tên hình
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Chi cục Thuế Quận 12

viii


Trang
31


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là khoản thu chủ yếu của Ngân sách nhà nước, công cụ quan trọng để phân phối
và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Thuế là một trong những công
cụ kinh tế chủ yếu được Nhà nước sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế và huy động
nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước (NSNN). Yêu cầu quan trọng trong tổ chức thực thi
chính sách thuế là phải thu đúng, thu đủ, thu kịp thời theo quy định của pháp luật. Trong
những năm qua, pháp luật thuế ngày càng được hoàn thiện, tạo môi trường công bằng, minh
bạch, không phân biệt đối xử và ổn định, tạo điều kiện cho hoạt động thu NSNN đạt hiệu
quả. Tuy nhiên, tình trạng thất thu thuế vẫn còn diễn ra và có xu hướng ngày càng trầm
trọng hơn.
Kết quả thu ngân sách qua các năm ngày càng tăng, nhờ chính sách thuế đã phần nào
hợp lý, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển; nuôi dưỡng được nguồn
thu; Hệ thống quản lý thu thuế đã từng bước cải cách, hiện đại hóa tạo sự chuyển biết mạnh
mẽ về chất lượng cho đội ngũ công chức thuế, tăng hiệu quả trong quản lý thu thuế. Tuy
nhiên, Hệ thống chính sách thuế vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề ở chính sách thuế, cũng như
trong quá trình tổ chức quản lý thu thuế. Hệ thống chính sách thuế chưa bắt kịp được sự
phát triển ngày càng cao về khoa học, công nghệ. Sự hội nhập và quá trình toàn cầu hóa một
cách nhanh chóng đã làm cho chính sách thuế cũng như công tác tổ chức quản lý thuế bộc lộ
nhiều bất cập và tính khả thi thấp. Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức quản lý thu thì chưa phù
hợp, thiếu chặt chẽ, chồng chéo, nặng nề nên gây thất thu lớn về số lượng cơ sở, đơn vị thực
tế có kinh doanh nhưng không nộp thuế hoặc nộp không đầy đủ, nợ đọng kéo dài thất hu
cho NSNN. Trong điều tiết kinh tế vĩ mô nền kinh tế chưa phát huy hết tác dụng của công
cụ thuế để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh có lợi cho quốc kế dân sinh, thực hiện đóng góp
hợp lý, công bằng cho ngân sách Nhà nước.

Chi cục thuế quận 12 thực hiện nhiệm vụ thu NSNN trong bối cảnh chính sách thuế
có rất nhiều thay đổi theo chiều hướng Chính phủ, Quốc Hội tạo thuận lợi hơn cho người
nộp thuế trong thực hiện nghĩa vụ kê khai, nộp NSNN. Trong năm 2014 đã thực hiện thu
được 1.168.083 triệu đồng, đạt 135,19% dự toán pháp lệnh, tăng 21,76% so với cùng kỳ;
tổng thu trừ tiền Sử dụng đất là 842.868 triệu đồng, đạt 114,06% dự toán pháp lệnh, tăng
10,23% so với cùng kỳ; thu thuế CTN NQD là 537.134 triệu đồng, đạt 107% dự toán pháp
lệnh, tăng 11,57% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, tỷ lệ chây ỳ, trốn đóng thuế, nợ đọng thuế trên
9


địa bàn quận 12 trong thời gian qua vẫn còn lớn, gây thất thu cho NSNN. Để giải quyết triệt
để thực trạng này cần phải đánh giá thực trạng thu thuế và thất thu thuế tại Chi cục thuế
quận 12, từ đó đề xuất được những biện pháp thiết thực nhất nhằm chống thất thu thuế trong
thời gian tới.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn nêu trên tôi chọn thực hiện đề tài “Biện pháp chống
thất thu thuế đối với DN tại Chi cục thuế quận 12, thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài thạc
sĩ quản lý kinh tế. Đề tài nhằm đánh giá thực trạng công tác thu thuế đối với DN tại Chi cục
thuế quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
công tác thu thuế, chống thất thu, đảm bảo ngân sách nhà nước trong thời gian tới.
2. Mục đích nghiên cứu
Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác thu thuế, chống thất thu
thuế, đặc biệt đối với các Chi cục Thuế trên địa bàn quận 12.
Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý thu thuế tại Chi cục Thuế quận 12,
thành phố Hồ Chí Minh.
Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế, chống thất thu
thuế trên địa bàn quận 12 trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý thu thuế đối với các DN tại Chi cục thuế
quận 12 trong đó tập trung và các biện pháp, quy trình, quy định chống thất thu thuế.
Phạm vi nghiên cứu:

-

Thời gian: Luận văn thu thập và phân tích dữ liệu công tác quản lý thu thuế đối với

DN tại chi cục thuế quận 12 trong giai đoạn 5 năm từ năm 2010 đến năm 2014 và các số
liệu của năm 2015.
-

Không gian: Quận 12 thành phố Hồ Chí Minh.

-

Nội dung: Nghiên cứu thực trạng công tác thu thế đối với DN tại Chi cục thuế quận

12 thành phố Hồ Chí Minh. Phân tích đánh giá những mặt đạt được cũng như những hạn
chế, tồn tại và nguyên nhân đối với công tác này trong giai đoạn 2010 – 2014. Qua đó, đề
xuất một số kiến nghị, giải pháp giúp hoàn thiện công tác thu thế, chống thất thu thuế trong
thời gian tới.

10


4. Phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa của đề tài
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử làm phương pháp cơ bản, kết hợp với phương pháp phân tích – thống kê, so sánh
– tổng hợp, suy luận Loogic – Lịch sử,… nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: Luận văn giúp hệ thống hóa cơ sở lý luận
liên quan đến quản lý thu thuế. Ứng dụng mô hình lý thuyết vào đánh giá thực trạng công
tác thu thuế đối với DN tại Chi cục Thuế quận 12 Thành phố Hồ Chí Minh, qua đó đề xuất
một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác này trong thời gian tới.

5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn được chia ra làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý thuế và chống thất thu thuế đối với DN
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thuế và chống thất thu thuế đối với DN tại
Chi cục thuế quận 12 giai đoạn 2010 - 2014.
Chương 3: Một số giải pháp chống thất thu thuế trên địa bàn quận 12 đến năm 2020.

11


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ VÀ CHỐNG THẤT THU
THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.1 Cơ sở lý luận về thuế
1.1.1 Khái niệm thuế
“Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là một tất
yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Để duy trì sự tồn
tại của mình, Nhà nước cần có những nguồn tài chính để chi tiêu, trước hết là chi cho việc
duy trì và củng cố bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương thuộc phạm vi lãnh thổ mà
Nhà nước đó đang cai quản; chi cho các công việc thuộc chức năng của Nhà nước như: quốc
phòng, an ninh, chi cho xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng; chi cho các vấn đề về phúc
lợi công cộng, về sự nghiệp, về xã hội trước mắt và lâu dài [26].
Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu, Nhà nước thường sử dụng ba hình
thức động viên đó là: quyên góp của dân, vay của dân và dùng quyền lực Nhà nước bắt buộc
dân phải đóng góp. Trong đó hình thức quyên góp tiền và tài sản của dân và hình thức vay
của dân là những hình thức không mang tính ổn định và lâu dài, thường được Nhà nước sử
dụng có giới hạn trong một số trường hợp đặc biệt. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường
xuyên, Nhà nước dùng quyền lực chính trị buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập của
mình cho Ngân sách Nhà nước. Đây chính là hình thức cơ bản nhất để huy động tập trung
nguồn tài chính cho Nhà nước.
Hình thức Nhà nước dùng quyền lực chính trị buộc dân đóng góp để đáp ứng nhu cầu

chi tiêu của mình - Đó chính là thuế”[26].
Như vậy, thuế luôn gắn chặt với sự ra đời và phát triển của Nhà nước. Bản chất của
Nhà nước quy định bản chất giai cấp của thuế.
Một khái niệm khác về thuế tương đối hoàn chỉnh được nêu lên trong cuốn
“Economics” của hai nhà kinh tế Mỹ K.P.Makkohhell và C.L.Bryu như sau: “Thuế là khoản
chuyển giao bắt buộc bằng tiền” (hoặc là chuyển giao bằng hàng hóa dịch vụ) của các Công
ty và các hộ gia đình cho Chính phủ, mà trong sự trao đổi đó họ không nhận được một cách
trực tiếp hàng hóa hoặc dịch vụ nào cả, khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà là Tòa án
tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật [26].
Gần đây trong một số công trình nghiên cứu về thuế các nhà kinh tế cho rằng, để vạch
rõ bản chất của thuế thì trong định nghĩa đó phải nêu bật các khía cạnh sau đây: Nội dung
kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước với các pháp nhân và
các thế nhân; những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nãy sinh một cách khách quan

12


và có ý nghĩa đặc biệt việc chuyển giao thu nhận có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh của
Nhà nước xét theo khía cạnh luật pháp, thuế và một khoản nộp cho Nhà nước được pháp
luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
Kết hợp những hạt nhân hợp lý của các quan niệm về thuế kể trên, có thể nêu lên khái
niệm tổng quát về thuế như sau:
Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho
Nhà nước theo mức độ và pháp luật quy định. Khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức
thuế để phúc vụ cho mục tiêu công cộng. Nguồn thu về thuế không được sử dụng cho mục
tiêu các nhân [15].
Trong thực tế. ở nước ta hiện nay khi tình hình quỹ tiền tệ tập trung. Nhà nước thực hiện
các chức năng của mình trong đó có chức năng quản lý và xây dựng kinh tế thông quan việc
kiến thiết, xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi xã hội khác thì người
nộp thuế thông qua đó được hưởng một phần kết quả nộp thuế của mình [4]. Như vậy thuế ở

nước ta luôn luôn là khoản thu bắt buộc, không được trực tiếp hoàn trả cho người nộp thuế
nhưng họ được giám tiếp hưởng lợi do chính sách đầu tư, phát triển của Nhà nước cho các công
trình phúc lợi xã hội khác [26].
1.1.2 Đặc điểm của thuế
Từ định nghĩa trên ta thấy thuế là một trong những biện pháp tài chính bắt buộc nhưng
phi hình sự của Nhà nước nhằm động viên một số bộ phận thu nhập từ lao động, từ của cải, từ
vốn, từ các chi tiêu hàng hoá và dịch vụ, từ tài sản của các thể nhân và pháp nhân nhằm tập
trung vào tay Nhà nước để trang trải các khoản chi phí cho bộ máy nhà nước và các nhu cầu
chung của xã hội. Các khoản động viên qua thuế được thể chế hoá bằng luật.
Với nhận thức như vậy, có thể thấy rõ sự khác nhau giữa thuế với các hình thức phân
phối khác dựa trên những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, thuế là một biện pháp tài chính của Nhà nước mang tính quyền lực, tính
cưỡng chế, tính pháp lý cao nhưng sự bắt buộc này là phi hình sự.
Quá trình động viên nguồn thu từ thuế của Nhà nước là quá trình chuyển đổi quyền sở
hữu một bộ phận thu nhập của các pháp nhân và thể nhân thành quyền sở hữu của Nhà nước.
Do đó Nhà nước phải dùng quyền lực để thực hiện quyền chuyển đổi. Tính quyền lực tạo nên
sự bắt buộc là một tất yếu khách quan, nhưng vì các hoạt động thu nhập của thể nhân và pháp
nhân không gây cản trở cho xã hội nên tính bắt buộc này là phi hình sự. Vì vậy có thể nói
việc đánh thuế không mang tính hình phạt.
13


Đặc điểm này được thể chế hoá trong hiến pháp của mọi quốc gia, việc đóng góp thuế
cho nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt buộc đối với công dân. Mọi công dân
làm nghĩa vụ đóng thuế theo những luật thuế được cơ quan quyền lực tối cao quy định và nếu
không thi hành sẽ bị cưỡng chế theo những hình thức nhất định.
Thứ hai, Thuế tuy là biện pháp tài chính của Nhà nước mang tính bắt buộc, song sự bắt
buộc đó luôn luôn được xác lập trên nền tảng kinh tế-xã hội của người làm nhiệm vụ đóng
thuế, do đó thuế bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố kinh tế xã hội.
-


Yếu tố kinh tế thể hiện: Hệ thống thuế trước hết phải kể đến thu nhập bình quân đầu

người của một Quốc gia, cơ cấu kinh tế, thực tiễn vận động của cơ cấu kinh tế đó, cũng như
chính sách, cơ chế quản lý của Nhà nước. Cùng với yếu tố đó còn phải kể đến phạm vi, mức
độ chi tiêu của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng kinh tế của mình.
-

Yếu tố xã hội thể hiện: Hệ thống thuế phải dựa trên phong tục, tập quán của quốc gia,

kết cấu giai cấp cũng như đời sống thực tế của các thành viên trong từng giai đoạn lịch sử.
Mặt khác thuế còn thực hiện phân phối lại thu nhập xã hội đảm bảo công bằng xã hội.
Như vậy mức động viên qua thuế trong GDP của một quốc gia phụ thuộc vào nhu cầu
chi tiêu của Nhà nước và các vấn đề kinh tế, xã hội của quốc gia đó.
Thứ ba, Thuế là một khoản đóng góp không mang tính chất hoàn trả trực tiếp. Nghĩa là
khoản đóng góp của công dân bằng hình thức thuế không đòi hỏi phải hoàn trả đúng bằng số
lượng và khoản thu mà nhà nước thu từ công dân đó như là một khoản vay mượn. Nó sẽ được
hoàn trả lại cho người nộp thuế thông qua cơ chế đầu tư của Ngân sách nhà nước cho việc sản
xuất và cung cấp hàng hoá công cộng.
Đặc điểm này làm nổi rõ sự khác nhau giữa thuế và lệ phí. Lệ phí được coi là một khoản
đối giá giữa Nhà nước với công dân, khi công dân thừa hưởng những dịch vụ công cộng do
nhà nước cung cấp phải trả một phần thu nhập của mình cho nhà nước. Tuy nhiên việc trao
đổi này thường không tuân thủ theo hình thức trao đổi ngang giá dựa trên quy luật của thị
trường.
Tóm lại, Thuế là một biện pháp kinh tế của mọi Nhà nước, nó được thực thi khi hoạt
động kinh tế tạo ra thu nhập hoặc sử dụng nguồn thu nhập tạo ra. Đặc biệt, trong nền kinh tế
thị trường vai trò của Nhà nước ngày càng trở nên quan trọng thì vai trò của thuế cũng chiếm
vị trí không thể thiếu được trong công tác quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

14



1.1.3 Phân loại thuế
Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà hệ thống pháp luật thuế bao
gồm nhiều loại thế khác nhau. Để định hướng xây dựng và quản lý hệ thống thuế, việc xắp
xếp các luật thuế có cùng tính chất thành những nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế.
Phân loại thuế là việc sắp xếp các loại thuế trong hệ thống pháp luật thuế thành
những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Tùy thuộc vào mục tiêu, yêu cầu
của từng giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội mà cơ cấu và nội dung của luật thuế có khác
nhau. Cũng tùy thuộc vào cơ sở, mục đích phân định, thông thường thuế được phân loại
theo các tiêu thức sau:
+ Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào Ngân sách Nhà nước, thuế
được phân làm hai loại : Thuế trực thu và thuế gián thu.
Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một phần thu nhập
của người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Tính chất gián thu thể hiện ở chỗ người nộp thuế và
người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Thuế gián thu là một phận cấu thành trong giá
cả hàng hóa, dịch vụ do chủ thể hoạt động sản xuất, kinh doanh nộp cho Nhà nước nhưng
người tiêu dùng lại là những người phải chịu thuế. ở nước ta thuộc loại thuế này bao gồm:
Thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt … [26].
Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu nhập của các pháp
nhân hoặc thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chỗ người nộp thuế theo quy định của
pháp luật đồng thời là người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp động viên, điều tiết thu nhập
của người chịu thuế. ở nước ta thuộc loại thuế này gồm: thuế thu nhập DN, thuế thu nhập
đối với người có thu nhập cao, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông
nghiệp … [26].
Sự phân loại thuế thành thuế thực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan trọng trong
việc xây dựng chính sách pháp luật thuế.
+ Căn cứ vào đối tượng đánh thuế. Theo cách phân loại này thuế được chia thành:
Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế GTGT, thuế đánh vào sản
phẩm hàng hóa như thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế đánh vào thu nhập như

thuế thu nhập DN, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Thuế đánh vào tài sản như
thuế nhà đất, thuế đánh vào việc khai thác hoặc sử dụng một số tài sản quốc gia như thuế tài
nguyên , thuế sử dụng đất, sử dụng vốn ngân sách nhà nước, thuế khác và lệ phí, phí.

15


Các loại thuế trên được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để vừa phát huy tác
dụng riêng của từng loại thuế, vừa hỗ trợ, bổ sung cho nhau nhằm thực hiện một cách tổng
hợp các mục tiêu và vai trò hệ thống pháp luật thuế [26].
1.1.4 Chức năng của thuế
1.1.4.1. Chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính:
Ngay từ khi ra đời thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện huy động nguồn lực tài
chính cho nhà nước. Người ta gọi công dụng này là chức năng huy động tập trung nguồn lực
tài chính của thuế.
1.1.4.2. Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế:
Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế tự động xuất hiện trong quá trình thực
hiện chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế, nhưng phải đến những năm
đầu của thế kỷ XX thì chức năng này mới được nhận thức đầy đủ và sử dụng rộng rãi và gắn
liền với vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Như vậy, thông qua việc thu thuế Nhà nước đã thực hiện điều tiết và kích thích các
hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung của nền kinh tế quốc dân, phù hợp với lợi ích của xã
hội, tức là chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế đã được thực hiện.
Thực hiện chức năng điều chỉnh của thuế thông qua việc quy định các hình thức thu thuế
khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế (ĐTNT); xây dựng
chính xác, hợp lý các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp thuế. Trên cơ sở
đó Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung của nền kinh tế quốc dân,
phù hợp với lợi ích của toàn xã hội . Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, vai trò kích
thích kinh tế thông qua thuế ngày càng được nâng cao. Nhà nước sử dụng thuế để tác động lên
lợi ích kinh tế của các chủ thể vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân. Với công cụ thuế, sự can

thiệp của Nhà nước không mang tính chất mệnh lệnh bắt buộc các chủ thể phải kinh doanh hay
không kinh doanh mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với các chủ thể kinh doanh [4].
Giữa hai chức năng trên của thuế có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. chức
năng phân phối và phân phối lại của thuế là nguyên nhân ảnh hưởng đến sự vận động và
phát triển của chức năng điều tiết. Nhưng chức năng điều tiết của thuế cũng có tác động
ngược lại đến chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập.
Nguồn tài chính mà nhà nước tập trung được dưới dạng thuế là tiền đề của sự can
thiệp của nhà nước trên diện rộng và theo chiều sâu tới quá trình sản xuất kinh doanh của
các DN. Ngược lại, việc điều tiết, sắp xếp sản xuất của nhà nước nhằm vào việc thúc đẩy

16


nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện để tăng thu nhập của các tầng lớp nhân dân
và đây chính là cơ sở quan trọng để mở rộng phạm vi tác động của chứ năng phân phối và
phân phối lại [4].
Sự thống nhất nội tại của các chức năng hoàn toàn không loại trừ các mâu thuẫn nội tại
trong mỗi chức năng và giữa hai chức năng. Sự tăng cường chức năng phân phối và phân
phối lại làm cho nguồn thu của Nhà nước tăng lên điều đó có nghĩa là mở rộng khả năng của
nhà nước trong việc thực hiện các chương trình kinh tế xã hội. Mặt khác, việc tăng cường
chức năng phân phối và phân phối lại một cách quá mức làm tăng gánh nặng thuế và hậu quả
là làm giảm động lực phát triển kinh tế, trong nhiều trường hợp làm hạn chế vai trò của chức
năng điều tiết. Đó là tính hai mặt của thuế, nó có khả năng làm ảnh hưởng đến nền kinh tế
một cách tích cực nhưng cũng có thể ảnh hưởng một cách tiêu cực. Tính hai mặt của sự tác
động đó cần phải được xem xét nghiêm túc kỹ lưỡng trong tiến trình hoạch định xây dựng,
ban hành các chính sách pháp luật về thuế của nhà nước trong từng giai đoạn phát triển kinh
tế – xã hội nhất định [4].
1.2 .Thất thu thuế và chống thất thu thuế đối với doanh nghiệp
1.2.1 .Khái niệm thất thu thuế và chống thất thu thuế trong công tác quản lý thuế:
“Thất thu thuế được hiểu là hiện tượng trong đó những khoản tiền từ các cá nhân, tổ

chức có tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh hay có những điều kiện cơ sở vật chất
nhất định so với khả năng của họ cần phải động viên vào NSNN, song vì những lý do xuất
phát từ phía nhà nước hay người nộp thuế mà những khoản tiền đó không được nộp vào
NSNN. Như vậy có thể hiểu thất thu thuế có hai hình thức đó là: Thất thu thực và thất thu
tiềm năng.
- Thất thu thuế thực: Được hiểu là những khoản tiền phải thu vào NSNN đã được quy
đinh trong luật nhưng thực tế vì lý do nào đó không được nộp vào NSNN.
- Thất thu thuế tiềm năng: Được hiểu là những khoản tiền thuộc khả năng tiềm tàng
trong nền kinh tế đáng lẽ phải được khai thác động viên vào NSNN nhưng không được quy
định trong các luật thuế. Dạng thất thu thuế là những biểu hiện bên ngoài của thất thu thuế
theo những tiêu thức nhất định. Do vậy có thể khái quát các dạng thất thu thuế cơ bản như
sau:
-Thất thu thuế do không bao quát hết số cơ sở sản xuất, kinh doanh: Tình trạng này
xảy ra do các cơ sở sản xuất, kinh doanh không đăng ký kinh doanh, không đăng ký mã số
thuế hoặc có thể đăng ký kinh doanh nhưng không đăng ký mã số thuế nhưng vẫn tiến hành

17


sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra cũng có thể do các cơ sở này xin tạm nghỉ kinh doanh nhưng
thực tế vẫn tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
-Nhiều đối tượng cố tình kê khai không đúng số thuế đáng lẽ phải nộp theo quy định
của pháp luật cũng như thực tế mà các doanh nghiệp đang kinh doanh. Các doanh nghiệp
cũng như các hộ kinh doanh nộp thuế theo kê khai thấp hơn nhiều so với số thuế thực tế
phải nộp bằng cách khai tăng chi phí, giảm doanh thu thậm chí khai sai thuế suất.
-Các người nộp thuế nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tìm mọi cách để
trốn, lậu thuế như lập 2 hệ thống sổ sách kế toán để đối phó với cơ quan thuế, thực tế cho
thấy nhiều kế toán của các công ty “sở hữu” hàng trăm chữ ký khác nhau.
-Trốn thuế thông qua buôn lậu, nhất là buôn bán qua biên giới không những không
giảm mà có chiều hướng ngày càng tăng và phức tạp hơn trước.

-Thất thu từ hoạt động xây dựng, du lịch lữ hành, vận tải tư nhân, cho thuê nhà nghỉ
còn lớn do nhà nước chưa có các biện pháp quản lý các hoạt động này có hiệu quả. Vì vậy
các cá nhân, các hộ kinh doanh, các doanh nghiệp thường không khai báo, không đăng ký
nộp thuế nhằm trốn, tránh nghĩa vụ thuế với nhà nước.
-Thất thoát do không bao quát hết thu nhập của người nộp thuế cũng như số lượng
người phải nộp thuế thu nhập cá nhân vì số lượng các cá nhân hành nghề tự do còn lớn,
chưa có biện pháp quản lý hiệu quả thu nhập của họ. Hiện nay thu nhập của người lao động
ở nước ta có nhiều nguồn thu khác nhau và thường lớn hơn nhiều so với quỹ lương nhưng
nhà nước mới chỉ quản lý được phần thu nhập thông qua quỹ lương mà cá cơ quan, đơn vị
chi trả, còn những khoản thu nhập từ các nguồn khác thì chưa có biện pháp quản lý hiệu
quả.
-Thất thu thuế từ các khoản phí, lệ phí do chưa có biện pháp quản lý có hiệu quả ví
dụ như tình trạng bán vé cầu đường giả diễn ra rất “tấp nập” mà nhà nước chưa có biện pháp
quản lý.
-Vì lợi ích cá nhân cán bộ thuế móc ngoặc với người nộp thuế để làm giảm số thuế
phải nộp vào NSNN để chia chác. Tình trạng thất thu thuế nói trên do nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
-Do xuất phát từ người nộp thuế: Trong lịch sử phát triển của xã hội nhà nước ra đời
là tất yếu khách quan trong xã hội có giai cấp. Để có thể đảm bảo quyền lợi của giai cấp
thống trị, nhà nước cần có nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Nguồn
này được lấy bằng cách động viên một phần thu nhập của các tầng lớp trong xã hội. Với
quyền lực của mình nhà nước đặt ra các loại thuế buộc mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội
phải tuân theo. Nhu cầu chi tiêu của nhà nước càng nhiều thì mức động viên của thuế càng
cao. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường mục tiêu của các nhà kinh doanh là tối đa hóa lợi

18


nhuận, do vậy họ luôn tìm cách để làm tăng doanh thu, giảm chi phí trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh của mình, mà thuế cũng là một khoản chi mà họ phải nộp cho nhà nước

nên sẽ làm giảm lợi nhuận mà họ thu được. Do đó vì lợi ích của mình họ luôn tìm cách làm
giảm số thuế đáng lẽ phải nộp mà trốn được thuế không phải nộp thì càng tốt. Như vậy
trong thuế luôn tồn tại mâu thuẫn giữa lợi ích của nhà nước và lợi ích của người kinh doanh,
vì lẽ đó tình trạng thất thu thuế là không thể tránh khỏi.
-Các cơ quan quản lý nhà nước chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác quản lý
thuế. Chính quyền các cấp chưa tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan thuế làm việc.
-Nguyên nhân từ cơ quan thuế: Có thể do trình độ quản lý còn yếu, bộ máy tổ chức
kém hiệu quả, hay có thể do trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý chưa cao hoặc có thể
do chính sách thuế thay đổi liên tục, diễn giải không rõ ràng, còn có những thiếu sót, sơ hở
dẫn đến việc hiểu sai luật thuế do đó sẽ dẫn đến thực hiện sai. Hoặc cũng có thể do trình độ
cán bộ còn yếu nên không thể phát hiện ra những gian lận, sai sót trong các hóa đơn, chứng
từ, sổ sách do vậy người nộp thuế có thể trốn thuế.
-Thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế đã được cải thiện nhiều song vẫn còn nhiều
phiền hà, gây khó khăn cho người nộp thuế. Nhiều quy trình quản lý thuế chưa được rà soát,
xem xét sửa đổi do vậy gây tâm lý sợ đến cơ quan thuế của người nộp thuế”.
“Việc chống thất thu thế đang là vấn đề của tất cả các quốc gia. Ở nước ta việc thất
thu thuế diễn ra một cách phổ biến ở tất cả các loại thuế. Mặc dù ngành thuế ngày càng có
nhiều nỗ lực, nhưng các biện pháp chống thất thu thuế xem ra chưa hữu hiệu, dường như
người ta mới tận thu được với các đơn vị và công dân gương mẫu trong nghĩa vụ thuế, còn
những người cố tình trốn thuế thì không bị chế tài. Tình trạng này không những thể hiện
trong thuế thu nhập cá nhân (đối với người có thu nhập cao) mà thể hiện rất dễ thấy trong
thuế giá trị gia tăng. Rất nhiều doanh nghiệp, khách sạn, cửa hàng… không làm hóa đơn cho
khách hàng, còn khách hàng thì rất nhiều người cũng không có nhu cầu lấy hóa đơn (trừ
những doanh nghiệp cần có hóa đơn để khấu trừ thuế giá trị gia tăng). Phần lớn khoản
doanh thu không nhỏ đó Nhà nước không thu được thuế, cả thuế giá trị gia tăng lẫn thuế thu
nhập doanh nghiệp. Tình trạng đó không những gây tổn hại cho lợi ích của đất nước mà còn
tạo ra sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế của công dân, vô hình trung tạo thêm sự cạnh tranh
không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Trong nỗ lực chống thất thu thuế, chính quyền
thành phố Bắc Kinh (Trung Quốc) đã thực hiện một biện pháp khuyến khích người tiêu
dùng yêu cầu các doanh nghiệp phải cấp hóa đơn bán hàng. Người ta đã đưa vào một ô nhỏ

trong hóa đơn để biến hóa đơn thành một vé xổ số, khách hàng cào vào ô đó có thể trúng

19


thưởng từ 100 đến 5.000 nhân dân tệ. Để ngăn ngừa sự giả mạo, một ô thứ hai với mã số
cho phép khách hàng có thể kiểm tra thông qua Internet về việc công ty đưa cho họ hóa đơn
có giá trị hay không. Trong một chương trình thử nghiệm, một thị trấn nhỏ ở ngoại ô Bắc
Kinh đã tăng thuế lên tới 732 ngàn USD trong khi chỉ phải chi ra 17 ngàn USD tiền thưởng”
[32].
Quản lý thuế là quá trình tổ chức, quản lý và kiểm tra việc thực hiện những quy định
trong Luật thuế nhằm huy động đầy đủ những khoản thuế vào ngân sách Nhà nước theo luật
định [31].
Dưới góc độ chính trị: Quản lý được điều hành chính, là cai trị; nhưng dưới góc độ
xã hội: Quản lý là điều hành, điều khiển, chỉ huy. Dù dưới góc độ nào đia chăng nữa, quản
lý vẫn phải dựa những cơ sở, nguyên tắc đã được định sẵn và nhằm đạt được hiệu quả của
việc quản lý, tức là mục đích của quản lý.
Quản lý thuế là hoạt động chấp hành, điểu hành của cơ quan thuế Nhà nước các cấp
trên cơ sở của lật và để thi hành luật nhằm thực hiện chức năng tổ chức. quản lý, điều hành
các họat động thu thuế của Nhà nước. Nói cách khác, quản lý thuế chính là quản lý Nhà
nước trong lĩnh vực hành pháp - được thực hiện ít nhất một bên có thẩm quyền hành chính
Nhà nước trong quan hệ chấp hành, điều hành. Quản lý thuế là họat động đảm bảo thực thi
chính sách thuế trong thực tế, trong vai trò của cơ quan thuế rất quan trọng khi tác động lên
ĐTNT để đảm bảo tính hiệu lực - đáp ứng mục đích thu cho NSNN. Quản lý thuế chủ yếu
được thực hiện bở hệ thống cơ quan thuế Nhà nước: Tổng cục thuế ở Trung ương, Cục thuế,
chi cục thuế ở các địa phương [31].
1.2.2 Vai trò quản lý thu thuế và chống thất thu thuế
Quản lý thu thuế và chống thất thu thuế là một trong các nhiệm vụ của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền trong đó có các cơ quan quản lý thuế. Thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý
thuế không chỉ đảm bảo sự vận hành thông suốt hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước, mà

còn có tác động tích cực tới quá trình thu, nộp thuế vào NSNN, chống thất thu thuế. Đó
chính là vai trò của quản lý thuế và chống thất thu thuế. Vai trò chính trong công tác quản lý
thuế và chống thất thu thuế là:
-

Quản lý thuế có vai trò quyết định trong việc đảm bảo nguồn thu từ thuế được tập

trung chính xác, kịp thời, thường xuyên, ổn định vào NSNN. Thông qua việc lựa chọn áp
dụng các biện pháp quản lý thuế có hiệu quả, cũng như xây dựng và áp dụng quy trình, thủ

20


tục về thuế hợp lý, cơ quan thuế đảm bảo thu thuế đúng pháp luật, đầy đủ và kịp thời vào
NSNN.
-

Thông qua hoạt động quản lý thuế góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật cũng

như các quy định về quản lý thuế. Những điểm còn bất cập trong chính sách thuế và khiếm
khuyết trong các luật thuế được phát hiện trong quá trình áp dụng luật vào thực tiễn và qua
các hoạt động quản lý thuế. Trên cơ sở đó có quan điều hành thực hiện pháp luật đề xuất bổ
sung, sửa đổi các luật thuế.
-

Thông qua quản lý thuế, Nhà nước thực hiện kiểm soát và điều tiết các hoạt động

kinh tế của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Theo quy định của pháp luật thuế, người nộp
thuế có trách nhiệm phải kê khai thuế. Nội dung kê khai thuế là kê khai các hoạt động kinh
tế có liên quan đến việc tính toán nghĩa vụ thuế của người nộp thuế. Mặc khác, để quản lý

thuế, cơ quan thuế phải tổ chức thu thập, nắm bắt, lưu giữ thông tin về hoạt động sản xuất,
kinh doanh của người nộp thuế, phải tổ chức kiểm tra, thanh tra, kiểm soát các hoạt động
sản xuất, kinh doanh của người nộp thuế. Như vậy, có thể thấy, thông qua quản lý thuế, Nhà
nước đã thực hiện kiểm soát các hoạt động kinh tế của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Từ
việc kiểm soát các hoạt động kinh tế này, Nhà nước có thể có các chính sách quản lý phù
hợp để điều tiết hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế theo định hướng của Nhà nước.
1.2.3 Nguyên tắc quản lý thu thuế và chống thất thu thuế
Mỗi cấp cơ quan quản lý Nhà nước có nhiệm vụ khác nhau trong quản lý thuế. Tuy
nhiên, hoạt động quản lý thuế và chống thất thu thuế của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
đều phải tuân theo những nguyên tắc nhất định sau:
Tuân thủ pháp luật
Nguyên tắc này chi phối hoạt động của các bên trong quan hệ quản lý thuế bao gồm
cả cơ quan Nhà nước và người nộp thuế. Nội dung của nguyên tắc này là quyền hạn, trách
nhiệm của cơ quan quản lý; quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế đều do pháp luật quy
đinh. Trong quan hệ quản lý, các bên có liên quan có thể lựa chọn những hoạt động nhất
định nhưng phải trong phạm vi qui định của pháp luật về quản lý thuế.
Đảm bảo tính hiệu quả
Giống như mọi hoạt động quản lý khắc, hoạt động quản lý thuế phải tuân thủ nguyên
tắc hiệu quả. Các hoạt động quản lý thuế được thực hiện, các phương pháp quản lý được lựa
chọn phải đảm bảo số thu vào NSNN là lớn nhất theo đúng luật thuế. Đồng thời, chi phí
quản lý thuế là tiết kiệm nhất. Ví dụ như sự lựa chọn quy trình, thủ tục thuế rõ ràng, đơn
21


giản phù hợp với điều kiện thực tiễn nhất định và trình độ của người nộp thuế sẽ hứa hẹn
mang lại nguồn thu cao hơn do tiết kiệm được chi phí vận hành bộ máy thu thuế và chi phí
của người nộp thuế so với việc áp dụng một quy trình, thủ tục phức tạp hơn.
Thúc đẩy ý thức tự tuân thủ của người nộp thuế
Để đảm bảo hoạt động thu, nộp thuế đúng pháp luật, Nhà nước nào cũng tăng cường
các hoạt động quản lý đối với người nộp thuế. Trong điều kiện quản lý thể hiện được sự

tăng cường vai trò của Nhà nước theo hướng tập trung vào kiểm tra, kiểm soát kết quả thực
hiện nghĩa vụ thuế phù hợp với quy định của pháp luật (kiểm tra sau), đồng thời tạo điều
kiện cho người nộp thuế chủ động lựa chọn cách thức khai thuế và nộp thuế phù hợp với
hoạt động kinh doanh của mình, tôn trọng tính tự giác của người nộp thuế. Để đảm bảo
nguyên tắc này cần có hệ thống các văn bản pháp luật thuế đầy đủ, rõ ràng, phù hợp; có các
chế tài đủ mạnh để trừng phạt các vi phạm pháp luật thuế và có tác dụng răn đe.
Công khai, minh bach
Công khai, minh bạch là một trong những nguyên tắc quan trọng của quản lý thuế.
Nguyên tắc công khai đòi hỏi mọi quy định về quản lý thuế, bao gồm pháp luật thuế và các
quy định, thủ tục thu nộ thuế phải công bố công khai cho người nộp thuế và tất cả những tổ
chức, cá nhân có liên quan được biết. Nguyên tắc minh bạch đòi hỏi các quy định về quản lý
thuế rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu và diễn đạt sao cho chỉ có thể hiểu theo một cách nhất quán,
không hiểu theo nhiều cách khác nhau. Nguyên tắc minh bạch cũng đòi hỏi không quy định
những ngoại lệ trong thực thi pháp luật thuế, theo đó, cơ quan thuế hoặc công chức thuế
được quyết định áp dụng những ngoại lệ cho là để hoạt động quản lý thuế của Nhà nước
được mọi công dân giám sát, là môi trường tốt để phòng chống tham nhũng, cửa quyền,
sách nhiễu; qua đó thúc đẩy hoạt động quản lý thuế đúng luật, trong sạch và tạo điều kiện
thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.
Tuân thủ và phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế và mở rộng quan hệ
hợp tác kinh tế cho mỗi nước. Đồng thời, quá trình hội nhập cũng đòi hỏi mỗi quốc gia cần
có những thay đổi quy định về quản lý, cũng như các chuẩn mực quản lý phù hợp với các
cam kết và thông lệ quốc tế. Việc thực hiện các cam kết và thông lệ quốc tế về thuế tạo điều
kiện cho hoạt động quản lý của các cơ quan Nhà nước hội nhập với hệ thống quản lý thuế
thế giới. Tuân thủ thông lệ quốc tế cũng tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư của các nhà đầu
tư nước ngoài.
22


1.2.4 Nội dung quản lý thu thuế và chống thất thu thuế

Để huy động các khoản thu vào NSNN, đáp ứng nhu cầu chi tiêu cần thiết, nhà nước
cần ban hành các chính sách thuế và để đưa được các chính sách thuế vào cuộc sống thì phải
có hệ thống quản lý thuế để tổ chức thực thi chính sách thuế. Giữa hai nội dung này có mối
quan hệ hữu cơ với nhau, hệ thống chính sách thuế là cơ sở tiền đề để hình thành hệ thống
quản lý thuế và ngược lại hệ thống QLT là nơi tổ chức thực hiện chính sách thuế.
Theo Điều 3 Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 được Quốc hội nước CHXHCNVN
thông quan tại kỳ họp thứ 10, khóa XI, nội dung quản lý thuế gồm:
a) Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế;
b) Thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế;
c) Xóa nợ tiền thuế, tiền phạt;
d) Quản lý thông tin về người nộp thuế;
e) Kiểm tra thuế, thanh tra thuế;
f) Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế;
g) Xử lý vi phạm pháp luật về thuế;
h) Giải quyết các khiếu nại, tố cáo về thuế;
Các quy định của Luật quản lý thuế, đảm bảo tính pháp lý cho việc thực hiện cơ chế,
cơ chế tự khai tự tính, tự nộp thuế và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của NNT. Cơ quan
thuế chuyển sang thực hiện chức năng tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế. Cơ quan thuế
chuyển sang thực hiện chức năng tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế, kiểm tra thuế, thanh
tra thuế [29].
Các nội dung trên được cụ thể hóa bằng các quy định cụ thể để quản lý thuế theo chức
năng. Hiện nay Tổng cục thuế đang triển khai thực hiện 5 quy trình quản lý thuế:
- Quy trình quản lý khai thuế, nộp thuế và kế toán thuế: QĐ 423/QĐ - TCT ngày
24/9/2009, QĐ số 1864 QĐ-TCT ngày 21 tháng 12 năm 2011 của Tổng cục trưởng Tổng
cục Thuế:
Quy trình Quản lý khai thuế, nộp thuế và kế toán thuế nhằm đảm bảo theo dõi, quản lý
người nộp thuế thực hiện các thủ tục hành chính thuế về khai thuế, nộp thuế, kế toán thuế,
hoàn thành nghĩa vụ thuế đầy đủ, đúng quy định và đảm bảo công chức thuế, cơ quan thuế
thực thi đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Quản lý thuế, các Luật thuế hiện
hành và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật.


23


- Quy trình quản lý thu nợ và cưỡng chế nợ thuế: QĐ số 1395/QĐ-TCT ngày 14 tháng
10 năm 2011 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế:
Quy định trách nhiệm, nội dung, trình tự, thủ tục, thời gian để triển khai thực hiện
thống nhất trong cơ quan thuế các cấp trong việc xây dựng và thực hiện chỉ tiêu, đôn đốc
thu hồi và xử lý các khoản tiền thuế nợ của người nộp thuế có nghĩa vụ nộp thuế vào NSNN
(sau đây gọi là quản lý nợ thuế), đã được quy định tại Luật quản lý thuế và các văn bản
hướng dẫn về thuế.
- Quy trình kiểm tra thuế: QĐ số 528/QĐ-TCT ngày 29 tháng 5 năm 2008 của Tổng
cục trưởng Tổng cục Thuế.
Tăng cường kiểm tra, giám sát hồ sơ khai thuế của người nộp thuế nhằm chống thất
thu thuế qua việc kê khai thuế; ngăn chặn và xử lý kịp thời những vi phạm về thuế.
Nâng cao tính tự giác tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế trong việc thực hiện
kê khai thuế, tính thuế và nộp thuế.
Thực hiện cải cách hành chính trong việc kiểm tra thuế từ đó tránh gây phiền nhiễu và
tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế phát triển sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch
vụ.
- Quy trình hoàn thuế: QĐ số 905/QĐ-TCT ngày 01tháng 7 năm 2011 của Tổng cục
trưởng Tổng cục Thuế. Xác định cụ thể nội dung và trình tự công việc cơ quan thuế, công
chức thuế thực hiện giải quyết hoàn thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế. Nhằm cải
cách thủ tục hành chính trong việc giải quyết hoàn thuế cho người nộp thuế.
- Quy trình Miễn thuế, giảm thuế: QĐ số 1444 /QĐ-TCT ngày 24 tháng 10 năm
2011 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế. Xác định cụ thể nội dung và trình tự công việc
cơ quan thuế, công chức thuế thực hiện giải quyết miễn thuế, giảm thuế theo quy định của
Luật Quản lý thuế. Nhằm cải cách thủ tục hành chính, trong việc giải quyết miễn thuế,
giảm thuế được nhanh chóng, thuận lợi cho người nộp thuế. Ngoài ra còn có đội tuyên
truyền - Nghiệp vụ dự toán là đội sẽ hỗ trợ người nộp thuế tiếp thu ý kiến, giải quyết các

vấn đề vướng mắc về kê khai, nộp.
Để đạt được mục tiêu quản lý thuế, cơ quan thuế phải tổ chức thực hiện những phần
việc chủ yếu nhằm tác động, điều khiển và kiểm soát hoạt động kê khai, nộp thuế của người
nộp thuế. Nếu như xây dựng chính sách thuế, tổ chức bộ máy thu thuế và tổ chức quy trình
quản lý thuế là những nội dung có tính chất đi trước, tiền đề để thực hiện hoạt động quản lý

24


thuế thì tổ chức thực hiện các chức năng quản lý thuế, còn được gọi là hành thu, là nội dung
đi sau nhưng phải thường xuyên thực hiện của quản lý thuế.
Với mục tiêu tối thượng là thực hiện pháp luật thuế, nghĩa là phải đảm bảo để người
nộp thuế thực hiện nghĩa vụ kê khai nộp thuế cho Nhà nước thì cơ quan thuế cần tác động
vào tất cả những yếu tố điều khiển hành vi tuân thủ thuế của người nộp thuế. Tức là phải
cho người nộp thuế hiểu nghĩa vụ thuế, hiểu cách tính toán số thuế phải nộp, thấy được hậu
quả của việc không tuân thủ, tạo những điều kiện thuận lợi nhất để người nộp thuế thực hiện
nghĩa vụ kê khai, nộp cho Nhà nước, kiểm soát tuân thủ thuế. Để làm được điều đó, cần tổ
chức thực hiện các chức năng quản lý thuế. Đó là chức năng chủ yếu sau:
-

Tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế: chuyển tải thông tin về pháp luật thuế đến mọi

thành viên trong xã hội bằng những hình thức, biện pháp cụ thể.
-

Hỗ trợ người nộp thuế: Tạo những điều kiện tốt nhất để người nộp thuế thực hiện

nghĩa vụ thuế như hướng dẫn kê khai, giải đáp vướng mắc,…
-


Quản lý kê khai, nộp thuế: Nắm bắt toàn bộ tình trạng đăng ký thuế, kê khai thuế,

nộp thuế và nợ thuế của người nộp thuế.
-

Đôn đốc thu nộp thuế: Nhắc nhở người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế vào

NSNN.
-

Thanh tra, kiểm tra người nộp thuế: Kiểm soát, đối chiếu, đánh giá tính đúng đắn,

trung thực trong hoạt động kê khai thuế và thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế.
-

Cưỡng chế thuế: Dùng các hình thức, biện pháp buộc người nộp thuế thực hiện nghĩa

vụ thuế, thực hiện quyết định hành chính thuế.
Trong mọi mô hình tổ chức bộ máy thu thuế thì các chức năng trên đều phải thực
hiện. Trong các mô hình tổ chức bộ máy thu thuế theo đối tượng và theo sắc thuế thì một bộ
phận nào đó trong cơ quan thuế có thể thực hiện một số chức năng hoặc toàn bộ các chức
năng quản lý có thể nói trên. Trong mô hình tổ chức bộ máy thu thuế theo chức năng, thông
thường một bộ phận trong cơ quan thuế chỉ thực hiện một chức năng nhất định và có thể
phối hợp để thực hiện một chức năng khác.
1.2.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thu thuế và chống thất thu thuế
Hệ thống chính sách, pháp luật thuế
Hệ thống chính sách, pháp luật thuế được áp dụng thống nhất đối với mọi thành
phần kinh tế phải đảm bảo được sự động viên đóng góp bình đẳng và thực hiện công

25



×