Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Thực trạng chất lượng cán bộ công chức cấp xã huyện duy tiên tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.97 KB, 18 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI NÓI ĐẦU
Xã ( gọi chung là cấp xã ) có vị trí rất quan trọng trong hệ thống chính quyền bốn
cấp của nước ta hiện nay. Chính quyền cấp xã có chức năng: Bảo đảm việc chấp
hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
quyết định của chính quyền Nhà nước cáp trên, quyết địnhv à đảm bảo thực hiện
các chủ trương, biện pháp để phát huy mọi khả năng và tiềm năng của địa phương
về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, khôn g ngừng
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong xã và làm tròn nghĩa vị
của địa phương đối với Nhà nước
Cán bộ, công chức cấp xã là những người gần dân nhất, trực tiếp tiếp xúc với dân,
hàng ngày triển khai, hướng dẫn, vận động nhân dân thực hiện mọi chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trực tiếp lắng nghe, giải
quyết hoặc kiến nghị lên chính quyền cấp trên những ý kiến, nguyện vọng của
nhân dân.
Vì vậy, chất lượng của cán bộ, công chức cấp xã ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh
của hệ thống chính trị ở cơ sở, tác động trực tiếp đến sự nghiệp cách mạng và đổi
mới của Đảng và Nhà nước. “Thực trạng chất lượng cán bộ công chức cấp xã
huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam” làm đề tài tiểu luận của mình.

2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC
CẤP XÃ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
- Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức


vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
- Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan,
đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị
sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước;
đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công
lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo
quy định của pháp luật.
- Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ
chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển
dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp
xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
- Khái niệm công chức xã được quy định tại Khoản 3, Điều 4 của Luật cán bộ,
công chức 2008 như sau: “Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được
tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân
dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
1.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ công chức
1.2.1. Trình độ văn hóa
- Trình độ văn hóa phổ thông phản ánh mức độ nhận thức của đội ngũ cán bộ

công chức đạt được thông qua hệ thống đào tạo giáo dục phổ thông. Đây là
những kiến thức cơ bản, là nền tảng cho cán bộ công chức tiếp thu những
3


kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, tin
học, ngoại ngữ...là cơ sở để tiếp tục nâng cao trình độ lên các bậc trung cấp,
cao đẳng, đại học.
- Trình độ văn hóa phổ thông không phải là yếu tố quyết định đến toàn bộ
năng lực và hiệu quả làm việc nhưng là yếu tố cơ bản ảnh hưởng, đồng thời
cũng là tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực và hiệu quả hoạt động của
đội ngũ cán bộ công chức cấp xã.
1.2.2. Trình độ chuyên môn
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã phản
ánh mức độ tri thức về chuyên môn, nghiệp vụ mà cán bộ công chức tiếp
nhận được thông qua hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, các trường trung
cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học theo từng lĩnh vực chuyên môn phù hợp
yêu cầu đòi hỏi của công việc, được phân chia thành các mức: sơ cấp, trung
cấp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Khi đánh giá chất lượng đội ngũ cán
bộ công chức cấp xã cần phải quan tâm, chú ý về sự phù hợp giữa chuyên
môn đào tạo với vị trí công việc đảm nhận và yêu cầu thực tế của công việc.
1.2.3. Trình độ ngoại ngữ, tin học
Nước ta đang trong xu hướng hội nhập sâu rộng với khu vực, thế giới và
trong điều kiện toàn cầu hóa, việc đào tạo và nâng cao trình độ về tin học và
ngoại ngữ đối với đội ngũ cán bộ công chức ngày càng trở nên cần thiết
trong quá trình thực thi công vụ, nhằm góp phần nâng cao chất lượng công
tác quản lý hành chính cũng như chất lượng phục vụ nhân dân. Do vậy, trình
độ tin học, ngoại ngữ cũng là một trong các tiêu chí quan trọng để đánh giá
chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã. Theo quy định, trình độ tin học,
ngoại ngữ được phân chia thành các cấp độ: A, B, C, cao đẳng và đại học.

1.2.4. Trình độ lí luận chính trị
Trình độ lý luận chính trị phản ánh mức độ tri thức của đội ngũ cán bộ công
chức về những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam,
về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của Việt Nam...
Trình độ lý luận chính trị là một trong những tiêu chí cần thiết để đánh giá
chất lượng của cán bộ công chức. Thông qua kiến thức này giúp cho cán bộ
công chức nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, trung thành tuyệt đối với Đảng, nhà nước, tận
tụy với công việc, hết lòng hết sức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
4


chủ, công bằng, văn minh. Theo quy định, trình độ lý luận chính trị gồm
mức độ: sơ cấp, trung cấp, cao cấp và cử nhân.
1.2.5. Phẩm chất đạo đức
Phẩm chất đạo đức của người cán bộ bao gồm các yếu tố: Ý thức đạo đức,
thái độ đạo đức và hành vi đạo đức.
- Ý thức đạo đức của người cán bộ là quan niệm, sự hiểu biết về đạo đức, các
giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những giá trị, chuẩn mực
đạo đức mới (đạo đức cách mạng).
- Thái độ đạo đức của người cán bộ do ý thức đạo đức quy định, biểu hiện ra
bên ngoài là sự yêu hay ghét, ủng hộ hay phê phán đối với cái: thiện, ác, đẹp,
xấu, tiến bộ, lạc hậu…; là đúng mực, nghiêm túc hay không nghiêm túc với
công việc, nghề nghiệp, với đồng chí, đồng nghiệp, gia đình, bạn bè và quần
chúng nhân dân…
- Hành vi đạo đức của người cán bộ là những hành động, lời nói, việc làm
liên quan đến phạm trù đạo đức, có tính nêu gương, giáo dục đạo đức đối với
bản thân, gia đình, đồng chí, đồng nghiệp và nhân dân.
Lối sống của người cán bộ là những hình thức, cung cách sinh hoạt, làm

việc, những hoạt động, cách xử sự đã trở thành ổn định, thành đặc điểm riêng
của cá nhân. Lối sống do nhiều yếu tố quy định như giáo dục, nghề nghiệp,
điều kiện kinh tế, sinh hoạt, hoàn cảnh xã hội, phẩm chất tâm lý - sinh lý và
sự rèn luyện của cá nhân… Lối sống gắn liền và là một biểu hiện đậm nét
của đạo đức cá nhân, vì vậy, khi nhận diện và đánh giá phẩm chất đạo đức
của cán bộ nhất thiết phải xem xét lối sống của họ.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng của cán bộ công chức
1.3.1. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa
Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức là “ công việc gốc” của
Đảng. Phải kịp thời đào tạo cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực,
vừa có đức, vừa có tài, mà cái đức là gốc. Chú trọng bồi dưỡng đào tạo cả về
chính trị lẫn chuyên môn.
Vì vậy công tác đào tạo, bồi dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cán bộ,
công chức trong thời kì mới. Nếu làm tốt công tác này thì sẽ tạo ra một đội
ngũ cán bộ, công chức có thể thích ứng với yêu cầu và nhiệm vụ mới.
Ngược lại nếu công tác này không được quan tâm đầu tư thì trình độ năng
lực của cán bộ, công chức sẽ bị tụt hậu. Điều này đồng nghĩa với hiệu quả
công việc không cao và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
đến các hoạt động của cơ quan trong thời kì mới.
5


1.3.2. Cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm

Việc tuyển dụng bổ nhiệm cán bộ, công chức phải căn cứ vào nhu câu công
việc của cơ quan. Cán bộ, công chức phải có phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng
được tiêu chuẩn chuyên môn – nghiệp vụ.
Công tác tuyển dụng, bổ nhiệm ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả công tác của
cán bộ, công chức. Vì vậy, khi tuyển dụng phải đảm bảo tính dân chủ, công
khai, chú ý đến việc sắp xếp sao cho “ đúng lúc, đúng người, đúng việc,

đúng ngành nghề, đúng sở trường” thì mới phát huy năng lực công tác của
từng cán bộ, và đem lại hiệu quả cho công việc, góp phần nâng cao đội ngũ
cán bộ, công chức. Nếu công tác bổ nhiệm, tuyển dụng thực hiện không tốt
sẽ làm cho những cá nhân có trình độ năng lực sinh ra bất mãn, không muốn
phấn đấu vươn lên. Mặt khác, những cán bộ, công chức không có năng lực
mà phải đảm nhiệm công việc quá sức mình thì hiệu quả công việc không
cao.
1.3.3. Chế độ chính sách
Chế độ chính sách bao gồm chế độ tiền lương và các chế độ chính sách đãi
ngộ đối với cán bộ, công chức. Trong cơ chế thị trường hiện nay thì chế độ,
chính sách ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
Thực tế cho thấy khi thu nhập của con người khoog tương xứng với công
sức của học bỏ ra hoặc không có chế độ chính sách đãi ngộ thỏa đáng ngoài
tiền lương đối với cán bộ, công chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao thì họ dễ sinh ra chán nản, thiếu trách nhiệm với công việc, thậm chí có
khi còn là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn như tham nhũng, hối lộ
1.3.4. Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát
Quản lí, kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức về các mặt nhận thức tư tưởng,
năng lực công tác, các mối quan hệ xã hội, đạo đức, lối sống,…là những nội
dung vô cùng khó khăn và phức tạp. Vì mỗi cán bộ, công chức có hoàn cảnh
công tác, mối quan hệ xã hôi khác nhau. Tuy nhiên nếu làm tốt công tác này
thông qua các hình thức kiểm tra, giám sát như của cơ quan, của nhân dân,
của chi bộ nơi cán bộ công tác thì sẽ giúp

6


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC CẤP
XÃ HUYỆN DUY TIÊN TỈNH HÀ NAM
2.1.Giới thiệu tổng quan về huyện Duy Tiên

Duy Tiên là một huyện nằm ở phía bắc của tỉnh Hà Nam, có diện tích tự nhiên
13.765,80 ha bằng 16,01% diện tích tự nhiên của tỉnh. Phía Bắc giáp huyện Phú
Xuyên, thành phố Hà Nội. Phía Đông giáp huyện Lý Nhân và tỉnh Hưng Yên. Phía
Nam giáp thành phố Phủ Lý, huyện Thanh Liêm và huyện Bình Lục. Phía Tây giáp
huyện Kim Bảng.
Dân số : Tính đến ngày 31/12/2016: 133.123 người.
Đơn vị hành chính: 2 thị trấn, 16 xã.
Các xã, thị trấn:
2 thị trấn: Hòa Mạc và Đồng Văn
16 xã: Mộc Bắc, Mộc Nam, Chuyên Ngoại, Trác Văn, Châu Giang, Yên Bắc, Yên
Nam, Đọi Sơn, Tiên Phong, Châu Sơn, Tiên Ngoại, Tiên Nội, Hoàng Đông, Duy
Minh, Bạch Thượng, Duy Hải
Huyện có địa hình đặc trưng của vùng đồng bằng thuộc khu vực châu thổ Sông
Hồng. Nhìn chung địa hình của huyện khá thuận lợi cho phát triển sản xuất nông
nghiệp, đặc biệt là trồng lúa và cây vụ đông. Địa hình của huyện được chia thành 2
tiểu địa hình.
Vùng ven đê sông Hồng và sông Châu Giang bao gồm các xã Mộc Bắc, Mộc Nam,
Châu Giang, Chuyên Ngoại, Trác Văn, Yên Nam, Đọi Sơn...có địa hình cao hơn,
đặc biệt là khu vực núi Đọi, núi Điệp thuộc các xã Đọi Sơn và Yên Nam.
Vùng có địa hình thấp bao gồm các xã nội đồng như Tiên Nội, Tiên Ngoại, Tiên
Tân, Yên Bắc chiếm phần lớn diện tích tự nhiên của huyện cao độ phổ biến từ 1,8
- 2,5 m, địa hình bằng phẳng, xen kẽ là các gò nhỏ, ao, hồ, đầm.
2.2. Thực trạng chất lượng cán bộ công chức cấp xã huyện Duy Tiên tỉnh Hà
Nam
2.2.1. Số lượng cán bộ, công chức cấp xã huyện
- Hiện nay, huyện Duy Tiên có 419 cán bộ, công chức cấp xã cụ thể như sau:
+ Độ tuổi dưới 30 tuổi: 129 người=30,8%
7



+ Độ tuổi từ 30-50 tuổi: 201 người=47,9%
+ Độ tuổi từ 50-60 tuổi: 79 người=21,3%
2.2.2. Chất lượng, cơ cấu cán bộ công chức
- Về trình độ học vấn
+ Trung học cơ sở: 0
+ Trung học phổ thông trở lên: 100%
- Cơ cấu trình độ chuyên môn:
Trình độ

Số lượng (người)

Tỷ lệ (%)

Thạc sĩ

53

12,6

Đại học

213

50,8

Cao đẳng

103

24,5


Trung cấp

37

8,8

Khác

13

3,1

(Nguồn: Phòng nội vụ huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam năm 2014)
- Về trình độ quản lý nhà nước:
+ Cử nhân: 01 người
+ Chuyên viên chính: 05 người
+ Trung cấp: 25 người
+ Bồi dưỡng: 30 người
- Về trình độ lý luận chính trị
8


+ Cao cấp: 37 người
+ Trung cấp: 21 người
+ Sơ cấp: 35 người
- Về trình độ tin học:
+ Trung cấp trở lên: 01 người chiếm 0,27%
+ Chứng chỉ: 168 người chiếm tỉ lệ 46,02%
-


Về trình độ ngoại ngữ

+ Chứng chỉ A,B,C: 168 người, chiếm 7,12%
+ Đại học và cao đẳng: 05 người
Qua số liệu trên thấy trình độ của cán bộ, công chức cấp xã huyện Duy Tiên nhìn
chung là cao (trình độ thạc sĩ là 53 người chiếm 12,6%; đại học là 213 người chiếm
50,8%). Đây là điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu các kiến thức cũng như tiếp
nhận và triển khai tốt các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Hầu hết những người có chuyên môn cao đều ở độ tuổi trung niên (chiếm 59,1%)
có thâm niên và kinh nghiệm làm việc cao. Tuy nhiên họ lại được xếp vào làm các
công việc không thuộc chuyên môn nên không thể phát huy hết những năng lực
vốn có. Trái lại những cán bộ công chức lớn tuổi thường làm việc theo cảm tính
theo cảm tính, cách giải quyết, xử lý công việc còn thiếu chuyên môn
Các kiến thức phục vụ trực tiếp cho công việc chuyên môn hay kỹ năng quản lý
Nhà nước ở trình độ còn thấp, trình độ sơ cấp lý luận chính trị trở xuống còn nhiều.
Trình độ tin học, ngoại ngữ của cán bộ còn chưa cao
2.2.3. Phẩm chất đạo đức của cán bộ công chức cấp xã
Phần lớn cán bộ công chức cấp xã đều có phẩm chất đạo đức tốt, chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
có tinh thần trách nhiệm cao, ý thức cầu tiến, ham học hỏi nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ. Có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành tốt nội quy, quy chế
của ủy ban nhân dân cấp xã
9


Kết quả đánh giá cán bộ công chức năm 2015, trong tổng số 368 cán bộ, công chức
cấp xã có 44 cán bộ công chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, 271 cán bộ công
chức hoàn thành tốt nhiệm vụ, 11 cán bộ công chức hoàn thành nhiệm vụ, 02 cán
bộ công chức không hoàn hành nhiệm vụ.

2.2.4. Về công tác bố trí, sử dụng cán bộ công chức cấp xã
Việc bố trí, sử dụng cán bộ công chức cấp xã trong thời gian qua về cơ bản đảm
bảo đúng ngành nghề được đào tạo, phát huy được năng lực, sở trường của cán bộ
công chức. Tuy nhiên ở một số xã, thị trấn việc bố trí, sử dụng cán bộ công chức
vẫn còn nhiều hạn chế chưa phát huy được hết tiềm năng của đội ngũ cán bộ công
chức hiện có. Vẫn còn tình trạng bố trí, sử dụng cán bộ công chức trái với khả
năng, trình độ sở trường, ngành, bậc đang giữ. Việc sử dụng cán bộ công chức
chưa hợp lý ở một số chức danh hiện nay dẫn đến tình trạng có những cán bộ công
chức công việc thì quá tải nhưng cũng có những cán bộ, đặc biệt là cán bộ đoàn thể
chưa sử dụng hết thời gian vào công việc của mình
Hiện nay trên địa bàn huyện mới đang tiến hành việc luân chuyển cán bộ công
chức cấp huyện về công tác tại xã, thị trấn
2.2.5. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã
Hằng năm, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức đã được huyện ủy, ủy
ban nhân dân huyện, cấp ủy, chính quyền địa phương chỉ đạo quan tâm để nâng
cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công chức
cấp xã. Phần lớn cán bộ công chức cấp xã tham gia đào tạo, bồi dưỡng theo hình
thức vừa học vừa làm bởi theo quy định mỗi chức danh cán bộ công chức chỉ có 01
người đảm nhiệm hoặc có chức danh có 02 hoặc 03 người đảm nhiệm nhưng ở 02
hoặc 03 lĩnh vực công việc khác nhau đây cũng là một khó khăn khi cán bộ công
chức tham gia học tập; ưu tiên tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ
công tác đào tạo, bồi dưỡng. Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng đã được
đổi mới cải tiến cho phù hợp với nhu cầu thực tiễn
Chất lượng đào tạo được quan tâm và có những chuyển biến tích cực nhưng trên
thực tế vẫn chưa mang tính căn bản. Tính từ năm 2013-2015, kết quả công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức ở cấp xã như sau:
-

10


Về chuyên môn nghiệp vụ:


+ Đại học: 85 người
+ Trung cấp: 26 người
-

Về lý luận chính trị-hành chính

+ Cao cấp: 2 người (01 đã điều động lên công tác tại huyện, 01 bàn giao về thành
phố Phủ Lý)
+ Trung cấp: 72 người
-

Bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước

+ Chương trình chuyên viên chính: 01 người
+ Chương trình chuyên viên: 85 người
-

Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã nhiệm kì
2011-2016: 530 đại biểu hội đồng nhân dân

Nhìn chung công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức luôn đươc Đảng ủy,
chính quyền quan tâm theo hướng đào tạo cả về chuyên môn, nghiệp vụ và lí luận
chính trị. Số cán bộ công chức sau khi được đào tạo, bồi dưỡng đã góp phần tạo sự
chuyển biến về chất lượng đội ngũ cán bộ công chức đã phát huy tốt thực hiện
nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó có một số cán bộ công chức được đào tạo không
theo quy hoạch nên có ngành được đào tạo quá nhiều (ngành luật) trong khi đó có
ngành thiếu cán bộ công chức được cử đi học như xây dựng, giao thông

2.2.6. Mức độ hoàn thành công việc được giao của cán bộ công chức cấp xã
Hầu hết cán bộ công chức cấp xã huyện Duy Tiên đều tích cực phấn đấu vượt qua
những khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, tính nhạy bén,
tính chủ động còn hạn chế. Một số cán bộ công chức còn thiếu kinh nghiệm thực
tiễn, một số mặt chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ mới. Trình độ chuyên
môn nghiệp vụ của một số cán bộ công chức còn hạn chế. Từ đó đã ảnh hưởng đến
chất lượng lãnh đạo của huyện nên hiệu quả công việc đôi lúc chưa được như
mong muốn.
Qua đánh giá phân loại cán bộ công chức hàng năm, có từ 15-20% cán bộ công
chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, còn lại hoàn thành tốt nhiệm vụ.
11


2.3. Đánh giá chung chất lượng cán bộ công chức cấp xa huyện Duy Tiên tỉnh
Hà Nam
2.3.1. Mặt đạt được
- Đội ngũ cán bộ công chức cấp xã là đội ngũ gần dân nhất, là cầu nối giữa Đảng,
Chính phủ với nhân dân. Đội ngũ cán bộ công chức này giữ vị trí quan trọng trong
việc thực hiện các chủ trương chính sách pháp luật của nhà nước ở cơ sở, đồng
thời chịu sự giám sát của nhân dân
- Trong những năm qua được sự quan tâm của các cấp Đảng ủy, chính quyền địa
phương nên đội ngũ cán bộ công chức cấp xã đã tích cực, chủ động khắc phục khó
khăn, tích cực học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lí luận chính trị, chuyên môn
nghiệp vụ, kiến thức quản lý nhà nước, trình độ cán bộ công chức ngày càng được
nâng lên
- Đội ngũ cán bộ công chức phần lớn được rèn luyện trong thực tế công tác thể
hiện tốt vai trò tiền phong, gương mẫu trên các mặt, nêu cao trách nhiệm, năng
động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được phân công; có lối sống
lành mạnh, gần giũ với nhân dân, được cán bộ, đảng viên, nhân dân tín nhiệm, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, lập trường tư tưởng kiên định

- Trình độ kiến thức, năng lực của cán bộ công chức ngày càng được nâng lên cơ
bản đáp ứng được nhu cầu thực tế của từng địa phương. Tính đến thời điểm tháng
6 năm 2014, các chức danh cán bộ công chức cấp xã cơ bản đảm bảo về tiêu chuẩn
theo quy định quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16 tháng 1 năm 2004 của Bộ
Nội vụ hướng dẫn về chức danh, tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ công chức cấp
xã, phường, thị trấn.
2.3.2. Hạn chế
- Về chất lượng:
+Đội ngũ cán bộ công chức phần lớn chưa được đào tạo một cách bài bản chính
quy về chuyên môn nghiệp vụ; một số cán bộ công chức năng lực quản lý điều
hành chưa ngang tầm với nhiệm vụ, nhất là nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội
+Nhận thức trong đội ngũ cán bộ công chức xã chưa đồng đều, thiếu chủ động,
sáng tạo, việc vận dụng các chủ trương, chính sách của cấp trên vào công việc,
12


điều kiện của từng địa phương chưa linh hoạt, nhiều nơi còn sao chéo một cách
máy móc
+ Không ít cán bộ công chức cơ sở chưa nắm vững chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền được giao, không nắm vững các quy định của pháp luật, vì vậy quá trình chỉ
đạo điều hành, giải quyết công việc còn mang tính chủ quan, tùy tiện theo cảm tính
cá nhân, không căn cứ vào quy định của pháp luật dẫn đến vi phạm
Về kĩ năng làm việc: Mặc dù về số lượng, chất lượng của cán bộ công chức
cấp xã được tăng lên rõ rệt so với thời kì trước đây nhưng vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước , một số
cán bộ công chức năng lực thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn còn thấp,
chưa có tính chuyên nghiệp, phần lớn thiếu khả năng độc lập, quyết đoán
trong giải quyết công việc, thụ động trong thực thi các nhiệm vụ; thiếu khả
năng bao quát tình hình, đồng thời chậm thích ứng với nhiệm vụ mới, chưa
có khả năng tư duy, dự báo, xây dựng chương trình kế hoạch, thiếu khả năng

nghiên cứu, tổng hợp tình hình , tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, tinh thần
hợp tác, phối hợp công việc còn nhiều hạn chế, nên hiệu quả công tác không
cao
- Về phẩm chất chính trị, đạo đức: Một số cán bộ công chức cấp cơ sở sa sút
về phẩm chất, đạo đức, lối sống, tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ
không tốt, có biểu hiện quan liêu, hách dịch, chưa thực sự nghiêm túc thực
hiện tự phê bình và phê bình. Tinh thần trách nhiệm, tinh thần tự giác chưa
cao , việc thực hiện kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa nghiêm túc
- Về độ tuổi giới tính: tỷ lệ cán bộ công chức trẻ (từ 40 tuổi trở xuống) còn thấp
(hiện mới có 27,66%), số cán bộ công chức cấp xã là nữ chiếm tỷ lệ
thấp(18,63%), đặc biệt một số xã hiện nay chỉ có 01 đến 02 cán bộ công chức là
nữ.
-

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế
- Công tác quản lý cán bộ công chức ở cơ sở chưa tốt, chậm đổi mới, công tác
quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức chưa được coi trọng
đúng mức, chưa thực hiện một cách đồng bộ và khoa học dẫn đến thiếu nguồn
bổ sung, làm cho lực lượng cán bộ công chức ở cấp cơ sở bị thiếu hụt
- Đội ngũ cán bộ thường không ổn định sau mỗi nhiệm kỳ, do các chức danh
bầu cử không trúng cử , hoặc các công chức được bầu vào các chức danh chủ
13


chốt, làm cho vị trí công chức chuyên môn bị khuyết và chưa thể tuyển dụng bổ
sung kịp thời.
- Công tác kiểm tra, đánh giá về công tác cán bộ, công tác quy hoạch đào tạo
đội ngũ cán bộ công chức cấp xã của các cấp ủy, chính quyền các cấp không
thường xuyên, chưa có biện pháp khắc phục những yếu kém một cách có hiệu
quả. Nhiều nơi còn vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong

công tác cán bộ; chính sách đãi ngộ, khen thưởng đối với cán bộ cơ sở chưa
thỏa đáng, chưa tạo động lực, thu hút được đội ngũ cán bộ về công tác cơ sở
- Đội ngũ cán bộ công chức cấp xã chủ yếu là nguồn tại chỗ, phần lớn là không
được đào tạo một cách có bài bản trước khi trở thành cán bộ công chức mà chủ
yếu sau khi đã công tác mới được cử đi đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, lí luận chính trị nên dẫn đến hạn chế về nhiều mặt.
- Những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường cộng với thiếu ý thức phấn
đấu, rèn luyện đã làm cho một bộ phận cán bộ công chức sa sút về phẩm chất
đạo đức, thiếu ý thức tôn trọng pháp luật, kỷ cương hành chính, chưa tôn trọng
nhân dân
- Chính sách tiền lương chậm được cải tiến nên việc thu hút, khuyến khích đội
ngũ cán bộ công chức cấp xã làm việc còn gặp nhiều khó khăn. Chế độ tiền
lương chưa tương xứng với nhiệm vụ, với cống hiến của cán bộ công chức để
họ yên tâm công tác

14


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ HUYỆN DUY TIÊN.
- Tiến hành điều tra, kháo sát, đánh giá đội ngũ cán bộ công chức cấp xã.
Từng xã, thị trấn tổ chức điều tra, khảo sát, đánh giá một cách khách quan về
thực trạng tình hình đội ngũ cán bộ, công chức ở địa phương và dự báo nhu
cầu cán bộ công chức ở địa phương một cách khoa học. Để từ đó ủy ban
nhân dân xã, thị trấn xây dựng kế hoạch tuyển dụng công chức cấp xã hàng
năm theo từng chức danh, báo cáo ủy ban nhân dân huyện để phê duyệt và tổ
chức tuyển dụng theo quy định. Trong Kế hoạch tuyển dụng công chức cấp
xã phải nêu rõ số lượng chức danh công chức cấp xã được giao, số lượng
công chức hiện có và số lượng công chức còn thiếu so với số được giao theo
từng chức danh, điều kiện đăng ký dự tuyển theo từng chức danh công chức

cấp xã.
- Tiếp tục nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ, bởi: "Con người là nhân tố
quyết định...", "dụng nhân như dụng mộc"; trong khâu tổ chức cán bộ cũng
như quy hoạch cán bộ cần phải công bằng, khách quan, minh bạch trong
việc tuyển chọn, đánh giá, đề bạt cán bộ, cần xem xét, xây dựng lại quy trình
lựa chọn nhận sự để tránh những “lỗ hổng” trong việc tuyển chọn đề bạt
nhân sự. Việc lựa chọn nhân sự vào các chức danh chủ chốt của xã, thị trấn
phải được thực hiện một cách chặt chẽ khoa học, dân chủ và nhất thiết phải
dựa trên các tiêu chuẩn về năng lưc, trình độ, đạo đức và uy tín
- Hàng năm phải nghiêm túc thực hiện việc đánh giá xếp loại cán bộ công
chức để làm tốt công tác thi đua khen thưởng cũng như xử lý kỷ luật đối với
cán bộ công chức. Đảm bảo mỗi cán bộ phải hiểu rõ nhiệm vụ và được
hướng dẫn cách thức thực hiện công việc thuộc chức trách của mình. Từng
quý ủy ban nhân dân xã, thị trấn đánh giá việc hoàn thành nhiệm vụ của từng
cán bộ công chức làm cơ sở đánh giá cuối năm một cách toàn diện cả về
phẩm chất chính trị, đạo đức, tư cách, phương pháp công tác và kết quả hoàn
thành nhiệm vụ.
- Phải đánh giá lại công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức; xây dựng và
triển khai kế hoạch về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức. Đổi mới nội
dung, chương trình và phương thức đào tạo, bồi dưỡng, chú trọng nâng cao
kiến thức, kỹ năng thực hiện nhiệm vụ chuyên môn theo từng chức trách
nhiệm vụ đang đảm nhiệm. Đào tạo phải gắn với quy hoạch cán bộ và từng
15


-

16

chức danh cán bộ công chức với nhu cầu sử dụng, tránh đào tạo tràn lan

không đúng đối tượng. Phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, nhiệm vụ chính
trị của địa phương để bồi dưỡng, đào tạo cán bộ. Đẩy mạnh đào tạo cán bộ
trẻ, cán bộ nữ; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có đủ phẩm chất và năng
lực, có đức, có tài, mà có đức là cái gốc. Đó là đạo đức cách mạng: cần,
kiệm, liêm chính, chí công, vô tư. Kiên quyết chống
Đổi mới chế độ chính sách đối với cán bộ công chức như về: chế độ tiền
lương và các chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ công chức; đồng thời
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và điều kiện làm việc cho cán bộ công
chức để từ đó tạo động lực kích thích tính tích cực lao động của cán bộ công
chức hiện nay.


KẾT LUẬN
Đội ngũ cán bộ công chức cấp xã là những người có quan hệ trực tiếp, gắn
bó mật thiết với người dân, là người trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
với người dân để đảm bảo hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội, đảm bảo
quốc phòng an ninh ở địa phương. Việc không ngừng củng cố, chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã là nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa
quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã hội
chủ nghĩa.
Trong thời gian qua, bên cạnh việc quan tâm phát triển kinh tế - xã hội, đảm
bảo an ninh quốc phòng, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam đã thường xuyên
quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong đó có đội ngũ
cán bộ công chức cấp xã. Tuy nhiên, đứng trước những yêu cầu đòi hỏi của
thời kỳ hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa- hiện đại hóa đất nước với những thử thách mới, yêu cầu mới, nhiệm vụ
mới, thực trạng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã huyện Duy Tiên còn nhiều
tồn tại, bất cập, yếu về chất lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu
Để nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã trong thời gian đến, cần

giải quyết nhiều vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản. Trong đó, đặc biệt lưu tâm
đến các giải pháp: nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng công chức; đổi mới công tác tuyển dụng công chức; hoàn thiện công
tác đánh giá công chức; hoàn thiện công tác đánh giá, khen thưởng, kỷ luật
công chức; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện
công vụ của công chức; xây dựng và thực hiện đúng đắn chế độ chính sách
đối với công chức; tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác cán bộ, nâng cao chất lượng công chức.

17


1.
2.
3.
4.
5.
6.

18

TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS. Lê Thanh Hà (2009), Quản trị nhân lực, Tập 1, NXB Lao động – xã hội,
Hà Nội
TS. Lê Thanh Hà (2009), Quản trị nhân lực, Tập 2, NXB Lao động – xã hội,
Hà Nội.
Cổng thông tin điện tử Uỷ ban nhân dân huyện Duy Tiên
www.duytien.gov.vn
Phòng Nội vụ huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam
/> />



×