Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các công ty niêm yết thuộc nhóm ngành sản xuất thực phẩm, đồ uống việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.4 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

HOÀNG ANH NHƯ NGỌC

NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN TÍNH THANH KHOẢN CỦA CÁC CÔNG TY
NIÊM YẾT THUỘC NHÓM NGÀNH SẢN XUẤT
THỰC PHẨM, ĐỒ UỐNG VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TOÁN

Đà Nẵng – Năm 2017


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

HOÀNG ANH NHƯ NGỌC

NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN TÍNH THANH KHOẢN CỦA CÁC CÔNG TY
NIÊM YẾT THUỘC NHÓM NGÀNH SẢN XUẤT
THỰC PHẨM, ĐỒ UỐNG VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TOÁN
Mã số: 60.34.03.01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐƯỜNG NGUYỄN HƯNG

Đà Nẵng - Năm 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Hoàng Anh Như Ngọc


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1......................................................................................................9
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH THANH KHOẢN VÀ CÁC NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍNH THANH KHOẢN CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP...........................................................................................................9
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (bản sao)
BIÊN BẢN HỌP HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN VĂN (BẢN SAO)
NHẬN XÉT CỦA PHẢN BIỆN 1 (BẢN SAO)
NHẬN XÉT CỦA PHẢN BIỆN 2 (BẢN SAO)
BẢN GIẢI TRÌNH CHỈNH SỬA LUẬN VĂN


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu

Ý nghĩa

CCC


Cash Conversion Cycle – Chu kỳ chuyển đổi tiền mặt

DN

Doanh nghiệp

DT

Doanh thu

FEM

Fixed Effect Model – Mô hình ảnh hưởng cố định

GVHB

Giá vốn hàng bán

HTK

Hàng tồn kho

Khh

Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành

Knhanh

Tỷ số khả năng thanh toán nhanh


Ktt

Tỷ số khả năng thanh toán tức thời

LM

Lagrangian Multiplier – Kiểm định phương sai sai số thay đổi
LM

LNST

Lợi nhuận sau thuế

OLS

Mô hình hồi quy theo phương pháp bình phương bé nhất

P/E

Hệ số giá trên thu nhập một cổ phiếu

ROE

Return on Equity – Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu

ROA

Return on total Assets – Tỷ suất sinh lời trên tài sản

REM


Random Effect Model – Mô hình ành hưởng ngẫu nhiên

TS

Tài sản

TSCĐ

Tài sản cố định

TSNH

Tài sản ngắn hạn

TSLĐ

Tài sản lưu động

TCTD

Tổ chức tín dụng

VIF

Hệ số phóng đại phương sai

VLĐ

Vốn lưu động


VLĐR

Vốn lưu động ròng

VNDS

Công ty Cổ phần Chứng khoán VNDirect


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Bảng 1.1.4
Bảng 2.1
Bảng 2.2.3
Bảng 3.1
Bảng 3.2.1
Bảng 3.2.2
Bảng 3.3.1a
Bảng 3.3.2a
Bảng 3.3.3a
Bảng 3.3.4a
Bảng 3.3.5a
Bảng 3.3.6a
Bảng 3.3.1b
Bảng 3.3.2b
Bảng 3.3.3b
Bảng 3.3.4b
Bảng 3.3.5b

Bảng 3.4.1a
Bảng 3.4.2a
Bảng 3.4.1b
Bảng 3.4.2b
Bảng 3.4.3b
Bảng 3.5.1
Bảng 3.5.2

Tên bảng
Ví dụ về tính thanh khoản
Tăng trưởng tiêu dùng thực phẩm – đồ uống theo
giá so sánh năm 2005
Đo lường các biến độc lập
Thống kê mô tả các biến nghiên cứu
Ma trận tương quan giữa các biến mô hình 1 (CR)
Ma trận tương quan giữa các biến mô hình 2
(VQLD)
Model Summary (Mô hình CR)
Hệ số VIF (Mô hình CR)
Kết quả mô hình Pooled Regression (Mô hình CR)
Kết quả mô hình ảnh hưởng cố định (Mô hình CR)
Kiểm định Hausman (Mô hình CR)
Kết quả mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên (Mô hình
CR)
Model Summary (Mô hình VQLD)
Hệ số VIF (Mô hình VQLD)
Kết quả mô hình Pooled Regression (Mô hình
VQLD)
Kết quả mô hình ảnh hưởng cố định (Mô hình
VQLD)

Kiểm định Hausman (Mô hình VQLD)
Kiểm định LM (Mô hình CR)
Kiểm định Wooldridge (Mô hình CR)
Kiểm định Wald test (Mô hình VQLD)
Kiểm định Wooldridge (Mô hình VQLD)
Mô hình FEM theo phương pháp Robust Error (Mô
hình VQLD)
Bảng so sánh kết quả và giả thuyết nghiên cứu
(Mô hình Tỷ số thanh toán hiện hành)
Bảng so sánh kết quả và giả thuyết nghiên cứu

Trang
17
32
40
49
52
53
55
55
56
56
57
57
58
58
59
59
60
60

61
62
63
64
68
70


(Mô hình Vòng quay vốn lưu động)


DANH MỤC HÌNH VẼ
Số hiệu
hình vẽ

Tên hình vẽ

Trang

Hình 3.4.1

Biểu đồ phân phối chuẩn phần dư (Biến phụ thuộc
CR)

61

Hình 3.4.2

Biểu đồ P-P Plot (Biến phụ thuộc CR)


62

Hình 3.4.3

Biểu đồ phân phối chuẩn phần dư (Biến phụ thuộc
VQLD)

63

Hình 3.4.4

Biểu đồ P-P Plot (Biến phụ thuộc VQLD)

64


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, ngành công nghiệp thực phẩm – đồ uống đã đóng
vai trò quan trọng trong phát triển công nghiệp Việt Nam. Ngành thực phẩm
và đồ uống có vị trí đặc biệt quan trọng ở Việt Nam và có nhiều cơ hội để phát
triển bởi đây là một ngành nằm trong chuỗi cung ứng - đầu ra của nông
nghiệp, lĩnh vực có rất nhiều lợi thế cạnh tranh và đang được quan tâm phát
triển. Tỷ lệ các công ty tham gia vào ngành thực phẩm, đồ uống hiện đang
chiếm vị trí hàng đầu trong các ngành sản xuất, chế biến ở Việt Nam. Nguyên
nhân bởi Việt Nam là nước nông nghiệp nhiệt đới có nguồn nguyên liệu
phong phú, đa dạng là đầu vào quan trọng cho ngành công nghiệp chế biến.
Đất nước đang phát triển, thu nhập của người dân không ngừng tăng và lối

sống thay đổi đặc biệt là tại các trung tâm thành phố, mang lại nhu cầu về tiêu
thụ nhiều đồ ăn nhẹ, thực phẩm tiện dùng và đắt tiền. Thị trường trong nước
lớn với chi phí lao động thấp và quá trình tư nhân hóa các công ty thực phẩm
khiến thị trường này có sức sống mãnh liệt. Bên cạnh đó, áp lực cạnh tranh
ngày càng gay gắt trong ngành này là động lực cho một thị trường năng động
và kích thích phát triển. Với Việt Nam, ngành chế biến thực phẩm, đồ uống là
ngành có nhiều tiềm năng.
Để các công ty sản xuất thực phẩm, đồ uống Việt Nam hoạt động hiệu
quả nhằm góp phần ổn định và phát triển kinh tế, bên cạnh các chính sách hỗ
trợ từ các cơ quan quản lý Nhà nước thì bản thân công ty phải có những chiến
lược và chính sách đúng đắn. Một trong những vấn đề cần được quan tâm
nhất là nâng cao tính thanh khoản của công ty. Muốn vậy, nhà quản lý cần
phải biết được những nhân tố nào ảnh hưởng đến tính thanh khoản để từ đó đề
ra các chính sách hợp lý giúp cho hoạt động kinh doanh của công ty an toàn
và hiệu quả.


2

Tuy nhiên, hiện nay công tác nghiên cứu về tính thanh khoản và những
nhân tố ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các công ty Việt Nam còn một số
hạn chế do các nhà quản lý công ty chưa tìm hiểu sâu về các nhân tố ảnh
hưởng đến tính thanh khoản.
Từ những lý do trên, sau một thời gian tìm hiểu về ngành sản xuất thực
phẩm, đồ uống, tôi cho rằng việc nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến
tính thanh khoản của các công ty thuộc nhóm ngành này là một vấn đề có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn. Do đó, tôi đã chọn đề tài: “Nghiên cứu các nhân
tố ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các công ty niêm yết thuộc nhóm
ngành sản xuất thực phẩm, đồ uống Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu hướng đến hai mục tiêu chính:
- Làm rõ các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
đến tính thanh khoản của các công ty niêm yết thuộc nhóm ngành sản xuất
thực phẩm, đồ uống Việt Nam.
- Dựa trên kết quả nghiên cứu đưa ra một số hàm ý chính sách và kiến
nghị.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những nhân tố ảnh hưởng đến tính
thanh khoản của các công ty sản xuất thực phẩm, đồ uống niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu về mặt không gian: các công ty sản xuất thực
phẩm, đồ uống niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian: gian đoạn 2013-2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin: Trên cơ sở Báo cáo tài chính theo năm
của các công ty thuộc ngành sản xuất thực phẩm, đồ uống niêm yết trên thị


3

trường chứng khoán Việt Nam, tác giả thu thập số liệu của các chỉ tiêu nghiên
cứu trong ba năm 2013, 2014 và 2015.
Phương pháp xử lý và phân tích thông tin: phương pháp phân tích tổng
hợp, phương pháp so sánh đối chiếu được sử dụng trong suốt quá trình xử lý
số liệu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài đã trình bày những nhân tố và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố
đó đến khả năng thanh khoản của các công ty ngành sản xuất thực phẩm, đồ
uống. Từ đó cho thấy đặc thù về khả năng thanh khoản cũng như những nhân
tố ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngành sản xuất và chế biến thực

phẩm, đồ uống tại Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu cung cấp cơ sở để các công ty ngành sản xuất thực
phẩm, đồ uống niêm yết trên thị trường chứng khoán nói riêng và các công ty
ngành thực phẩm, đồ uống nói chung đề ra phương hướng, chiến lược, giải
pháp để nâng cao khả năng thanh khoản thông qua kế hoạch cải thiện các
nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của công ty.
6. Bố cục đề tài
Luận văn gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH THANH KHOẢN VÀ CÁC
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍNH THANH KHOẢN CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP
CHƯƠNG 2: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN TÍNH THANH KHOẢN CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT THUỘC
NHÓM NGÀNH SẢN XUẤT THỰC PHẨM, ĐỒ UỐNG VIỆT NAM
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ HÀM Ý TỪ KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU


4

7. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Trên Thế giới đã có nhiều nghiên cứu về tính thanh khoản và các nhân tố
ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các công ty, các tác giả đã dùng nhiều
phương pháp khác nhau, nghiên cứu thực nghiệm ở những công ty thuộc
nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau trong những điều kiện kinh tế xã hội
khác nhau. Cụ thể như một số nghiên cứu sau đây:
Trước tiên phải kể đến một trong những lý thuyết nổi bật nhất của tính
thanh khoản là “lý thuyết ưu chuộng tính thanh khoản” trong nghiên cứu mang
tên “The General Theory of Employment, Interest and Money” (Lý thuyết tổng
quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ) của Keynes (1936). Ông đưa ra ba động cơ

lý giải cho mục đích nắm giữ tiền mặt của con người, đó là: giao dịch, dự phòng
và đầu cơ. Học thuyết của Keynes đã trở thành nền tảng lý thuyết cho các nghiên
cứu sau này của nhiều tác giả khác phát triển theo đó. [17]
Bruinshoofd và Kool (2004) đã tiến hành thực nghiệm về khả năng thanh
khoản ngắn hạn của các công ty Hà Lan. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu 453 DN
giai đoạn 1986–1997. Các tác giả xem xét yếu tố quy mô, vốn lưu động, tài
sản, doanh thu, tổng nợ, nợ ngắn hạn, đầu tư, lợi nhuận trên tài sản, thu nhập
không chắc chắn, lãi suất bình quân là biến độc lập. Kết quả cho thấy vốn lưu
động, đầu tư và lợi nhuận trên tài sản lại có tác động tiêu cực đến khả năng
thanh khoản của công ty. [12]
Opler và cộng sự (1999) đã thực nghiệm các yếu tố tác động đến thanh
khoản của 1048 công ty Mỹ từ 1971 đến 1994. Kết quả cho thấy thanh khoản
có mối tương quan ngược chiều đến quy mô, vốn lưu động, đòn bẩy, chi trả cổ
tức. Ở chiều ngược lại, tỷ lệ dòng tiền/tài sản, tỷ lệ chi tiêu vốn/tổng tài sản,
rủi ro ngành, và tỷ lệ chi phí nghiên cứu phát triển/doanh thu có tương quan
cùng chiều với thanh khoản. Các tác giả kết luận rằng các công ty lớn có sự


5

tiếp cận thị trường vốn tốt hơn sẽ nắm giữ ít tiền mặt hơn, khiến chỉ số thanh
khoản kém hơn. [21]
Afza và Adnan (2007) nghiên cứu về những yếu tố của việc nắm giữ tiền
mặt trong các công ty ở Pakistan. Afza và Adnan thu thập mẫu gồm 205 công
ty đại chúng niêm yết trên thị trường chứng khoán Karachi (KSE) trong giai
đoạn 1998-2005. Nghiên cứu của họ cho thấy rằng các công ty có biến động
dòng tiền lớn hơn có xu hướng nắm giữ tiền mặt nhiều hơn để tạo một điểm
tựa an toàn cho các hoạt động của công ty được trôi chảy. [10]
Kim, Mauer và Sherman (1998) nghiên cứu những yếu tố quyết định tính
thanh khoản của công ty. Họ thu thập mẫu gồm 915 công ty công nghiệp ở

Mỹ trong giai đoạn 1975-1994. Kim, Mauer và Sherman dự đoán rằng có mối
quan hệ tích cực giữa chi phí tài chính bên ngoài và đầu tư vào tài sản lưu
động. Họ cũng dự đoán rằng các công ty có biến động dòng tiền lớn có xu
hướng đầu tư vào tài sản lưu động nhiều hơn. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng
chỉ ra tính thanh khoản của công ty có mối quan hệ tích cực với tỷ suất sinh
lời của tài sản. [18]
Với mẫu nghiên cứu trong 3 năm 2008–2010, Gill và Mathur (2011) đã
chọn 164 công ty trên thị trường chứng khoán Toronto, Canada nhằm tìm ra
các yếu tố tác động đến thanh khoản của công ty. Quy mô, vốn lưu động ròng,
tỷ lệ nợ, nợ ngắn hạn, tỷ lệ đầu tư và yếu tố ngành có tác động đến thanh
khoản của công ty. Các biến có tác động ngược chiều đến thanh khoản là tỷ lệ
nợ, vốn lưu động ròng và tỷ lệ đầu tư. [15]
Muhammad Usama (2012) phân tích quản lý vốn lưu động và nghiên
cứu ảnh hưởng của vốn lưu động đến lợi nhuận và thanh khoản của công ty.
Usama lấy mẫu gồm 18 công ty thuộc ngành thực phẩm được niêm yết trên
thị trường chứng khoán Karachi trong thời gian từ 2006-2010. Usama kiểm
tra tác động của quy mô, kỳ thu tiền bình quân, kỳ trả nợ bình quân, vòng


6

quay hàng tồn kho, tỷ lệ nợ đến lợi nhuận và thanh khoản của các công ty.
Qua phân tích hồi quy, kết quả cho thấy có tác động tích cực của quy mô đến
lợi nhuận và thanh khoản, trong khi kỳ thu tiền bình quân có tác động tiêu cực
đến lợi nhuận của công ty. [19]
Niaz Ahmed Bhutto và các cộng sự (2011) nghiên cứu mối quan hệ giữa
chu kỳ chuyển đổi tiền mặt với quy mô công ty, vốn lưu động và lợi nhuận
của các công ty ngành công nghiệp ở Pakistan. Dữ liệu thu thập được từ các
báo cáo tài chính năm 2009 của 157 công ty đại chúng được niêm yết trên sàn
chứng khoán Karachi. Nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ tiêu cực giữa

chiều dài chu kỳ chuyển đổi tiền mặt với lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
(ROE), nhưng có mối quan hệ tích cực với quy mô và lợi nhuận trên tổng tài
sản (ROA). [20]
Isshaq và Bokpin (2009) thu thập dữ liệu hàng năm giai đoạn 1991-2007
tại Ghana để đánh giá mối quan hệ giữa thanh khoản, quy mô, vốn lưu động,
tỷ lệ đầu tư và lợi nhuận trên tài sản. Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô, lợi
nhuận trên tài sản, vốn lưu động và tỷ lệ đầu tư có mối quan hệ cùng chiều
với khả năng thanh khoản của công ty. [16]
Chen và Mahajan (2010) nghiên cứu các công ty từ 45 quốc gia giai
đoạn 1994-2005. Mục tiêu nghiên cứu là đánh giá khả năng thanh khoản của
công ty thông qua biến quy mô, dòng tiền/tài sản, vốn lưu động/tài sản, chi
phí vốn/tài sản, tỷ lệ nợ, chi trả cổ tức. Nghiên cứu cho thấy dòng tiền có tác
động cùng chiều trong khi vốn lưu động/tài sản và tỷ lệ nợ có tác động ngược
chiều với khả năng thanh khoản. [13]
Ferreira và Vilela (2004) nghiên cứu các yếu tố quyết định tính thanh
khoản của 400 công ty tại 12 quốc gia EU bao gồm Đức, Áo, Pháp, Hy Lạp,
Ý, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Bỉ, Ireland, Phần Lan và Luxemburg
giai đoạn 1987-2000. Kết quả cho thấy tính thanh khoản chịu ảnh hưởng cùng


7

chiều với cơ hội đầu tư và lưu chuyển tiền tệ của công ty. Trong khi đó, đòn
bẩy, quy mô công ty và nợ có ảnh hưởng ngược chiều đến tính thanh khoản.
[14]
Ở Việt Nam, bài báo của PGS.TS.Trương Quang Thông (2013) nghiên
cứu “Các nhân tố tác động đến rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam”. Kết quả nghiên cứu cho thấy rủi ro thanh khoản ngân
hàng không những phụ thuộc vào các yếu tố bên trong hệ thống ngân hàng
như quy mô tổng tài sản, dự trữ thanh khoản, vay liên ngân hàng và tỷ lệ vốn

tự có trên nguồn vốn mà còn chịu sự tác động của các biến kinh tế vĩ mô như
tăng trưởng kinh tế, lạm phát. [8]
Nguyễn Đình Thiên, Nguyễn Thị Mai Trâm, Nguyễn Hồng Thu (2014)
đã nghiên cứu định lượng các yếu tố tác động đến khả năng thanh khoản của
các công ty đang niêm yết (trừ các tổ chức tài chính) tại thị trường chứng
khoán Việt Nam (HOSE, HNX). Dữ liệu nghiên cứu được trích từ báo cáo
tài chính từ năm 2007 – 2013. Nghiên cứu đã cho thấy khả năng thanh khoản
của các DN niêm yết giai đoạn 2007 – 2013 bị ảnh hưởng nhiều nhất từ tỷ lệ
vốn lưu động thuần và tỷ số P/B. Các yếu tố trên cũng có tương tác cùng
chiều với khả năng thanh khoản bên cạnh tỷ số P/E và tỷ lệ lưu chuyển tiền
thuần. Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ và tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản có tương quan
âm đến khả năng thanh khoản. [6]
Tuy nhiên, mỗi một DN đều có một đặc điểm riêng, và mỗi quốc gia
khác nhau có các chính sách kinh tế và tốc độ tăng trưởng khác nhau. Tất cả
những yếu tố này đều ảnh hưởng đến tính thanh khoản. Chính vì vậy, đối với
nền kinh tế của Việt Nam nói chung và ngành sản xuất thực phẩm, đồ uống
nói riêng, tác giả có thể vận dụng và đưa ra thêm các nhân tố ảnh hưởng đối
với tính thanh khoản sao cho phù hợp nhất đối với đặc điểm kinh tế cũng như
đặc điểm điểm ngành của bài nghiên cứu. Vì vậy, khác với các nghiên cứu


8

trước đây, với không gian và thời gian nghiên cứu hoàn toàn mới tác giả sẽ
lựa chọn, sử dụng và kiểm định mô hình phù hợp với ngành công nghiệp thực
phẩm từ đó cho cái nhìn khách quan và cụ thể nhất về mối quan hệ giữa các
biến phụ thuộc và biến độc lập. Hai mô hình được lựa chọn để đo lường tính
thanh khoản trong bài nghiên cứu này là: Tỷ số thanh toán hiện hành và Vòng
quay vốn lưu động.



9

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH THANH KHOẢN VÀ CÁC
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍNH THANH KHOẢN
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH THANH KHOẢN CỦA CÁC DN
1.1.1. Tổng quan về tính thanh khoản
Trước hết cần tìm hiểu xem tính thanh khoản là gì? Tính thanh khoản
(hay còn gọi là tính lỏng) của thị trường là một thuật ngữ kinh doanh dùng để
chỉ khả năng có thể nhanh chóng mua hoặc bán hàng hóa trên thị trường mà
không bị ảnh hưởng bởi yếu tố giá cả. Ngoài ra, khoảng thời gian để mua và
bán hàng hóa thường là ngắn hạn.
Theo từ điển Cambridge, tính thanh khoản là tính chất dễ dàng quy đổi
thành tiền hoặc các khoản tương đương của các khoản đầu tư hoặc tài sản.
Bên cạnh đó, tính thanh khoản chính là khả năng bán nhanh chóng và dễ dàng
của tài sản mà không phải chịu bất cứ tổn thất nào. Những tổn thấy ở đây có
thể là do sự thay đổi giá hoặc các loại phí giao dịch. Khi nhà đầu tư cân nhắc
đầu tư vào tài sản đó, họ cần phải cân nhắc khả năng có thể bán được tài sản
đó trong tương lai hay không, chi phí bỏ ra để mua tài sản là bao nhiêu và
dòng tiền trong tương lai đem lại cho nhà đầu tư như thế nào. Chi phí giao
dịch tốn kém và khả năng giá giảm trong tương lai khi bán không phải chỉ
liên quan đến các tài sản tài chính như cổ phiếu mà bao gồm tất cả các loại tài
sản. Các loại tổn thất này được gọi là chi phí do thiếu tính thanh khoản.
Trong đề tài khóa luận này, tác giả sử dụng định nghĩa tính thanh khoản
như sau:
Tính thanh khoản là khả năng nhanh chóng chuyển tài sản thành tiền
mà không phải chịu chi phí cao và khoảng thời gian cho giai đoạn chuyển

thành tiền là ngắn. Ví dụ, chứng khoán hay các khoản nợ, khoản phải thu,…


10

có khả năng đổi thành tiền mặt dễ dàng, thuận tiện cho việc thanh toán hay
chi tiêu. Các cách gọi thay thế cho tính thanh khoản là: tính lỏng, tính lưu
động.
Một tài sản gọi là thanh khoản khi mà thị trường của tài sản đó có nhiều
người mua và người bán. Tài sản có tính thanh khoản càng cao thì mức độ rủi
ro càng thấp. Như vậy, tiền mặt có tính thanh khoản cao nhất, luôn luôn dùng
được trực tiếp để thanh toán, lưu động, tích trữ. Do vậy, tính thanh
khoản cũng là một trong những chức năng của tiền tệ. Còn hàng tồn kho có
tính thanh khoản thấp nhất vì phải trải qua giai đoạn phân phối và tiêu thụ
chuyển thành khoản phải thu, rồi từ khoản phải thu sau một thời gian mới
chuyển thành tiền mặt.
Chứng khoán có tính thanh khoản là những chứng khoán có sẵn thị
trường cho việc bán lại dễ dàng, giá cả tương đối ổn định theo thời gian và
khả năng cao để phục hồi nguồn vốn đã đầu tư nguyên thủy. Nhờ có thị
trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi chứng khoán họ sở hữu
thành tiền mặt khi họ muốn và khả năng thanh khoản chính là một trong
những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán với các nhà đầu tư. Tính lỏng cho
thấy sự linh hoạt và an toàn của vốn đầu tư, thị trường hoạt động càng năng
động và có hiệu quả thì tính lỏng của chứng khoán giao dịch càng cao.
Khi lựa chọn chứng khoán để đầu tư, các nhà đầu tư nên xem xét đến
khả năng bán lại trước khi chúng đáo hạn để tái tạo nguồn vốn đầu tư ban đầu.
Nếu khả năng tái tạo kém, nghĩa là khó tìm được người mua hoặc phải bán
mất giá, nhà đầu tư sẽ gánh chịu những tổn thất tài chính lớn. Điều này gọi là
rủi ro thanh khoản trong đầu tư chứng khoán.
Nhà kinh tế học Keynes (1936) [17] đã chỉ ra rằng tính năng kinh tế đặc

biệt của tiền đó chính là “tính thanh khoản”. Tính thanh khoản của DN thể
hiện thông qua tính thanh khoản của các loại tài sản và dễ dàng nhận thấy


11

rằng tiền là tài sản có tính thanh khoản cao nhất. Chính nhờ tính thanh
khoản này, DN tránh được những tác động tiêu cực và những “cú sốc” về
dòng tiền không mong đợi.
1.1.2. Lý thuyết khuôn mẫu ưa thích tính thanh khoản
Khuôn mẫu ưa thích tính thanh khoản là một trong những lý luận liên
quan đến nhu cầu tiền tệ mà John Maynard Keynes đã nêu ra trong các tác
phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (tên gốc
tiếng Anh: The General Theory of Employment, Interest and Money) và trở
thành một trong những lý luận quan trọng của kinh tế học Keynes.
Nội dung của lý luận này được diễn đạt như sau: Nhu cầu về tiền mặt
của mọi người gồm hai bộ phận:
•Một là, nhu cầu tiền mặt cho giao dịch. Lượng cầu tiền mặt này là hàm
số thuận của thu nhập. Con người kinh tế điển hình hễ có thu nhập nhiều hơn
thì tiêu dùng nhiều hơn.
•Hai là, nhu cầu tiền mặt cho mục đích đầu cơ. Lượng cầu tiền mặt thứ
hai này là hàm số nghịch của lãi suất. Lãi suất càng hấp dẫn thì người ta càng
ít giữ tiền mặt. Lãi suất kém hấp dẫn thì có xu hướng giữ tiền mặt nhiều hơn.
Nói cách khác, lãi suất chính là cái giá để người ta hy sinh sự ưa chuộng tính
thanh khoản của tiền mặt (quyết định xu hướng giữ tiền).
Các giả thiết của Keynes đưa ra trong khuôn mẫu này là:
•Giả thiết thứ nhất: Người ta dùng hai loại tài sản chính để làm của cải
dự trữ của mình là trái phiếu và tiền mặt. Giả thiết này làm cho khuôn mẫu ưa
thích tính thanh khoản bỏ qua các tác động của sự thay đổi tỷ suất lợi nhuận
dự tính của các loại tài sản thực khác như bất động sản, vàng, xe ô tô,…

Với giả thiết chỉ có hai loại tài sản nên tổng của cải trong nền kinh tế
bằng tổng khối lượng trái phiếu và tiền mặt cộng lại và bằng tổng lượng cung
trái phiếu (Bs) cộng với tổng lượng tiền cung ứng (Ms). Tổng lượng trái phiếu


12

mà mọi người muốn mua (Bd) và số tiền mà mọi người muốn giữ (Md) phải
bằng với tổng lượng cung trái phiếu và cung tiền do mọi người không thể mua
nhiều tài sản hơn số nguồn lực mà họ nắm giữ. Như vậy lượng cung trái phiếu
và tiền phải bằng với lượng cầu trái phiếu và tiền:
Bs + Ms = Bd + Md
Biến đổi Phương trình này ta có: Bs – Bd = Md – Ms
Từ phương trình trên chúng ta nhận thấy rằng nếu thị trường của tiền tệ
cân bằng, tức là Md = Ms, thì thị trường trái phiếu cũng phải cân bằng, tức là
Bs = Bd
Như vậy, việc phân tích khuôn mẫu ưa thích tính thanh khoản (Cung –
cầu tiền tệ) cũng tương đương với việc phân tích khuôn mẫu tiền vay (Cung –
cầu trái phiếu).
•Giả thiết thứ hai: Tiền mặt không mang lại lợi nhuận và trái phiếu có tỷ
suất lợi nhuận dự tính bằng với lãi suất thực. Như vậy, khi lãi suất tăng, tỷ
suất lợi nhuận dự tính của tiền giảm một cách đáng kể so với trái phiếu và
theo Lý thuyết lượng cầu tài sản – Lượng cầu của một tài sản tỷ lệ thuận với
tỷ suất sinh lời dự kiến của loại tài sản đó so với các tài sản khác, cầu về tiền
sẽ giảm xuống, cầu trái phiếu tăng lên.
Có thể giải thích giả thiết trên dựa vào khái niệm “Chi phí cơ hội”. Chi
phí cơ hội của một loại tài sản (trong trường hợp này là tiền) là khoản lợi
nhuận bị mất đi do không nắm giữ loại tài sản thay thế khác. Khi lãi suất tăng,
chi phí cơ hội của việc giữ tiền cũng tăng lên (khoản lợi nhuận bị mất đi do
không nắm giữ trái phiếu) và tiền trở nên kém hấp dẫn hơn, nhu cầu về tiền sẽ

giảm xuống.
•Giả thiết thứ ba: Lượng cung tiền là do Ngân hàng trung ương kiểm
soát và không thay đổi trong ngắn hạn.


13

Lãi suất luôn có xu hướng đi về điểm cân bằng. Khi lãi suất quá cao,
lượng tiền dư thừa sẽ được chuyển vào thị trường trái phiếu. Cầu trái phiếu
tăng lên làm giá trái phiếu tăng lên và lãi suất giảm đi. Lãi suất sẽ giảm cho
đến lúc thị trường trái phiếu và tiền tệ cân bằng và dừng lại ở mức lãi suất (x)
% (và ngược lại).
Có thể dễ dàng thấy rằng ứng với mỗi một mức cung – cầu tiền sẽ xác
định được một lãi suất cân bằng tương ứng. Cho nên có thể nói những nhân tố
ảnh hưởng đến quan hệ cung – cầu tiền tệ trên thị trường cũng sẽ ảnh hưởng
đến sự biến động của lãi suất trên thị trường. Khuôn mẫu ưa thích tính thanh
khoản cho thấy lãi suất cân bằng thay đổi khi các đường cung, cầu tiền tệ dịch
chuyển.
•Ưu điểm của Lý thuyết ưa chuộng tính thanh khoản:
- Giải thích được tác động của cung – cầu tiền tệ đến lãi suất cân bằng.
- Đưa ra được kết quả quan trọng: Việc tăng cung tiền tệ sẽ làm giảm lãi
suất => ở nhiều nước đã ứng dụng để thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ khi
muốn giảm lãi suất để kích thích đầu tư và tiêu dùng.
•Nhược điểm của Lý thuyết ưa chuộng tính thanh khoản:
- Lý thuyết này giả định rằng người ta chỉ sử dụng tiền và trái phiếu để
làm của cải dự trữ, dẫn đến bỏ qua tác động của sự thay đổi tỷ suất lợi nhuận
dự tính của các loại tài sản thực khác: bất động sản, vàng,… Trong khi trên
thực tế, các yếu tố này cũng ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường.
- Chỉ nghiên cứu sự thay đổi của lãi suất cân bằng bởi một yếu tố kinh
tế cụ thể trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Trên thực tế, các yếu tố

kinh tế thường thay đổi đan xen => Lãi suất chịu sự tác động đồng thời của
nhiều yếu tố.
- Cung tiền và lãi suất không phải lúc nào cũng tỷ lệ nghịch với nhau
bởi sự gia tăng cung tiền ngoài việc tác động trực tiếp lên lãi suất còn có


14

những tác động trực tiếp lên các yếu tố khác như: thu nhập, mức giá và tỷ lệ
lạm phát dự tính. Các yếu tố này thay đổi do cung tiền tăng cũng có thể làm
lãi suất tăng lên.
Sau Keynes cũng có nhiều tác giả nghiên cứu về thuyết ưa chuộng tính
thanh khoản. Thuyết ưa chuộng thanh khoản đưa ra những lựa chọn xác định
bao nhiêu của cải được đầu tư vào các tài sản tài chính và quan tâm đến sự
phân bổ số của cải này vào tiền mặt và các tài sản tài chính thay thế khác. Hay
nói cách khác, ưa thích tính thanh khoản là một lý thuyết về việc mong muốn
giữ tài sản ngắn hạn hơn so với các tài sản dài hạn làm ảnh hưởng đến khả
năng thanh khoản của một DN.
1.1.3. Ý nghĩa của tính thanh khoản trong công ty
Một công ty không thể trả nợ đúng hạn và không thể tiếp tục giữ đúng
nghĩa vụ thanh toán của mình đối với các nhà cung cấp tín dụng, dịch vụ và
hàng hóa thì công ty đó có thể đang rơi vào tình trạng yếu kém hoặc bị phá
sản. Không có khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn có thể ảnh hưởng
đến hoạt động của công ty và trong nhiều trường hợp có thể ảnh hưởng nhiều
đến uy tín của công ty.
Thiếu tiền mặt hoặc tài sản lưu động sẽ làm cho công ty bỏ lỡ những ưu
đãi được đưa ra bởi các nhà cung cấp. Mất ưu đãi như vậy có thể dẫn đến chi
phí cao hơn, do đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty.
Tất cả các bên liên quan đều quan tâm đến khả năng thanh toán của một
công ty. Các nhà cung cấp sẽ kiểm tra tính thanh khoản của công ty trước khi

cho vay hay bán chịu. Thanh khoản đôi khi được yêu cầu bởi các ngân hàng
khi họ đánh giá một khoản cho vay. Nếu công ty cần một khoản vay, ngân
hàng có thể sẽ yêu cầu công ty đó duy trì mức thanh khoản tối thiểu nhất định,
như một phần của thỏa thuận cho vay. Vì lý do đó, các bước cải thiện thanh
khoản là cần thiết.


15

Các nhân viên cũng quan tâm đến tính thanh khoản của công ty để biết
liệu các công ty có thể đáp ứng các nghĩa vụ liên quan đến quyền lợi của mình
như: tiền lương, quỹ phúc lợi,…
Như vậy có thể nói rằng trong hoạt động kinh doanh thì tính thanh khoản
được xem như là mạch máu duy trì sự sống của công ty. Một khi công ty bị
mất tính thanh khoản thì sẽ không thể thanh toán được các khoản nợ và tất
nhiên sẽ rơi vào tình trạng vỡ nợ. Lúc này khoảng cách giữa vỡ nợ và phá sản
chỉ còn là vấn đề thời gian nếu DN không kịp thời khôi phục được tính thanh
khoản. Do đó, việc hiểu rõ về tính thanh khoản của công ty giúp cho các nhà
quản lý kinh doanh tránh được rủi ro thanh khoản trong tương lai.
1.1.4. Đo lường tính thanh khoản
Trong quan hệ thanh toán, hầu hết các DN đều có xu hướng thực hiện
việc tài trợ vốn thông qua vay nợ ngắn hạn. Vấn đề đặt ra là liệu DN có khả
năng thanh toán và thanh toán đúng hạn các khoản nợ? Đây là câu hỏi, không
chỉ bản thân DN mà các ngân hàng, nhà cung cấp, nhà đầu tư,... cũng rất quan
tâm. Để trả lời câu hỏi trên thì phải đo lường tính thanh khoản của DN. Các
DN chủ yếu sử dụng tỷ số thanh toán để đo lường tính thanh khoản, do các tỷ
số này cho biết khả năng của một DN trong việc dùng các tài sản ngắn hạn để
chi trả cho các khoản nợ ngắn hạn của mình. Tuy nhiên, mỗi tỷ số đều có
những ưu và nhược điểm riêng trong việc đo lường tính thanh khoản. Sau đây,
tác giả sẽ tập trung phân tích những hạn chế của các tỷ số thanh toán này.

•Thứ nhất, tỷ số thanh toán hiện hành thể hiện mối quan hệ giữa toàn bộ
tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn của DN và được tính như sau:
Khh = Tài sản ngắn hạn/Nợ ngắn hạn
Về mặt lý thuyết, nếu tỷ số thanh toán hiện hành càng cao thì khả năng
thanh toán của DN càng tốt. Tuy nhiên, trên thực tế, đôi lúc hàng tồn kho của
DN lớn, tỷ số thanh toán hiện thời cao nhưng chưa chắc tính thanh khoản của


16

DN tốt. Nếu như, trong điều kiện thị trường có những biến động xấu, hàng tồn
kho bị ứ đọng, kém phẩm chất làm cho hàng tồn kho khó hoán chuyển thành
tiền. Lúc này, DN khó có thể thanh toán được các khoản nợ đến hạn mặc dù tỷ
số thanh toán hiện thời cao. Vì thế, trong nhiều trường hợp, tỷ số thanh toán
hiện thời không phản ánh chính xác khả năng thanh toán của DN.
•Thứ hai, tỷ số khả năng thanh toán nhanh, tương tự như khả năng thanh
toán hiện hành nhưng tỷ số này loại bỏ phần tài sản tồn kho trên tử số. Vì đó
là bộ phận phải dự trữ thường xuyên cho kinh doanh mà giá trị của nó và thời
gian hoán chuyển thành tiền không chắc chắn. Cụ thể, tỷ số này được tính như
sau:
Knhanh = (TSNH – Hàng tồn kho)/Nợ ngắn hạn = (Tiền + ĐTNH + Nợ
phải thu)/Nợ ngắn hạn
Theo công thức trên, ta thấy trong tài sản ngắn hạn được dùng để thanh
toán nợ ngắn hạn của tỷ số thanh toán nhanh bao gồm các khoản nợ phải thu
nhưng không phải lúc nào DN cũng có thể thu hồi được và thu hồi đúng hạn
các khoản phải thu này. Khi đó, tỷ số khả năng thanh toán hiện hành sẽ không
phản ánh chính xác khả năng thanh toán của DN.
Hạn chế của hai chỉ tiêu này là dựa trên khái niệm thanh lý toàn bộ tài sản
ngắn hạn của công ty kể cả những tài sản khó hoán chuyển thành tiền để đáp
ứng tất cả các khoản nợ ngắn hạn. Trong một số trường hợp, chính hạn chế này

khiến tỷ số thanh toán hiện hành và tỷ số thanh toán nhanh không phản ánh
chính xác khả năng thanh khoản của DN. Ví dụ sau đây, sẽ minh họa cho sự
hạn chế của việc sử dụng hai tỷ số thanh toán trên trong việc đo lường tính
thanh khoản của DN, giả sử có số liệu của hai DN A và B như bảng sau:


17

Bảng 1.1.4. Ví dụ về tính thanh khoản
Chỉ tiêu
DN A
DN B
1. Tài sản ngắn hạn
1.500.000.000 1.000.000.000
Trong đó: a. Hàng tồn kho
800.000.000 400.000.000
b. Nợ phải thu
600.000.000 350.000.000
2. Nợ ngắn hạn
350.000.000 350.000.000
3. Giá vốn hàng bán trung bình ngày
5.000.000
5.000.000
4. Doanh thu trung bình ngày
7.000.000
7.000.000
5. Tỷ số thanh toán hiện hành: (5) = (1)/(2)
4,29
2,86
6. Tỷ số thanh toán nhanh: (6) = [(1)-(a)]/(2)

2,00
1,71
7. Kỳ chuyển đổi hàng tồn kho: (7) = (a)/(3)
160 ngày
80 ngày
8. Kỳ thu tiền khách hàng: (8) =(b)/(4)
86 ngày
50 ngày
9. Kỳ thanh toán cho nhà cung cấp:
70 ngày
70 ngày
(9) = (2)/(3)
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Dựa vào số liệu trên cho thấy, DN A có tỷ số thanh toán hiện hành là
4,29 và tỷ số thanh toán nhanh là 2,00. Trong khi đó, DN B có tỷ số thanh
toán hiện hành là 2,86 và tỷ số thanh toán nhanh là 1,71. Như vậy, nếu chỉ dựa
vào khả năng thanh toán hiện hành và khả năng thanh toán nhanh thì khả năng
thanh toán của DN A là tốt hơn DN B. Nhưng đi sâu phân tích chúng, ta thấy:
DN A cần 86 ngày để thu hồi các khoản phải thu và mất 160 ngày để hàng tồn
kho quay hết 1 vòng. DN B cần 50 ngày để thu hồi các khoản phải thu và mất
80 ngày để hàng tồn kho quay hết 1 vòng.
Như vậy, trong ví dụ trên DN A là rất kém thanh khoản. Mặc dù, DN A
có tỷ số thanh toán hiện hành và tỷ số thanh toán nhanh rất cao. Vì các khoản
nợ phải trả của DN A đến nhanh hơn so với tốc độ chuyển đổi hàng tồn kho
và các khoản phải thu sang tiền mặt. Trong khi đó, DN A không thể thanh
toán các khoản nợ phải trả đến hạn mà không phải bằng tiền mặt. Lúc này,
DN B có thanh khoản tốt hơn DN A vì quá trình chuyển đổi của hàng tồn kho
và nợ phải thu nhanh hơn.



×