Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.05 KB, 31 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động ngân hàng luôn phải đối diện với rất nhiều rủi ro như rủi ro tín dụng,
rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản,…Trong đó rủi ro thanh khoản là rủi ro
được coi là nguy hiểm nhất của ngân hàng hiện nay, nguy hiểm của nó khơng những có
thể làm cho chính bản thân ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản mà cịn gây ra hiệu
ứng lan truyền ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống ngân hàng. Điển hình là năm 2003,
ngân hàng ACB lâm vào tình trạng mất thanh khoản đầu tiên ở Việt Nam nguyên nhân
là do ảnh hưởng của một tin đồn làm lượng khách hàng kéo đến rút tiền ồ ạt, và may
mắn sự việc này được giải quyết kịp thời nếu không sẽ ảnh hưởng không chỉ đối với
ngân hàng ACB mà cịn đối với cả hệ thống kinh tế tài chính- tiền tệ. Ngồi nhân tố là
xuất phát từ thơng tin “ tin đồn” thì cịn những nhân tố nào có thể ảnh hưởng đến rủi ro
thanh khoản của ngân hàng thương mai. Chính vì vậy, ở đề tài này chúng em muốn đi
sâu vào tìm hiểu những nhân tố dẫn đến rủi ro thanh khoản của ngân hàng thương mại
Việt Nam hiện nay và đưa ra biện pháp đảm bảo khả năng thanh khoản hợp lý cho các
ngân hàng thương mại Việt Nam.
Trên cơ sở đó, chúng em xin chọn đề tài: “Phân tích những nhân tố ảnh hưởng
đến rủi ro thanh khoản của ngân hàng thương mại Việt Nam” để nghiên cứu, dưới
góc độ là tài liệu tham khảo dành cho sinh viên. Chúng em xin chân thành cảm ơn Th.S
Đàng Quang Vắng đã tận tình giúp đỡ chúng em để hoàn thành được đề tài này. Do
nhiều hạn chế về mặt kiến thức cũng như thời gian nên đề tài cịn nhiều sai sót rất
mong nhận được sự nhận xét và góp ý của q Thầy Cơ. Chúng em xin chân thành cám
ơn.

1


2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục tiêu nghiên cứu
 Nghiên cứu về mặt lý luận khái niệm rủi ro thanh khoản; mối quan hệ giữa
rủi ro thanh khoản và các rủi ro khác; ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản;


định giá trạng thái thanh khoản; các dạng rủi ro thanh khoản; dấu hiệu
ngân hàng đối mặt với rủi ro thanh khoản; những nhân tố dẫn đến rủi ro
thanh khoản của Ngân hàng thương mại.


Khảo sát thực trạng về những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản.



Đưa ra biện pháp giải quyết vấn đề rủi ro thanh khoản của các ngân hàng
thương mại Việt Nam.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu



Một là, thông qua những lý thuyết đã được học và tìm hiểu qua sách báo,
internet để làm rõ hơn về mặt lý thuyết rủi ro thanh khoản, những nhân tố
dẫn đến rủi ro thanh khoản trong ngân hàng thương mại Việt Nam và
biện pháp giải quyết chúng.



Hai là, tìm hiểu thực trạng về tính thanh khoản, cơng tác quản lý thanh
khoản và nhân tố dẫn đến gây ra rủi ro thanh khoản tại một số Ngân hàng
thương mại Việt Nam từ năm 2003 cho đến nay.



Ba là, đề xuất được những biện pháp hạn chế các nhân tố dẫn đến rủi ro
thanh khoản và nâng cao chất lượng công tác quản trị thanh khoản ở một

số Ngân hàng thương mại Việt Nam.

3. Phạm vi nghiên cứu


Không gian: Một số ngân hàng thương mại ở Việt Nam.



Thời gian: 2003 đến nay.

4. Phương pháp nghiên cứu

2


Đề tài sử dụng một số phương pháp như phương pháp phân tích, phương
pháp thống kê, phương pháp tổng hợp,…
5. Kết cấu đề tài
Đề tài này kết cấu gồm 3 phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung
Phần nội dung gồm 3 chương:


Chương 1: Cơ sở lý luận về những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh
khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam.




Chương 2: Thực trạng về những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh
khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam.



Chương 3: Những giải pháp giải quyết vấn đề rủi ro thanh khoản của các
ngân hàng thương mại Việt Nam.

Phần kết luận

3


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN RỦI RO
THANH KHOẢN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1 Rủi ro thanh khoản
1.1.1

Khái niệm rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là rủi ro phát sinh từ trạng thái mà NHTM khơng có được đủ

vốn khả dụng – cung thanh khoản vào thời điểm mà NHTM cần để đáp ứng cầu thanh
khoản, trạng thái này tác động xấu tới uy tín, thu nhập và khả năng thanh toán cuối
cùng của NHTM.
Hiểu một cách đơn giản “rủi ro thanh khoản xảy ra khi cung về tiền ít hơn cầu về
tiền, rủi ro thanh khoản liên quan đến khả năng chuyển các tài sản chính thành tiền
một cách nhanh chóng mà khơng chịu thất thốt về giá cả”.
Hay có một cách hiểu khác cũng rất phổ biến “rủi ro thanh khoản là rủi ro khi

ngân hàng không đủ tiền đáp ứng các khoản phải trả khi đến hạn thanh tốn, hoặc vì
một biến cố nào đó mà khách hàng rút tiền ào ạt”.
1.1.2 Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và các rủi ro khác
Rủi ro thanh khoản thường là hệ quả với nhiều rủi ro khác; do đó rủi ro thanh
khoản và các loại rủi ro khác có mối quan hệ mật thiết với nhau, cụ thể:
 Rủi ro thanh khoản gắn liền với rủi ro tín dụng :
Nếu một đối tác vay tiền của ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ thì ngân hàng sẽ
phải huy động tiền từ những nguồn khác để thanh toán khoản đi vay của
ngân hàng, bù đắp vào chi trả này. Nếu ngân hàng khơng có khả năng huy
động tiền từ các nguồn khác để thanh tốn khoản nợ thì chính ngân hàng

4


này cũng phải đối mặt với rủi ro vỡ nợ và khơng có khả năng thanh tốn
cho khách hàng và ngân hàng dẫn đến mất thanh khoản.
 Rủi ro thanh khoản gắn liền với rủi ro lãi suất và tỷ giá :
Trường hợp lãi suất và tỷ giá biến động bất lợi, NHTM sẽ khó khăn trong
việc huy động vốn, lúc đó, rủi ro thanh khoản hồn tồn có thể xảy ra vì
khả năng thanh tốn của NHTM bị hạn chế.
1.1.3 Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản rủi ro nguy hiểm nhất của ngân hàng, nó khơng chỉ ảnh hưởng
đến bản thân NHTM mà cịn ảnh hưởng đến cả hệ thống ngân hàng và nền kinh tế - xã
hội.
 Đối với ngân hàng thương mại
Thứ nhất, nếu rủi ro thanh khoản xảy ra, tùy mức độ nghiêm trọng, NHTM có
thể phải chịu:
- Chuyển hóa các tài sản có thanh khoản thành tiền với chi phí cao.
- Tiếp cận với thị trường tiền tệ để tăng vốn với những điều kiện khắt khe hơn, ví
dụ, phải có tài sản thế chấp, chịu mức lãi suất cao, không được tuần hồn nợ cũ, hạn

mức tín dụng bị xem xét lại thường xuyên hoặc bị từ chối cho vay.
- Đình trệ hoạt động dẫn đến giảm thu nhập.
- Mất uy tín dẫn đến mất khách hàng, đặc biệt là khách hàng truyền thống và cơ
quan quản lý.
Thứ hai, trong trường hợp đặc biệt, rủi ro thanh khoản có thể đẩy ngân hàng tới
tình trạng mất khả năng thanh tốn, là trạng thái bên bờ vực phá sản ngân hàng.
 Đối với hệ thống tài chính quốc gia
Khi một ngân hàng mất đi khả năng thanh khoản, ở mức độ trầm trọng đẩy ngân
hàng đến bờ vực phá sản thì nó có thể gây nên hiệu ứng lây lan, kéo theo sự phá sản
5


hàng loạt các NHTM khác, đe dọa đến sự ổn định của toàn hệ thống NHTM, gây nên
sự hỗn loạn dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội – chính trị của một quốc gia.
1.1.4 Đánh giá trạng thái thanh khoản
™ * Cung về thanh khoản: * Cung về thanh khoản:
Cung thanh khoản là các khoản vốn làm tăng khả năng chi trả của ngân hàng, là
nguồn cung cấp thanh khoản cho ngân hàng, bao gồm:
- Các khoản tiền gửi đang đến.
- Doanh thu từ việc bán các dịch vụ phi tiền gửi.
- Thu hồi các khoản tín dụng đã cấp.
- Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng .
- Vay mượn trên thị trường tiền tệ.
™ * Cung về thanh khoản: * Cầu về thanh khoản:
Cầu về thanh khoản là nhu cầu vốn cho các mục đích hoạt động của ngân hàng,
các khoản làm giảm quỹ của ngân hàng. Thông thường, trong lĩnh vực kinh doanh của
ngân hàng, những hoạt động tạo ra cầu về thanh khoản bao gồm:
- Khách hàng rút tiền từ tài khoản.
- Yêu cầu vay vốn từ những khách hàng có chất lượng tín dụng cao.
- Thanh tốn các khoản vay phi tiền gửi

- Chi phí phát sinh khi kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ.
- Thanh toán cổ tức bằng tiền.
Tại bất cứ thời điểm nào nguồn cung và cầu thanh khoản là yếu tố quyết định
trạng thái thanh khoản ròng của ngân hàng (Net Liquidity Position).
NLP của ngân hàng = Tổng cung thanh khoản- Tổng cầu thanh khoản.
Có thể xảy ra hai trường hợp:
6


NLP<0 : cầu thanh khoản của ngân hàng vượt quá cung thanh khoản, nhà



quản lí phải đối phó với tình trạng thâm hụt thanh khoản. Phải quyết định
xem vốn thanh khoản bổ sung sẽ được huy động ở đâu vào lúc nào.
NLP>0 : tổng cung thanh khoản vượt quá tổng cầu thanh khoản, tình



trạng thặng dư thanh khoản. Nhà quản lí phải xem xét việc đầu tư có hiệu
quả các khoản thặng dư vốn thanh khoản này cho tới khi chúng cần được
sử dụng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong tương lai.
1.1.5 Các dạng rủi ro thanh khoản
* Dựa vào cấu trúc rủi ro thanh khoản có thể chia rủi ro thanh khoản làm bốn
nhóm:
 Rủi ro thanh khoản rút tiền trước hạn:
Khách hàng có thể đến rút tiền trước kỳ hạn trong hợp đồng trong khi ngân
hàng chưa sẵn sàng thanh toán do các khoản rút bất ngờ đó làm tình trạng
mất thanh khoản xảy ra.
 Rủi ro thanh khoản có kỳ hạn:

Khách hàng đến rút tiền theo đúng kỳ hạn trong hợp đồng nhưng ngân hàng
không có khả năng thanh tốn do khơng đủ lượng tiền mặt tại quỹ.
 Rủi ro thanh khoản tài trợ:
Ngân hàng dùng tiền huy động để tài trợ các khoản đầu tư với một lượng
tiền lớn không hợp lý, làm lượng tiền trong ngân hàng giảm, một khi khách
hàng bất ngờ đến rút tiền sẽ khơng có khả năng xoay sở để đáp ứng kịp thời
tính thanh khoản.
 Rủi ro thanh khoản thị trường:
Do các điều kiện thị trường bất lợi có thể làm giảm khả năng chuyển đổi các
tài sản thành tiền mặt, hoặc chuyển đổi các tài sản với mất chi phí cao cũng
là nhân tố ảnh hưởng đến thanh khoản của ngân hàng.
7


* Dựa vào nguồn gốc dẫn tới rủi ro thanh khoản ngân hàng có thể chia rủi ro
thanh khoản làm 3 nhóm :
 Rủi ro thanh khoản đến từ bên tài sản nợ :
Có thể phát sinh bất cứ lúc nào khi người gửi tiền rút tiền trước hạn và cả khi
đến hạn, nhưng NHTM khơng sẵn có nguồn vốn để thanh toán, để chi trả.
Với một lượng tiền gửi được yêu cầu rút ra lớn và đột ngột buộc NHTM phải
đi vay bổ sung trên thị trường tiền tệ, phải huy động vốn đột xuất với chi phí
vượt trội, hoặc bán bớt tài sản để chuyển hoá thành vốn khả dụng đáp ứng
nhu cầu chi trả. Để đáp ứng nhu cầu ngay lập tức NHTM có thể phải bán tài
sản với giá thấp hơn thị trường hoặc vay trên thị trường với lãi suất cao để có
lượng vốn khả dụng cần thiết.
 Rủi ro thanh khoản từ bên tài sản có:
Chủ yếu phát sinh liên quan đến việc thực hiện các cam kết tín dụng, cho
vay. Có cam kết tín dụng cho phép người vay vốn tiến hành rút tiền bất cứ
lúc nào trong thời hạn theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi một
người vay yêu cầu NHTM thực hiện cam kết tín dụng thì NH phải đảm bảo

đủ tiền ngay lập tức để đáp ứng nhu cầu của khách hàng nếu không NH sẽ
phải đối mặt với uy tín trên thương trường, thậm chí đối mặt với mất khả
năng thanh toán. Tương tự, nguyên nhân rủi ro đến từ bên tài sản Nợ, khi đó
NHTM sẽ phải huy động thêm nguồn vốn mới với chi phí cao hoặc bán tài
sản với giá thấp.
 Rủi ro thanh khoản từ hoạt động ngoại bảng:
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các cơng cụ tài chính phái sinh, rủi ro
thanh khoản đến từ hoạt động ngoại bảng cũng ngày càng tăng. Khi mà các
nghĩa vụ thanh toán bất thường xảy ra như cam kết bảo lãnh, nghĩa vụ thanh
toán các hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi hay hợp đồng quyền chọn.
Các hợp đồng đó đến hạn thì sẽ phát sinh nhu cầu thanh khoản. Khi đó,
8


NHTM có thể phải đối mặt với rủi ro thanh khoản nếu khơng có kế hoạch
chuẩn bị nguồn thanh khoản kịp thời, khơng có những tài sản nhanh chóng
hay dễ dàng chuyển thành tiền, những cơng cụ có thể giao dịch trên thị
trường tiền tệ.
1.1.6 Dấu hiệu để nhận biết ngân hàng đang đối mặt với rủi ro thanh khoản
Lãi suất huy động vốn của các ngân hàng đã có những thay đổi diễn biến bất
thường. Lãi suất huy động vốn các kỳ hạn ngắn lại cao hơn lãi suất huy động các kỳ
hạn dài, các ngân hàng chỉ tập trung huy động vốn hạn ngắn. Xét về bản chất thì hiện
tượng này phản ánh việc hệ thống ngân hàng đang thiếu thanh khoản, mục đích huy
động vốn của các ngân hàng lúc này chủ yếu là nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản
chứ khơng phải vì mục tiêu sinh lời.
1.2 Những nhân tố dẫn đến rủi ro thanh khoản của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Rủi ro thanh khoản xuất phát từ những khủng hoảng về thông tin.
Ngân hàng luôn phải đáp ứng nhu cầu thanh khoản một cách hoàn hảo. Những
trục trặc về thanh khoản sẽ làm giảm bớt lòng tin của người dân vào ngân hàng. Nếu
như “tin đồn” không tốt xuất hiện, như tin đồn xấu về ban quản lý ngân hàng, hay tình

hình kinh doanh, tình hình thanh tốn của ngân hàng lan truyền, người dân sẽ ồ ạt đến
ngân hàng rút tiền, làm cho trong một khoảng thời gian ngắn lượng cầu thanh khoản
tăng lên cao, khiến ngân hàng gặp khó khăn trong chi trả là điều dễ hiểu, nếu ngân
hàng khơng có những biện pháp giải quyết kịp thời sẽ khiến tin đồn càng lan tỏa và cầu
thanh khoản sẽ tăng cao hơn nữa, lúc này nếu không đáp ứng đủ và kịp thời sẽ đưa
ngân hàng đứng trước nguy cơ của bờ vực phá sản.
1.2.2 Ảnh hưởng của chính sách tiền tệ (CSTT) của NHNN
Nếu NHNN muốn rút bớt lượng tiền trong lưu thơng, ngồi việc phát hành các
giấy tờ có giá, NHNN cịn có thể tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM; làm
giảm bớt lượng tiền thanh toán tại NHTM, nếu nhu cầu thanh khoản xuất hiện nhiều,
có thể khiến các NHTM không đủ lượng tiền mặt để chi trả, gây nên mối nghi ngại
9


trong dân, làm giảm sút uy tín của ngân hàng, giảm bớt lịng tin gửi tiền của khách
hàng.
1.2.3 Khơng cân xứng về kỳ hạn của TSC và TSN
Ngân hàng huy động và đi vay vốn với thời hạn ngắn, và cứ thế tuần hoàn chúng
để sữ dụng cho vay với thời hạn dài hơn. Do đó, nhiều ngân hàng phải đối mặt với sự
không trùng khớp về thời hạn đến hạn giữa tài sản có và tài sản nợ. Thực tế là ngân
hàng thường có một tỹ lệ lớn tài sản nợ, tuy nhiên để hoàn trả tức thời nếu người gửi có
nhu cầu như tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn có thể rút trước thời hạn…lại là
vấn đề khơng dễ, vì ngân hàng cịn phải mất thời gian, chi phí để chuyển đổi các tài sản
nợ về trạng thái sẵn sàng thanh tốn. Do đó ngân hàng luôn phải sẵn sàng thanh khoản.
1.2.4 Quy mô vốn điều lệ của NHTM Việt Nam cịn ít, tiềm lực tài chính cịn chưa
đủ mạnh
Vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại ít, sẽ ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc
giải quyết vân đề thanh khoản của ngân hàng. Giả sử khi có biến cố nào đó xảy ra như
việc khách hàng vay nợ quá nhiều hoặc khách hàng đến rút tiền q đơng thì nếu ngân
hàng có nguồn vốn điều lệ mạnh sẽ không sợ bị ảnh hưởng khi có những bất thường

xảy ra nhưng đối với các ngân hàng nhỏ, họ sẽ khó để xoay sở kịp thời, và vấn đề làm
vào mất khả năng thanh khoản có thể xảy ra.
1.2.5 Nhận thức về quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam chưa
được quan tâm
Các ngân hàng chưa nhận thức đúng đắn về ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản
làm cho việc quản lý rủi ro thanh khoản không được quan tâm một cách chặt chẽ và
hợp lý. Các ngân hàng thương mại chỉ tập trung chủ yếu vào quản trị rủi ro tín dụng là
nhiều mà quên đi ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản đối với ngân hàng. Việc kiêm
nhiệm chức năng của các nhân viên trong quản trị rủi ro thanh khoản hay khơng có một
bộ phận cụ thể về quản trị rủi ro thanh khoản là ví dụ điển hình cho việc chưa quan tâm
đúng mức về rủi ro thanh khoản. Một khi rủi ro thanh khoản xảy ra thì ai sẽ đứng ra
10


giải quyết, hoặc khi rủi ro thanh khoản chưa xảy ra thì ai sẽ đứng ra đảm bảo và phịng
chống chúng. Mặt khác về đội ngũ nhân viên quản trị rủi ro thanh khoản lại chưa được
trang bị những kỹ những kiến thức và kinh nghiệm của việc quản trị rủi ro thanh
khoản. Những bất cập yếu kém trong công tác quản lý là một nhân tố chủ quan dẫn đến
rủi ro thanh khoản có thể xảy ra.
1.2.6 Cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém
Ngân hàng tập trung tín dụng vào một số khách hàng lớn hoặc tỷ trọng tín dụng
cho một ngành, một địa phương nào đó chiếm phần lớn trong tổng dư nợ hoặc trong
tổng huy động có một khách hàng chiếm tỷ trọng lớn, đến khi họ rút một cách bất ngờ
thì dẫn đến rủi ro thanh khoản.
1.2.7 Mất cân đối trong cơ cấu tài sản
Điều này xuất phát hầu hết từ áp lực lợi nhuận ngắn hạn của cổ đông lên ban điều
hành mà quên mất những nguyên tắc trong quản trị tài sản nợ và tài sản có. Trong danh
mục tài sản của mình, ngân hàng có phần đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu, trong đó
quan trọng nhất là trái phiếu chính phủ và hoặc tín phiếu kho bạc.Trái phiếu chính phủ,
tín phiếu kho bạc mặc dù lãi suất khơng hấp dẫn nhưng nó lại là một nguồn cực kỳ

quan trọng cho ngân hàng để nhận chiết khấu từ ngân hàng nhà nước một khi thanh
khoản có vấn đề. Điều này, bất cứ ngân hàng nào, đặc biệt là ngân hàng nhỏ, đều hiểu
nhưng với tiềm lực tài chính yếu thì khó có thể cạnh tranh với các ngân hàng lớn hơn
trong việc đấu thầu các loại tài sản trên.
1.2.8 Tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an tồn thanh tốn yếu
Do sự cạnh tranh khơng lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách
hàng gửi tiền “làm giá, tăng lãi suất” hoặc rút tiền chuyển sang các NHTM khác dẫn
đến làm suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống.
1.2.9 Chu kỳ kinh doanh
Theo thời vụ ở những tháng cuối năm phát sinh nhu cầu nguồn tiền lớn để các
doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, quyết tốn cơng nợ cho những doanh
11


nghiệp khác, chi trả lương thưởng cho cán bộ nhân viên, thực hiện cam kết giải ngân
cho các đối tác, giải quyết hàng tồn kho, nhập khẩu hàng hóa...tạo nên một chu kỳ căng
thẳng nguồn vốn vào những tháng cuối năm.
Đặc biệt hơn là khi ngân hàng hạn chế cho vay, người vay tiền ngân hàng sẽ
chậm thanh toán các khoản nợ đến hoặc sắp đến hạn, chấp nhận trễ hạn để tận dụng
nguồn vốn vay. Điều này làm cho dịng tiền quay trở lại ngân hàng khơng cao ảnh
hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng thương mại.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1:
Ở chương này chúng ta đã hiểu được cở sở lý luận chung về những nhân tố ảnh hưởng
đến rủi ro thanh khoản bao gồm:
Thứ nhất: Tìm hiểu về rủi ro thanh khoản là “ rủi ro liên quan việc ngân hàng thiếu
ngân quỹ hoặc tài sản ngắn hạn mang tính khả thi để đáp ứng nhu cầu của người gửi
tiền và người đi vay”. Nguồn cung và cầu thanh khoản là yếu tố quyết định trạng thái
thanh khoản ròng của ngân hàng. Lãi suất huy động vốn các kỳ hạn ngắn lại cao hơn
lãi suất huy động các kỳ hạn dài, các ngân hàng chỉ tập trung huy động vốn hạn ngắn
đây là dấu hiệu để biết được NHTM đang trong tình trạng thiếu thanh khoản,các dạng

rủi ro trong thanh khoản…
Thứ hai: Tìm hiểu những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản của NHTM gồm
Rủi ro thanh khoản xuất phát từ những khủng hoảng về thơng tin , Ảnh hưởng của
chính sách tiền tệ (CSTT) của NHNN, Không cân xứng về kỳ hạn của TSC và TSN,
Quy mô vốn điều lệ của NHTM Việt Nam cịn ít, tiềm lực tài chính cịn chưa đủ mạnh,
Nhận thức về quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam chưa được quan
tâm, Cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém, Mất cân đối trong cơ cấu tài sản,
Tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an tồn thanh tốn yếu, Chu kỳ
kinh doanh,…

12


CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VỀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN RỦI RO THANH
KHOẢN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1 Rủi ro thanh khoản xuất phát từ những khủng hoảng về thông tin.
Khách hàng gởi tiền vào Ngân hàng chủ yếu để nhận được lãi suất tiền gửi cao và
họ ln chọn một Ngân hàng uy tín để gởi tiền. Họ nhìn nhận một Ngân hàng uy tín có
thể đảm bảo được sự an toàn cho tài sản họ gửi. Vì vậy khi xuất hiện thơng tin khơng
tốt về một Ngân hàng, sẽ làm cho niềm tin nơi khách hàng bị lung lay và khách hàng
muốn tìm một nơi khác hoặc một kênh đầu tư khác để sinh lợi nhuận và đảm bảo an
tồn, vì thế họ ồ ạt đến rút tiền và hiệu ứng này có tính lây truyền “tâm lý đám đông”,
không chỉ một mà rất nhiều khách hàng kéo đến rút tiền làm cho Ngân hàng khơng thể
đáp ứng kịp thời khả năng thanh tốn cùng một lúc với một lượng lớn khách hàng. Để
giải quyết tình trạng mất thanh khoản tạm thời này, ngân hàng phải vay tiền từ NHTW
và các NHTM khác với lãi suất cao, làm chi phí bỏ ra của ngân hàng cao, ngân hàng có
thể ảnh hưởng đến kết quả hoạt kinh doanh của mình, và có thể có nguy cơ phá sản.
Nếu tình trạng thanh khoản này khơng được giải quyết kịp thời, sẽ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến không chỉ một ngân hang mà toàn hệ thống ngân hàng ở Việt Nam, do ngân

hàng đã làm mất lòng tin nơi khách hàng làm khách hàng phải rút tiền một cách ồ ạt để
đầu tư vào một kênh đầu tư khác.
Một số trường hợp xảy ra từ năm 2003 cho đến nay của các ngân hàng thương
mại Việt nam mà nguyên nhân xảy ra chủ yếu là “tin đồn” không tốt về ngân hàng làm
khách hàng lo sợ ồ ạt kéo đến ngân hàng để rút tiền:
 Trường hợp của Ngân hàng thương mại cổ phần Á châu (ACB) năm 2003
Vào đầu tháng 10/2003 thì có thơng tin khơng tốt về ngân hàng ACB, một số kẻ
xấu tung tin tổng giám đốc ngân hàng ACB tham lạm công quỹ bỏ trốn và bị bắt. Sau
khi nghe được tin này thì lượng khách hàng kéo đến rút tiền tại ACB ồ ạt và tăng vọt.
Điều này làm ngân hàng khó khăn trong việc thanh khoản số tiền cho khách hàng rút,
13


quỹ tiền mặt dự trữ tại ngân hàng không đủ để thanh tốn khi ngân hàng kéo đến đơng
như vậy. NHTM ACB đã vay NHTW để có đủ số tiền thanh toán kịp thời cho khách
hàng và làm giảm lượng người đến rút tiền. Nếu trường hợp của NHTM ACB không
được giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình của các ngân hàng. NH
ACB sẽ mất khả năng thanh khoản và có thể có nguy cơ dẫn đến phá sản, lượng khách
hàng đấu tư vào các ngân hàng khác lại lo sợ sẽ có trường hợp xảy ra giống như ACB,
cũng sẽ kéo ồ ạt đến các ngân hàng rút tiền làm cho các NHTM khác cũng có khả năng
mất thanh khoản như ACB. Ảnh hưởng của tin đồn làm hiệu ứng ảnh hưởng tới toàn bộ
hệ thống ngân hàng Việt Nam.
 Trường hợp Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam năm 2005
Thông tin cho vay không đúng đối tượng của ngân hàng cổ phần Phương Nam
được đài truyền hình Việt Nam đưa tin đã làm tâm lý khách hàng gửi tiền lo lắng và họ
quyết định kéo đến ngân hàng để rút tiền, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả
năng thanh khoản của ngân hàng trong ngắn hạn.
 Trường hợp NHTM cổ phần nơng thơn Ninh Bình năm 2005
Tin đồn Ngân hàng có liên quan đến vụ án Nguyễn Đức Chi với khoản cho vay
lên tới 10 triệu USD và bà Nguyễn Thị Huệ, Giám đốc Ngân hàng, đã bỏ trốn đã khiến

người dân hoang man kéo đến ngân hàng để rút tiền.
Nhận xét: Nhân tố xuất phát từ thông tin ảnh hưởng khơng nhỏ tới uy tín của
ngân hàng, làm ngân hàng có thể mất thanh khoản trong ngắn hạn, tình trạng này có thể
gây lung lay niềm tin của khách hàng đối với các ngân hàng thương mại ở Việt Nam và
có thể dẫn đến sự sụp đổ của tồn hệ thống ngân hàng. Ở từng ngân hàng thì có mỗi
thơng tin khơng hay khác nhau, nhưng điều có một đặc điểm chung là thơng tin đó có
khả năng làm mất thanh khoản của ngân hàng và làm ngân hàng có khả năng phá sản
và ảnh hưởng đến tồn hệ thống ngân hàng ảnh hưởng theo.

14


2.2 Ảnh hưởng của chính sách tiền tệ (CSTT) của NHNN
Giai đoạn từ năm 2008 trở về trước:
Do lạm phát có dấu hiệu gia tăng, NHNN sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt
thông qua việc tăng Lãi suất cơ bản (LSCB), tăng dự trữ bắt buộc (DTBB). Mục đích
của việc điều chỉnh này là nhằm rút bớt tiền từ lưu thơng về, chủ động kiểm sốt tốc độ
tăng tổng phương tiện thanh tốn và tăng trưởng dư nợ tín dụng phù hợp với các mục
tiêu kinh tế vĩ mô. Vơ hình chung, biện pháp này của NHNN đã đẩy NHTM vào tình
thế khó khăn thanh khoản.
Thực tế theo Quyết định 187 về việc điều chỉnh DTBB đối với TCTD, tỷ lệ
DTBB tăng thêm 1% đối với các loại tiền gửi so với tỷ lệ quy định hiện tại. Cụ thể, đối
với tiền VND khơng kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, tỷ lệ DTBB được tăng từ 10%
lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, tỷ lệ DTBB được tăng từ 4%
lên 5%. Việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buột cao làm ngân hàng không đủ vốn để xoay sở
cho việc cho khách hàng vay nợ tín dụng và khơng đủ vốn để thanh toán các khoản vay
đến hạn khi khách hạn đến rút, điều này gây khó khăn trong việc thanh khoản của các
ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn này.
Ngoài ra vào tháng 3/2008 NHNN phát hành tín phiếu bắt buộc, đã đẩy các
NHTM vào cuộc chạy đua lãi suất làm mặt bằng lãi suất huy động tăng dần lên từ 12%

lên tới 18,6%/năm. Mặc dù lãi suất huy động tăng cao như vậy nhưng thực tế đồng
Việt Nam thu hút về ngân hàng lại không được như ý muốn của các nhà quản lý và tình
trạng thanh khoản vẫn rất căng thẳng.
Giai đoạn từ năm 2009 - 2010:
Mặc dù NHNN thực thi CSTT nới lỏng, nhưng những hành động của NHNN rõ
ràng là có những biểu hiện của việc thắt chặt tiền tệ dưới định hướng là chủ động ngăn
ngừa lạm phát như là việc chỉ đạo các NHTM khơng được tăng trưởng tín dụng quá
25%, các NHTM phải kiểm soát tốc độ tăng trưởng. Điều này ảnh hưởng đến khả năng

15


thanh khoản của các ngân hàng thương mai, khi các đối tượng đến vay tín dụng ngân
hàng, thì ngân hàng không thể cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn.
Giai đoạn từ năm 2011 đến nay:
Ở giai đoạn này với mục tiêu số 1 là ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát,
NHNN tiếp tục thực thi và giám sát gắt gao việc thắt chặt tiền tệ; nguy cơ về tăng
DTBB cũng có thể sẽ xảy ra khiến nỗi lo thanh khoản của các ngân hàng ngày càng
lớn. Nguồn cung tiền từ NHTW bị thắt chặt mạnh mẽ khiến cho những ngân hàng nhỏ (vốn
trông đợi nhiều từ nguồn này ) rơi vào tình thế khó khăn và đối mặt với nhiều rủi ro về thanh
khoản. Khơng cịn cách nào khác, các ngân hàng phải áp dụng biện pháp cũ nhưng dễ và
hiệu quả: Tăng lãi suất huy động để hút vốn nhằm bù đắp cho sự thiếu hụt. Tuy nhiên,
nguồn vốn đổ vào các ngân hàng vẫn không có nhiều dấu hiệu khả quan. Người gửi
tiền vẫn có xu hướng gửi ngắn hạn và chờ đợi những cơ hội rút tiền ra đầu tư hay gửi ở
ngân hàng khác có lãi suất cao hơn. Do vậy tình trạng thanh khoản vẫn khó khăn hiện
nay.
Nhận xét: NHNN thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ điều này vơ hình chung làm cho
các ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn trong thanh khoản.
2.3 Cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém
Cơ cấu khách hàng khơng hợp lý, do NHTM đa số chỉ tập trung vào những

khách hàng lớn mà bỏ qua tầm quan trọng của số đông các khách hàng nhỏ. Ngân hàng
những năm trước đây đã đầu tư, cho vay vào những dự án lớn, những lĩnh vực nhạy
cảm như bất động sản, chứng khoán, vay tiêu dùng, khiến cho tỷ lệ nợ xấu tăng cao
làm cho ngân hàng bị động về sự thanh khoản. NHTM chưa đảm bảo về chất lượng tín
dụng, việc phân tích tín nhiệm của một khách hàng nào đó vẫn cịn hạn chế, gây khó
khan trong việc ra quyết định tín dụng của NHTM, dễ dẫn đến tình trạng cho vay
khơng đúng đối tượng, khả năng thu hồi thấp cũng ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc đảm
bảo tiền để thanh tốn của NHTM.

16


Dưới đây là tỷ lệ nợ xấu của một số NHTM đầu năm 2013 và cuối năm 2012, có
xu hướng tăng, vẫn cịn rất nhiều ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu vượt ngưỡng 3% (Theo
quy định của NHNN).

2.4 Không cân xứng về kỳ hạn của TSC và TSN
Thói quen gởi tiền của người dân chủ yếu là gởi kỳ hạn ngắn, do thị trường
thường biến động, lãi suất không ổn định. Do đó, NHTM chủ yếu huy động được vốn
ngắn hạn, nhưng nhu cầu vay vốn thì dài hơn, nên các NHTM đã dùng vốn ngắn hạn để
cho vay với kỳ hạn lâu hơn vượt quá tỷ lệ quy định. Năm 2003 tỷ lệ này là 25%, sau đó
tăng lên 30%, rồi 40% vào năm 2005 (Theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN).
Hiện nay tỷ lệ này đã giảm xuống còn 30% (TT15/2009/TT-NHNN). Vì nếu để tỷ lệ
này cao sẽ gây ra khó khăn thanh khoản. Việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung- dài
hạn khiến các ngân hàng khó có thể xoay sở được khi người dân ồ ạt đến rút tiền, nhất
là rút tiền trước hạn khiến ngân hàng bị động trong thanh khoản. Việc sử dụng vốn
ngắn hạn cho vay trung- dài hạn được tính theo cơng thức sau:
[(A-B)/C]x100%

17



Trong đó: A là tổng dư nợ cho vay trung-dài hạn, B là tổng nguồn vốn trung, dài
hạn được sử dụng để cho vay trung, dài hạn, C là tổng nguồn vốn ngắn hạn sử dụng
cho vay trung dài hạn.
Nếu khơng đảm bảo việc duy trì tỷ lệ này, các NHTM sẽ có nguy cơ đối mặt với
việc khơng có tiền chi trả cho các khoản nợ đến hạn. Do đó, các NHTM phải tuân theo
để đảm bảo khả năng thanh khoản cho mình.
2.5 Quy mơ vốn điều lệ của NHTM Việt Nam cịn ít, tiềm lực tài chính cịn
chưa đủ mạnh.
Vốn điều lệ thấp, năng lực tài chính cịn hạn chế, khiến các NHTM Việt Nam khó
khăn trong việc đáp ứng hệ số hệ số an toàn như quy định. Điều này cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến RRTK của các NHTM Việt Nam trong mấy năm trở lại
đây. Vốn điều lệ là cơ sở để ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh, phát triển nhiều
sản phẩm, dịch vụ mới,là điều kiện để hút khách hàng, đứng vững trước rủi ro đặc biệt
là rủi ro thanh khoản. Do đó chính phủ đã ban hành danh mục về vốn pháp định của
các ngân hàng như sau: Nghị định 141 ngày 22/11/2006 của Chính phủ ban hành về
danh mục vốn pháp định của các NH năm 2010 phải đạt 3000 tỷ đồng đối với các
NHTM, các NH đầu tư, các NH liên doanh liên kết, 5000 tỷ đối với các NH phát triển
và chi nhánh của các NH nước ngoài tại Việt Nam là 15 triệu USD. Ngày 25/8/2010
vừa qua, NHNN đã ban hành Quyết định 2020 về việc thành lập tổ đánh giá bổ sung
sửa đổi Nghị định 141, trong đó nội dung quan trọng là nâng vốn pháp định của các
NHTM lên 5000 tỷ đồng vào năm 2012 và 10000 tỷ đồng vào năm 2015. Việc tăng
vốn điều lệ sẽ giúp các ngân hàng tăng trưởng nhanh hơn về quy mô kinh doanh và
khả năng sinh lời. Dấu hiệu này cho thấy hệ số an toàn tài chính của các ngân hàng
đang được cải thiện đáng kể, tiềm lực tài chính lành mạnh hơn.
Sau đây là các bảng nói về quy mơ của các ngân hàng tại Việt Nam 2012
(Đơn vị: tỷ đồng)

18



NHTMCP
MDBank

Tổng TS
8.596

Vốn ĐL

TienPhongBank

20.050,3

5,550

3,750 WesternBank

20.550,6

3,000

BaoVietBank

12.915,5

3,000 NaviBank

20.915,7


3,010

SaigonBank

14.932,2

3,080 VietABank

22.513,1

3,098

NamABank

17.612

3,000 VietCapitalBank

22.895,9

3,000

3,000 BacABank

25.343,7

3,000

27,000


3.234

27.171,3

3,000

VietBank
KienLongBank
DaiABank

18.254,9
18.581
19.227,2

3,000 OCB
3,100 TrustBank

PGBank

19.581

3,000 GPBank

32,000

3.018

SeABank

101.092


5.335 ABBank

44.175

4,200

Maritime Bank

110.000

8,000 MHB

47.281,8

3.369

SHB

117.569

8.866 HDBank

50.000

5.000

SCB

148.697


10.584 LienVietPostBank

60.000

6.460

62.639

4.000

63.783,5

4.250

65.548

5.000

72.159,1

4.000

98.000

5.770

SacomBank

151.915,4


10.740 OCeanBank

Eximbank

170.251,8

12.355 VIB

MB

175.612,4

10.625 DongABank

ACB

177.011,8

9.377 Southern Bank

Techcombank

179.732,8

8.848 VPBank

Biểu đồ thống kê vốn điều lệ của các ngân hàng năm 2012
* Vốn điều lệ 3.000 tỷ đồng


19


* Vốn điều lệ 3.000-5.000 tỷ đồng

*Vốn điều lệ từ 5.000 đến dưới 10.000 tỷ đồng

20



×