Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Tác động đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng đồng bằng Sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 140 trang )

1

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

1.1 Khái lược
Chương tổng quan được trình bày một cách khái lược các nội
dung xuyên suốt cấu thành trong luận án. Các nội dung đó được kết cấu
thành hệ thống bao gồm: phản ánh sự cần thiết và ý nghĩa của đề tài
nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu; đối tượng và phạm vi nghiên cứu;
phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu; lược khảo tài liệu đã
được công bố trong cùng lĩnh vực nghiên cứu; những đề xuất có tính
chất sáng tạo trong nghiên cứu và kết cấu các chương của đề tài. Thông
qua các nội dung đó có thể hình dung một cách khái quát nội hàm của
công trình nghiên cứu.
1.2 Sự cần thiết ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững là mục tiêu chủ yếu
của các quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Tăng
trưởng kinh tế luôn là điều kiện tiên quyết để nâng cao đời sống vật chất
tinh thần và phúc lợi xã hội cho mọi tầng lớp dân cư và giảm tỷ lệ thất
nghiệp mà mọi quốc gia đều kỳ vọng,… Do vậy tăng trưởng kinh tế và
nghiên cứu về các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế là vấn đề luôn
thu hút sự quan tâm của chính phủ và các nghiên cứu cũng như nhà
hoạch định chính sách kinh tế - xã hội.
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ
giữa đầu tư công với tăng trưởng kinh tế song mối quan hệ giữa hai yếu
tố này vẫn còn nhiều tranh luận. Trong số đó, có không ít các công trình
nghiên cứu, khẳng định tác động tích cực của đầu tư công đến tăng
trưởng kinh tế như các nghiên cứu của Easterly và Rebelo, 1993; Abiad



2

& cộng sự, 2015,… Bên cạnh đó, một số nghiên cứu lại chỉ ra những tác
động tiêu cực hoặc tác động không đáng kể đến tăng trưởng kinh tế,
thường là các quốc gia đang phát triển (Devarajan và cộng sự, 1996; Shi,
2013; Wamer, 2014).
Các lý giải khác nhau về quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng
kinh tế nói trên, chủ yếu xuất phát từ nhận định về các góc độ tác động
của thể chế, cơ chế và chính sách của chính phủ đương quyền. Nguyên
nhân của sự khác biệt trên là do cách tiếp cận khác nhau và sự khác biệt
về quan điểm nghiên cứu.
Các công trình nghiên cứu về tác động tương quan này ở Việt
Nam có những kết quả ban đầu nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Chính vì
lẽ đó, luận án mong muốn tham gia nghiên cứu để tìm kiếm những kết
quả cần thiết trong trường hợp này ở Việt Nam. Cụ thể là ở Đồng bằng
sông Cửu Long.
Điều kiện kinh tế Việt Nam, vẫn trong tình trạng của một nước
đang phát triển, cơ cấu kinh tế còn lạc hậu; việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng hiện đại hóa và hội nhập đang là một yêu cầu bức xúc. Để
chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc gia, đòi hỏi phải có sự chuyển dịch
đồng bộ cơ cấu kinh tế từng vùng (như: vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng
Đông Bắc, vùng Tây Bắc, vùng Bắc Trung Bộ, vùng Duyên hải Nam
Trung Bộ, vùng Tây Nguyên Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ (Đồng bằng
sông Cửu Long). Sự chuyển dịch đồng bộ đó là nhân tố quan trọng tác
động đến tăng trưởng kinh tế.
Việc nghiên cứu các chiến lược và chính sách thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, nhằm xác lập cơ cấu kinh tế hợp lý và hướng tới phát
triển kinh tế bền vững luôn được đặt ra. Đồng bằng sông Cửu Long ở
Việt Nam được xác định là một vùng kinh tế trọng điểm và giữ vai trò



3

bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Tuy nhiên, việc phát triển vùng
đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập chưa tương
xứng với tiềm năng vốn có của vùng. Tình trạng chậm phát triển kinh tế
ở Đồng bằng sông Cửu Long xuất phát từ nhiều nguyên nhân như kết
cấu hạ tầng – xã hội còn yếu kém, công nghiệp phát triển chậm, hệ thống
giáo dục còn nhiều hạn chế,… (Nguyễn Hữu Thịnh, 2015).
Bắt nguồn từ thực tế đó, mục tiêu đặt ra cho đề tài nghiên cứu:
Hệ thống hóa các lý thuyết về tác động của đầu tư công đến tăng
trưởng kinh tế để đối chiếu và vận dụng phù hợp với các điều kiện đặc
thù của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Vận dụng hệ thống lý thuyết này và phân tích thực tế để rút ra
thực tiễn của Đồng bằng sông Cửu Long và tìm ra các giải pháp tương
ứng.
Đề xuất các giải pháp trong mối quan hệ giữa tác động của đầu tư
công đến tăng trưởng kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long bằng đầu
tư phát triển đồng bộ trên các phương tiện như: Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp, đào tạo, phúc lợi an sinh xã
hội và trong các mối quan hệ biện chứng của chúng.
1.3 Mục tiêu nghiên cứu của luận án
1.3.1 Mục tiêu tổng quát
Chọn lọc và hệ thống hóa các quan điểm lý luận để hình thành
khung lý thuyết, cơ sở lý luận về đầu tư công và ý nghĩa của đầu tư công;
những tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế, tạo môi trường
cho sự phát triển bền vững; đồng thời vận dụng kết quả đó vào nghiên
cứu cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long - Một vùng kinh tế trọng điểm
của đất nước với nhiều tiềm năng nhưng chưa hội đủ các cơ hội để bức
phá. Đồng thời, bằng sự kết hợp giữa lý luận với phân tích thực tế để rút



4

ra ý nghĩa thực tiễn về các điểm mạnh, yếu, thời cơ, thách thức của vùng
Đồng bằng sông Cửu Long và tìm ra cơ hội cho sự tăng trưởng, phát
triển của vùng thông qua các nguồn vốn đầu tư. Trong đó vốn đầu tư từ
ngân sách nhà nước (ngân sách TW và ngân sách địa phương) giữ vai trò
trọng yếu. Từ kết quả trên, luận án tìm kiếm các phương hướng giải pháp
nâng cao hơn hiệu quả đầu tư công cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long
theo các trật tự ưu tiên; với mong muốn cho vùng Đồng bằng sông Cửu
Long có mức độ tăng trưởng kinh tế cao hơn và đón nhận cơ hội cho sự
phát triển đột phá để Đồng bằng sông Cửu Long hướng tới sự phát triển
bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế
toàn cầu.
Bên cạnh đó, để đề xuất những giải pháp đầu tư công hiệu quả và
phù hợp với bối cảnh thực tế của vùng , luận án cũng đề cập đến sự cảnh
báo của biến đổi khí hậu, nhiễm mặn mà Đồng bằng sông Cửu Long
đang đối mặt và sự cần thiết đầu tư ứng phó với các hiện tượng đó, nhằm
bảo đảm sự ổn định và tăng trưởng kinh tế.
1.3.2 Các mục tiêu cụ thể
Về mục tiêu cụ thể, luận án hướng đến hai mục tiêu cụ thể như
sau:
- Phân tích thực trạng và đánh giá thực nghiệm về tác động của
đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long
giai đoạn 2001-2014.
- Từ cơ sở phân tích thực trạng và bằng chứng thực nghiệm về tác
động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế, luận án hướng đến phân
tích thực trạng quy trình quản lý đầu tư công tại các tỉnh, thành vùng
Đồng Bằng Sông Cửu Long giai đoạn 2001-2014.



5

1.4 Các câu hỏi được đặt ra
Để đạt được các mục tiêu trên, câu hỏi được đặt ra để giải quyết là:
Đầu tư công có tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế của
vùng Đồng bằng sông Cửu Long?
Thực trạng quy trình đầu tư công vùng Đồng Bằng Sông Cửu
Long giai đoạn 2001-2014 là như thế nào?
Giải pháp nào cho đầu tư công hướng đến mục tiêu tăng trưởng tại
vùng Đồng bằng sông Cửu Long ?
1.5 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.5.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là thực trạng đầu tư công, tăng
trưởng kinh tế cũng như mối quan hệ giữa hai yếu tố này ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, luận án tập trung nghiên cứu những
đặc điểm riêng biệt về kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng sông Cửu
Long, phân tích những lợi thế, khó khăn cũng như những cơ hội và
thách thức của vùng trong thời kỳ hội nhập kinh tế, cụ thể là từ 2001 2014.
Nghiên cứu hướng đến phân tích hiện trạng của các ngành kinh tế
- xã hội: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, giáo dục đào tạo và các vấn
đề an sinh xã hội; đặc biệt là cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội trong mối
quan hệ với đầu tư công và sự tác động của đầu tư công đến tăng trưởng
kinh tế của vùng làm cơ sở cho quá trình phát triển bền vững.
Nghiên cứu cũng tập trung phân tích cơ cấu đầu tư công, hiệu quả
đầu tư công cũng như cơ chế và thực trạng quản lý đầu tư công tại vùng
Đồng bằng sông Cửu Long nhằm khái quát bức tranh toàn diện về đầu tư
công của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đó sẽ là tiền đề để nghiên



6

cứu đề xuất những giải pháp nhằm cải thiện và nâng cao hiệu quả đầu tư
công hướng đến mục tiêu tăng trưởng toàn diện của vùng.
1.5.2 Phạm vi nghiên cứu
Về không gian:
Luận án tập trung nghiên cứu vị trí, điều kiện, đặc điểm kể cả đặc
thù và tiềm năng kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vùng
kinh tế trọng điểm - bảo đảm an ninh và xuất khẩu lương thực quốc gia.
Theo đó, đề cập đến khả năng của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế và
chiến dịch kinh tế theo hướng hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đối với
Đồng bằng sông Cửu Long.
Luận án cũng nghiên cứu về các hoạt động của các ngành kinh tế xã hội - văn hóa của vùng với sự tác động của đầu tư công.
Không gian nghiên cứu còn được xem xét đến mối quan hệ tương
tác giữa Đồng bằng sông Cửu Long với thành phố Hồ Chí Minh trên vị
thế là đầu tàu kinh tế quốc gia và miền Đông Nam Bộ là vùng kinh tế
trọng điểm của Nam Bộ.
Về thời gian:
Luận án tập trung nghiên cứu những tác động của đầu tư công đến
tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ 2001 - 2014. Theo Huy Vũ (2016),
trong những năm gần đây, đồng bằng sông Cửu Long có nhiều chuyển
biến trên các phương tiện về cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, theo đó là sự
tăng trưởng của công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, giáo dục, đào tạo
và các vấn đề an sinh xã hội và những tác động tích cực đến chuyển dịch
cơ cấu kinh tế toàn vùng.
Có thể nói, thời kỳ này đã tạo cho Đồng bằng sông Cửu Long có
nhiều cơ hội hơn trong tăng trưởng kinh tế, nhờ nhận được nhiều nguồn


7


vốn đầu tư, trong đó nguồn quan trọng hơn cả là đầu tư công trình ngân
sách TW và ngân sách địa phương. Mặt khác, luận án cũng đề cập đến sự
cần thiết phải kết hợp đồng thời giữa đầu tư công từ ngân sách nhà nước
với các loại hình đầu tư khác, mới có thể tạo điều kiện để Đồng bằng
sông Cửu Long chuyển biến tích cực theo xu hướng hội nhập.
1.6 Phương pháp nghiên cứu
Luận án kết hợp các phương pháp nghiên cứu phù hợp với mục
tiêu được đặt ra. Các phương pháp nghiên cứu được vận dụng để thực
hiện các luận án là:
- Phương pháp phân tích dữ liệu thống kê.
Luận án tập hợp chọn lọc và sử dụng hệ thống số liệu “thứ cấp” đã
được xử lý của các cơ quan thống kê từ TW và địa phương. Đồng thời,
hệ thống hóa, phân loại theo các tiêu chí để phân tích đánh giá hiện
tượng thực đối tượng nghiên cứu và đúc kết thành những nội dung cần
thiết phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp điều tra khảo sát.
Điều tra và khảo sát ở đây được thực hiện trên 3 phương diện:
+ Khảo sát các điều kiện, đặc điểm kinh tế - xã hội các địa phương
vùng Đồng bằng sông Cửu Long để tạo thêm căn cứ phân tích đánh giá
khả năng, tiềm lực cũng như những thuận lợi, khó khăn trong tiếp nhận
vốn đầu tư công và hiệu quả của nó đối với tăng trưởng kinh tế.
+ Tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà quản lý, các nhà
hoạch định chiến lược chính sách về đầu tư công và tác động của đầu tư
công đến tăng trưởng kinh tế đối với điều kiện kinh tế - xã hội vùng
Đồng bằng sông Cửu Long như: NGND GS.TS Nguyễn Thanh Tuyền –
nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế TP.HCM và Trường Đại


8


học Kinh tế Tài chính TP.HCM; TS Võ Hùng Dũng - Giám đốc VCCI
Chi nhánh Cần Thơ; TS Trần Thanh Mẫn - Phó Chủ tịch, Tổng thư ký
UBTW MTTQ VN; PGS.TS Mai Văn Nam - Trưởng khoa sau Đại học Trường Đại học Cần Thơ; TS Trần Ngọc Nguyên - Giám đốc Sở Khoa
học và Công nghệ Cần Thơ.
+ Tìm hiểu, quan sát về các yếu tố, có thể tạo ra những cơ hội
thuận lợi để Đồng bằng sông Cửu Long tiếp cận với các nguồn vốn đầu
tư công dưới các dạng khác nhau.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
Dựa trên kết quả của việc hệ thống hóa các dữ liệu thống kê và
khảo sát nói trên; luận án phân tích theo từng góc độ, có sự kết hợp giữa
lý luận với thực tiễn để tổng hợp và rút ra những kết luận về các vấn đề
nghiên cứu đặt ra, làm căn cứ cho việc đề xuất các giải pháp được hướng
tới.
Ngoài ra luận án cũng sử dụng các phương pháp suy diễn và qui
nạp cũng như phương pháp phân tích SWOT để tìm ra những điểm
mạnh, yếu, thời cơ và thách thức về đầu tư công của vùng trong mục tiêu
hướng đến tăng trưởng kinh tế bền vững.
- Phương pháp phân tích định lượng
Cụ thể, về phân tích định lượng, các kết quả nghiên cứu được thảo
luận chủ yếu dựa trên phương pháp Bình phương tổng quát khả dụng
(Feasible General Least Square - FGLS) bởi sự hiệu quả của phương
pháp này trong việc xử lý phương sai thay đổi và tự tương quan. Bên
cạnh đó, hệ thống các biến tương tác thích hợp cũng được đưa vào mô
hình kiểm định hướng đến những mục tiêu kiểm định cụ thể.


9

1.7 Lược khảo tài liệu

Một trong những lý do để luận án thực hiện đề tài nghiên cứu này
xuất phát từ lược khảo và tổng hợp các tài liệu nghiên cứu trước cùng
lĩnh vực. Luận án tham khảo một cách có hệ thống các công trình nghiên
cứu trong cùng lĩnh vực đã được công bố, nhằm kế thừa tri thức đã được
trải nghiệm; đồng thời để tích luỹ thêm kiến thức và vận dụng nó trong
nghiên cứu khoa học.
1.7.1 Lược khảo nghiên cứu của thế giới
Các nghiên cứu thường xem xét tác động của đầu tư công chung
(Pereira, 2000, 2001; Dessus & Herrera, 2000; Bose & cộng sự, 2003;
Le & Suruga, 2005; Arslanalp & cộng sự, 2010) đến tăng trưởng kinh tế
hoặc xem xét tác động đầu tư công trong một lĩnh vực cụ thể đến tăng
trưởng kinh tế, thường là đầu tư công trong phát triển cơ sở hạ tầng
(Aschauer, 1998; Pereira, 2001; Ramirez, 2004), năng lượng ( Lee &
Chang, 2005; Hye & Riaz, 2008), nông nghiệp (Mishra & Chand, 1995;
Mogues & cộng sự, 2012) hay giáo dục (Kuhl Teles & Andrade, 2008).
Tuy nhiên, đa phần các nghiên cứu thường nghiên cứu với dữ liệu
chuỗi thời gian đầu tư công của một quốc gia (Aschauer, 1989; 1998;
2010; Pereira, 2000, 2001; Pereira & Andraz, 2001; Chen, Shen-Tung,
& Lee, 2005; Hye & Riaz, 2008; Abounoori & Nademi, 2010 ) hoặc dữ
liệu bảng với nhiều quốc gia (Devarajan & cộng sự, 1996; Dessus &
Herrera, 2000; Bose & cộng sự, 2003; Haque, 2004; Gupta & cộng sự,
2005; World Bank, 2007; Arslanalp & cộng sự, 2010). Các nghiên cứu
cấp vùng hoặc địa phương còn khá khiêm tốn. (Auteri & Constantini,
2004; Matinez-López, 2005; Ezcurra & cộng sự, 2005; Schaltegger &
Torgler, 2006; Kortelainen & Leppänen, 2013).
Kết quả thực nghiệm về tác động của đầu tư công còn chưa thống


10


nhất và cho thấy kết quả trái chiều. Một số nghiên cứu cho thấy kết quả
tác động tích cực của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế (Aschauer,
1989; Pereira 2000, 2001; Dessus & Herrera, 2000; Bose & cộng sự,
2003; Haque, 2004; Romp & de Haan, 2005; Gupta & cộng sự, 2005;
World Bank, 2007; Arslanalp & cộng sự, 2010). Tuy nhiên, một số
nghiên cứu khác lại chỉ ra tác động tiêu cực hoặc tác động không đáng
kể của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế (Deverajan & cộng sự, 1996;
Folster & Henrekson, 2001; Schaltegger & Torgler, 2006). Một số
nghiên cứu chỉ ra tác động phi tuyến của chi tiêu công/ đầu tư công đến
tăng trưởng kinh tế (Chen & Lee, 2005; Abounoori & Nademi, 2010;
Odarawa, 2010; Herath, 2012; Altunc & Aydin, 2013).
Chính vì kết quả kiểm định về tác động của đầu tư công chưa
thống nhất, một các dòng nghiên cứu tập trung vào hiệu quả đầu tư tư
công hay phân tích cơ chế và thực trạng quản lý đầu tư công tại các
trường hợp nghiên cứu khác nhau (Fontaine, 1997, Richard & Daniel,
2001; Florio & Vignetti, 2005; Rajaram & cộng sự, 2010; Dabla-Norris
& cộng sự, 2012).
1.7.2 Lược khảo các nghiên cứu ở Việt Nam
Tương tự, vai trò của đầu tư công tại Việt Nam cũng được các học
giả quan tâm nghiên cứu. Một số nghiên cứu tập trung vào phân tích
thực nghiệm về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế tại
trường hợp nghiên cứu Việt Nam (Nguyễn Thị Cành, 2008; Tô Trung
Thành, 2011; Sử Đình Thành 2011, 2013). Ở cấp độ địa phương, một số
nghiên cứu đi vào xem xét tác động của chính sách tài khóa hay quy mô
chính phủ đến ở các cấp tỉnh, thành (Phạm Thế Anh, 2008; Hoàng Thị
Chinh Thon, 2010; Sử Đình Thành, 2013; Đặng Văn Cường & Bùi
Thanh Hoài, 2014). Tuy nhiên, các nghiên cứu thường nghiên cứu với


11


phạm vi nghiên cứu rộng là tất cả các tỉnh thành tại Việt Nam, việc xem
xét tác động của đầu tư công đến một vùng cụ thể như Đồng bằng sông
Cửu Long dường như khá khiêm tốn. Việc này gây ra những khó khăn
nhất định trong việc đề xuất ý tưởng, hàm ý chính sách hiệu quả về đầu
tư công cho từng vùng miền cụ thể.
Một số nghiên cứu đi vào phân tích thực trạng cơ chế quản lý đầu
tư công ở Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu thường xem xét một vài
khía cạnh cụ thể của cơ chế quản lý đầu tư công (Nguyễn Hồng Thắng,
2008; Sử Đình Thành & Bùi Thị Mai Hoài, 2012; Nguyễn Xuân Điền,
2015; Phạm Thị Anh Đào, 2015). Hơn nữa, do tập trung vào cơ chế quản
lý đầu tư công, các bằng chứng thực nghiệm về tác động của đầu tư công
đến tăng trưởng kinh tế ở các nghiên cứu này chưa được chú trọng.
Như vậy, vai trò của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế đã và
đang được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, các nghiên
cứu được phát triển nhiều hướng khác nhau. Trong đó, các nghiên cứu
về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ở cấp độ vùng, địa
phương còn khá khiêm tốn. Bên cạnh đó, việc kết hợp tìm kiếm bằng
chứng thực nghiệm về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế
và phân tích cơ chế quản lý công ở cùng một trường hợp nghiên cứu
chưa được chú trọng. Chính vì vậy, luận án hướng đến mục tiêu kiểm
định thực nghiệm tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế và
phân tích thực trạng về cơ chế quản lý đầu tư tại các tỉnh, thành vùng
Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2001-2014.
1.8 Những điểm mới của luận án
Đầu tiên, luận án kết hợp giữa phân tích thực trạng và đánh giá
thực nghiệm về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế của
vùng đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả nghiên cứu chỉ ra đầu tư công



12

của vùng đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập, do
đó, chưa tạo được tác động tích cực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của
vùng.
Kết quả của mục tiêu nghiên cứu thực nhất cũng là tiền đề để luận
án thực hiện mục tiêu nghiên cứu thứ hai. Không phân tích tất cả nguyên
dẫn đến đầu tư công không hiệu quả của vùng, luận án tập trung phân
tích thực trạng quản lý đầu tư công của vùng đồng bằng sông Cửu Long,
vấn đề mà nhà nước có thể thay đổi trực tiếp để cải thiện hiệu quả đầu tư
công của vùng. Kết quả nghiên cứu cho thấy thực trạng quản lý đầu tư
công còn nhiều hạn chế và đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến
những khó khăn, kém hiệu quả của đầu tư công của vùng đồng bằng
sông Cửu Long.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã cố gắng, gắn kết chặt chẽ
giữa đầu tư công với những đặc thù của Đồng bằng sông Cửu Long để
phân tích và tìm ra cách thức đầu tư phù hợp, nhằm tác động tích cực và
có hiệu quả hơn trong quan hệ giữa đầu tư công với tăng trưởng kinh tế,
tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của vùng. Đặc biệt chú ý đến
mối quan hệ biện chứng trong đầu tư giữa các ngành, nhằm tạo nên tác
động dây chuyền cho quá trình đó. Cụ thể là với đặc điểm của Đồng
bằng sông Cửu Long, ngoài giữ vai trò an ninh lương thực là cần phải ưu
tiên đầu tư cho nông nghiệp, nhưng để phát triển căn cơ và đồng bộ
trước tiên cần đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, trong đó đầu tư vào giao
thông vận tải có ý nghĩa đòn bẩy cho sự phát triển liên đới với các
ngành: Công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và nâng cao phúc lợi xã hội
của toàn vùng.
Bên cạnh đó, để có thể đưa ra những giải pháp về đầu tư công hiệu
quả và phù hợp với thực tế của vùng, luận án phân tích những khó khăn



13

mà vùng đồng bằng sông Cửu Long phải đối mặt trong tình hình mới.
Đồng bằng sông Cửu Long đang phải đương đầu với biến đổi khí hậu và
nhiễm mặn, do đó, một trong những vấn đề cấp thiết được đặt ra là phải
tái cấu trúc qui hoạch kinh tế - xã hội toàn vùng Đồng bằng sông Cửu
Long và đầu tư công cần có sự thích ứng để hiệu quả đầu tư được nâng
cao hơn.
Tuy nhiên, bởi năng lực nghiên cứu của tác giả còn hạn chế; do đó
những ý tưởng này, trong chừng mực vẫn chưa thể đáp ứng đầy đủ như
mong muốn.
1.9 Cấu trúc của luận án
Luận án được cấu trúc thành 6 chương ứng với các nội dung
nghiên cứu được rút ra:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về đầu tư công và tác động của đầu tư
công đến tăng trưởng kinh tế.
Chương 3: Phân tích thực trạng và đánh giá thực nghiệm về tác
động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu
Long.
Chương 4: Phân tích cơ chế và thực trạng quản lý đầu tư công
vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Chương 5: Những dự báo về kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu
Long.
Chương 6: Kết luận và hàm ý chính sách.


14


CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ
CÔNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ
CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Ở Chương này, luận án trình bày về cơ sở lý thuyết lý giải mối
quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế cũng như cơ chế về
quản lý đầu tư công. Chương cơ sở lý thuyết này sẽ là nền tảng để
nghiên cứu thực hiện các kiểm định, thảo luận kết quả kiểm định và phân
tích thực trạng về tình hình đầu tư công, cơ chế quản lý đầu tư công tại
các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long ở các chương sau. Theo đó, nội
dung của chương gồm hai nội dung chính như sau: phần thứ nhất tập
trung vào lý giải tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế dựa
trên nhiều nền tảng, lập luận khác nhau và phần thứ hai hướng đến các
vấn đề lý thuyết liên quan đến quản lý đầu tư công.
Tổng quan lý thuyết cho thấy, có nhiều khái niệm về đầu tư công
khác nhau và cũng có nhiều khác biệt nhất định tùy theo quan điểm của
từng quốc gia. Tuy nhiên, tựu chung lại, một cách khái quát nhất, có thể
hiểu đầu tư công là hoạt động đầu tư của nhà nước vào các chương trình,
dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đầu tư vào các chương
trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, chủ yếu đầu tư vào các
lĩnh vực phục vụ lợi ích chung. Có nhiều mô hình lý thuyết luận giải về
tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế, trong đó, mô hình lý
thuyết của Le & Suruga (2005) không chỉ luận giải tác động của đầu tư
công đến tăng trưởng kinh tế mà còn lý giải tác động của FDI cũng như
sự tương tác giữa hai yếu tố này đến tăng trưởng kinh tế.


15


Tương tự, mặc dù có những khác biệt trong quy trình quản lý đầu
tư công ở các quốc gia, quản lý đầu tư công được hiểu là một hệ thống
tổng thể, bắt đầu từ việc hình thành những định hướng lớn trong chính
sách đầu tư công cho đến việc thẩm định, lựa chọn, lập ngân sách, thực
thi, và đánh giá các dự án đầu tư cụ thể, với mục đích là đảm bảo hiệu
quả và hiệu lực của đầu tư công, qua đó đạt được mục tiêu tăng trưởng
và phát triển chung của nền kinh tế.
Để trình bày các nội dung trên, Chương 2 được cấu trúc như sau:
Phần thứ nhất của chương trình bày các khái niệm chính của đề tài như
đầu tư công, tăng trưởng kinh tế và quản lý đầu tư công; Phần thứ hai
trình bày khung phân tích, một số mô hình lý thuyết điển hình lý giải về
tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế dựa trên nhiều nền
tảng, lập luận khác nhau. Trong khi đó, phần thứ ba của bài nghiên cứu
xem xét các vấn đề lý thuyết liên quan đến cơ chế quản lý công. Bên
cạnh đó, các nghiên cứu thực nghiệm và các vấn đề có liên quan cũng
được trình bày.
2.1 Các khái niệm chính
2.1.1 Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng về quy mô sản lượng
quốc gia hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người
qua một thời gian nhất định. Theo đó, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng
tổng các giá trị hàng hóa và dịch vụ do các ngành kinh tế của một quốc
gia tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định.
Tăng trưởng kinh tế biểu hiện bằng quy mô tăng trưởng và tốc độ
tăng trưởng (trong đó quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng hay sụt
giảm đi; tốc độ tăng trưởng là phép so sánh tương đối phản ánh sự gia
tăng nhanh hay chậm của nền kinh tế). Khi nghiên cứu quá trình tăng


16


trưởng, cần phải xem xét hai khía cạnh tăng trưởng về số lượng và chất
lượng.
2.1.2 Đầu tư và đầu tư công
 Đầu tư
Đầu tư, trong kinh tế học vĩ mô, chỉ việc gia tăng tư bản nhằm
tăng cường năng lực sản xuất tương lai. Đầu tư, vì thế, còn được gọi là
hình thành tư bản hoặc tích lũy tư bản. Có nhiều cách để phân loại đầu
tư, thông thường, đầu tư được phân loại thành đầu tư tư nhân và đầu tư
công. Trong mô hình tăng trưởng của Keynes, đầu tư tư nhân I và đầu tư
công G là các nhân tố quan trọng hình thành tổng cầu Y trong phương
trình: Y = C + I + G + X - M (với C là tiêu dùng cá nhân, X là xuất khẩu
và M là nhập khẩu)
Theo lý thuyết, có hai giả thuyết chính về quan hệ giữa đầu tư
công và đầu tư tư nhân. Giả thuyết đầu tư công “Lấn át” đầu tư tư nhân
cho rằng, đầu tư công gia tăng sẽ khiến đầu tư khu vực tư nhân bị thu
hẹp lại. Lý do là nhu cầu của Chính phủ về hàng hóa dịch vụ có thể
khiến lãi suất gia tăng, nguồn vốn trở nên đắt đỏ hơn, theo đó, tác động
tiêu cực đến khu vực tư nhân. Ngoài ra, việc tài trợ cho chi tiêu đầu tư từ
ngân sách nhà nước, thường được thực hiện bởi tăng thuế hay vay nợ, đã
cạnh tranh một cách trực tiếp với khu vực tư nhân trong việc tiếp cận các
nguồn lực tài chính khan hiếm của nền kinh tế. Với quan điểm được
đồng thuận là đầu tư công thường có hiệu quả thấp hơn đầu tư tư nhân,
thì giả thuyết “Lấn át” đưa ra khuyến nghị cắt giảm đầu tư công để hỗ
trợ tăng trưởng.
Giả thuyết ngược lại là đầu tư công thúc đẩy đầu tư tư nhân
(Bacha, 1990; Taylor, 1994; Agenor, 2000), do đầu tư công có thể tạo ra
“Ngoại ứng tích cực” cho khu vực tư nhân. Một số ngoại ứng có thể kể
đến như việc cung cấp các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông,



17

viễn thông, giáo dục,… từ đầu tư công tạo ra môi trường kinh doanh
thuận lợi hơn cũng như giảm được chi phí sản xuất cho khu vực tư nhân
để tăng cường đầu tư và nhu cầu hàng hóa dịch vụ từ chính phủ khiến
cầu về sản phẩm của khu vực tư nhân gia tăng, khuyến khích khu vực
này đầu tư nhiều hơn do kỳ vọng về doanh thu và lợi nhuận tốt hơn. Nếu
giả thuyết này được kiểm định đúng, không nhất thiết phải giảm đầu tư
công, bởi những ngoại ứng tích cực là cần thiết cho khu vực tư nhân và
theo đó là cho tăng trưởng.
 Đầu tư công
Trên thế giới, khái niệm đầu tư công hay còn gọi là đầu tư của nhà
nước hoặc là đầu tư công cộng gắn liền với hoạt động chi tiêu của chính
phủ. Tuy nhiên, tùy theo quan niệm của từng quốc gia mà khái niệm đầu
tư công có thể có những khác biệt nhất định. Nhìn chung, khác biệt chủ
yếu là đầu tư công có thể bao gồm các dự án cho các mục đích kinh
doanh thông qua khu vực DNNN hoặc các dự án chỉ thuần tùy mục đích
công ích.
Ví dụ, ở Úc, đầu tư công bao gồm xây dựng cơ bản hạ tầng thiết
yếu đường bộ, đường sắt, nhà ở, hệ thống giáo dục và hỗ trợ tài chính
cho quỹ hưu trí, người lao động, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ như miễn thuế
thu nhập doanh nghiệp trong ngắn hạn, các dự án đào tạo,... Đối với
nước Áo, đầu tư công gồm cơ sở hạ tầng, hỗ trợ các chương trình đầu tư
bằng các biện pháp về thuế và các chương trình việc làm mang tính vùng
miền. Một số quốc gia như Canada đầu tư công gồm đầu tư vào đường,
cầu và giao thông công cộng, hệ thống nước sạch và chăm sóc y tế, đầu
tư và nâng cấp nhà xã hội, hỗ trợ người mua nhà, giảm thuế thu nhập cá
nhân và thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ các thành phần kinh tế và cộng
đồng dễ ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế như nông nghiệp, công

nghiệp sản xuất. Pháp chủ yếu đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước trong


18

các lĩnh vực bưu chính, năng lượng và đường sắt; đầu tư cho quốc
phòng, các lĩnh vực đầu tư trọng yếu (như phát triển bền vững và công
nghệ sạch, giáo dục chất lượng cao); đầu tư cho hệ thống công ích như
bệnh viện, nhà trẻ và các tổ chức mang tính cộng đồng khác; hỗ trợ giải
quyết vấn đề lao động, nhà ở, sức khỏe và bảo vệ môi trường. Đối với
Nhật Bản các loại hàng hóa công cộng được cung cấp bởi khu vực công
(do chính phủ quốc gia, chính quyền địa phương và các tập đoàn công
cộng quản lý) là các loại hàng hóa không giao dịch được thông qua cơ
chế thị trường, đồng thời đầu tư được thực hiện bởi khu vực công cho
các tiện ích như đường xá, cầu cảng,… thì được gọi là đầu tư công. Ở
Việt Nam, khái niệm và quan điểm chung về đầu tư công được nhiều tác
giả cho rằng là phần chi tiêu công được thêm vào lượng vốn vật chất để
tạo ra các dịch vụ xã hội, chẳng hạn xây dựng đường xá, cầu cảng,
trường học, bệnh viện,…
Như vậy, mặc dù có nhiều khác biệt tùy thuộc vào quan điểm của
từng quốc gia, một cách tổng quát, đầu tư công được hiểu là đầu tư từ
nguồn vốn của Nhà nước vào các lĩnh vực phục vụ lợi ích chung, không
nhằm mục đích kinh doanh (Nguyễn Xuân Tự, 2010). Tương tự, theo Đỗ
Thiên Anh Tuấn (2015), đầu tư công là việc sử dụng các nguồn vốn Nhà
nước để đầu tư nhằm thực hiện các mục tiêu của các chương trình, dự án
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư công thường tập trung vào các
lĩnh vực, cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng như: cầu đường, giao thông,
thông tin và công nghệ thông tin; hỗ trợ hoạt động nghiên cứu khoa học;
đầu tư phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo (bao gồm trường
học và giáo viên); khuyến khích đầu tư trong các lĩnh vực công nghệ

xanh và sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, phát triển bền vững.
Theo Sử Đình Thành & Bùi Thị Mai Hoài (2009), căn cứ theo tính
chất kinh tế, đầu tư công là một phần của chi tiêu công, là nhóm chi gắn


19

liền với chức năng kinh tế của nhà nước như chi xây dựng các công trình
thuộc kết cấu hạ tầng - xã hội. Năm 2014, Luật Đầu tư công được Quốc
hội thông qua, đưa ra định nghĩa về đầu tư công là hoạt động đầu tư của
nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy, có thể thấy, có nhiều khái niệm về đầu tư công khác
nhau và cũng có nhiều khác biệt nhất định tùy theo quan điểm của từng
quốc gia. Tuy nhiên, tựu chung lại, một cách khái quát nhất, có thể hiểu
đầu tư công là hoạt động đầu tư của nhà nước vào các chương trình, dự
án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đầu tư vào các chương
trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, chủ yếu đầu tư vào các
lĩnh vực phục vụ lợi ích chung.
2.1.3 Nguồn vốn đầu tư công
Theo Trần Văn (2012), vốn đầu tư là tiền đề cơ bản trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Cũng theo tác giả, về
nguồn vốn đầu tư công, nguồn vốn tài trợ cho đầu tư công không chỉ từ
nguồn ngân sách của chính phủ mà còn của chính quyền địa phương, đầu
tư từ nguồn trái phiếu chính phủ, tín dụng đầu tư qua kênh ngân hàng
phát triển, và kể cả đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, ở
Việt Nam, nguồn vốn chủ yếu tài trợ đầu tư vẫn là vốn ngân sách nhà
nước.
Tương tự, Luật Đầu tư công năm 2014 cũng quy định rõ, nguồn
vốn để tài trợ cho các hoạt động đầu tư công bao gồm vốn ngân sách nhà
nước, vốn công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu

chính quyền địa phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn
vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước, vốn đầu tư từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa


20

vào cân đối ngân sách nhà nước, các khoản vốn vay của ngân sách địa
phương để đầu tư.
Như vậy, nguồn vốn tài trợ đầu tư công được huy động từ các
nguồn chính sau đây:
- Vốn ngân sách nhà nước (NSNN): NSNN là hệ thống quan hệ
kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính của xã
hội để tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ nhà nước nhằm thực hiện các chức
năng của Nhà nước. NSNN được hình thành từ các khoản thu thuế, phí
và lệ phí. Trong đó, thuế là khoản thu chiếm tỷ trọng lớn nhất tại hầu hết
các quốc gia trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị. Khoản thu
này được xây dựng trên cơ sở trao đổi nghĩa vụ giữa công dân với nhà
nước; phí và lệ phí là nguồn thu thường được đề cập đầu tiên trong các
nguồn thu vốn có của NSNN vì nó trực tiếp gắn với chức năng cung cấp
hàng hóa công (Trần Văn, 2012).
- Vốn tín dụng Nhà nước: Nguồn tín dụng ngân hàng là một kênh
huy động vốn quan trọng cho đầu tư công (Trần Văn, 2012). Vốn tín
dụng Nhà nước được hiểu là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong
nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân
danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát
hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật (Luật Đầu tư công
2014).
- Vốn ODA: Nguồn vốn này gồm các khoản viện trợ và cho vay
với các điều kiện ưu đãi, được phân bổ theo công trình, dự án (Trần Văn,

2012). ODA được hiểu là nguồn vốn dành cho các nước đang và kém
phát triển được các cơ quan chính thức và cơ quan thừa hành của chính
phủ hoặc các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ tài trợ.
2.1.4 Đối tượng đầu tư công
Đối tượng của đầu tư công ở hầu hết các nước đều là các chương


21

trình mục tiêu, dự án phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế, xã hội,
môi trường, quốc phòng, an ninh; chương trình mục tiêu, dự án phục vụ
hoạt động của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, kể cả việc mua sắm, sửa chữa tài sản cố định
bằng vốn sự nghiệp; các dự án đầu tư của cộng đồng dân cư, tổ chức
chính trị - xã hội - nghề nghiệp được hỗ trợ từ vốn nhà nước; chương
trình mục tiêu, dự án đầu tư công khác theo quyết định của Chính phủ.
Theo đó, đầu tư công ở Việt Nam hiện diện ở hầu khắp các lĩnh vực
của nền kinh tế, từ, giáo dục - đào tạo, y tế đến phát triển cơ sở hạ tầng,
truyền thông. các lĩnh vực đầu tư công bao gồm: (i) Đầu tư các chương
trình, dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; (ii) Đầu tư phục vụ hoạt
động của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội ở trong nước và ở nước ngoài; (iii) Đầu tư và hỗ
trợ hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích; (iv) Đầu tư bằng vốn
đầu tư công trong phần Nhà nước tham gia thực hiện các dự án theo hình
thức đối tác công tư (Luật Đầu tư công 2014).
Có thể nói, trong nền kinh tế thị trường, vốn đầu tư của nhà nước
hiện diện ở nhiều lĩnh vực kinh tế và chiếm một vị trí quan trọng, tuy
nhiên, tỷ trọng vốn đầu tư nhà nước trong tổng vốn đầu tư xã hội ở hầu
hết các lĩnh vực đều đang có xu hướng giảm.
2.1.5 Đặc điểm của đầu tư công

- Đầu tư công tạo nên hàng hóa công và đầu tư chủ yếu bằng vốn ngân
sách nhà nước.
Hàng hóa công là loại hàng hóa có thể được sử dụng cùng một lúc
bởi một hoặc nhiều người, việc sử dụng của người này hầu như không
gây trở ngại cho những người sử dụng khác và không từ chối bất cứ
người sử dụng nào. Do vậy, phần lớn hàng hóa công do nhà nước cung


22

cấp. Sự tham gia của khu vực tư trong việc cung cấp hàng hóa công gặp
nhiều khó khăn bởi khu vực tư phải đối mặt vấn đề hưởng thụ tự do mà
không trả tiền.
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước có vai trò chủ yếu trong đầu tư
công để tạo những bước đột phá phát triển đất nước. Mặc dù vậy, trong
nền kinh tế nhiều thành phần, nhà nước cũng nên kêu gọi khu vực tư
nhân tham gia đầu tư và cung cấp hàng hóa công bằng các hình thức
thích hợp (BOT, BTO, BT, PPP,...).
Ngoài ra, thông qua đầu tư/chi tiêu công, nhà nước còn là một
trung tâm tái phân phối thu nhập vì đầu tư kết cấu hạ tầng, nâng cao
phúc lợi xã hội giúp nâng cao mức sống dân cư tạo sự ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội.
- Đầu tư công của ngân sách nhà nước là khoản chi tích lũy.
Chi đầu tư công trực tiếp làm gia tăng số lượng và chất lượng tài
sản cố định, gia tăng giá trị tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân. Vấn
đề này thể hiện rõ nét thông qua việc nhà nước tăng cường đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như: giao thông, thủy lợi, y tế, giáo
dục,… Sự tăng lên về số lượng và chất lượng của hàng hóa công này là
cơ sở và nền tảng cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân trên các
mặt: phát triển cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực, các vùng kinh tế

trên lãnh thổ quốc gia; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh; thúc đẩy sự phát triển các thành phần kinh tế, thu hút
đầu tư trong nước và nước ngoài và tạo động lực, cú hích cho sự tăng
trưởng.
- Quy mô và cơ cấu chi đầu tư công của ngân sách nhà nước phụ thuộc
vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước trong từng thời
kỳ và mức độ phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Trong thời kỳ đầu thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, quy mô


23

đầu tư công chiếm tỷ lệ khá lớn so với tổng đầu tư xã hội. Do khu vực
kinh tế tư nhân còn yếu, chính sách thu hút vốn đầu tư chưa hoàn thiện
nên đầu tư từ ngân sách nhà nước đã tạo đà cho tiến trình công nghiệp
hóa.
Đi đôi với sự gia tăng quy mô, cơ cấu chi đầu tư cũng rất đa dạng
để đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra, như chi hỗ trợ, chi thực hiện chương
trình mục tiêu kinh tế - xã hội,… Quy mô chi đầu tư công của nhà nước
sẽ giảm dần theo mức độ thành công của chiến lược công nghiệp hóa và
mức độ phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Khi đó chi đầu tư phát
triển của nhà nước chủ yếu hỗ trợ các chương trình mục tiêu của quốc
gia như an sinh xã hội và xóa đói giảm nghèo nhằm đạt tới sự ổn định
của kinh tế vĩ mô và các khoản chi cho vay chỉ định, chi thực hiện
chương trình mục tiêu kinh tế xã hội sẽ được cắt giảm.
- Chi đầu tư công phải gắn chặt với chi thường xuyên nhằm nâng cao
hiệu quả vốn đầu tư.
Sự phối hợp không đồng bộ giữa chi đầu tư với chi thường xuyên
sẽ dẫn đến tình trạng thiếu kinh phí để duy tu, sửa chữa, bảo dưỡng cơ sở
hạ tầng. Điều này sẽ làm giảm hiệu quả khai thác và sử dụng tài sản đầu

tư. Sự gắn kết giữa 2 nhóm chi tiêu này sẽ khắc phục tình trạng đầu tư
tràn lan, không tính đến hiệu quả khai thác.
2.1.6 Vai trò của đầu tư công
Vai trò đầu tư công gắn liền với quan niệm về vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước nói chung và vai trò bà đỡ của bàn tay nhà nước nói
riêng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo yêu cầu phát triển
bền vững và bảo đảm an sinh xã hội. Thực tế, vai trò của đầu tư công
được thể hiện rõ ở các điểm như sau:
Đầu tư công góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa - hiện


24

đại hóa, phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Đầu tư công đóng
góp lớn vào tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,… Trong bối cảnh
khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì đầu tư công càng nổi bật vai trò duy trì
động lực tăng trưởng kinh tế thông qua các gói kích cầu của Chính phủ.
Đầu tư công góp phần định hình và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế
xã hội quốc gia.
Đầu tư công làm gia tăng tổng cầu của xã hội. Đầu tư công chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng đầu tư của toàn bộ nền kinh tế. Khi tổng cung
chưa thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng kéo sản
lượng cân bằng và giá cân bằng cũng tăng.
Đầu tư công làm gia tăng tổng cung và năng lực kinh tế. Đầu tư
công làm tăng năng lực sản xuất làm tổng cung tăng và sản lượng tăng,
giá giảm xuống cho phép tiêu dùng tăng. Tăng tiêu dùng lại kích thích
sản xuất phát triển và làm kinh tế - xã hội phát triển.
Đầu tư công có vai trò như là khoản “Đầu tư mồi”, tạo cú huých
và duy trì động lực tăng trưởng. Đầu tư công định vị và củng cố nền kinh
tế trong mối quan hệ của khu vực và quốc tế. Tạo niềm tin và động lực

cho các nguồn đầu tư khác vào trong nước góp phần tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư công góp phần giải quyết việc làm, giảm thiểu tỷ lệ thất
nghiệp, tạo việc làm và thu nhập cho toàn xã hội.
2.1.7 Hiệu quả đầu tư công
Với nguồn lực có hạn, không chỉ quan tâm đến số lượng, việc
đánh giá hiệu quả chi tiêu công nói chung và đầu tư công nói riêng là
điều cần thiết, tạo cơ sở để điều chỉnh quy mô và cơ cấu chi tiêu công,
đầu tư công hợp lý, hiệu quả, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế.
Theo Sử Đình Thành & Bùi Thị Mai Hoài (2009), để đánh giá chi tiêu


25

công, đầu tư công cần phân tích trên hai khía cạnh là định tính và hiệu
quả. Trong đó, mặt định tính là lựa chọn những loại hàng hóa công mà
chính phủ nên cung cấp cho xã hội và mặt định lượng là xem xét chi phí
bỏ ra để cung cấp hàng hóa công và lợi ích mà hàng hóa công mang lại.
Theo đó, xét về hiệu quả kinh tế, vốn đầu tư công nói riêng và
hiệu quả đầu tư nói chung biểu hiện mối tương quan so sánh giữa các lợi
ích thu được với khối lượng vốn đầu tư đã bỏ ra nhằm thu được các lợi
ích đó.
Với cùng mức vốn bỏ ra, khoản đầu tư nào đem lại lợi ích lớn hơn
thì hiệu quả lớn hơn và ngược lại, với cùng lợi ích thu được thì khoản
đầu tư nào được thực hiện với số vốn thấp hơn thì có hiệu quả cao hơn.
- Hiệu quả tổng thể: là hiệu quả được xem xét trên phạm vi một
ngành, một địa phương hay trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
- Hiệu quả tài chính của các dự án: là hiệu quả được xem xét cho
từng dự án đầu tư.
Chỉ số đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nói chung và vốn đầu
tư công nói riêng phổ biến hiện nay là chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu

tư (Incremental Capital - Output Ratio – ICOR). Theo Tổng Cục Thống
Kê, chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) là chỉ tiêu xác định hiệu
quả quan trọng cho biết trong từng thời kỳ cụ thể muốn tăng 1 đồng
GDP thì cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư. Do vậy ICOR còn được sử dụng
để xác định nhu cầu vốn đầu tư.
ICOR = V/Δ GDP
Trong đó: Δ GDP là phần GDP tăng thêm trong một thời gian nhất
định (tối thiểu cũng phải một năm) do đầu tư mới tạo ra. V là tổng vốn
đầu tư mới đã thực hiện trong thời gian đó. Từ công thức trên, nếu cố


×