Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.36 KB, 71 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------VÕ THỊ THƢƠNG

KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU
DÙNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số

: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS.NGUYỄN TRỌNG ĐIỆP

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất
kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

VÕ THỊ THƢƠNG



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG ....................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, điều kiện khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng............................................................................................................ 6
1.2. Ý nghĩa của khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ............... 21
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KHỞI KIỆN
VỤ ÁN DÂN SỰ BẢO VỆ NGƢỜI TIÊU DÙNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY............................................................................................ 25
2.1. Thủ tục và hệ quả pháp lý khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ người tiêu dùng ........ 25
2.2. Thực trạng thực hiện khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng ............................................................................................................................. 31
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ BẢO VỆ NGƢỜI TIÊU DÙNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................................... 54
3.1. Phương hướng ...................................................................................................... 54
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay .................................... 56
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 64


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

BVQLNTD


Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

KKTT

Khởi kiện tập thể

Luật BVQLNTD

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

NTD

Người tiêu dùng

TAND

Tòa án nhân dân

TCXH

Tổ chức xã hội

THADS

Thi hành án dân sự

VINASTAS

Hội tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt
Nam



DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
STT
1

Nội dung

Tên
Bảng 2.1

2

Bảng 2.2

3

Bảng 2.3

Đánh giá tiêu chí sử dụng các phương thức
giải quyết khiếu nại.
Thống kê số lượng TCXH tham gia công tác
BVQLNTD
Thống kê số lượng vụ việc khiếu nại được
các TCXH hỗ trợ hàng năm

Trang
35

41


41


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc thừa nhận hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế thị trường hiện nay
đã làm thay đổi căn bản những vấn đề về nhận thức và phương pháp điều tiết
của Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. BVQLNTD cũng
đã thực sự trở thành một lĩnh vực pháp luật độc lập, có vị trí đáng kể trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, nhất là khi Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
được ban hành vào năm 2010. Nhiều vụ việc vi phạm quyền lợi người tiêu dùng
không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của một hoặc một vài người tiêu dùng cụ thể
mà còn ảnh hưởng đến đông đảo người tiêu dùng và toàn xã hội cũng như ảnh
hưởng đến trật tự quản lý kinh tế. Người tiêu dùng Việt Nam đang phải sống
trong một môi trường không an toàn, quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm
nghiêm trọng. Thực trạng công tác bảo vệ người tiêu dùng tại Việt Nam cho
thấy, các vụ vi phạm quyền lợi người tiêu dùng có xu hướng ngày càng gia tăng
cả về số lượng và mức độ. Chính vì vậy, việc cơ quan quản lý nhà nước can
thiệp để giải quyết những trường hợp này không chỉ là để bảo vệ quyền lợi chính
đáng của người tiêu dùng mà còn nhằm bảo đảm trật tự, sự ổn định trong hoạt
động quản lý nhà nước.
Xuất phát từ quan điểm coi mối quan hệ giữa người tiêu dùng và tổ chức
cá nhân kinh doanh là mối quan hệ dân sự thông thường, cho nên việc khởi kiện
vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng về bản chất phải được giải quyết
theo các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự thông qua hệ thống tòa án.
Chính vì lý do đó, tôi chọn đề tài “Khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu nhằm làm rõ
một số vấn đề lý luận, thực tiễn về khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng tạo điều kiện cho người tiêu dùng bảo vệ quyền lợi và lợi ích

hợp pháp của chính bản thân mình.

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là
một vấn đề không mới. Tuy nhiên, cho đến nay các công trình nghiên cứu đề tài
về khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chưa được nghiên
cứu đầy đủ và có hệ thống. Các công trình khoa học về lĩnh vực này chuyên sâu
có nhưng không nhiều, chủ yếu tập trung vào các khía cạnh tổng quát, phạm vi
nghiên cứu rộng, có thể kể tới như: Đề tài “Tăng cường năng lực các thiết chế
thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam” của Viện Khoa
học pháp lý – Bộ Tư pháp thực hiện tháng 11/2013, do TS. Nguyễn Thị Vân
Anh làm chủ nhiệm; đề tài “Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế pháp lý nhằm bảo vệ
quyền lợi của NTD trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, đề tài nghiên cứu
cấp bộ của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp do ThS. Định Thị
Mai Phương làm chủ nhiệm năm 2008; luận án “Giải quyết tranh chấp giữa
người tiêu dùng với thương nhân ở Việt Nam hiện nay”, TS. Nguyễn Trọng Điệp
(2014), luận án tiến sĩ luật học Học viện Khoa học xã hội.
Nhiều công trình nghiên cứu được công bố dưới hình thức các bài viết
được đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành luật hoặc tham luận trong
các Hội thảo quốc gia và quốc tế. Quan trọng nhất có thể nhận thấy quan điểm
rõ ràng của các học giả trong một bài viết như: Nguyễn Trọng Điệp (2014) Tố
tụng trong giải quyết tranh chấp tiêu dùng: “Ba năm vẫn nằm trên giấy”, Tạp
chí thuế Nhà nước, Tổng Cục thuế - Bộ Tài chính, số 10 (472) 6/03/2014;
Nguyễn Trọng Điệp, Tố tụng rút gọn trong giải quyết tranh chấp tiêu dùng, Tạp
chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, tập 31, số 2 (2015), tr.41; Một số vấn đề lý
luận xung quanh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, PGS.TS Nguyễn Như
Phát đăng tải trên website của Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương; Bài

viết “Một số vấn đề lý luận về quyền được thông tin của người tiêu dùng”, TS.
Nguyễn Văn Cương, đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 8(304) năm
2013; Bảo vệ người tiêu dùng khi có tranh chấp - Cần biện pháp đặc biệt, TS.

2


Nguyễn Ngọc Điện; Bài viết “Hòa giải - Một phương thức giải quyết tranh
chấp thay thế”, ThS. Dương Quỳnh Hoa, Viện Nhà nước và Pháp luật; Luận
án tiến sĩ Luật học đề tài “Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh
chấp thay thế đối với các quan hệ thương mại trong giai đoạn hiện nay ở
nước ta”, TS. Dương Quỳnh Hoa; Nguyễn Thị Vân Anh (2010), “Thực trạng
pháp luật Việt Nam về bảo vệ người quyền lợi người tiêu dùng”, Tạp chí Luật
học, (11), tr. 3-11.
Ngoài ra phải kể đến một số các bài viết như: Đặc điểm của quan hệ tiêu
dùng và pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nguyễn Thị Thư, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật số 10/2012, Viện Nhà nước và Pháp luật; Pháp luật và
vấn đề bảo vệ người tiêu dùng, Đặng Vũ Huân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số
chuyên đề về pháp luật và tiêu dùng tháng 1 năm 2005; Luật Bảo vệ người tiêu
dùng có nên quy định tổ chức là người tiêu dùng, Lê Hồng Hạnh, Trần Thị
Quang Hồng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20/2010, Văn phòng quốc hội.
Để có một cái nhìn dễ dàng về khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng cần thiết phải tạo nên một cơ sở lý luận rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu giúp
cho người khởi kiện là các cá nhân hay các tổ chức có thể nắm bắt được các trình
tự, thủ tục khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cho nên tôi
chọn đề tài “Khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp
luật Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận chung về khởi kiện vụ án dân
sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam, đề xuất một số

giải pháp nâng cao hiệu quả khởi kiện vụ án dân sự nhằm tăng năng lực bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trên thị trường.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Lý luận về khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

3


+ Phân tích, đánh giá thực trạng khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
+ Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề lý luận về
khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật Việt
Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu khởi kiện vụ án dân sự bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay, nhằm phân tích
thực trạng và đánh giá thực hiện pháp luật hiện hành từ đó đề ra một số giải
pháp nâng cao năng lực khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng. Luận văn tập trung nghiên cứu trong các vụ án đã được xét xử về khởi
kiện dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Tòa án.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu có hiệu quả những vấn đề do đề tài đặt ra, luận văn sử
dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng của triết học Mác
– Lê Nin. Đây là phương pháp chủ đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình nghiên
cứu của luận văn, để đưa ra những nhận định, kết luận khoa học đảm tính
khách quan, chân thực. Từ phương pháp chung đó, luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể, đó phương pháp phân tích, tổng hợp,
phương pháp hệ thống, thống kê, so sánh. Để thực hiện có hiệu quả mục

đích nghiên cứu, luận án kết hợp chặt chẽ giữa các phương pháp trong suốt
quá trình nghiên cứu của toàn bộ nội dung luận văn. Tùy thuộc vào đối
tượng nghiên cứu của từng chương, mục trong luận văn, tác giả vận dụng,
chú trọng các phương pháp khác nhau cho phù hợp.

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận của luận văn
Luận văn đã khái quát được những vấn đề lý luận trong khởi kiện vụ án
dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay, đồng
thời kết quả của hoạt động nghiên cứu lý luận góp phần làm nguồn tư liệu tham
khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu.
Luận văn đánh giá được những thành công và hạn chế trong khởi kiện vụ
án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Từ đó đề xuất được một số giải pháp nâng cao hiệu quả khởi kiện vụ án dân sự
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Theo các vấn đề lý luận tác giả đã nghiên cứu và phân tích hoạt động khởi
kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam
hiện nay. Những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần giúp người tiêu dùng
nói riêng và các tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung có thêm cơ
sở khoa học để từ đó thực hiện tốt việc khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương chính như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng.

Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Chương 3:Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khởi kiện vụ
án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay.

5


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
1.1 Khái niệm, đặc điểm, điều kiện khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi
ngƣời tiêu dùng
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
Khái niệm vụ án dân sự: Vụ án dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện
nay đó là các tranh chấp nảy sinh từ các quan hệ hôn nhân và gia đình, lao động, kinh
doanh, thương mại, đất đai, nhà ở và các quan hệ dân sinh trong đời sống xã hội. Việc các
chủ thể của những quan hệ đó có tranh chấp và được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước
giải quyết được gọi là các vụ án dân sự. Có thể hiểu một cách đơn giản, vụ án dân sự là các
tranh chấp xảy ra giữa các đương sự mà theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì cá
nhân, tổ chức tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án
có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Khái niệm vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: “Vụ án dân sự về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng là vụ án mà bên khởi kiện là người tiêu dùng hoặc tổ chức xã hội
tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định của Luật này”. [14]
Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: Các tranh chấp
dân sự được coi là vụ án dân sự khi có chủ thể trong quan hệ tranh chấp đó đưa vấn đề tranh
chấp ra trước tòa án để được giải quyết đó gọi là “khởi kiện”. Khởi kiện theo quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) bao gồm khởi kiện của người khởi kiện (khởi kiện của
nguyên đơn), khởi kiện của bị đơn (trong trường hợp có yêu cầu phản tố) và khởi kiện của

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (trong trường hợp có yêu cầu độc lập). Vậy, khởi
kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là việc người tiêu dùng hoặc tổ chức xã
hội tham gia BVQLNTD có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật yêu cầu
Tòa án giải quyết vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.

6


1.1.2. Đặc điểm khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Để hiểu được đặc điểm khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng ta đi làm rõ các đặc điểm chủ yếu liên quan đến bản chất của chủ thể, quan
hệ pháp luật.
- Đặc điểm của chủ thể trong khởi kiện vụ án dân sự BVQLNTD
Chủ thể trong khởi kiện vụ án dân sự BVQLNTD bao hàm hai đối tượng
là người khởi kiện (sau đây gọi chung là “Người tiêu dùng”) và người bị khởi
kiện (gọi chung là tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ).
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng nắm trong tay quyền lực to
lớn. Thị trường chủ yếu do NTD điều tiết. Là lực lượng đông đảo nhất trong xã
hội, quyết định tiêu dùng của NTD ảnh hưởng to lớn đến hoạt động kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. NTD quyết định hàng hoá, dịch vụ mà tổ
chức, cá nhân sẽ kinh doanh. Mức độ tiêu dùng của NTD chính là thước đo cho
sự tồn tại của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.[10]
Ở Việt Nam, khái niệm người tiêu dùng chỉ thực sự được biết đến và quan
tâm khi nền kinh tế thị trường hình thành. Khái niệm người tiêu dùng được định
nghĩa trong Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ngày 27/4/1999 thì
"Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu
dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình và tổ chức" (Điều 1). Luật Bảo vệ quyền
lợi NTD 2010 ra đời thay thế Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD 1999 có nhiều
quy định mới so với Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD, tuy nhiên, nội hàm khái
niệm NTD vẫn không thay đổi “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng

hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”
[14]. Như vậy, cơ sở để xác lập tư cách NTD theo pháp luật Việt Nam bao gồm:
(1) Về tư cách chủ thể thì người tiêu dùng có thể là cá nhân, gia đình hoặc
tổ chức (cá nhân, pháp nhân).
(2) Sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt cá nhân,

7


gia đình, tổ chức. Tuy nhiên, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 không
hề đưa ra bất kỳ khái niệm nào về hàng hóa, dịch vụ, mặc dù đây là khái niệm
cơ bản và rất quan trọng để xác định phạm vi điều chỉnh của pháp luật bảo vệ
quyền lợi NTD.
(3) Quan hệ tiêu dùng được xác lập thông qua hợp đồng mua bán, cung
ứng dịch vụ hoặc phát sinh trên cơ sở sử dụng hàng hóa, dịch vụ.
Khi là một tập hợp đông đảo, NTD có vị thế quan trọng như vậy, nhưng
thực chất trong mối quan hệ với người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ với từng
NTD đơn lẻ, NTD luôn đứng ở vị trí thế yếu, quyền lợi của họ dễ bị người kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ xâm phạm. Điều đó thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
+ Yếu thế trong việc tiếp cận, xử lý và hiểu các thông tin về hàng hoá,
dịch vụ.
+ Yếu thế về năng lực tài chính.
+ Yếu thế trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng.
+ Yếu thế về khả năng gánh chịu rủi ro trong quá trình tiêu dùng sản phẩm.
+ Yếu thế về khả năng tiếp cận pháp luật.
Thứ nhất, yếu thế trong việc tiếp cận, xử lý và hiểu các thông tin về hàng
hóa, dịch vụ:
Việc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ tự nguyện cung cấp
thông tin, minh bạch khả năng và hoạt động của mình là sự duy ý chí. Họ chỉ
thực hiện điều đó khi nhà nước có sự can thiệp trong đó can thiệp hữu hiệu nhất

là bằng công cụ pháp luật. Nhưng thực tế không thể trông chờ toàn bộ vào nhà
nước mà nhà nước làm việc đó do sức ép của xã hội dân sự và đôi khi nhờ xã
hội dân sự nhà nước có được thông tin. NTD nhận thông tin đã qua “bộ lọc” của
Chính phủ và nhiều người cảm thấy yên tâm và tuyệt đối tin tưởng vào “bộ lọc”
này. Tuy nhiên không ít người tự sàng lọc lấy thông tin vì họ muốn dùng khả
năng đánh giá của mình hơn là những “bộ lọc” đó. Xã hội dân sự dưới dạng các
8


tổ chức như các hội từ thiện, các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ,
các phong trào xã hội, các hiệp hội kinh doanh, các liên minh, và các đoàn luật
sư…. sẽ đem đến sự đa dạng về thông tin cho các đối tượng có nhu cầu khác
nhau. Qua đó sẽ thiết lập thế quân bình trong thông tin khi mà nhà nước không
muốn hoặc không thể cung cấp thông tin cho xã hội. Mặt khác đây cũng là
nguồn thông tin hữu ích cho nhà nước làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách
và pháp luật của nhà nước.
Chỉ khi không còn hạn chế về thông tin, thì NTD mới có đầy đủ quyền lựa
chọn hàng hóa, dịch vụ phù hợp với mục đích của mình, đồng thời một thị
trường cạnh tranh lành mạnh mới được hình thành. Thực tế cho thấy sự hạn chế
về thông tin là lí do phát sinh các khuyết tật của thị trường như: lừa đảo, trái với
các quy luật thị trường, méo mó thị trường, cạnh tranh không lành mạnh… và
đương nhiên NTD là đối tượng chịu hậu quả đầu tiên và nặng nề nhất. Trước
tình trạng hạn chế về thông tin giữa các chủ thể của thị trường thì nhà nước với
công cụ pháp luật sẽ thực hiện vai trò điều tiết xã hội, lành mạnh hóa thị trường
thông qua những quy định về quyền nghĩa vụ thông tin của các bên, các quy
định phạt vi phạm nghĩa vụ thông tin… Trong khi đó, vai trò thông tin bổ trợ
của xã hội dân sự sẽ góp phần khỏa lấp những khoảng trống về thông tin mà nhà
nước không đảm đương được. Thông tin về thị trường từ xã hội dân sự cũng là
những thông tin mà người ta có thể kiểm chứng một cách cụ thể nhất.
Thứ hai, yếu thế về năng lực tài chính:

Thực tiễn giải quyết tranh chấp phản ánh NTD có quyền lợi bị xâm phạm
luôn phải đứng trước việc lựa chọn theo đuổi việc khiếu nại, đòi bồi thường
thậm chí khởi kiện với rủi ro rất lớn về tài chính (từ khi bắt đầu tới khi giải
quyết vụ việc, không cần biết kết quả) hoặc từ bỏ lợi ích liên quan do hạn chế về
tài chính.
Thứ ba, yếu thế trong việc đàm phán:
Người tiêu dùng bị xâm phạm về lợi ích bởi hàng hóa mua tiêu dùng, năng
9


lực hạn chế về tài chính, thông tin và tâm lý sẽ khiến cho NTD rơi vào trạng thái
hoang mang, dễ dàng thỏa hiệp khi đàm phán với chủ thể thương nhân. Điều này
thực tế được tổ chức, cá nhân cung ứng hàng hóa tận dụng khá triệt để để giải
quyết các vấn đề phát sinh liên quan tới hàng hóa, dịch vụ khuyết tật. Ban đầu
có thể coi các tranh chấp này được giải quyết một cách đúng đắn, nhanh gọn và
đạt được sự thỏa mãn về lợi ích giữa các bên nhưng thực tế NTD bị đặt vào tình
huống không có lựa chọn thương lượng quyền lợi và lợi ích không được bảo
toàn ngay ở giai đoạn đàm phán lợi ích.
Thứ tư, yếu thế về khả năng gánh chịu rủi ro trong quá trình tiêu dùng
sản phẩm:
Cũng giống như hạn chế về thông tin và năng lực đàm phán, yếu thế về khả
năng chấp nhận rủi ro của NTD đơn lẻ là rõ ràng nếu không có một năng lực tài
chính đủ mạnh, một tổ chức đại diện đủ uy tín để đứng ra bảo vệ quyền lợi. Khả
năng chấp nhận rủi ro thấp sẽ tạo nên sự “lép vế” của NTD trong giai đoạn
thương lượng, hòa giải ban đầu từ đó hình thành tâm lý “kẻ yếu” chấp thuận ở vị
thế thấp. Khả năng chịu rủi ro thấp có thể coi vừa là tiền đề cũng vừa là hệ quả
yếu thế của NTD trước tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ khi có
tranh chấp tiêu dùng phát sinh cần được giải quyết.
Thứ năm, hạn chế về khả năng tiếp cận pháp luật:
Thực tế Việt Nam hay các nước đang phát triển khác, hạn chế về khả năng

tiếp cận các công cụ pháp lý đủ mạnh, đủ tin cậy trong quá trình giải quyết tranh
chấp của công dân đơn lẻ là điều có thể khẳng định. Một phần nguyên nhân khác
nằm ở năng lực hệ thống pháp luật chưa cho phép (hoặc không đủ) để NTD dễ
dàng tiếp cận dù bất cứ điều kiện, hoàn cảnh xã hội và năng lực tài chính khi
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
Luật BVQLNTD năm 2010 của Việt Nam định nghĩa trên cơ sở đặc thù quản
lý hoạt động thương mại, cụ thể: Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ là tổ chức, cá nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
10


trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm: Thương nhân theo quy định của Luật
thương mại và cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, không
phải đăng ký kinh doanh [14]. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ là
chủ thể hết sức quan trọng trong việc bảo đảm quyền lợi NTD. Quyền lợi của
NTD được bảo đảm chủ yếu trong quan hệ nghĩa vụ với tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ. Quy định về nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ đối với NTD, vì thế là một bộ phận không thể thiếu trong hệ
thống pháp luật bảo vệ NTD. Điều đó thể hiện qua các đặc điểm cụ thể như sau:
Thứ nhất, có nghĩa vụ bảo đảm chất lượng, số lượng và sự an toàn của hàng
hóa, dịch vụ. Nhà làm luật thiết kế trách nhiệm này cho tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ nhằm đáp ứng quyền được an toàn của NTD,
sự an nguy của NTD phụ thuộc rất lớn vào thái độ của chủ thể thực hiện nghĩa
vụ. Bên cạnh việc tuân thủ các điều kiện bảo đảm chất lượng đối với sản phẩm
trước khi đưa ra thị trường, hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu và hàng hóa lưu
thông trên thị trường thì họ còn phải chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm
do mình sản xuất, kinh doanh hoàn lại hoặc đổi hàng mới, nhận lại hàng có
khuyết tật bị NTD trả lại; ngưng sản xuất, thông báo biện pháp khắc phục hậu
quả khi phát hiện sản phẩm, hàng hóa gây mất an toàn hoặc không phù hợp với

tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng; thu hồi, xử lý hàng
hóa không bảo đảm chất lượng; trả chi phí, lệ phí phục vụ kiểm tra chất lượng
hàng hóa theo yêu cầu của cơ quan nhà nước; thực hiện việc cân, đong, đo đếm
chính xác.
Thứ hai, có nghĩa vụ bảo hành và hướng dẫn sử dụng hàng hóa, dịch vụ.
Bảo hành là biện pháp khắc phục hậu quả do sai sót về kỹ thuật của hàng hóa
trong quá trình sản xuất, lưu kho, vận chuyển...Như vậy, nếu xem bảo hành là
việc khắc phục những sai sót về mặt kỹ thuật, bảo đảm cho hàng hóa đúng chất
lượng, đủ những đặc tính như đã công bố, cam kết, đảm bảo giá trị sử dụng
11


trong một khoảng thời gian nhất định hay còn gọi là tuổi thọ, thì trách nhiệm
bảo hành là nghĩa vụ tuyệt đối mà không cần có sự thỏa thuận hay quy định của
pháp luật liên quan. Chính vì vậy, để đảm bảo quyền lợi cho NTD trong việc sử
dụng hàng hóa thì bảo hành là nghĩa vụ bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức sản
xuất kinh doanh. Tuy nhiên, phụ thuộc vào từng loại hàng hóa khác nhau, có
đặc tính kỹ thuật khác nhau mà thời gian, phạm vi, trách nhiệm bảo hành là
khác nhau.
Bên cạnh nghĩa vụ bảo hành là nghĩa vụ hướng dẫn sử dụng hàng hóa
cũng có thể xem đây là một trong những hành vi của nghĩa vụ thông tin. Việc sử
dụng hàng hóa, dịch vụ đúng thao tác, kỹ thuật, hợp lý của hàng hóa trước hết
sẽ giúp tăng tuổi thọ, khai thác hết công năng, công dụng của sản phẩm và đặc
biệt hơn là bảo vệ sự an toàn cho sức khỏe, tính mạng của NTD, những người
xung quanh và góp phần bảo vệ môi trường lành mạnh.
Thứ ba, nghĩa vụ bảo đảm an toàn cho NTD. Nghĩa vụ này được đặt ra
buộc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh phải có trách nhiệm không những
với chất lượng sản phẩm, hàng hóa, mà còn có trách nhiệm với sự an nguy của
NTD. Để thực hiện trách nhiệm này, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ phải: “Hướng dẫn đầy đủ về các thông tin an toàn sản phẩm cho

NTD; phải chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật về đảm bảo an toàn sản
phẩm; đối với hàng hóa, dịch vụ khi sử dụng có thể đe dọa gây ảnh hưởng về
sức khỏe, tính mạng, tài sản và môi trường, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh phải cảnh báo trước cho NTD về những nguy cơ đó; giải thích rõ ràng và
hướng dẫn cách sử dụng hàng hóa cùng nhiều biện pháp phòng tránh các tác hại
có thể xảy ra”. Trong trường hợp để xảy ra thiệt hại về sức khỏe, tính mạng và
tài sản cho NTD khi sử dụng đúng các hướng dẫn về hàng hóa, dịch vụ do tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp, tổ chức cá nhân kinh
doanh phải tiến hành ngay mọi biện pháp nhằm ngăn chặn, thu hồi sản phẩm và

12


bồi thường thiệt hại cho NTD.
Thứ tư, ưu thế về thông tin. Thông tin của xã hội dân sự cũng tác động
ngược cho tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Các nhà buôn có lẽ
quan tâm nhiều đến nhu cầu, mong muốn và các động thái của thị trường từ
chính khách hàng, hiệp hội người tiêu dùng hơn là các thông tin chính thống của
nhà nước để điều chỉnh hoạt động của mình. Thực tế cho thấy, trong các quan
hệ mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ với tổ chức, cá nhân kinh doanh NTD
luôn ở thế thụ động, hạn chế về thông tin và năng lực kiểm chứng chất lượng,
giá trị thật của hàng hóa và dịch vụ được cung cấp trong khi bên bán, bên cung
ứng dịch vụ luôn ở thế chủ động về nguồn hàng, kiểm soát được chất lượng,
thông tin sản phẩm trước khi tới tay người tiêu dùng. Vì vậy, nghĩa vụ thông tin
đầy đủ, chính xác, trung thực của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ là một nghĩa vụ hợp lý và hết sức quan trọng để bảo đảm cho NTD thực hiện
quyền được thông tin của mình. Bởi chính vì tính cần thiết của nghĩa vụ này, mà
hầu hết các lĩnh vực pháp luật liên quan đều bắt buộc tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin đầy đủ, chính
xác, trung thực; thể hiện các thông tin trung thực về chất lượng, số lượng, giá

cả, cách sử dụng hàng hóa trên bao bì, nhãn hàng hay các tài liệu kèm theo hàng
hóa; cảnh báo về khả năng gây mất an toàn của sản phẩm và cách phòng ngừa
cho NTD; thông báo yêu cầu về vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng sản
phẩm, hàng hóa; sửa chữa.
Thứ năm, ưu thế về đàm phán, giao kết hợp đồng. Điều kiện giao dịch
chung được hiểu là tất cả những điều khoản, điều kiện hợp đồng, quy tắc bán
hàng được soạn trước bởi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ và được sử dụng trong khi ký kết hợp đồng với nhiều khách hàng khác nhau
[26]. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề khác
nhau đều sử dụng hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trong các giao

13


dịch với NTD, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước độc quyền trong các lĩnh
vực như điện, nước, bưu chính, viễn thông... Các công ty nước ngoài, doanh
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, tài chính, ngân hàng, vận tải. Tuy
các điều kiện giao dịch chung này góp phần làm thuận lợi cho hoạt động kinh
doanh, nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro hoặc bất công cho NTD. Lợi dụng
thế mạnh của mình về thông tin, khả năng hiểu biết pháp luật, tiềm lực kinh tế
hay vị trí thống lĩnh, độc quyền, nên các điều kiện thương mại chung do các
doanh nghiệp này đưa ra thường có rất nhiều điều khoản, quy định chèn ép,
không công bằng, bất lợi cho NTD, từ ngữ dùng trong các điều kiện thương mại
chung này rất trừu tượng, khó hiểu, thậm chí còn xa lạ với người có trình độ,
chuyên môn, và NTD cũng không có khả năng để từ chối việc chấp nhận những
điều kiện thương mại chung này.
- Quan hệ pháp luật vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng:
Thứ nhất, về bản chất, quan hệ pháp luật vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi
NTD (sau đây gọi chung là quan hệ tiêu dùng) là quan hệ dân sự được điều
chỉnh bởi Bộ luật Dân sự, không phải quan hệ thương mại thuộc đối tượng điều

chỉnh của Luật Thương mại cho dù quan hệ này có chủ thể là tổ chức kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ (thương nhân) và mục đích tham gia vào các quan hệ
tiêu dùng là để thỏa mãn các nhu cầu về lợi ích vật chất (quan hệ tài sản) trong
đó có mục đích lợi nhuận của thương nhân. Quan hệ pháp luật tiêu dùng là hình
thức pháp lý của các quan hệ xã hội (trao đổi hàng hóa, dịch vụ) giữa người bán
và người mua đối với hàng hóa, giữa bên cung ứng dịch vụ và bên thụ hưởng
dịch vụ… Quan hệ pháp luật tiêu dùng hình thành trên cơ sở các quy phạm pháp
luật điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ với những
mục đích cụ thể, được áp dụng khi phát sinh sự kiện pháp lý. Quy phạm pháp
luật về BVQLNTD được coi là trọng tâm trong nội dung quan hệ pháp luật tiêu
dùng, các quy phạm pháp luật chuyên ngành khác có ý nghĩa bổ trợ trong từng
mối quan hệ tương ứng.
14


Tuy nhiên, điểm khác biệt so với các quan hệ pháp luật dân sự thông
thường, cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng phải giải quyết được
đặc thù cơ bản của quan hệ pháp luật tiêu dùng về mặt thể chế là: khắc phục tình
trạng bất cân xứng giữa NTD và cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ. Đây là nguyên tắc và cũng là nhiệm vụ cơ bản của pháp luật
BVQLNTD.
Trên cơ sở đó, để khắc phục được tình trạng bất cân xứng của NTD và cá
nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, đòi hỏi về mặt thể chế
phải xác định đầy đủ: quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ; trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức xã hội cũng như bản thân NTD dùng trong việc bảo vệ quyền của người
tiêu dùng; cơ chế giải quyết khiếu nại, khởi kiện và tố cáo của NTD. Trong quá
trình đó, hoạt động bảo vệ NTD cần dự liệu các vấn đề được đặt trong trạng thái
“động” bởi tác động của quá trình hội nhập cũng như sự phát triển nhanh chóng
của khoa học – kỹ thuật.

Thứ hai, khác với nhiều lĩnh vực pháp luật khác, việc BVQLNTD diễn ra
ở hầu hết các lĩnh vực trong đời sống kinh tế xã hội. Do đó, một văn bản pháp
luật không thể điều chỉnh tất cả các lĩnh vực, mà phải sử dụng một hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh. Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của hầu
hết các nước trên thế giới đều cho thấy điều này. Như tại Nhật Bản, ngoài Luật
BVQLNTD còn có gần 30 Luật chuyên ngành khác liên quan đến hoạt động bảo
vệ người tiêu dùng như Luật hợp đồng tiêu dùng, Luật Giao dịch thương mại
đặc định, Luật Vệ sinh thực phẩm, Luật Chú thích sản phẩm, Luật Khuyến khích
các tổ chức phi lợi nhuận, Luật Bảo vệ thông tin cá nhân, Luật Bình ổn giá, Luật
bán hàng trả góp… Thực tiễn hoạt động lập pháp và lập quy liên quan đến hoạt
động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay cũng diễn ra tương
tự. Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này hiện nay có thể liệt kê

15


bên cạnh Luật BVQLNTD mới được ban hành phải kể tới như: Bộ luật Dân sự,
Bộ luật Hình sự, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Khám, chữa bệnh,
Luật Cạnh tranh, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật An toàn thực
phẩm, Luật Viễn thông, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật
Quảng cáo, Pháp lệnh Đo lường, Pháp lệnh Giá... Đấy là chưa kể tới số lượng
các văn bản quy phạm hướng dẫn Luật cũng như các quy định hướng dẫn cụ thể
của từng địa phương về vấn đề này. Với tính chất rộng lớn của lĩnh vực pháp
luật này, việc pháp điển hóa và thống nhất các văn bản điều chỉnh trong một văn
bản duy nhất là không thể. Một sản phẩm từ khâu sản xuất tới tay NTD phải
đảm bảo tuân thủ quy định tại văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp quan hệ
tiêu dùng là Luật BVQLNTD, còn phải phù hợp các quy định về quy chuẩn, tiêu
chuẩn sản xuất (Luật Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật), chất lượng hàng hóa
(Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa), an toàn vệ sinh thực phẩm (Luật An toàn
vệ sinh thực phẩm), quảng cáo (Luật Quảng cáo), cạnh tranh (Luật Cạnh tranh),

giao dịch dân sự (Bộ luật Dân sự)…
Điểm khác biệt cơ bản nhất trong phương pháp điều chỉnh giữa Luật
gốc về quyền lợi người tiêu dùng và các Luật bổ trợ là nội dung điều chỉnh
của các quy định bổ trợ được xây dựng theo hướng can thiệp vào quy trình
sản phẩm từ khi sản xuất để đạt được mục đích bảo vệ người tiêu dùng, còn
luật gốc sẽ cung cấp những công cụ pháp lý đặc biệt và ưu tiên hơn cho người
tiêu dùng để bảo vệ quyền lợi của mình.
Qua đó cho thấy, do tính chất bao trùm và rộng lớn của các quy định pháp
luật về BVQLNTD của Việt Nam, tính chất tương hỗ giữa luật chuyên ngành và
luật gốc trong hoạt động điều chỉnh từng khía cạnh của quan hệ tiêu dùng là đặc
biệt cần thiết. Trong chừng mực nào đó, tính tương hỗ này có thể là nguyên
nhân của sự chồng chéo giữa các quy định về cùng một vấn đề (thực trạng này
không hiếm trong thực tiễn lập pháp của Việt Nam), nhưng vẫn là cần thiết

16


trong bối cảnh chưa thể pháp điển hóa lĩnh vực pháp luật này.
Thứ ba, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong mối quan hệ tiêu dùng
hay trong các tranh chấp tiêu dùng, đòi hỏi không chỉ bao gồm vấn đề giữa NTD
và doanh nghiệp mà còn có sự tham gia, phối của các tổ chức xã hội và cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, về mặt thiết chế đòi hỏi luôn luôn có sự hoàn
thiện và nâng cao hoạt động bảo vệ người tiêu dùng của bộ máy cơ quan bảo vệ
người tiêu dùng. Công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần được xã hội
hóa, triển khai toàn diện trên nhiều mặt để trở thành trách nhiệm của toàn xã hội.
Đặc biệt là công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm quyền lợi người tiêu dùng
của các cơ quan, tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đây là một chế định
rất quan trọng trong việc bảo đảm hiệu quả và hiệu lực điều chỉnh pháp luật
BVQLNTD.
Thứ tư, cơ chế pháp luật BVQLNTD còn xác lập những ngoại lệ so với

những nguyên tắc tố tụng truyền thống nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người
tiêu dùng tiếp cận công lý, giành lại công bằng, bảo vệ quyền lợi của mình. Đó
chính là những ngoại lệ về miễn tạm ứng án phí, xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc
giảm nghĩa vụ chứng minh cho NTD. Chẳng hạn như khởi kiện tập thể (class
action ở Hoa kỳ, Sammelklage ở Đức) hoặc đảo nghĩa vụ chứng minh
(Beweislastumkehr – Đức) [13].
1.1.3. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Thứ nhất, về chủ thể khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng:
Khởi kiện vụ án dân sự BVQLNTD, chủ thể khởi kiện phải có quyền khởi
kiện và có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Theo điểm a khoản 1 Điều 192
BLTTDS năm 2015 người khởi kiện phải là người có quyền, lợi ích hợp pháp về
dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, đất đai, nhà ở (sau
đây gọi tắt là dân sự). Về nguyên tắc, quyền, lợi ích hợp pháp về dân sự chỉ có
17


được khi chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật nội dung: quan hệ dân sự, hôn
nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, đất đai, nhà ở (viết tắt là quan
hệ dân sự). Chủ thể không có quyền, lợi ích dân sự, không có quyền khởi kiện
trừ một số trường hợp ngoại lệ theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, mặc dù
người khởi kiện có quyền, lợi ích dân sự nhưng quyền, lợi ích đó không hoặc
chưa bị xâm phạm thì cũng chưa đủ điều kiện khởi kiện vụ án dân sự. Bên cạnh
đó, để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của NTD, pháp luật quy định quyền
khởi kiện của TCXH tham gia BVQLNTD. Quyền khởi kiện vụ án dân sự bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng được chia ra cho hai nhóm cụ thể:
Nhóm thứ nhất là khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích của
chính mình, được quy định tại Điều 186 BLTTDS năm 2015, theo đó khi cá
nhân, cơ quan, tổ chức nhận thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm thì có quyền khởi kiện để bảo vệ.

Nhóm thứ hai, là khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác, được quy định tại khoản 3, Điều 187 BLTTDS năm 2015.
“Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại diện
cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hoặc tự mình
khởi kiện vì lợi ích công cộng theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng.”
Tóm lại, đối với quyền khởi kiện thì điều cơ bản nhất người khởi kiện cần
biết đó là khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì cá nhân, cơ
quan, tổ chức có thể tự mình hoặc thông qua người khác để khởi kiện.
Năng lực hành vi tố tụng dân sự: Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả
năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người
đại diện tham gia tố tụng dân sự [4]. Về năng lực hành vi tham gia tố tụng thì có
thể chia thành hai nhóm:

18


Đối với tổ chức xã hội tham gia BVQLNTD: Người đại diện theo pháp
luật là người có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng, người đại diện theo pháp luật
có thể ủy quyền cho người khác có đủ điều kiện để tham gia tố tụng.
Đối với cá nhân là NTD: Tùy vào độ tuổi và thể chất thì pháp luật chia ra
các trường hợp sau: Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người có đầy đủ năng lực lực
hành vi tố tụng dân sự trừ những người bị mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế
năng lực hành vi dân sự hoặc trường hợp khác do pháp luật quy định; Người
dưới 15 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự, thì việc bảo vệ quyền, nghĩa
vụ tố tụng dân sự của họ tại Tòa án do người đại diện theo pháp luật thực hiện;
Người từ đủ 15 tuổi - chưa đủ 18 tuổi, nếu đã tham gia hợp đồng lao động hoặc
thực hiện các giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình thì có thể tự mình
tham gia tố tụng và có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Những quan hệ
khác thì việc bảo vệ quyền, nghĩa vụ của họ do người đại diện theo pháp luật

thực hiện.
Thứ hai, vụ án được khởi kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án:
Tòa án chỉ thụ lý vụ án dân sự đối với những tranh chấp thuộc thẩm quyền
giải quyết của mình. Việc xác định thẩm quyền là một điều kiện cần thiết để
đảm bảo cho hoạt động bình thường và hợp lý của bộ máy nhà nước. Đồng thời,
việc phân định thẩm quyền giữa các Tòa án cũng góp phần cho các Tòa án thực
hiện đúng nhiệm vụ và NTD dễ dàng thực hiện quyền khởi kiện. Thẩm quyền
của Tòa án được xác định một cách chính xác sẽ tránh được sự chồng chéo trong
việc thực hiện nhiệm vụ của Tòa án, góp phần giải quyết đúng đắn, tạo điều kiện
cho các đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Để
vụ án dân sự BVQLNTD được thụ lý, đơn khởi kiện phải gửi đến đúng Tòa án
có thẩm quyền giải quyết. Cụ thể: Vụ án dân sự BVQLNTD chủ thể khởi kiện
thuộc phạm vi thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại Điều 26, BLTTDS
19


năm 2015; Vụ việc được khởi kiện phải đúng với cấp Tòa án có thẩm quyền quy
định tại các Điều 35, BLTTDS năm 2015; Vụ án được khởi kiện đúng thẩm
quyền của Tòa án theo lãnh thổ quy định tại Điều 39 BLTTDS năm 2015;
Trường hợp người khởi kiện có quyền lựa chọn Tòa án theo quy định tại Điều
40 BLTTDS năm 2015 thì yêu cầu đương sự cam kết không khởi kiện tại các
Tòa án khác. Nếu do thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết thì phải kiểm tra tính
hợp pháp của thỏa thuận; Đối với những việc pháp luật quy định phải yêu cầu cơ
quan khác giải quyết trước thì chủ thể khởi kiện chỉ được khởi kiện vụ án khi
các cơ quan hữu quan đã giải quyết mà họ không đồng ý với việc giải quyết của
cơ quan đó. Khi xác định thẩm quyền, Tòa án cũng phải xác định đó là loại tranh
chấp để vào sổ thụ lý loại án đúng với quy định. Việc xác định này có ý nghĩa
rất lớn khi xác định các quy phạm pháp luật nội dung để áp dụng. Là tranh chấp
giữa NTD và doanh nghiệp thì sẽ áp dụng các quy định trong Luật BVQLNTD,

Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại...
Thứ ba, vụ án vẫn còn thời hiệu khởi kiện:
Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà các chủ thể có quyền khởi kiện được
quyền yêu cầu tòa án giải quyết các tranh chấp ở đây là giữa người tiêu dùng và
nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ để bảo vệ quyền, lợi ích bị xâm phạm. Hết thời
hạn đó thì chủ thể khởi kiện mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác. Quy định thời hiệu khởi kiện góp phần quan trọng vào việc ổn
định các quan hệ kinh tế - xã hội, hạn chế việc lạm dụng quyền khởi kiện. Trên
thực tế có nhiều nguyên nhân khách quan mà việc khởi kiện không được thực
hiện trong thời hạn quy định. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ,
pháp luật quy định không tính vào thời hiệu khởi kiện khoảng thời gian xảy ra
sự kiện bất khả kháng; trở ngại khách quan; người có quyền khởi kiện chưa
thành niên, bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
mà chưa có người đại diện; người đại diện của họ bị chết mà chưa có người thay

20


×