Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Chế độ tự chủ tài chính đối với bệnh viện công lập thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 106 trang )

BÙI THỊ HỒNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

CHẾ ĐỘ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI BỆNH VIỆN
CÔNG LẬP - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

BÙI THỊ HỒNG
2014 - 2016


Hà Nội - 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

CHẾ ĐỘ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI BỆNH VIỆN CÔNG
LẬP - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

BÙI THỊ HỒNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS TRẦN VŨ HẢI

HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN


Tôi cam đoan công trình nghiên cứu này là do chính tôi thực hiện. Mọi số
liệu, trích dẫn sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn đầy đủ theo quy định.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của luận văn.
Tác giả

BÙI THỊ HỒNG


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin tỏ lòng biết ơn TS. Trần Vũ Hải – Giảng viên Trường Đại học Luật
Hà Nội đã tận tình hướng dẫn khoa học để tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng
chân thành cảm ơn Viện Đại học Mở Hà Nội và các thầy cô giáo đã giúp đỡ, tạo
điều kiện cho tôi hoàn thành chương trình Cao học Luật để có được kết quả như
hôm nay.
Học viên

BÙI THỊ HỒNG


MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỘ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI
VỚI BỆNH VIỆN CÔNG LẬP ............................................................................. 5
1.1. KHÁI QUÁT VỀ BỆNH VIỆN CÔNG LẬP VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
CỦA BỆNH VIỆN CÔNG LẬP ............................................................................ 5
1.1.1. Mô hình và chức năng của Bệnh viện công lập ở Việt Nam hiện nay ....... 5
1.1.2. Khái quát về quản lý tài chính bệnh viện ................................................. 10
1.1.3. Khái quát quá trình phát triển chế độ tài chính đối với Bệnh viện công lập . 13
1.2. CHẾ ĐỘ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI BỆNH VIỆN CÔNG LẬP...... 15
1.2.1. Khái niệm và vai trò chế độ tự chủ tài chính đối với bệnh viện công lập 15
1.2.2. Nội dung và những yêu cầu để thực hiện chế độ tự chủ tài chính đối với
bệnh viện công lập ............................................................................................... 18
1.2.3. Kinh nghiệm quốc tế về cải cách chế độ tài chính đối với bệnh viện công
lập và những bài học cho Việt Nam .................................................................... 22
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 29
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI BỆNH
VIỆN CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................. 31
2.1. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI
VỚI BỆNH VIỆN CÔNG LẬP ........................................................................... 31
2.1.1. Quy định về phân loại bệnh viện công lập theo mức độ tự chủ ............... 31
2.1.2. Quy định về tự chủ nguồn thu đối với bệnh viện công lập ....................... 34
2.1.3. Quy định về tự chủ hoạt động chi đối với bệnh viện công lập ................. 45
2.1.4. Quy định về xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ ......................................... 57
2.2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI BỆNH
VIỆN CÔNG LẬP HIỆN NAY ........................................................................... 60
2.2.1. Những thành tựu đạt được khi thực hiện chế độ TCTC tại BVCL ......... 60
2.2.2. Những hạn chế, bất cập khi BVCL thực hiện chế độ TCTC ................... 67



KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 73
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ
TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI BỆNH VIỆN CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM .... 75
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI
VỚI BỆNH VIỆN CÔNG LẬP ........................................................................... 75
3.1.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước trong việc hoàn thiện chế độ tự chủ tài
chính đối với bệnh viện công lập ......................................................................... 75
3.1.2. Một số nguyên tắc cần thiết để hoàn thiện chế độ tự chủ tài chính đối với
bệnh viện công lập ............................................................................................... 79
3.2. NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CỤ THỂ CÁC QUY ĐỊNH VỀ
CHẾ ĐỘ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI BỆNH VIỆN CÔNG LẬP ............ 82
3.2.1. Hoàn thiện Nghị định quy định về chế độ tự chủ đối với cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh công lập (trong đó có bệnh viện công lập) .............................. 82
3.2.2. Hoàn thiện quy định về tự chủ nguồn thu đối với bệnh viện công lập .... 84
3.2.3. Hoàn thiện quy định về tự chủ hoạt động chi đối với bệnh viện công lập....... 86
3.2.4. Hoàn thiện quy định về việc xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ ............... 88
3.2.5. Một số kiến nghị khác nhằm đảm bảo hiệu quả thực hiện cơ chế tự chủ
tài chính ............................................................................................................... 89
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 92
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 96


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bệnh viện công lập:

BVCL

Đơn vị sự nghiệp công lập:


ĐVSNCL

Nghị định 16/2015/NĐ-CP:

NĐ 16

Nghị định 85/2012/NĐ-CP:

NĐ 85

Nghị định 43/2006/NĐ-CP:

NĐ 43

Quy chế chi tiêu nội bộ:

QCCTNB

Thông tư 71/2006/NĐ-CP:

TT 71

Tự chủ tài chính:

TCTC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, cùng với chủ trương đổi mới toàn diện hoạt động

quản lý nhà nước, lĩnh vực tài chính công được đánh giá là một trong những lĩnh
vực có sự thay đổi rõ nét nhất. Từ việc thực hiện thí điểm khoán chi hành chính đến
sự ra đời của NĐ 10, sau đó là NĐ 43 và gần đây là NĐ 16 quy định về cơ chế tự
chủ của các ĐVSNCL, hoạt động tài chính của các ĐVSNCL đã và đang chuyển
dịch mạnh mẽ theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động cung ứng
dịch vụ sự nghiệp công cho xã hội.
Trong lĩnh vực sự nghiệp y tế, BVCL là mô hình ĐVSNCL cung cấp dịch
vụ công chủ yếu là khám bệnh, chữa bệnh. Với tính chất đặc thù của dịch vụ sự
nghiệp công trong lĩnh vực y tế, ngoài NĐ 43, Chính phủ còn ban hành NĐ 85 quy
định về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công
lập và giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
công lập. Với các văn bản trên đây, hoạt động của các BVCL đã có nhiều chuyển
biến theo hướng tích cực, nhưng bên cạnh đó đã nảy sinh nhiều hạn chế làm ảnh
hưởng đến bản chất của dịch vụ công trong lĩnh vực y tế, gây lãng phí nguồn lực,
nhiều nơi có biểu hiện tư lợi, lạm dụng các dịch vụ kỹ thuật cao, gây ảnh hưởng
đến sự bình đẳng và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản của người dân. Cùng
với đó, hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh đối với hoạt động tài chính của
BVCL còn chồng chéo, mâu thuẫn và nhiều bất cập. Việc thực hiện đúng NĐ 16
để thể hiện rõ vai trò và ý nghĩa của cơ chế TCTC vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Chính vì vậy, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài “Chế độ tự chủ tài chính đối
với Bệnh viện công lập - Thực trạng và giải pháp” để làm luận văn tốt nghiệp cao
học chuyên ngành Luật Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đề tài “Chế độ Tự chủ tài chính đối với Bệnh viện công lập - Thực
trạng và giải pháp” chưa từng được thực hiện với tư cách là một luận văn thạc sỹ
chuyên ngành luật. Tuy nhiên, vấn đề TCTC đối với BVCL là một hướng nghiên

1



cứu đã từng được thực hiện dưới những giác độ và chuyên ngành khác nhau, bao
gồm cả những nghiên cứu trong nước và ngoài nước.
Ở trong nước, trong những năm qua, việc nghiên cứu về chế độ TCTC đối
với ĐVSNCL nói chung và BVCL nói riêng đã được nhiều tác giả thực hiện, trong
đó có một số công trình đáng chú ý như: PGS, TS. Phạm Thị Giang Thu (chủ
nhiệm) và TS.Trần Vũ Hải (thư ký), Pháp luật tài chính công Việt Nam: Thực trạng
và giải pháp hoàn thiện, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, 2013; Bộ Y tế (2014),
Quản lý bệnh viện: Tài liệu cơ bản, Nxb. Y học 2014; Ngân hàng Thế giới và Bộ Y
tế (2011), Phân tích việc thực hiện chính sách tự chủ bệnh viện trên thế giới và ở
Việt Nam; Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Việt Nam (2005), Việt Nam: Quản lý
chi tiêu công để tăng trưởng và giảm nghèo (Tập 1: Các vấn đề liên ngành); TS.
Đặng Hoàng Giang (2013), “Thực trạng pháp luật về quyền TCTC ở các BVCL”,
Bài tạp chí đăng trên Tạp chí Luật học số 11 năm 2013; Nguyễn Thị Kim Tiến và
cộng sự (2010), Báo cáo kết quả khảo sát tình hình thực hiện NĐ 43 trong hệ thống
BVCL; Lê Quang Cường và cộng sự, “Tình hình thực hiện NĐ 43 trong hệ thống
BVCL”, Tạp chí Chính sách Y tế, số 6/2010; Lorain Hawkins, “Chính sách TCTC
theo Nghị định 10 và Nghị định 43 của Chính phủ Việt Nam: Bài học từ kinh
nghiệm quốc tế”, Hà Nội 6/2010 v.v.. Những công trình nghiên cứu này đã đề cập
đến nhiều khía cạnh TCTC đối với BVCL và từ đó có những đánh giá, đề xuất về
mặt pháp lý, tuy nhiên, việc tiếp cận dưới góc độ pháp luật một cách đầy đủ thì
chưa được thực hiện.
Ở nước ngoài, vấn đề TCTC đối với các BVCL cũng được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu bằng tiếng Anh như: Trường
Y tế công cộng Harvard (1996), Cải thiện kết quả thực hiện bệnh viện thông qua
chính sách tăng cường tự chủ bệnh viện: Khung thực hiện và nghiên cứu điển hình ở
5 nước, Harvard xuất bản (có trên www.hsph.harvard.edu/ ihsg/topic.html); A.S.
Preker và A. Harding (2003), Đổi mới trong cung cấp dịch vụ y tế, Ngân hàng Thế
giới xuất bản, Washington D.C; H. April và S.P. Alexandrer, “Hiểu biết về cải cách
tổ chức: Doanh nghiệp hóa BVCL”, Ngân hàng Thế giới, 2000; Thomas Bossert và


2


cộng sự, Tự chủ bệnh viện ở Indonesia, 1997 v.v.. Ở những công trình này, các tác
giả đã chia sẻ kết quả nghiên cứu ở nhiều quốc gia khác nhau, rất có ích trong việc
học tập kinh nghiệp về mô hình thực thi nhằm đổi mới các quy định pháp luật hiện
hành.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống các quy định pháp luật hiện hành tạo
nên chế độ TCTC đối với BVCL với tư cách là ĐVSNCL cung cấp dịch vụ công
trong lĩnh vực y tế. Do giới hạn về dung lượng, đề tài không nghiên cứu về mô hình
ĐVSNCL chuyển đổi thành doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công, cũng như không
đi vào chi tiết quy định về các khoản thu, chi đặc thù của cơ sở y tế công lập.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện theo phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lênin. Để nghiên cứu từng vấn đề cụ thể, đề tài có sử
dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh đối chiếu v.v..
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nhằm đánh giá thực trạng pháp luật
về chế độ TCTC của BVCL, từ đó xây dựng các giải pháp hoàn thiện pháp luật
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ TCTC tại các BVCL ở Việt Nam hiện
nay, từ đó góp phần tăng cường hiệu quả trong hoạt động cung cấp dịch vụ công
khám bệnh, chữa bệnh.
Với mục đích như trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Làm rõ mặt lý luận pháp luật về chế độ TCTC đối với BVCL như nội hàm,
vai trò của chế độ TCTC cũng như kinh nghiệm quốc tế trong việc thực hiện chế độ
TCTC đối với BVCL.
- Đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về chế độ TCTC đối với BVCL, từ
đó xác định được những ưu điểm, hạn chế của pháp luật cũng như trong thực tiễn áp

dụng.

3


- Xác định định hướng và nguyên tắc hoàn thiện pháp luật, đồng thời kiến
nghị những nội dung pháp luật cụ thể cần hoàn thiện trong thời gian tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 03 chương với các nội dung cụ thể như sau:
Chương 1: Lý luận cơ bản về chế độ TCTC đối với BVCL
Chương 2. Thực trạng chế độ TCTC đối với BVCL ở Việt Nam hiện nay
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện chế độ TCTC đối với
BVCL ở Việt Nam

4


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỘ TỰ CHỦ
TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI BỆNH VIỆN CÔNG LẬP
1.1. KHÁI QUÁT VỀ BỆNH VIỆN CÔNG LẬP VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
CỦA BỆNH VIỆN CÔNG LẬP
1.1.1. Mô hình và chức năng của Bệnh viện công lập ở Việt Nam hiện nay
Bệnh viện theo nghĩa thông thường nhất, dựa vào định nghĩa của trang thông
tin điện tử uy tín về y khoa là medicinenet.com, “là nơi để người bệnh được chăm
sóc y tế và phẫu thuật”[35]. Dưới góc độ pháp lý, bệnh viện là mô hình cơ sở khám,
chữa bệnh theo quy định của pháp luật. Theo Nghị định 87/2011/NĐ-CP ngày
27/9/2011 quy định chi tiết một số điều của Luật Khám bệnh, chữa bệnh thì bệnh
viện là cơ sở khám chữa bệnh và được phân loại thành bệnh viện đa khoa, bệnh viện

chuyên khoa, bệnh viện y học cổ truyền.
BVCL (public hospital) được hiểu là bệnh viện do nhà nước đứng ra thành
lập, để phân biệt với bệnh viện tư (private hospital) là bệnh viện do những cá nhân,
tổ chức không phải là nhà nước đứng ra thành lập. Về lý thuyết, BVCL được sự bảo
đảm của nhà nước về tài chính để hoạt động thực hiện chức năng của mình. Như
vậy, với BVCL, xét dưới góc độ pháp lý tài chính thì có hai tư cách: Một là, BVCL
là tổ chức có chức năng chính là khám bệnh, chữa bệnh; Hai là, là một ĐVSNCL
do nhà nước thành lập để cung cấp dịch vụ sự nghiệp công trong lĩnh vực y tế cho
xã hội.
Theo Quyết định 1895/1997/QĐ-BYT ngày 19/9/1997 của Bộ trưởng Bộ Y
tế về việc ban hành Quy chế bệnh viện, bệnh viện nói chung, trong đó có BVCL, có
những chức năng, nhiệm vụ cơ bản sau:
- Khám bệnh, chữa bệnh: Bệnh viện là nơi tiếp nhận mọi người bệnh đến cấp cứu,
khám bệnh, chữa bệnh nội trú và ngoại trú theo các chế độ chính sách Nhà nước quy định;
Tổ chức khám sức khỏe và chứng nhận sức khỏe theo quy định của Nhà nước.

5


- Đào tạo cán bộ: Bệnh viện là cơ sở thực hành để đào tạo cán bộ y tế. Các
thành viên trong bệnh viện phải mẫu mực trong thực hiện quy chế bệnh viện và quy
định kỹ thuật bệnh viện.
- Nghiên cứu khoa học: Bệnh viện là nơi thực hiện các đề tài nghiên cứu
khoa học, ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào việc khám bệnh, chữa
bệnh và chăm sóc sức khỏe người bệnh.
- Chỉ đạo tuyến: Hệ thống các bệnh viện được tổ chức theo tuyến kỹ thuật.
Tuyến trên có trách nhiệm chỉ đạo kỹ thuật cho tuyến dưới.
- Phòng bệnh: Song song với khám bệnh, chữa bệnh, phòng bệnh là nhiệm
vụ quan trọng của bệnh viện.
Dưới góc độ tổ chức bộ máy và quản lý tài chính, BVCL là ĐVSNCL theo

quy định của pháp luật. Theo quy định của NĐ 16 quy định cơ chế tự chủ của
ĐVSNCL thì định nghĩa: “ĐVSNCL do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước thành
lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công,
phục vụ quản lý nhà nước”.
Do đó, có thể thấy BVCL là ĐVSNCL hoạt động trong lĩnh vực y tế được
xác định dựa vào các đặc điểm như: Có văn bản quyết định thành lập của cơ quan
có thẩm quyền ở Trung ương hoặc địa phương; được Nhà nước cung cấp kinh phí
và tài sản để thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn và được phép thực hiện một
số khoản thu theo quy định của Nhà nước; có tổ chức bộ máy, biên chế và bộ máy
quản lý tài chính kế toán theo chế độ Nhà nước quy định; là đơn vị độc lập, có tư
cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng mở tại Kho bạc Nhà nước để thực
hiện các hoạt động tài chính.
Dưới góc độ quản lý tài chính, phụ thuộc vào năng lực tạo nguồn thu mà
ĐVSNCL nói chung và BVCL nói riêng được phân chia thành những loại cơ bản
sau:
- BVCL tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư: Ở loại hình này, BVCL
về cơ bản được tự chủ hoàn toàn, theo đó nhà nước sẽ đặt hàng dịch vụ công với
mức giá đã kết cấu đủ chi phí. Bệnh viện sẽ tự chịu trách nhiệm đối với tất cả các

6


khoản chi của mình, bao gồm cả chi đầu tư.
- BVCL tự bảo đảm chi thường xuyên: Ở loại hình này, bệnh viện được tự chủ
về cơ bản khi đảm bảo được toàn bộ các khoản chi thường xuyên, nhà nước sẽ đặt
hàng dịch vụ công theo mức giá đã kết cấu đủ chi phí. Đối với chi đầu tư, bệnh viện
được chủ động nhưng ngân sách nhà nước vẫn phải chịu trách nhiệm chính.
- BVCL tự bảo đảm một phần chi thường xuyên: Ở loại hình này, bệnh viện
có quyền tự chủ hạn chế hơn, đồng thời được nhà nước hỗ trợ bù đắp bằng nguồn
ngân sách đối với hoạt động chi thường xuyên do giá dịch vụ công chưa kết cấu đủ

chi phí. Trong hoạt động đầu tư, bệnh viện chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách do
nhà nước cấp để thực hiện.
- BVCL do nhà nước bảo đảm chi thường xuyên: Ở loại hình này, do nguồn
thu quá thấp mà bệnh viện được nhà nước đảm bảo toàn bộ chi thường xuyên. Đối
với chi đầu tư cũng do nhà nước đảm bảo toàn bộ.
Từ cách thức phân loại nêu trên, có thể kết luận: Mức độ tự chủ trong quản
lý tài chính đối với các BVCL chủ yếu phụ thuộc vào khả năng tạo nguồn thu.
Nguồn thu càng lớn thì khả năng tự chủ càng cao và ngược lại.
Với tính chất là ĐVSNCL cung cấp dịch vụ y tế, BVCL có những đặc trưng
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đơn vị BVCL là một tổ chức hoạt động theo nguyên tắc cung cấp
dịch vụ sự nghiệp công chứ không vì mục tiêu lợi nhuận.
Chức năng cơ bản của nhà nước tổ chức duy trì và tài trợ cho các hoạt động
của các đơn vị sự nghiệp nhằm mục đích cung cấp cho xã hội những sản phẩm dịch
vụ đặc biệt để hỗ trợ cho các ngành, các lĩnh vực kinh tế hoạt động bình thường,
nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, bảo đảm nguồn nhân lực, thúc đẩy hoạt động
kinh tế phát triển và đạt hiệu quả cao hơn, bảo đảm và không ngừng nâng cao đời
sống, sức khoẻ, văn hoá, tinh thần của nhân dân. Là đơn vị sự nghiệp công do nhà
nước thành lập, hoạt động chủ yếu của bệnh viện là giúp Nhà nước thực hiện vai trò
của mình trong việc điều hành các hoạt động sự nghiệp trong lĩnh vực y tế. NĐ 16
định nghĩa: “Dịch vụ sự nghiệp công” là dịch vụ sự nghiệp trong các lĩnh vực giáo

7


dục đào tạo; dạy nghề; y tế; văn hóa, thể thao và du lịch; thông tin truyền thông và
báo chí; khoa học và công nghệ; sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác. Vì vậy quá
trình hoạt động của các đơn vị BVCL chủ yếu là cung cấp dịch vụ sự nghiệp công
thực hiện chức năng và các nhiệm vụ do Nhà nước giao là chính chứ không nhằm
mục đích thuần túy lợi nhuận như các doanh nghiệp trong nền kinh tế hoặc các cơ

sở khám bệnh, chữa bệnh do tư nhân thành lập.
Thứ hai, sản phẩm của đơn vị BVCL là sản phẩm mang lại lợi ích chung, có
tính bền vững và gắn bó hữu cơ với quá trình tạo ra của cải vật chất.
Những sản phẩm, dịch vụ do hoạt động của BVCL tạo ra chủ yếu là những
dịch vụ liên quan đến khám bệnh, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe… Đây là những
dịch vụ đặc thù có tính chất chuyên môn sâu sắc và cần thiết cho xã hội. Dưới góc độ
kinh tế, sản phẩm, dịch vụ do BVCL cung cấp được xem là những “hàng hoá công
cộng” (public goods). Theo đó, là “hàng hoá công cộng” có hai đặc điểm cơ bản:
“không loại trừ người hưởng lợi” và “hạn chế khả năng tranh giành”. Đó là những
hàng hoá mà việc tiêu dùng của người này không loại trừ việc tiêu dùng của người
khác và không có ai có thể can thiệp ngăn chặn việc người khác sử dụng sản phẩm
dịch vụ đó.
Theo cách quan niệm phổ biến hiện nay dưới giác độ kinh tế công, những
dịch vụ có cả hai đặc tính trên là dịch vụ công thuần khiết (pure public services),
hay có thể gọi tắt là dịch vụ thuần công. Ví dụ: Quốc phòng, đèn biển hoặc phòng
chống dịch bệnh... là những ví dụ điển hình cho loại dịch vụ thuần công này. Đối
với dịch vụ thuần công, tất cả mọi người đều được hưởng lợi, đều được tiêu dùng,
sử dụng, bất kể họ có trả tiền hay không; và cũng chẳng có ảnh hưởng gì nếu có
thêm một hoặc nhiều người cùng sử dụng. Rõ ràng xã hội cần đến những dịch vụ
thuần công như vậy nhưng chỉ có nhà nước mới cung ứng được loại dịch vụ này; vì
đối với khu vực tư nhân thì việc cung ứng các dịch vụ đó vừa không thực thi vừa
không kinh tế.
Bên cạnh các dịch vụ thuần công còn có những dịch vụ công không thuần
khiết (impure or quasi-public services), hay gọi tắt là dịch vụ á công hoặc bán công.

8


Đấy là các dịch vụ không phải ai cũng tự nhiên được sử dụng, tiêu dùng và việc sử
dụng, tiêu dùng của người này cũng có thể làm ảnh hưởng ở mức độ nhất định đến

việc sử dụng, tiêu dùng của người khác. Đối với những dịch vụ á công, khu vực tư
nhân cũng không muốn làm, phần vì không hiệu quả, phần vì bất tiện; chẳng hạn
như sẽ phải tốn rất nhiều công sức để tổ chức thu phí hoặc lệ phí từ người sử dụng,
tiêu dùng. Điều đó giải thích vì sao thường thì nhà nước chứ không phải tư nhân
đứng ra đảm nhiệm việc cung ứng các dịch vụ công như giao thông, thủy lợi, bảo
hiểm xã hội, giáo dục và y tế. Và do đó, những dịch vụ này cũng được xem là dịch
vụ công nếu do khu vực nhà nước cung cấp [6].
Như vậy, đối với dịch vụ y tế do bệnh viện công thực hiện là dịch vụ công
mang lại sức khoẻ, tri thức, những hiểu biết cần thiết, giúp cho sự phát triển toàn
diện của con người - nhân tố quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội đất
nước. Vì vậy, dịch vụ công trong lĩnh vực y tế luôn gắn bó hữu cơ và có tác động
tích cực đến quá trình tái sản xuất sức lao động cho xã hội.
Thứ ba, hoạt động của BVCL luôn gắn liền và bị chi phối bởi các chương
trình phát triển kinh tế xã hội.
Với chức năng của mình, Chính phủ luôn tổ chức duy trì và bảo đảm hoạt
động sự nghiệp y tế để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội. Để thực
hiện các mục tiêu kinh tế xã hội nhất định, Chính phủ thực hiện các chương trình
mục tiêu quốc gia như: Chương trình chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, Chương trình
dân số kế hoạch hoá gia đình, Chương trình phòng chống một số bệnh dịch nguy
hiểm và HIV/AIDS, Chương trình xoá đói giảm nghèo… Với những chương trình
mục tiêu quốc gia này chỉ có nhà nước mà cụ thể ở đây là các đơn vị sự nghiệp,
BVCL mới có thể thực hiện một cách triệt để và có hiệu quả bởi nếu để tư nhân
thực hiện họ sẽ vì mục tiêu lợi nhuận là chính mà không quan tâm nhiều đến mục
tiêu xã hội dẫn đến hạn chế việc tiêu dùng và kìm hãm sự phát triển hiệu quả công
bằng xã hội.
Thứ tư, các đơn vị BVCL có nguồn thu hợp pháp từ cung cấp dịch vụ công
trong lĩnh vực y tế.

9



Là tổ chức do nhà nước thành lập thực hiện nghiệp vụ chuyên môn, BVCL
có chức năng cung cấp những dịch vụ công nhằm thoả mãn nhu cầu thiết yếu của
người dân trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh. Nhìn chung nguồn tài chính cơ
bản phục vụ cho hoạt động của các đơn vị sự nghiệp này do ngân sách nhà nước
cấp. Tuy nhiên với sự đa dạng của hoạt động sự nghiệp trong lĩnh vực y tế cũng như
việc nhà nước dần hạn chế sự can thiệp vào quyền quản lý của các đơn vị sự nghiệp,
chuyển dần từ cơ chế cấp phát sang cơ chế tự chủ, nhà nước đã cho phép đơn vị sự
nghiệp, BVCL thực hiện cơ chế TCTC thông qua việc giao cho họ quyền được khai
thác nguồn thu trong phạm vi chức năng và nhiệm vụ của đơn vị và được bố trí một
số khoản chi một cách chủ động trên cơ sở hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được
giao.
1.1.2. Khái quát về quản lý tài chính bệnh viện
Quản lý tài chính bệnh viện thuộc về một trong những nội dung của quản lý
bệnh viện. Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, quản lý bệnh viện là quy trình bao
gồm lập kế hoạch, tổ chức, điều phối nhân viên, hướng dẫn thực hiện, giao tiếp và
điều khiển trong bệnh viện một cách chuyên nghiệp để có thể cung cấp các dịch vụ
y tế đạt chất lượng cho người bệnh với mức giá cả chấp nhận được. Quản lý tài
chính bệnh viện là một trong mười lĩnh vực quản lý bệnh viện [3, tr.130].
Quản lý tài chính bệnh viện được hiểu theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, quản lý tài chính bệnh viện là sự tác động có chủ đích, có tổ chức
của các nhà quản lý bệnh viện đến quá trình vận động của tiền tệ nhằm tạo nguồn
thu, thực hiện các khoản chi theo đúng quy định của pháp luật và nguyên tắc tài
chính, đảm bảo bệnh viện hoạt động bình thường và có hiệu quả.
Theo nghĩa hẹp, quản lý tài chính bệnh viện là việc quản lý đối với toàn bộ
các nguồn vốn (vốn ngân sách nhà nước cấp, vốn viện trợ, vốn vay, vốn xã hội hóa
và các nguồn vốn khác) và thực hiện các khoản chi (khám bệnh, chữa bệnh, đào tạo,
nghiên cứu khoa học, chỉ đạo tuyến v.v..) theo đúng quy định của pháp luật. Do
tính chất là một đơn vị cung cấp dịch vụ công, bệnh viện thông qua quá trình quản
lý tài chính phải đáp ứng những nguyên tắc về tính công bằng và tính hiệu quả.


10


Mục tiêu của quản lý tài chính bệnh viện bao gồm:
Thứ nhất, đảm bảo cân bằng giữa nguồn thu và nhiệm vụ chi. Đây là mục
tiêu đơn giản nhất nhưng lại quan trọng nhất và không phải lúc nào cũng dễ thực
hiện nếu nguồn thu của bệnh viện gặp khó khăn. Khi tiến tới chế độ TCTC hoàn
toàn thì việc đảm bảo cân bằng thu chi được xem như là một thành công đáng kể
đối với hoạt động quản lý tài chính bệnh viện.
Thứ hai, bệnh viện phải đảm bảo chất lượng về chuyên môn. Các hoạt động
tài chính suy cho cùng là nhằm đảm bảo hoạt động chuyên môn, đó là công tác
khám bệnh, chữa bệnh và các hoạt động chuyên môn khác. Do đó, nếu thông qua
việc quản lý tài chính, hoạt động chuyên môn không được cải thiện và nâng cao
chất lượng, máy móc thiết bị, cơ sở vật chất không được đầu tư nâng cấp thì có
nghĩa là hiệu quả chưa cao. Bệnh viện cần tận dụng những quyền năng được trao để
thực hiện đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Thứ ba, bệnh viện từng bước nâng cao đời sống cán bộ, viên chức, người lao
động trong đơn vị. Hiệu quả quản lý tài chính nằm ở chỗ, bên cạnh việc nâng cao
chất lượng hoạt động thì đội ngũ cán bộ, viên chức, người lao động cần được hưởng
thù lao xứng đáng với sức lao động đã bỏ ra. Việc quản lý chi phí hiệu quả, tiết
kiệm, từ đó nâng cao đời sống cán bộ, viên chức trong đơn vị luôn được xem là
thước đo quan trọng đánh giá hiệu quả quản lý tài chính bệnh viện.
Thứ tư, bệnh viện ngày càng thực hiện tốt hơn chức năng dịch vụ công. Là
dịch vụ công, hoạt động khám chữa bệnh phải được thực hiện giống nhau đối với
người bệnh như nhau, hạn chế việc phân biệt đối xử. Trên thực tế, với nguồn lực tài
chính tốt hơn, bệnh viện có khả năng nâng cao chất lượng phục vụ và từng bước
giảm chi phí khám chữa bệnh cho những đối tượng ưu tiên như người nghèo, người
có công, người khuyết tật và các đối tượng khác.
Với mục tiêu như trên, quá trình quản lý tài chính BVCL hiện nay tại Việt

Nam bao gồm những bước cơ bản sau theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước:
(1) Lập dự toán thu chi cho ngân sách năm sau; (2) Thực hiện dự toán đã được phê
duyệt khi bắt đầu năm ngân sách; (3) Quyết toán sau khi kết thúc năm ngân sách.

11


Đan xen vào ba bước cơ bản trên, các BVCL còn tiến hành các hoạt động tự kiểm
tra tài chính hoặc bị kiểm tra/thanh tra/kiểm toán về tài chính bởi các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Lập dự toán thu chi là quá trình xây dựng các chỉ tiêu thu chi của bệnh viện
trong năm ngân sách tiếp theo, phù hợp với quy định của pháp luật. Việc lập dự
toán phải tuân thủ quy trình, các bước theo quy định của pháp luật ngân sách nhà
nước. Trong công tác quản lý tài chính, dự toán (trong đó bao hàm cả kế hoạch thu
chi) sẽ giúp người quản lý sử dụng nguồn lực có hiệu quả, đồng thời là công cụ
quan trọng để thực hiện các mục tiêu của bệnh viện cũng như đảm bảo cho công tác
tự kiểm tra, đánh giá và kiểm soát chi ngân sách. Nguyên tắc cơ bản trong việc lập
dự toán ngân sách bao gồm: (1) Thực hiện đúng quy trình về thời gian, biểu mẫu,
chế độ do nhà nước quy định; (2) Phù hợp với kế hoạch, chức năng, nhiệm vụ được
giao; (3) Phù hợp với thực tiễn thu chi tài chính của đơn vị.
Thực hiện dự toán thu chi là quá trình triển khai các hoạt động thu chi trên
thực tế. Việc thực hiện dự toán được thực hiện trong năm ngân sách, kể từ ngày
01/01 năm ngân sách đến hết ngày 31/12 năm đó. Đây là khâu đặc biệt quan trọng
trong quá trình quản lý tài chính bệnh viện vì nếu thực hiện đúng, hợp lý sẽ đảm
bảo hiệu quả hoạt động của bệnh viện. Về lý thuyết, dự toán thu chi được thực hiện
là dự toán đã được cơ quan quản lý có thẩm quyền phê duyệt. Trong quá trình thực
hiện dự toán, BVCL phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản sau: (1) Thực hiện
đúng quy trình, thủ tục thu, chi theo quy định của pháp luật; (2) Vận dụng linh hoạt
quyền tự chủ để đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao; (3) Tuân thủ
đúng các quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn do nhà nước quy định, trong

trường hợp thực hiện cơ chế tự chủ thì phải đảm bảo theo đúng QCCTNB; (4) Cân
đối giữa nguồn thu và nhiệm vụ chi để đảm bảo khả năng tài chính bình thường của
bệnh viện.
Quyết toán việc thực hiện dự toán là quá trình đánh giá hoạt động thực hiện
dự toán sau khi kết thúc năm ngân sách. Đây là khâu quan trọng nhằm xác định
chính xác những nhiệm vụ thu, chi đã thực hiện, đồng thời rà soát chấn chỉnh những

12


vấn đề tài chính còn sai sót. Báo cáo quyết toán phải được sự phê duyệt của cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền. Trong quá trình quyết toán, BVCL phải đảm bảo
những nguyên tắc cơ bản sau: (1) Việc quyết toán phải được thực hiện đúng quy
trình, thủ tục, biểu mẫu theo quy định; (2) Quyết toán phải được thực hiện trung
thực, trên cơ sở bám sát nội dung dự toán; (3) Báo cáo quyết toán phải giải trình
được nguyên nhân của những sai khác so với dự toán, cũng như kiến nghị, đề xuất
những giải pháp để tăng cường hiệu quả thực hiện dự toán.
1.1.3. Khái quát quá trình phát triển chế độ tài chính đối với Bệnh viện công lập
Theo quan niệm phổ biến, tập hợp các quy định pháp luật điều chỉnh hệ
thống tài chính của bệnh viện được gọi là chế độ tài chính đối với bệnh viện. Trước
đây, trong giai đoạn kinh tế kế hoạch hóa tập trung, việc khám chữa bệnh được nhà
nước đảm bảo kinh phí nên chế độ tài chính thuần túy thực hiện theo cơ chế cấp
phát kinh phí. Bước sang giai đoạn đổi mới, với phương châm khuyến khích sự
chung tay của toàn xã hội đối với các dịch vụ sự nghiệp công, chế độ tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp nói chung dần dần có sự thay đổi theo hướng tự chủ, đồng
thời nâng cao yêu cầu về tính chịu trách nhiệm đối với hoạt động của ĐVSNCL.
Trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2000, nhà nước đã ban hành nhiều
văn bản về chế độ tài chính đối với BVCL như: Quyết định số 45/QĐ-HĐBT ngày
24/4/1989 về việc thu một phần viện phí; Thông tư liên bộ 14/TT-LB ngày
15/6/1989 giữa Bộ Tài chính và Bộ Y tế hướng dẫn thi hành Quyết định số 45/QĐHĐBT; Nghị định 95/CP ngày 27/8/1995 về việc thu một phần viện phí; Pháp lệnh

hành nghề y dược tư nhân năm 1993; chính sách bảo hiểm y tế mới, chính sách
miễn, giảm viện phí cho người có công với cách mạng, người nghèo v.v..
Có thể nhận xét chung giai đoạn này là mặc dù còn nhiều hạn chế và vẫn mang
nặng dấu ấn quản lý hành chính theo mô hình cấp phát, nhưng các quy định pháp luật đã
từng bước cởi mở hơn, tạo điều kiện cho các ĐVSNCL từng bước làm quen với cơ chế
quản lý tài chính thông thoáng hơn, tạo bước đệm về cơ sở thực tiễn cho việc thực hiện
chế độ TCTC đối với các ĐVSNCL nói chung và BVCL nói riêng về sau này.
Trong giai đoạn mà cơ chế tài chính còn chưa có nhiều đổi mới căn bản, thì

13


trên thực tế có nhiều BVCL đã có những sáng tạo trong hoạt động tài chính, mà sau
này được ghi nhận vào văn bản pháp luật. Ví dụ: Giai đoạn này, các ĐVSNCL
không được phép vay vốn ngân hàng, nên vào năm 1999, theo thỏa thuận giữa các
bác sỹ và Bệnh viện đa khoa Bình Dương, bệnh viện đã đồng ý để các bác sỹ góp
tiền mua máy siêu âm trị giá 300 triệu đồng (tỷ lệ vay 40% giá trị thiết bị). Theo đó,
các bác sỹ được trả tiền góp ban đầu cộng với lợi tức với lãi suất 1,2%/tháng (trong
khi đó lãi suất gửi ngân hàng cùng kỳ hạn chỉ là 0,7%/tháng) trong thời hạn 3 năm
[17, tr.129].
Giai đoạn từ năm 2000 trở đi, trong bối cảnh Đảng và nhà nước chủ trương
đổi mới mạnh mẽ nền hành chính nhà nước, trong đó có cải cách tài chính công
theo Quyết định 136/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược
tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010, theo đó việc đổi mới
cơ chế quản lý tài chính đối với các ĐVSNCL, trong đó có BVCL được đặt lên
hàng đầu. Trong giai đoạn này, nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành thể hiện
đường lối, chủ trương và phương châm giao quyền tự chủ cho các ĐVSNCL trong
đó có BVCL như: Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002, Nghị định 10/2002/NĐ-CP
ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp dụng đối với đơn vị sự nghiệp có thu;
Thông tư số 25/2002/TT-BTC ngày 31/3/2002 hướng dẫn NĐ 10. Sau một thời gian

áp dụng và rút kinh nghiệm, Chính phủ đã ban hành NĐ 43 ngày 25/4/2006 quy
định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức, biên chế
và tài chính đối với ĐVSNCL thay thế cho NĐ 10 cùng các văn bản hướng dẫn như
TT 71 ngày 09/8/2006 hướng dẫn NĐ 43, Thông tư 113/2007/TT-BTC ngày
24/9/2007 sửa đổi, bổ sung TT 71. Cùng với đó là sự ra đời của các văn bản luật
liên quan đến tài chính bệnh viện như Luật Khám, chữa bệnh năm 2009, Luật Bảo
hiểm y tế năm 2008, v.v.. Năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị định 85/2012/NĐCP ngày 15/10/2012 quy định về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn
vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh công lập. Như vậy là từ thời điểm này, việc điều chỉnh hoạt động
tài chính đối với BVCL có sự “pha trộn” của hai nghị định: NĐ 43 và NĐ 85.

14


Ngày 14/02/2015, NĐ 16/2015/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ của
ĐVSNCL, thay thế cho NĐ 43. NĐ 16 có nhiều quy định mới theo tinh thần tăng
cường tính tự chủ của các ĐVSNCL, xây dựng cơ chế giá đối với dịch vụ y tế thay
vì cơ chế phí như hiện nay, từng bước giao quyền tự chủ như doanh nghiệp cho các
ĐVSNCL có đủ điều kiện. Tuy nhiên, Nghị định này đòi hỏi phải có các nghị định
cụ thể trong từng lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực y tế. Điều 24 khoản 2 NĐ 16 quy
định: Trong khi chưa ban hành hoặc sửa đổi Nghị định quy định cơ chế tự chủ của
đơn vị sự nghiệp công trong từng lĩnh vực cụ thể theo quy định tại Khoản 1 Điều
này, các đơn vị sự nghiệp công theo từng lĩnh vực được tiếp tục thực hiện cơ chế tự
chủ theo quy định tại NĐ 43 và NĐ 85 của Chính phủ về cơ chế hoạt động, cơ chế
tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám bệnh, chữa
bệnh của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập.
Khái quát quá trình phát triển của các quy định pháp luật về chế độ tài chính
đối với BVCL như trên, có thể kết luận: Pháp luật đã và đang mở rộng hơn quyền
quản lý tài chính của các BVCL, theo hướng ngày càng được tự chủ nhiều hơn, trên
cơ sở đảm bảo đúng chức năng, nhiệm vụ được giao.

1.2. CHẾ ĐỘ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI BỆNH VIỆN CÔNG LẬP
1.2.1. Khái niệm và vai trò chế độ tự chủ tài chính đối với bệnh viện công lập
Hệ thống tài chính y tế được xem là một bộ phận của hệ thống tài chính quốc
gia trong lĩnh vực y tế. Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, hệ thống tài chính y tế có
4 chức năng chính: Một là, huy động đủ nguồn lực tài chính cho chăm sóc sức khỏe
nhân dân; Hai là, quản lý và phân bổ nguồn lực theo hướng công bằng, hiệu suất
cao; Ba là, khuyến khích nâng cao chất lượng và hiệu suất trong cung ứng dịch vụ y
tế; Bốn là, bảo vệ người dân trước các rủi ro tài chính gây nên bởi chi phí y tế [4].
Khái niệm chế độ tài chính được định nghĩa khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh.
Theo nghĩa phổ biến nhất, chế độ tài chính là tổng hợp các quy định pháp luật để điều
chỉnh hoạt động tài chính của một chủ thể nhất định. Do đó, chế độ tài chính BVCL
được hiểu là tổng hợp các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động tài chính của BVCL.
Hiện nay, chế độ tài chính của ĐVSNCL nói chung và BVCL nói riêng được

15


thực hiện theo cơ chế tự chủ. Theo cách hiểu phổ biến nhất, quyền tự chủ là “quyền
tự mình quản lý, điều hành mọi công việc mà không bị ai khác chi phối” [20,
tr.990]. Tác giả Trần Vũ Hải (2009) cho rằng: “Chế độ TCTC đối với ĐVSNCL là
tổng hợp các quy định pháp luật cho phép ĐVSNCL được chủ động sử dụng các
nguồn thu (bao gồm nguồn thu ngân sách nhà nước cấp và các nguồn thu khác)
trên cơ sở đảm bảo chức năng, nhiệm vụ được giao, thực hành tiết kiệm, nâng cao
hiệu quả công việc và thu nhập của cán bộ, viên chức nhà nước. So với cơ quan nhà
nước, các ĐVSNCL có quyền tự chủ về tài chính rộng hơn do những đơn vị này có
khả năng tạo nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ công của mình” [8, tr.87].
Tham khảo những cách thức tiếp cận trên đây, có thể định nghĩa chế độ TCTC
của BVCL là hệ thống các quy định pháp luật cho phép BVCL chủ động khai thác,
quản lý, sử dụng các nguồn tài chính của mình để thực hiện chức năng, nhiệm vụ
được giao, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, tăng cường đầu tư, mở rộng hoạt

động cũng như tăng thu nhập cho cán bộ, viên chức và người lao động làm việc tại
bệnh viện. Nói cách khác, với cơ chế tự chủ, chế độ tài chính của BVCL thiết lập
quyền quản lý nhằm tăng cường quyền tự quyết định, tự chịu trách nhiệm cho
BVCL về các mặt hoạt động tài chính, tổ chức bộ máy và sắp xếp lao động qua đó
làm tăng chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ công của đơn vị.
Từ những phân tích ở trên về quá trình phát triển của chế độ tài chính đối với
BVCL, từ chỗ quản lý tài chính theo cơ chế cấp phát đến chế độ TCTC của BVCL,
giữa hai cơ chế quản lý tài chính này có những điểm khác biệt cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cơ chế quản lý cấp phát đòi hỏi việc lập dự toán thật sự chi tiết đến
từng khoản mục và kinh phí được cấp đến từng khoản mục đó. Trong khi đó, việc
lập dự toán đối vớ cơ chế TCTC vẫn được lập đến khoản mục, nhưng trên cơ sở xác
định tổng mức kinh phí được giao. Trong quá trình thực hiện, thủ trưởng đơn vị căn
cứ vào tình hình thực tiễn có thể chuyển kinh phí từ mục này sang mục khác nhằm
đảm bảo hiệu quả hoạt động, miễn sao không vượt quá kinh phí được giao.
Thứ hai, trong cơ chế cấp phát, nếu đơn vị sử dụng ngân sách không sử dụng
hế thì nguồn kinh phí đó sẽ bị thu hồi, trừ những trường hợp được chuyển nguồn sử

16


dụng theo quy định. Trong khi đó, đối với cơ chế TCTC, nếu đơn vị hoàn thành
nhiệm vụ được giao thì kinh phí tự chủ tiết kiệm được sẽ là nguồn thu của đơn vị,
được sử dụng để tăng thu nhập, đầu tư cơ sở vật chất hoặc những mục tiêu chi hợp
pháp khác.
Thứ ba, trong cơ chế cấp pháp, việc kiểm soát chi được thực hiện dựa vào dự
toán được giao chi tiết đến từng khoản mục, cùng với chế độ, tiêu chuẩn, định mức
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Trong khi đó, theo cơ chế TCTC,
ĐVSNCL có trách nhiệm xây dựng QCCTNB theo quy định, với những định mức
chi tiêu khác nhau dựa trên điều kiện thực tế và mức độ tự chủ của đơn vị, và việc
kiểm soát chi chủ yếu dựa trên QCCTNB đã được ban hành. ĐVSNCL, trong nhiều

trường hợp, còn có quyền huy động nguồn vốn ngoài ngân sách để đầu tư hoạt
động, trên cơ sở phát huy hiệu quả và đảm bảo khả năng chi trả.
Từ những phân tích trên đây, có thể nhận thấy, chế độ TCTC đối với
ĐVSNCL có những vai trò cơ bản sau:
Thứ nhất, chế độ TCTC góp phần thúc đẩy quá trình đa dạng hoá các loại
hình, phương thức và hình thức của các hoạt động sự nghiệp, nhằm phát huy cộng
đồng trách nhiệm trong tạo lập vốn đầu tư phát triển các BVCL, đảm bảo công bằng
xã hội. Bên cạnh đó, chế độ TCTC sẽ tạo môi trường thuận lợi cho các BVCL phát
triển thông qua việc phân bổ vốn đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực tập trung, có
trọng điểm, tránh dàn trải, gắn chi thường xuyên, chi đầu tư và chi chương trình
mục tiêu cũng như khả năng huy động các nguồn tài chính trong xã hội.
Thứ hai, chế độ TCTC giúp cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền tập
trung vào khâu kiểm tra, giám sát tài chính của các BVCL đảm bảo có được các
thông tin trung thực, khách quan, đầy đủ và toàn diện về các hoạt động tài chính của
các đơn vị. Thông qua quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn tài chính
của các đơn vị, đảm bảo tuân thủ theo quy định của Nhà nước và điều chỉnh, ngăn
chặn các sai phạm, lành mạnh hoá và nâng cao hiệu quả các hoạt động tài chính của
các BVCL.
Thứ ba, chế độ TCTC đối với các BVCL có vai trò cân đối giữa việc hình

17


×