Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Pháp luật về chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG
LAO ĐỘNG VÌ LÝ DO KINH TẾ Ở VIỆT NAM

CHỬ MINH TOÀN

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

PHÁP LUẬT VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG
LAO ĐỘNG VÌ LÝ DO KINH TẾ Ở VIỆT NAM
CHỬ MINH TOÀN

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN HIỀN PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2016




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
1. Luận văn này là cơng trình nghiên cứu thực sự của cá nhân, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.Tiến sĩ Nguyễn Hiền Phương.
2. Mọi tham khảo, dùng trong luận văn đều được trích dẫn rõ ràng tên
tác giả, tên cơng trình, thời gian, địa điểm cơng bố.
3. Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo, tôi xin chịu trách
nhiệm.
Hà Nội, ngày......tháng......năm 2016
Học viên

Chử Minh Toàn


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Sau đại học - Viện Đại học Mở Hà Nội
và sự đồng ý hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Hiền Phương, tôi đã thực hiện
đề tài luận văn thạc sĩ: “Pháp luật về chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do
kinh tế ở Việt Nam”.
Để hồn thành khóa luận này, trước tiên tơi xin tỏ lịng biết ơn sâu sắc
đến Cơ giáo, PGS.TS Nguyễn Hiền Phương, người đã tạo mọi điều kiện, động
viên và tận tình hướng dẫn tơi trong suốt q trình thực hiện luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong Khoa Sau đại học Viện Đại học Mở Hà Nội; các đồng nghiệp đã tận tình truyền đạt kiến thức
cũng như tạo điều kiện trong quá trình tơi học tập tại trường.
Tơi cũng xin cảm ơn bạn bè và đặc biệt là gia đình đã ln bên tơi, cổ vũ
và động viên tơi những lúc khó khăn để có thể vượt qua và hồn thành tốt luận
văn này.
Xin chân thành cảm ơn!

Học viên

Chử Minh Toàn


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................... 1
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................ 2
MỤC LỤC ..................................................................................................... 3
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO
ĐỘNG VÌ LÝ DO KINH TẾ......................................................................... 5
1.1 Khái niệm chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế ........................ 5
1.1.1 Định nghĩa chấm dứt hợp đồng lao động .......................................... 5
1.1.2 Định nghĩa chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế .................. 7
1.1.3 Đặc điểm của chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế .............. 9
1.2 Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế .............. 11
1.3 Tác động của việc chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế .......... 15
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................. 19
CHƯƠNG 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẤM
DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÌ LÝ DO KINH TẾ ................................ 20
2.1 Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế .............. 20
2.1.1 Chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp doanh nghiệp thay
đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế ............................................. 20
2.1.2 Chấm dứt hợp đồng lao động khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách
doanh nghiệp ........................................................................................... 23
2.1.3 Chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động vì lý do sắp xếp
lại doanh nghiệp nhà nước ....................................................................... 25
2.2 Trình tự thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế .............. 26

2.3 Hậu quả pháp lý trong trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động vì lý
do kinh tế ................................................................................................... 33


2.3.1 Trường hợp người sử dụng lao động chấm dứt hợp pháp ................ 33
2.3.2 Trường hợp người sử dụng lao động chấm dứt trái pháp luật .......... 37
2.3.3 Trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động vì lý
do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước ..................................................... 39
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................. 41
CHƯƠNG 3 THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
VÌ LÝ DO KINH TẾ .................................................................................... 42
3.1 Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật về chấm dứt hợp đồng lao
động vì lý do kinh tế .................................................................................. 42
3.1.1 Kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện quy định pháp luật về
chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế ........................................... 42
3.1.2 Những tồn tại trong thực tiễn thực hiện quy định pháp luật về
chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế ........................................... 44
3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp luật
chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế ............................................. 53
3.2.1 Hoàn thiện pháp luật về chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế 53
3.2.2 Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chấm dứt hợp đồng lao
động vì lý do kinh tế ................................................................................ 56
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ............................................................................. 60
KẾT LUẬN.................................................................................................. 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 62


1


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hợp đồng lao động là một chế định pháp lý được thừa nhận và quy
định từ lâu trong hệ thống pháp luật lao động nước ta. Nhất là khi đất nước
bước vào thời kỳ đổi mới cùng với việc phát triển nền kinh thế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc thiết lập hợp đồng lao động trước khi bắt
đầu một quan hệ lao động lại càng trở nên quan trọng nhằm đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên. Trên thực tế nếu muốn giao kết hợp đồng lao
động thì pháp luật địi hỏi phải có sự đồng thuận từ cả hai bên, nhưng việc
chấm dứt hợp đồng trong nhiều trường hợp thì chỉ cần ý chí đơn phương của
một bên.
Một trong những trường hợp người sử dụng lao động được đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động đó là chấm dứt vì lý do kinh tế. Đặt trong bối
cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào các thể chế kinh tế quốc tế,
dẫn đến sự cạnh tranh trong nền kinh tế ngày càng tăng, địi hỏi các doanh
nghiệp phải có những thay đổi chiến lược để tồn tại. Nhiều doanh nghiệp bị
ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu, hay sự thay đổi cơ cấu tổ chức,
cơ cấu sản phẩm mà buộc phải cắt giảm nhân công, thu hẹp sản xuất để có thể
duy trì hoạt động. Tuy vậy, hiện nay tình trạng lạm dụng quyền chấm dứt hợp
đồng vì lý do kinh tế ngày một nhiều hơn, những vi phạm trong việc chấm dứt
hợp đồng về căn cứ, thủ tục chấm dứt hay giải quyết quyền lợi cho người lao
động chưa đúng pháp luật vẫn đang diễn ra. Điều này làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sự bền vững của quan hệ lao động, vấn đề an ninh việc làm cho
người lao động, cũng như sự ổn định và phát triển của đời sống kinh tế, xã hội.
Xuất phát từ nhận thức tầm quan trọng của nội dung chấm dứt hợp
đồng lao động vì lý do kinh tế, đặc biệt trong tình hình đất nước ta đang tiến
hành đổi mới các quy định pháp luật để đáp ứng với nhu cầu và phù hợp với


2


thực tế xã hội hiện nay, tôi đã chọn vấn đề “Pháp luật về chấm dứt hợp
đồng lao động vì lý do kinh tế ở Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
chương trình đào tạo thạc sỹ tại Khoa Luật - Viện Đại học Mở Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở Việt Nam, đề tài liên quan đến chế định hợp đồng lao động và chấm
dứt hợp đồng lao động là một đề tài được nhiều tác giả nghiên cứu. Trong số
đó có thể kể đến như: Luận văn: Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động của người sử dụng lao động theo pháp luật lao động Việt Nam - Thực
trạng và giải pháp của tác giả Trần Hữu Phúc do PGS.TS Đào Thị Hằng
hướng dẫn; hay Luận văn: Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm
dứt hợp đồng lao động - Thực trạng và một số kiến nghị của Nguyễn Ngọc
Hanh do TS Phạm Cơng Bảy hướng dẫn.
Nhìn chung, trong các cơng trình nghiên cứu trên đều phần nào đề cập
đến chế định về chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế, nhưng chưa có
một cơng trình nào thực sự đi sâu nghiên cứu về vấn đề này. Đặc biệt, kể từ
khi Bộ luật lao động 2012 , cùng với nhiều văn bản hướng dẫn như Nghị định
05/2015/NĐ-CP hay Thông tư 47/2015/TT-BLĐTBXH quy định chi tiết thi
hành một số điều của Nghị định 05/2015,… ra đời đặt ra yêu cầu về mặt lý
luận nghiên cứu cũng như thực tiễn thực hiện các quy định về chấm dứt hợp
đồng lao động vì lý do kinh tế. Tác giả có thể khẳng định, cơng trình nghiên
cứu “Pháp luật về chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế ở Việt
Nam” là hồn tồn độc lập, và khơng phải là sự lặp lại của bất cứ cơng trình
nghiên cứu hay tài liệu nào.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm đạt được những kết quả sau đây:
Một là, làm sáng tỏ hơn một số đề lý luận về chấm dứt hợp đồng lao
động vì lý do kinh tế, trong đó chỉ ra khái niệm, đặc điểm về chấm dứt hợp



3

đồng lao động vì lý do kinh tế trong pháp luật Việt Nam, cũng như có sự so
sánh, nghiên cứu pháp luật một số quốc gia trên thế giới về vấn đề này.
Hai là, làm rõ thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về chấm dứt
hợp đồng lao động vì lý do kinh tế, về căn cứ chấm dứt, thủ tục chấm dứt,
quyền lợi của người lao động trong trường hợp chấm dứt hợp đồng; từ đó đưa
ra những đánh giá về quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Ba là, phân tích thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt
Nam về chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế, đánh giá ưu điểm và
hạn chế của việc thực thi các quy định này, từ đó đề xuất một số giải pháp
hoàn thiện về quy định cũng như thực tiễn thực hiện pháp luật về chấm dứt
hợp đồng lao động vì lý do kinh tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật Việt Nam về
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế và thực trạng thực thi
các quy định pháp luật về chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế.
Về phạm vi, đề tài tập trung vào nghiên cứu các quy định pháp luật lao
động Việt Nam về chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế, thủ tục thực
hiện, và giải quyết các hậu quả pháp lý khi chấm dứt hợp đồng lao động vì lý
do kinh tế, từ đó nhằm đề xuất các giải pháp khả thi góp phần hồn thiện pháp
luật lao động Việt Nam, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chấm dứt
hợp đồng lao động vì lý do kinh tế trên thực tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các mục đích đã đặt ra, đề tài được triển khai nghiên
cứu với phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong quá
trình nghiên cứu bao gồm: luận giải, phân tích, lịch sử, so sánh luật học,
đối chiếu, bình luận, tổng hợp, quy nạp.



4

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài Danh mục từ viết tắt; Danh mục bảng biểu, Lời nói đầu, Kết
luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do
kinh tế
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về chấm dứt hợp đồng lao
động vì lý do kinh tế
Chương 3: Thực tiễn thực hiện và một số kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế.


5

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
VÌ LÝ DO KINH TẾ
1.1 Khái niệm chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế
1.1.1 Định nghĩa chấm dứt hợp đồng lao động
Hợp đồng lao động là chế định trung tâm và quan trọng nhất của Bộ
luật lao động bởi nó điều chỉnh quan hệ lao động- mối quan hệ chủ yếu nhất
thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật lao động. Hơn nữa trong mối quan hệ
với các chế định khác của pháp luật lao động, hợp đồng lao động ln giữ vai
trị là cơ sở làm phát sinh các chế định này. Có thể nói hợp đồng lao động là
nền tảng để hình thành nên những quan hệ liên quan đến quan hệ lao động
như quan hệ về tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn vệ sinh lao động...
Theo quy định tại Điều 15 BLLĐ năm 2012 thì:“Hợp đồng lao động là
sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có

trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ
lao động”.
Hợp đồng lao động là hình thức biểu hiện của quan hệ lao động cá nhân
giữa người lao động và người sử dụng lao động. Việc xác lập, thực hiện hay
chấm dứt quan hệ lao động cá nhân chịu sự điều chỉnh của pháp luật nhìn
chung đều dựa trên hợp đồng lao động như một cơ sở pháp lý cơ bản và quan
trọng nhất. Thông thường quan hệ lao động là quan hệ mang tính ổn định, lâu
dài. Tuy nhiên, ổn định, lâu dài khơng có nghĩa quan hệ lao động là một hiện
tượng bất biến mà là một hiện tượng động, nghĩa là nó có q trình phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt khi xuất hiện những sự kiện pháp lý nhất định. Trong
nền kinh tế thị trường, khi mà các quan hệ lao động khơng cịn mang nặng
tính hành chính, mệnh lệnh được thiết lập và bảo đảm bằng biên chế nhà nước
như trước đây mà thay vào đó là tính tự nguyện, bình đẳng, thì hợp đồng lao


6

động là sự kiện pháp lý chủ yếu và phổ biến nhất làm phát sinh quan hệ lao
động trong nền kinh tế thị trường bởi vì nó thể hiện được sự tự do ý chí của cả
hai bên.
Chính sự tự nguyện, bình đẳng mà bản thân chế độ hợp đồng lao động
đã tạo thuận lợi cho người lao động có thể dễ dàng lựa chọn công việc phù
hợp. Ở một mặt nào đó đã đảm bảo quyền tự do việc làm cho người lao động,
họ không nhất thiết phải làm việc cho doanh nghiệp hay một công ty suốt cả
cuộc đời. Cũng như vậy, người sử dụng lao động cũng không chịu áp lực
buộc phải cộng tác với người lao động trong suốt một thời gian dài. Các bên
có thể thoả thuận hoặc một trong các bên có thể đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động khi xuất hiện các điều kiện được pháp luật quy định. Theo đó,
mọi sự kiện làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một hợp đồng lao động
đều sẽ kéo theo việc làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật

lao động theo hợp đồng.
Chấm dứt hợp đồng lao động là một sự kiện có ảnh hưởng rất lớn đến
sự tồn tại của quan hệ lao động. Với sự kiện này, các chủ thể trong quan hệ
hợp đồng lao động sẽ được giải phóng khỏi những quyền và nghĩa vụ đã từng
ràng buộc họ trước đó, đồng thời cũng có thể gây ra những hậu quả xấu không
những ảnh hưởng đến lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động mà
cịn ảnh hưởng đến lợi ích chung của nhà nước và xã hội. Chính vì tầm quan
trọng đó mà pháp luật về lao động ln chú ý và có những quy định rất chặt
chẽ trong vấn đề này.
Như vậy, có thể thấy chấm dứt hợp đồng lao động thực chất là việc
chấm dứt việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao
động. Kể từ thời điểm chấm dứt các bên không thực hiện các quyền và nghĩa
vụ theo thoả thuận trong hợp đồng. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra
định nghĩa về chấm dứt HĐLĐ như sau: “Chấm dứt hợp đồng lao động là sự


7

việc một trong hai bên hoặc cả hai bên trong quan hệ lao động không tiếp tục
thực hiện hợp đồng lao động, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên đã
thoả thuận trong hợp đồng lao động”.
1.1.2 Định nghĩa chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế
Chấm dứt hợp đồng lao động có thể xuất phát từ ý chí của một bên
trong quan hệ lao động, hoặc dựa trên cơ sở thống nhất ý chí của hai bên,
hoặc cũng có thể chấm dứt do ý chí của bên thứ ba. Dù là trường hợp chấm
dứt nào, hậu quả pháp lý đều là dẫn đến chấm dứt việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ đã được thỏa thuận trong hợp đồng. Nhìn chung, người lao động hay
người sử dụng lao động đều được pháp luật cho phép chấm dứt hợp đồng lao
động trong những trường hợp nhất định. Xuất phát từ mục tiêu đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ lao động, đặc biệt là bảo

vệ quyền lợi, an toàn về thu nhập cho người lao động, mà pháp luật đặt ra
những giới hạn đối với quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng của người sử
dụng lao động.
Trong điều kiện hình thành nên quan hệ lao động dựa trên nền tảng coi
sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt, nhìn chung, tuân theo những quy
luật của thị trường lao động. Thực tế cho thấy, khi nền kinh tế gặp phải những
khó khăn, lâm vào tình trạng suy thối, khủng hoảng; nhiều đơn vị sử dụng
lao động buộc phải thu hẹp sản xuất, hay cơ cấu lại về tổ chức, thì nhu cầu sử
dụng lao động cũng sẽ bị giảm sút. Điều này dẫn đến việc một số đơn vị sử
dụng lao động sẽ buộc phải cắt giảm lao động, cho nhiều người lao động thôi
việc. Chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế được hiểu là chấm dứt việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ lao động mà nguyên nhân xuất
phát từ lý do kinh tế. Lý do kinh tế ở đây có thể được hiểu theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp.


8

Nếu theo nghĩa hẹp, lý do kinh tế được hiểu là sự suy thoái, khủng
hoảng của nền kinh tế, hay thực hiện chính sách tái cơ cấu nền kinh tế của nhà
nước ảnh hưởng đến doanh nghiệp khiến người lao động bị mất việc làm.
Cách hiểu này chưa bao quát được hết tác động của nền kinh tế thị trường tới
các doanh nghiệp hiện nay. Trên thực tế, những yếu tố khách quan của nền
kinh tế dẫn đến sự thay đổi trong các doanh nghiệp là hết sức đa dạng và
phong phú. Kéo theo đó là những thay đổi tất yếu của doanh nghiệp để có thể
duy trì và phát triển. Thực tế cho thấy không phải lúc nào người sử dụng lao
động cũng buộc phải duy trì quan hệ lâu dài với người lao động mà vì lý do
khách quan của nền kinh tế buộc họ phải chấm dứt quan hệ lao động. Trong
cơ chế thị trường, các doanh nghiệp ln được đặt trong tình trạng cạnh tranh
gay gắt. Bởi vậy, để tồn tại và phát triển, những thay đổi về chức năng, cơ

cấu, quy mô, công nghệ, thu hẹp sản xuất… của doanh nghiệp đã trở thành
hiện thực tất yếu đơi khi nằm ngồi cả mong muốn, dự định của doanh
nghiệp. Môi trường kinh doanh, những thay đổi trong chính sách pháp luật, sự
suy thối của nền kinh tế, sự xuất hiện của đối thủ cạnh tranh mới, kinh doanh
thua lỗ, rủi ro từ thiên tại, hoả hoạn đều có thể tác động tới hoạt động bình
thường của doanh nghiệp và đặt doanh nghiệp vào yêu cầu cần có sự thay đổi.
Theo nghĩa rộng lý do kinh tế ở đây khơng chỉ bao gồm sự khủng
hoảng, suy thối của nền kinh tế mà còn bao gồm cả những trường hợp vì lý do
kinh tế khiến doanh nghiệp phải cần phải có sự thay đổi để tồn tại và phát triển.
Chẳng hạn như việc tái cơ cấu bộ máy tổ chức, áp dụng các biện pháp khoa
học kỹ thuật để đạt hiệu quả cao nhất trong sản xuất, kinh doanh. Thực tế cho
thấy nhiều doanh nghiệp có bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả buộc
phải tổ chức lại cho gọn nhẹ, để có thể dễ dàng linh hoạt, thích ứng với những
thay đổi của thị trường. Hoặc việc doanh nghiệp ứng dụng công nghệ mới
trong sản xuất, kinnh doanh, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí, nhân công trong


9

sản xuất. Sau khi tiến hành cải cách, việc thừa nhân cơng là khó tránh khỏi
khiến doanh nghiệp phải lên phương án cắt giảm số lao động bị thừa.
Một số doanh nghiệp lựa chọn phương án sáp nhập, hợp nhất lại với
nhau để tăng sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Sau khi các doanh
nghiệp đã tiến hành hợp nhất, sáp nhập việc thừa nhân lực là khó tránh khỏi.
Do đó, doanh nghiệp bắt buộc phải lên phương án sử dụng lao động hợp lý,
hiệu quả bằng cách cho thôi việc đối với những người lao động dôi dư.
Bên cạnh đó, q trình cổ phần hố đối với một số doanh nghiệp nhà
nước cũng là một trong những nhân tố dẫn đến việc chấm dứt hợp đồng lao
động đối với nhiều người lao động. Q trình cổ phần hố đã góp phần giảm
mạnh số lượng doanh nghiệp nhà nước, cải thiện cơ cấu doanh nghiệp nhà

nước theo hướng tích cực. Để hoạt động hiệu quả hơn, các doanh nghiệp nhà
nước sau khi cổ phần đã tiến hành cải cách lại bộ máy hợp lý, sử dụng hiệu
quả về mặt nhân cơng, tránh tình trạng cồng kềnh trong bộ máy quản lý như
trước đây. Việc cắt giảm, giải thể một hay một số phận không cần thiết là điều
dễ hiểu và hợp lý.
Như vậy, để bao quát được hết những trường hợp chấm dứt hợp đồng
lao động vì lý do kinh tế trên thực tế, cần phải nghiên cứu, xem xét chấm dứt
hợp đồng lao động vì lý do kinh tế theo nghĩa rộng.Tức là, chấm dứt hợp
đồng lao động vì lý do kinh tế gồm: do sự tác động của nền kinh tế; do sự
thay đổi cơ cấu, công nghệ; hay do hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp.
1.1.3 Đặc điểm của chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế
Thứ nhất, chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế làm chấm dứt
hiệu lực pháp lý của HĐLĐ đã ký kết trước thời hạn, hoặc trước khi công việc
được thỏa thuận trong hợp đồng được hồn thành.
Trong quan hệ pháp luật về hợp đồng, thơng thường quyền của bên này
sẽ tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Do đó, việc xác lập hợp


10

đồng chỉ có thể xảy ra khi có sự đồng thuận, thống nhất ý chí của cả hai bên
và nhằm hướng tới một lợi ích nhất định. Đối với NLĐ, lợi ích đó là tiền
lương, là những chế độ phúc lợi, cịn đối với NSDLĐ đó là những khoản lợi
nhuận của doanh nghiệp. Do đó, khi những lợi ích đó khơng được đảm bảo thì
việc duy trì HĐLĐ đã ký kết khơng cịn có ý nghĩa và cần thiết nữa. Trong
trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế, người sử dụng lao
động phải đối diện với những áp lực về tái cơ cấu bộ máy doanh nghiệp, hay
thay đổi cơng nghệ, quy trình sản xuất, hoặc bị tác động bởi khủng hoảng
kinh tế,... những áp lực này buộc người sử dụng lao động phải đứng trước lựa
chọn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với một bộ phận người lao

động, để duy trì được tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng
như đảm bảo việc làm cho những người lao động còn lại. Việc chấm dứt hợp
đồng lao động của người sử dụng lao động là đơn phương và quan hệ lao
động chấm dứt trước thời hạn hai bên đã thỏa thuận. Nhìn chung, pháp luật
hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận quyền được đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động khi có sự dư thừa
lao động. Có thể thấy rằng, trong trường hợp này, người sử dụng lao động căn
cứ vào tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà tự đưa ra quyết
định chấm dứt hợp đồng lao động đối với nhiều người lao động, không phụ
thuộc vào ý chí hay sự chấp thuận của người lao động.
Thứ hai, nguyên nhân dẫn đến việc chấm dứt hợp đồng lao động vì lý
do kinh tế chủ yếu xuất phát từ rủi ro mang tính khách quan.
Chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế là quyền của người sử
dụng lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao
động khi doanh nghiệp bị tác động bởi khủng hoảng kinh tế buộc phải thu hẹp
sản xuất, hoặc có những thay đổi về cơ cấu cơng nghệ, thay đổi về tổ chức bộ
máy,.. Những nguyên nhân về kinh tế ở đây là khách quan, không phụ thuộc


11

vào việc chủ sử dụng lao động mong muốn hay không, và cũng không xuất
phát từ lỗi của người lao động. Người sử dụng lao động buộc phải thực hiện
việc chấm dứt hợp đồng lao động, cắt giảm nhân lực để duy trì sự tồn tại của
doanh nghiệp. Bởi nếu khơng thực hiện cắt giảm lao động, thì doanh nghiệp có
khả năng phải chấm dứt hoạt động, giải thể hay phá sản. Do vậy, lợi ích lâu dài
của doanh nghiệp và những người lao động tiếp tục làm việc sẽ được ưu tiên
hơn so với lợi ích của một bộ phận người lao động bị chấm dứt hợp đồng.
Thứ ba, chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế đặt ra yêu cầu
phải hỗ trợ cho người lao động quay lại thị trường lao động

Chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế hợp pháp đặt ra những
yêu cầu về căn cứ pháp lý cũng như thủ tục thực hiện. Về mặt thủ tục, để
tránh trường hợp người sử dụng lao động lạm dụng quyền hạn, trước khi
người sử dụng lao động chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động vì lý
do kinh tế, họ cần phải thực hiện nhiều bước khác nhau để chứng minh việc
chấm dứt hợp đồng được xem xét cẩn thận và chỉ là biện pháp cuối cùng, bắt
buộc khi khơng cịn biện pháp nào khác. Chẳng hạn như theo pháp luật Việt
Nam, người sử dụng lao động buộc phải tham vấn ban chấp hành cơng đồn,
xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động, đào tạo lại để giúp người
lao động thích nghi với tình hình doanh nghiệp sau khi tái cơ cấu, sáp nhập,
… Sau khi thực hiện phương án sử dụng lao động mà vẫn không thể sắp xếp
được việc làm cho người lao động, thì chủ sử dụng có nghĩa vụ thanh tốn trợ
cấp mất việc làm cho người lao động.
1.2 Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế
Do tính tất yếu của nền kinh tế nên luật lao động của các nước đều thừa
nhận chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế, việc xác định lý do kinh tế
để chấm dứt hợp đồng lao động gồm: Hoạt động kinh doanh thực tế của
doanh nghiệp, những thay đổi về cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý, thay đổi cơ


12

cấu công nghệ để đáp ứng yêu cầu biến động nhanh của nền kinh tế,… Có thể
khái quát những trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế phổ
biến như sau:
i. Chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp thay đổi trong
sản xuất, phong cách quản lý hoặc thay đổi máy móc, cơ cấu, cơng nghệ.
Thay đổi cơ cấu, công nghệ được hiểu là thay mới một phần hoặc tồn
bộ máy móc thiết bị có năng suất lao động cao hơn; thay một số khâu hoặc
tồn bộ quy trình sản xuất tiên tiến có năng suất lao động cao hơn; thay đổi

sản phẩm hoặc cơ cấu sản phẩm dẫn đến sử dụng lao động ít hơn; sử dụng
cơng nghệ tiên tiến có năng suất, chất lượng cao hơn thay thế công nghệ lạc
hậu; thay đổi cơ cấu tổ chức: sáp nhập, giải thể một số bộ phận của đơn vị.
Những thay đổi đó dẫn tới việc một số lượng nhân công bị thừa ra, đồng
nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ cắt giảm nhân công, thông qua việc chấm dứt
hợp đồng lao động với nhiều người lao động để giảm chi phí hoạt động.
Đây là một trong những trường hợp mà rất nhiều quốc gia coi là điều
kiện để người sử dụng lao động có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động một cách hợp pháp. Có thể kể đến một số các quốc gia có quy định về
trường hợp hợp đồng lao động có thể bị chấm dứt khi doanh nghiệp thay đổi
cơ cấu, công nghệ như:
Luật Hợp đồng lao động của Trung Quốc (2007) có quy định một trong
các trường hợp mà doanh nghiệp được cắt giảm lao động đó là trường hợp
“có thay đổi trong sản xuất, phong cách quản lý hoặc đổi mới công nghệ”
(Điều 41).1
Bộ luật lao động của Liên Bang Nga (2001) cũng quy định: “…Trường
hợp cắt giảm số lượng hoặc bộ máy của doanh nghiệp, người lao động phải
đảm nhận cơng việc khơng phù hợp với trình độ, tay nghề thì việc chấm dứt
1

Nguyễn Thị Hoa Tâm (2013), Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động - những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật TP.HCM


13

hợp đồng lao động tiến hành theo thủ tục nhận xét được quy định về tiêu
chuẩn lao động, có tham khảo ý kiến đại kiện người lao động…” (Chương
XIII từ điều 77-80).2
Phần 121, chương 11, Đạo luật Bảo hộ lao động năm 1998 của Thái

Lan nói rõ: “Trường hợp ơng chủ muốn chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do
tái cấu trúc doanh nghiệp, sản xuất, phân phối hoặc các quy trình dịch vụ do
cơ khí hố hay thay đổi máy móc, cơng nghệ mà phải giảm lao động, đoạn 2
phần 17 sẽ không được áp dụng, và ông chủ phải thông báo cho Thanh tra
lao động và người lao động mà hợp đồng lao lao động bị chấm dứt ngày
chấm dứt lý do chấm dứt và tên lao động bị chấm dứt không chậm hơn 60
ngày kể từ ngày chấm dứt”.3
Theo quy định tại Điều 30, Đạo luật bảo vệ việc làm (Employment
Protection Act) của Cộng hòa Liên bang Đức cũng quy định người sử dụng
lao động được quyền chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh doanh bao
gồm các trường hợp: doanh nghiệp chấm dứt hoạt động, doanh nghiệp tái cấu
trúc hoặc doanh nghiệp giảm nhu cầu sử dụng lao động.4
Như vậy, mặc dù cách diễn đạt, từ ngữ sử dụng khơng hồn tồn giống
nhau, nhưng về nội dung hầu hết các nước đều cho phép người sử dụng lao
động có thể chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động trong trường hợp
doanh nghiệp vì lý do khách quan của nền kinh tế mà phải cơ cấu lại doanh
nghiệp, thay đổi công nghệ cho phù hợp dẫn đến phải cắt giảm lao động để có
thể duy trì sự hoạt động và sự phát triển của doanh nghiệp đó.

2

Bộ luật lao động Liên bang Nga
/>3
Thailand Labour Protection Act
/>4
Pinsent Masons, Dismissal procedure in Germany, 09/2014
/>

14


ii. Chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp có sự sắp xếp lại
doanh nghiệp (sáp nhập, hợp nhất) hoặc thay đổi quyền quản lý, chủ sở
hữu của doanh nghiệp
Trong điều kiện kinh tế đòi hỏi doanh nghiệp phải có sức cạnh tranh,
sức mạnh thị trường, về vốn thì mới có thể duy trì và phát triển thì việc các
doanh nghiệp vừa và nhỏ liên kết lại với nhau để tạo nên sức mạnh lớn hơn là
hiện tượng thường xuyên. Sau khi liên kết lại, doanh nghiệp sẽ tiến hành sắp
xếp lại bộ máy để tăng tính hiệu quả hoạt động của mình. Hậu quả dẫn đến
việc thừa lao động cũng là điều tất yếu. Do đó, trong trường hợp này cho phép
người sử dụng lao động chấm dứt hợp đồng lao động với những người lao
động mà người sử dụng lao động khơng thể bố trí việc làm là hợp lý.
Một số quốc gia lấy lý do trên làm căn cứ để người sử dụng lao động
chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động như:
Theo Bộ luật lao động của Liên Bang Nga (2001), chấm dứt hợp đồng
lao động theo đề nghị của người sử dụng lao động có thể được thực hiện trong
các trường hợp sau: “…Do sự thay đổi chủ sở hữu (trong quan hệ với người
lãnh đạo, người phó của người lãnh đạo và kế toán trưởng);…”5
Điều 25 Luật tiêu chuẩn lao động của Hàn Quốc (1997) quy định: “Sa
thải người lao động trong các trường hợp như: chuyển nhượng, mua đứt và
sáp nhập kinh doanh nhằm tránh các khó khăn về tài chính được xem là nhu
cầu quản lý khẩn cấp.Trong trường hợp này, chủ doanh nghiệp phải nỗ lực
hết sức để tránh sa thải người lao động và phải chọn người lao động sẽ bị sa
thải bằng cách đưa ra các chuẩn sa thải hợp lý và công bằng…”6
Điều 163 Luật của nước Cộng hoà Indonesia số 13 năm 2003 về nhân
lực cũng quy định: “Doanh nghiệp chấm dứt quan hệ lao động với người lao
5

Labor Code
/>6
Labor Standards Act

Https://www.ilo.org/dyn/natlex/docs/WEBTEXT/46401/65062/E97KOR01.htm


15

động/nhân cơng trong trường hợp có sự thay đổi cơ cấu doanh nghiệp. Sáp
nhập, hợp nhất hoặc thay đổi sở hữu của doanh nghiệp và người lao động/
công nhân không tự nguyện tiếp tục công việc của họ, người lao động/cơng
nhân có quyền nhận thanh tốn tiền trợ cấp thơi việc một lần theo quy định
tại khoản 2 điều 156, tiền thưởng cho thời gian phục vụ một lần theo quy định
tại khoản 3 điều 156 và tiền bồi thường theo quy định tại khoản 4 Điều 156”.7
Tuy nhiên, cũng có nhiều quốc gia khơng coi đây là căn cứ để chấm dứt
hợp đồng lao động, ví dụ như theo Điều 75 Bộ luật lao động của Liên Bang
Nga năm 2001:“Việc thay đổi khi chuyển quyền sở hữu không phải là căn cứ
để chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động. Trong trường hợp người
lao động từ chối tiếp tục làm việc liên quan đến chuyển quyền sở hữu thì hợp
đồng lao động được chấm dứt.
Việc thay đổi quyền quản lý, hoặc sắp xếp lại doanh nghiệp (sáp nhập,
chia tách,…) cũng không phải là cơ sở để chấm dứt hợp đồng lao động với
người lao động, Trừ trường hợp người lao động từ chối tiếp tục làm việc”.8
Với trường hợp này, nhận thấy không phải hầu hết các quốc gia đều ghi
nhận nó làm căn cứ để người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động với người lao động. Nguyên nhân có thể xuất phát từ việc quốc
gia đó ưu tiên bảo vệ quyền lợi cho người lao động hay người sử dụng lao
động.
1.3 Tác động của việc chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế
Hiện nay với sự ảnh hưởng sâu sắc của khủng hoảng kinh tế thế giới,
không những ở Việt Nam mà ở nhiều quốc gia rất nhiều các doanh nghiệp,
đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đồng loạt giải thể, phá
7


Indonesian Labor Law
/>8
Labor Code Russia
/>

16

sản, cắt giảm lao động với số lượng lớn, người sử dụng lao động bỏ trốn. Hiện
tượng trên đã gây ra phản ứng dây chuyền hoang mang, lo sợ cho đông đảo
lực lượng lao động, nhất là tại các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Với những trường hợp đương nhiên chấm dứt hợp đồng lao động như
hết hạn hợp đồng, người lao động hay người sử dụng lao động vi phạm hợp
đồng lao động, các bên trong quan hệ lao động đã có sự chủ động khi chấm
dứt hợp đồng lao động. Ngược lại, với trường hợp chấm dứt hợp đồng lao
động vì lý do kinh tế, người lao động thường rơi vào thế bị động. Bởi vì đây
là trường hợp mà người sử dụng lao động được đơn phương chấm dứt hợp
đồng với người lao động, khi mà quan hệ lao động vẫn đang diễn ra bình
thường, việc thay đổi trong doanh nghiệp chỉ do người sử dụng lao động
quyết định, nên việc người lao động bị mất việc là hồn tồn bị động bất ngờ.
Với thực tế đó, khi người sử dụng lao động quyết định chấm dứt hợp
đồng với người lao động thì bên cạnh một bộ phận lớn lao động ngậm ngùi
chấp nhận thì một bộ phận không nhỏ không chấp nhận đã kéo tới các trụ sở
cơng ty, các cơ quan chức năng để địi quyền lợi cho mình. Vì vậy mà tranh
chấp về lao động xảy ra nhiều trong thực tế ảnh hưởng đến cả người lao động,
người sử dụng lao động và sự ổn định của xã hội.
Bất cứ hiện tượng nào cũng tồn tại cả hai mặt của nó, chấm dứt hợp
đồng lao động vì lý do kinh tế cũng khơng nằm ngồi quy luật đó. Khơng thể
phủ nhận những tác động tích cực của nó, nhưng bên cạnh đó có những mặt
trái khơng thể tránh khỏi.

Đối với người lao động:Có thể thấy trong việc chấm dứt hợp đồng lao
động vì lý do kinh tế, đối tượng bị tác động, ảnh hưởng trực tiếp nhất là người
lao động và người thân của họ. Về mặt tích cực, nó giúp cho người lao động
năng động hơn, dễ thích nghi hơn với những thay đổi của thị trường lao động.
Do đó, chấm dứt hợp đồng lao động với người sử dụng lao động sẽ tạo cho


17

người lao động có cơ hội tìm được một cơng việc mới với môi trường làm
việc phù hợp với điều kiện và trình độ chun mơn của mình. Đồng thời
người lao động được làm nhiều cơng việc nên trình độ được nâng cao, có kinh
nghiệm tốt hơn. Tuy nhiên, chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế cũng
có những ảnh hưởng tiêu cực đối với người lao động. Cụ thể, trong điều kiện
kinh tế có nhiều biến động như hiện nay, đa số doanh nghiệp đều cố gắng tinh
giản cơ cấu, thay đổi cơng nghệ và tìm mọi cách để tiết kiệm chi phí. Điều
này dẫn đến một thực tế là, trong cơ cấu kinh tế số lao động có nhu cầu về
làm việc lớn hơn nhiều nhu cầu thuê lao động tại các doanh nghiệp, công ty,
vì thế việc tìm kiếm lại cho mình một cơng việc phù hợp, ổn định đem lại thu
nhập là một vấn đề rất khó khăn và nan giải, từ đó đồng nghĩa với việc người
lao động sẽ khơng có thu nhập để ni sống bản thân mình và gia đình của họ.
Đối với người sử dụng lao động: Trường hợp chấm dứt hợp đồng lao
động vì lý do kinh tế là một trường hợp mà người sử dụng có thể được đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động. Mặc dù là một
quyền, nhưng khi thực hiện quyền này nó cũng ảnh hưởng đến cả chính người
sử dụng lao động theo cả hai chiều hướng. Cụ thể, về mặt tích cực: Chấm dứt
hợp đồng lao động vì lý do kinh tế giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp này thể hiện quyền quản lý
của người sử dụng lao động với người lao động cũng như đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh, giúp người sử dụng lao động loại bỏ được những rào

cản, gánh nặng trong quá trình hoạt động, đảm bảo quyền tự do kinh doanh,
quyền tự định đoạt của người sử dụng lao động. Tuy nhiên, việc chấm dứt này
cũng có những tác động tiêu cực bởi chấm dứt hợp đồng vì lý do kinh tế
thường là chấm dứt với nhiều người lao động nên có thể gây ảnh hưởng
khơng tốt, khiến người lao động có phản ứng tập thể mang tính tiêu cực, và dễ


18

dẫn đến tranh chấp lao động tập thể, có thể gây thiệt hại không nhỏ cho người
sử dụng lao động.
Đối với xã hội: Sự thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật lao động
không chỉ ảnh hưởng đến riêng người lao động, người sử dụng lao động mà
còn gián tiếp ảnh hưởng đến xã hội theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu
cực. Về tác động tích cực: Chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế chính
là việc loại bỏ những người lao động khơng cịn phù hợp với điều kiện kinh
doanh, loại bỏ những rào cản làm ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh
nghiệp đó. Chính điều đó đã gián tiếp thúc đẩy nền kinh tế nói chung và quan
hệ lao động nói riêng phát triển. Tuy nhiên, chấm dứt hợp đồng lao động vì lý
do kinh tế cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội bởi, khi người sử
dụng lao động chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động sẽ dẫn đến
việc người lao động khơng có việc làm, số lượng này ngày càng nhiều sẽ tạo
ra nạn thất nghiệp, sẽ trở thành gánh nặng của Nhà nước khi phải giải quyết
vấn đề việc làm và các vấn đề an sinh xã hội cho những người lao động đó.
Bên cạnh đó, từ việc mất việc làm của người lao động cịn có thể gây ra
những bất ổn trong quan hệ lao động, tranh chấp lao động,… ảnh hưởng rất
lớn đến trật tự, an ninh xã hội.


19


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế là một trường hợp chấm
dứt phổ biến trên thực tế và được pháp luật hầu hết các quốc gia thừa nhận
như một trong những quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng của người sử
dụng lao động. Tùy từng quốc gia khác nhau mà pháp luật đưa ra những giới
hạn nhất định về căn cứ cũng như thủ tục chấm dứt hợp đồng. Nhìn chung,
chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế bao gồm những trường hợp như:
thay đổi cơ cấu tổ chức, công nghệ, khủng hoảng kinh tế hay do sáp nhập,
hợp nhất doanh nghiệp. Việc chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế
xuất phát từ những rủi ro mang tính khách quan của nền kinh tế, dẫn đến chủ
sử dụng lao động phải đơn phương chấm dứt hợp đồng với nhiều người lao
động trong doanh nghiệp, và do vậy, để bảo hộ việc làm, đảm bảo an sinh cho
người lao động, pháp luật các quốc gia cũng quy định những nghĩa vụ về tài
chính của chủ sử dụng đối với những người lao động bị thôi việc. Việc chấm
dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế một mặt giúp cho doanh nghiệp chủ
động trong vấn đề nhân sự, cắt giảm những chi phí về lao động, giúp cho
người lao động năng động và thích nghi hơn với thị trường lao động; mặt
khác, cũng gây những ảnh hưởng nhất định đến an sinh của người lao động,
đến an ninh việc làm và sự ổn định của xã hội.
Tóm lại, chương 1 đã đưa ra một số quan điểm, cung cấp cái nhìn
khách quan và khái quát nhất về các vấn đề lý luận liên quan đến chấm dứt
hợp đồng lao động vì lý do kinh tế và pháp luật về chấm dứt hợp đồng lao
động vì lý do kinh tế. Qua đó làm tiền đề cơ sở cho việc nghiên cứu thực
trạng pháp luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn thực hiện các quy định của
pháp luật về chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế.


×