Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Vai trò của hội bảo vệ người tiêu dùng theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
VAI TRÒ CỦA HỘI BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
MAI VĂN VIỆT
CHUYÊN NGÀNH

: LUẬT KINH TẾ

MÃ SỐ

: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS: NGUYỄN THỊ VÂN ANH

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN



Mai Văn Việt


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên,
giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Thị Vân
Anh đã hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực hiện nghiên cứu của mình.
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo, người đã đem lại cho
tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong hai năm học vừa qua.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo sau
đại học, Đại học mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã luôn
bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu
của mình.
Hải Dương, ngày 20 tháng 10 năm 2016

Mai Văn Việt


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƯỜI TIÊU DÙNG ............................................................................................. 9
1.1. Khái niệm, bản chất của Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ..................... 9
1.1.1. Khái niệm Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.................................... 9

1.1.2. Đặc trưng của Hội bảo vệ NTD ............................................................. 10
1.2. Sự cần thiết và cơ sở pháp lý xác định vai trò của Hội Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong việc bảo vệ người tiêu dùng ............................................. 12
1.2.1. Sự cần thiết của Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong việc bảo vệ
người tiêu dùng ............................................................................................... 12
1.2.2. Cơ sở pháp lý cho sự tồn tại , hoạt động và xác định vai trò của các Hội
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ................................................................... 15
1.3. Sự hình thành và phát triển của quy định pháp luật về vai trò của Hội bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam ............................................................... 17
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1986 ..................................................................... 17
1.3.2. Giai đọan từ năm 1986 đến năm 1999 ................................................... 17
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1999 đến năm 2010 ................................................... 20
1.3.4. Từ giai đoạn năm 2010 đến nay............................................................. 20
1.4. Vai trò của Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật của một số
nước trên thế giới ............................................................................................... 22
1.4.1. Malaysia................................................................................................ 22
1.4.2. Trung Quốc ........................................................................................... 23
1.4.3. Pháp ...................................................................................................... 25
1.4.4. Bài học rút ra cho Việt Nam .................................................................. 27


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI BẢO VỆ QUYỀN
LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM ............................................................... 29
2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về vai trò của Hội Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng ............................................................................................................ 29
2.1.1. Quy định về vai trò của Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong công
tác phản biện và giám định xã hội ................................................................... 29
2.1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về vai trò của Hội bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong công tác giáo dục người tiêu dùng ................................ 35
2.1.3. Quy định của pháp luật hiện hành về vai trò của Hội bảo vệ quyền lợi

NTD trong công tác giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng ......................... 42
2.2. Thực trạng hoạt động của Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng................. 45
2.2.1. Những thành tựu đạt được ..................................................................... 45
2.2.2. Hạn chế trong hoạt động bảo vệ người tiêu dùng của Hội bảo vệ người
tiêu dùng ......................................................................................................... 56
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác BVNTD của Hội
BVQLNTD ........................................................................................................ 60
2.3.1. Nguồn nhân lực hoạt động của Hội bảo vệ quyền lợi NTD còn thiếu về số
lượng và yếu về chuyên môn, nghiệp vụ ......................................................... 60
2.3.2. Chưa được sự quan tâm đầy đủ của các cơ quan nhà nước .................... 61
2.3.3. Hạn chế về nhận thức của người tiêu dùng cũng như ý thức của doanh
nghiệp ............................................................................................................. 63
2.3.4. Các quy định của pháp luật còn nhiều bất cập ....................................... 65
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM .................................................................... 67
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vai trò của Hội bảo vệ NTD ở Việt
Nam ................................................................................................................... 67
3.1.1. Cần quy định rõ những vấn đề liên quan đến quyền khởi kiện vì mục đích
cộng đồng của tổ chức xã hội .......................................................................... 67


3.1.2. Quy định rõ cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng ở địa
phương để tạo điều kiện cho Hội bảo vệ NTD thực hiện quyền yêu cầu cơ quan
quản lý nhà nước về bảo vệ NTD cấp huyện giải quyết trong trường hợp phát
hiện hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân kinh doanh ..................... 68
3.1.4. Quy định tổ chức bảo vệ người tiêu dùng là tổ chức xã hội đặc thù ....... 69
3.1.5. Nâng mức xử phạt và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ............................................................. 69
3.1.6. Cần nâng địa vị của Hội bảo vệ NTD ngang bằng với các Hiệp hội ngành

nghề và hiệp hội nghề nghiệp .......................................................................... 70
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội bảo vệ quyền lợi NTD
ở Việt Nam......................................................................................................... 71
3.2.1. Nhà nước cần có phương án hỗ trợ kinh phí cho các tổ chức BVNTD đồng
thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hiệu quả hoạt động của các tổ chức
này ................................................................................................................. 71
3.2.2. Đẩy mạnh việc mở rộng, phát triển các tổ chức BVNTD đồng thời kêu
gọi sự ủng hộ của xã hội đối với hoạt động của các tổ chức này ...................... 72
3.2.3. Đổi mới phương thức hoạt động để nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ
NTD ............................................................................................................... 73
3.2.4. Tăng cường phối hợp có hiệu quả giữa cơ quan, tổ chức trong nước và
quốc tế ............................................................................................................ 75
3.2.5. Nâng cao nhận thức của xã hội đối với vị trí, vai trò của Hội BVQLNTD
trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.................................................... 76
3.2.6. Đẩy mạnh hoạt động giáo dục người tiêu dùng của Hội BVQLNTD ..... 78
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

NTD

:

Người tiêu dùng

DN

:


Doanh nghiệp

CI

:

Consumers International

BVNGTD

: Bảo vệ người tiêu dùng

BVQLNTD

:

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

VINASTAS

:

Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt
Nam

WTO
TCĐLCL
Nghị định 185/2013/NĐ-CP :


:
:

World Trade Organization
Tổng cục đo lường chất lượng
Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thương mại sản xuất hàng giả và
bảo vệ NTD


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Quan hệ giữa người tiêu dùng (NTD) và người cung cấp sản phẩm, dịch vụ
là một loại quan hệ dân sự. Trong mối quan hệ này, NTD thường ở vị trí yếu thế,
bởi sự hạn chế về thông tin, về kiến thức chuyên môn, về khả năng đàm phán hợp
đồng cũng như khả năng tự bảo vệ mình. Để tạo lập, gìn giữ và bảo vệ sự bình đẳng
giữa NTD và doanh nghiệp cần có sự can thiệp mạnh mẽ của pháp luật. Bảo vệ
NTD không chỉ là vấn đề của các quốc gia chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa
sang nền kinh tế thị trường, mà cũng là vấn đề thời sự của các quốc gia có nền kinh
tế thị trường phát triển.
Bảo vệ người tiêu dùng là một trong những hoạt động nhằm thực hiện một
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, qua đó góp phần duy trì và thúc đẩy một nền
kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Ở các quốc gia phát triển hoạt động bảo vệ
NTD nhận được sự quan tâm rất lớn từ phía chính phủ, đồng thời hiệu quả của hoạt
động này là rất rõ rệt. Ở Việt Nam hiện nay, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế, thị trường Việt Nam đã tràn ngập sản phẩm của nước ngoài, người tiêu dùng có
nhiều cơ hội sử dụng sản phẩm tốt hơn, rẻ hơn song bên cạnh đó nguy cơ bị vi
phạm quyền lợi người tiêu dùng cũng ngày càng lớn. Tuy Nhà nước và các doanh

nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền lợi cho người
tiêu dùng song quá trình thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, người tiêu
dùng còn chưa nhận thức đầy đủ về những quyền lợi cần được bảo vệ của mình
trong việc sử dụng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, dẫn tới hàng loạt vụ xâm hại quyền
lợi của NTD trong thời gian qua như gian lận trong kinh doanh xăng dầu, taxi, sữa
trẻ em có chứa melanine, vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm: mỡ thối được sử dụng
để chế biến thực phẩm, hàng giả hàng nhái, hàng kém chất lượng tràn lan trên thị
trường.
Có thể áp dụng nhiều công cụ và phương pháp khác nhau để bảo vệ NTD.
Có các chủ thể với các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau có thể tham
1


gia bảo vệ NTD. Trong đó Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đóng một vai trò
hết sức quan trọng trong việc tham gia xây dựng, bảo vệ và phát huy hiệu lực của
pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD một cách có hiệu quả. Do đó em đã chọn đề tài:
“Vai trò của Hội bảo vệ người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam” làm luận văn
Thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Vấn đề bảo vệ người tiêu dùng hay vai trò của các tổ chức xã hội bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng luôn được coi là vấn đề quan tâm của các nhà nghiên cứu
trên thế giới. Hầu như năm nào, các bài nghiên cứu về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng và vai trò của các tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng được
đăng tải. Trong số đó, nhiều bài nghiên cứu đề cập tới vai trò của các tổ chức xã hội
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Hoa Kỳ,
Anh Quốc, Nhật Bản. Sau đây là một số bài viết, công trình nghiên cứu về vấn đề
này: - Bài viết “The Japanese Products Liability Law (Pháp luật trách nhiệm sản
phẩm của Nhật Bản)” của Jason F.Cohen (nghiên cứu sinh Đại học Fordham – Hoa
Kỳ) đăng trên tạp chí “Fordham International Law Journal, November 1997” đã làm

rõ cơ sở chính sách và những đặc điểm cơ bản của tổ chức bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng ở Nhật Bản. - Bài viết “The future of products liability in America
(Tương lai của pháp luật trách nhiệm sản phẩm ở Hoa Kỳ)” của ba luật sư của Hoa
Kỳ là Gary Wilson, Vincent Moccio và Daniel O.Fallon đăng trên tạp chí William
Mitchell Law Review (năm 2000) đã bàn về chế độ trách nhiệm sản phẩm ở Hoa
Kỳ hiện tại, những tồn tại, bất cập và đề xuất một số hướng cải cách đổi mới. “Products Liability – Why the EU does not need the restatement (third) (Chế định
trách nhiệm sản phẩm – Vì sao Cộng đồng Châu Âu không cần theo mô hình của
Hoa Kỳ)” của Giáo sư Rebekah Rollo (Đại học Maryland - Đức) trong bài viết đăng
trên tạp chí “Brooklyn Law Review, Spring, 2004” đã nghiên cứu chế độ trách
nhiệm sản phẩm theo quy định của Cộng đồng Châu Âu (EU) và tác động của
2


những thay đổi trong chính sách trách nhiệm sản phẩm của Hoa Kỳ tới chính sách
tương tự của Cộng đồng Châu Âu. - Công trình “The Evolution of Products
Liability Law (Quá trình phát triển của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm)” của
Giáo sư Luật David G.Owen (Đại học South Carolina – Hoa Kỳ) đăng trên tạp chí
“The Review of Litigation (Symposium 2007)” đã nghiên cứu khá tỉ mỉ quá trình
phát sinh, phát triển của chế độ trách nhiệm sản phẩm ở Hoa Kỳ, nguồn gốc, những
ý tưởng cơ bản của chế độ trách nhiệm ấy. - “Products Liability in the United
Kingdom (Chế định trách nhiệm sản phẩm ở Vương quốc Anh)” Giáo sư Jane
Stapteton (Đại học quốc gia Australia), đăng trên tạp chí “Texax International Law
Journal, Winter 1999” đã đề cập khá chi tiết về nguồn gốc, chức năng và các đặc
điểm cơ bản trong chế định trách nhiệm sản phẩm ở Anh quốc. Trong năm 2000,
cũng chính giáo sư Jane Stapleton đã đăng bài viết “Products Liability, an Anglo –
Australia Perspective (Chế định trách nhiệm sản phẩm - từ cách nhìn của châu Úc)”
trên tạp chí “Washburn Law Joural, Spring, 2000” trong đó ông làm rõ quan niện
của Úc về chế độ trách nhiệm sản phẩm. - Chuyên khảo “Products liability” của
giáo sư D.Cray, trường đại học Carleton, Otawa, Canada, đã xem xét vấn đề trách
nhiệm sản phẩm trong pháp luật của các quốc gia dưới cách nhìn luật học so sánh.

Như vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng, trách nhiệm sản phẩm là một
trong những công cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ người tiêu dùng trong nền kinh
tế thị trường. Nhưng do điều kiện của mỗi quốc gia mà việc áp dụng chế định này
còn khác nhau, nhất là về phạm vi của chế định và cơ chế đảm bảo thực thi chế định
trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp.
Các quốc gia phát triển đã lấy chính sách lấy NTD làm trung tâm phát triển
kinh tế của họ, hàng loạt các đạo luật nhằm bảo vệ NTD được ban hành. Trên cơ sở
đó, có khá nhiều nghiên cứu nhằm hoàn thiện việc điều chỉnh pháp lý về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng. Qua khảo sát nhận thấy một số nghiên cứu quan trọng
sau đây như: Gerlach Johann Wilhelm với „Die AGB-Verhältnisse und die
bisherigen Erfahrungen mit dem Kontrollklageverfahren“, Münchener Kommentar
zum BGB, Band I, §§ 1-240, C.H. Beck Verlag 1997; Bork Reinhard với
3


„Entwicklung der AGB-Kontrolle“, Tübingen 2001; Alice Broichmann với
„Unternehmenskaufverträge und AGB-Kontrolle“, Beck-Fachdienst Mergers &
Acquisitions, Ausgabe 14/2007; K.Schmidt với “ Verbraucherschutz im BGB und
AGB- Kontrolle” , JuS 2006,1ff.
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã trở thành xu thế toàn cầu, nhanh chóng
lan tỏa đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Một số nghiên cứu tiêu biểu như: GralfPeter Calliess với “Coherence and Consistency in European Consumer Contract
Law: a Progress Report”, Frankfurt am Main, 2003; Sir John Vickers với
“Contracts and European consumer law: an OFT perspective”, Oxford 2005;
Aristides N. Hatzis với “An Offer You Can’t Negotiate: Some Thoughts on the
Economics of Standard-Form Consumer Contracts” Athens 2006; Michael G.
Faure & Hanneke A.Luth với “Behavioural Economics in Unfair Contract Terms
Cautions and Considerations”, The Author(s) 2011; Friedrich Kessler “Contracts of
Adhesion-Some Thoughts About Freedom of Contract”, Yale Law School 1943;
Willem van Boom and Marco Loos với “ Effective Enforcement of Consumer Law
in Europe Synchronizing Private, Public, and Collective Mechanisms”, January,

2008;

Leon E. Trakman với “Adhesion contracts and the twenty first Century

consumer“,2011; American Bar Association Central and East European Law
Initiative với “Concept Paper on Consumer Protection” November 25, 1992.
2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Trước năm 1986, ở Việt Nam hầu như không có bất kỳ một công trình nào
nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD. Bởi lẽ, thuật ngữ NTD chỉ xuất hiện
trong nền kinh tế thị trường. Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1986 đã
đánh dấu bước chuyển của nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế. Cùng sự phát triển của kinh tế thị trường, với sự cạnh
tranh gay gắt giữa các thương nhân, sự xuống cấp của đạo đức và lòng tham đối với
khoản lợi nhuận kếch xù, quyền lợi ích của NTD bắt đầu bị xâm phạm ngày càng
nghiêm trọng hơn.

4


Có thể nói, trong số những công trình mang tính tiên phong nghiên cứu vấn
đề bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam, không thể không nhắc đến “Tìm hiểu Luật
bảo vệ người tiêu dùng các nước và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam” của
Viện Nhà nước và Pháp luật biên soạn, Nxb Lao động, 1999. Cuốn sách này là tài
liệu tham khảo rất có giá trị đối với các học giả cũng như những độc giả trong nước
quan tâm đến Luật bảo vệ quyền lợi NTD của một số quốc gia trên thế giới. Bên
cạnh việc giới thiệu Luật bảo vệ NTD của Thái Lan, Singapore, Nhật Bản, Nam
Triều Tiên, Ấn Độ...cũng như một số biện pháp bảo vệ NTD của các quốc gia. Cuốn
sách đã điểm qua hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD của Việt Nam, mà cụ thể là Hội
tiêu chuẩn và bảo vệ NTD Việt Nam (VINASTAS). Cuốn sách đã nêu bật được vấn

đề khó khăn của NTD Việt Nam trước “cơn lốc” của kinh tế thị trường và sự “đổ
bộ” ồ ạt của hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa kém chất lượng, thực phẩm ô nhiễm.
Như vậy, điểm qua một số công trình nghiên cứu có liên quan đến bảo vệ
quyền lợi NTD, cho thấy có không ít công trình nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên,
đây là vấn đề rất rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp lý khác nhau cũng như
tính mới, tính độc đáo. Vì vậy, những công trình này có hướng tiếp cận, khai thác,
nghiên cứu và nhận thức dưới những góc độ khác nhau: Ví dụ như một số công
trình nghiên cứu như sau:
- Bài viết của Thạc sĩ Ngô Vĩnh Bạch Dương, “Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong pháp luật cạnh tranh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11 năm 2000.
Theo tác giả, một trong những nguyên tắc cơ bản của tự do cạnh tranh là sự tự do
hợp đồng, theo đó người tiêu dùng được tự do lựa chọn nhà cung cấp để mua hàng
hoá, dịch vụ cho nhu cầu cá nhân. Tuy nhiên việc sử dụng phổ biến các hợp đồng
mẫu, hợp đồng soạn trước trong mua bán không thông qua các cuộc thương lượng,
mặc cả... , tất cả đều là sự tước đoạt đi của người tiêu dùng quyền tự do hợp đồng
của họ. Ngoài ra, người tiêu dùng bị buộc phải sử dụng hàng hoá, dịch vụ mà không
có khả năng lựa chọn nào khác bởi lý do loại hàng hoá, dịch vụ đó chỉ do một
thương gia độc quyền cung cấp. Trong những trường hợp như vậy, quyền tự do khế

5


ước đã không còn mang giá trị nhân văn của một quyền tự do cá nhân ; “Giáo trình
luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công
an nhân dân, 2012; đặc biệt đề tài nghiên cứu cấp bộ Bộ thương mại, “Hoàn thiện
pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế”, do TS. Đinh Thị Mỹ Loan chủ nhiệm năm 2006. Có thể nói, đây là
một trong những đề tài khoa học cấp bộ đầu tiên nghiên cứu về vấn đề bảo vệ NTD.
Công trình này tập trung hầu hết những vấn đề mang tính cốt lõi liên quan đến pháp
luật bảo vệ NTD và khái quát một cách có hệ thống các quyền của NTD; nghĩa vụ

của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; nghiã vụ của cơ quan nhà nước
cũng như các tổ chức xã hội bảo vệ NTD; TS. Đặng Vũ Huân với bài viết “Pháp
luật và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng” đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số
chuyên đề về pháp luật và tiêu dùng tháng 1 năm 2005; PGS.TS. Nguyễn Thị Vân
Anh với bài viết “Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo về quyền lợi người tiêu
dùng” trên tạp chí Luật học, số 11/2010. Ngoài ra PGS. TS. Nguyễn Thị Vân Anh
còn là chủ biên của cuốn “Vai trò của Hội bảo vệ người tiêu dùng trong việc bảo vệ
người tiêu dùng” nhà xuất bản chính trị Quốc gia phát hành năm 2012; TS. Phan
Huy Hồng có bài: “Vai trò của các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam”,
báo cáo tại Hội thảo quốc tế do Viện Nhà nước và Pháp luật và KAS tổ chức tháng
2/2008. Bên cạnh các bài viết và tham luận nói trên, một số luận văn, luận án cũng
có giá trị tham khảo trong quá trình nghiên cứu đề tài đó là luận văn Thạc sỹ về
“Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, năm
2007 của tác giả Bùi Thị Long, năm 2007, Viện Nhà nước và Pháp luật; luận án tiến
sỹ về “Hoàn thiện pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”, năm
2013 của tác giả Nguyễn Thị Thư, Viện Nhà nước và Pháp luật...
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
- Làm rõ một số vấn đề cơ bản về tổng quan vai trò của Hội bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng ở Việt Nam.
- Tìm hiểu rõ thực trạng pháp luật về vai trò của Hội bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng Việt Nam.

6


- Tìm hiểu kinh nghiệm bảo vệ NTD của một số nước trên thế giới và các đề
xuất nhằm tăng cường hiệu quả của công tác bảo vệ NTD ở nước ta
- Đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực thi quy định pháp luật về vai trò Hội bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò của Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng ở Việt Nam, vai trò của của Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của một số
nước khác cũng như thực trạng pháp luật quy định về vai trò của Hội bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam, từ đó rút ra những kinh nghiệm và giải
pháp nhằm hoàn thiện hơn pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật quy
định về vai trò của Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Trong bài luận văn này, vai trò của Hội bảo vệ người tiêu dùng không chỉ
được nghiên cứu trên một phương diện nhất định mà em đã cố gắng xem xét vấn đề
một cách bao quát nhất. Em có tham khảo một số văn bản pháp luật, sách, tạp chí
hướng dẫn về bảo vệ NTD.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên
cứu chủ yếu bao gồm:
- Phương pháp phân tích sự kiện, thu thập, xử lý và thống kê..
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: trong luận văn này tác giả tìm hiểu nghiên
cứu các quy định của pháp luật một số quốc gia trên thế giới về bảo vệ người tiêu
dùng. Từ đó có sự so sánh, đối chiếu với nhau để rút ra được những kinh nghiệm
- Phương pháp phân tích các quy phạm của pháp luật quốc tế cũng như các
quốc gia khác về bảo vệ người tiêu dùng

7


6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Qua phân tích và nghiên cứu pháp luật quy định về vai trò của Hội bảo vệ
người tiêu dùng tại Việt Nam, có thể khẳng định rằng, luận văn là công trình nghiên
cứu một cách công phu, có hệ thống và khá toàn diện những vấn đề mang tính lý
luận nền tảng để làm cơ sở xây dựng, góp phần làm hoàn thiện hơn nữa pháp luật
Viêt Nam về vai trò của Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng như góp phần
làm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định pháp luật. Những phân tích, kết luận và

đề xuất mà luận văn đưa ra đều trên cơ sở khoa học và thực tiễn, vì vậy, luận văn
không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có giá trị thực tiễn. Là sự đóng góp
không nhỏ trong việc làm cho NTD có thể hiểu rõ hơn về vai trò của Hội bảo vệ
người tiêu dùng và những quy định pháp luật về vai trò của Hội. Luận văn cũng có
thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học
trong lĩnh vực pháp luật quy định về vai trò của Hội bảo vệ người tiêu dùng.
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được chia thành 3 chương.
Chương 1: Tổng quan về vai trò của Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Chương 2: Thực trạng pháp luật quy định vai trò của Hội bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng ở Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi quy định pháp
luật về vai trò của Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam.

8


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
1.1. Khái niệm, bản chất của Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
1.1.1. Khái niệm Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Hiện nay, tại Việt Nam chưa có khái niệm cụ thể về tổ chức xã hội tham gia
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng như khái niệm về Hội bảo vệ quyền lợi NTD
. Tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại Điều 27, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng thì tổ chức xã hội thành lập theo quy định của pháp luật và hoạt động theo
điều lệ được tham gia hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD. Vì vậy, các tổ chức xã hội
bao gồm cả các tổ chức chính trị xã hội như: Mặt trận tổ quốc, Hội Nông dân, Hội
phụ nữ v.v…đều tham gia công tác bảo vệ NTD.

Hiện nay, ở Việt Nam Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là một trong các
tổ chức xã hội tham gia tích cực vào công tác bảo vệ quyền lợi NTD. Căn cứ vào
định nghĩa về hội quy định tại Điều 2 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng
4 năm 2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước đối
với hội, thì Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được hiểu là tổ chức tự nguyện
của công dân, tổ chức Việt Nam hoạt động thường xuyên, không vụ lợi, có chung
mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, được tổ chức và hoạt động theo điều lệ được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và các quy định pháp luật có liên quan
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.
Một điểm khác biệt của Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng so với các tổ
chức xã hội khác đó là, tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là tổ chức xã hội
tự nguyện, hoạt động của hội không chỉ bảo vệ quyền lợi của các thành viên của hội
mà còn bảo vệ quyền lợi của các người tiêu dùng khác. Trên thực tế tại Việt Nam

9


hiện nay, các Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không thu phí hội viên, đặc biệt
là các hội viên là người tiêu dùng
Theo Điều 28 Luật BVQLNTD, các Hội bảo vệ quyền lợi NTD nói riêng và
các tổ chức xã hội tham gia BVQLNTD có các chức năng và nội dung hoạt động
như sau:
- Hướng dẫn giúp đỡ, tư vấn NTD khi có yêu cầu;
- Đại diện NTD khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng;
- Cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước về BVQLNTD thông tin về hành
vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ;
- Độc lập khảo sát, thử nghiệm, công bố kết quả khảo sát, thử nghiệm chất
lượng hàng hóa, dịch vụ do mình thực hiện; thông tin, cảnh báo cho NTD về hàng
hóa, dịch vụ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin, cảnh báo của mình;
- Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về

BVQLNTD;
- Tham gia xây dựng pháp luật, chủ trương, chính sách, phương hướng, kế
hoạch và biện pháp về BVQLNTD;
- Thực hiện nhiệm vụ được nhà nước giao;
- Tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về kiến thức tiêu dùng.
Tính đến thời điểm tháng 5/2016, trên toàn quốc đã có 51 Hội Bảo vệ người
tiêu dùng hoạt động trong phạm vi của tỉnh và 01 Hội Bảo vệ người tiêu dùng hoạt
động liên tỉnh được thành lập. [20, tr8].
1.1.2. Đặc trưng của Hội bảo vệ NTD
Bản chất của Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được thể hiện trong tôn
chỉ, mục đích của Hội và được quy định rõ tại Điều lệ hoạt động của Hội. Các Hội
10


được thành lập tại các địa phương khác nhau, do các cơ quan có thẩm quyền khác
nhau cho phép thành lập, có quy định khác nhau trong điều lệ hoạt động nhưng đều
thể hiện những nét đặc trưng sau:
Thứ nhất, Hội BVNTD là một tổ chức xã hội hoạt động không vì mục đích
lợi nhuận. Hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện của công dân, tổ chức Việt
Nam, hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng và các nhà sản xuất chân chính góp phần phát triển bền vững và ổn
định của nền kinh tế đất nước.
Thứ hai, Hội BVNTD là một tổ chức xã hội bởi Hội là tập hợp của công dân,
tổ chức Việt Nam, có chung mục đích tham gia vào Hội là để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người tiêu dùng cũng như các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh
doanh chân chính. Ngoài ra, Hội được thành lập để thực hiện các công việc xã hội,
các khoản thu của Hội mà không vì mục đích kinh doanh, không dùng các khoản
thu được vào sản xuất hoặc đầu tư khác,
Thứ ba, đặc thù của Hội BVNTD là Hội không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của các thành viên trong Hội mà Hội còn bảo vệ cho tất cả những người

tiêu dùng khác khi họ bị xâm phạm quyền và lợi ích. Mặt khác, thông qua các hoạt
động của Hội để chống hàng nhái, hàng giả, chống các hoạt động vi phạm pháp luật
về cân, đong, đo, đếm, dán nhãn mác, tiêu chuẩn, quy chuẩn. Hội bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng cũng bảo vệ các doanh nghiệp sản xuất chân chính… góp phần cho
sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế đất nước. Đây là điểm khác biệt
cơ bản của Hội BVNTD với các hội xã hội nghề nghiệp khác bởi các hội xã hội
nghề nghiệp khác được thành lập nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của các hội viên.
Tùy theo điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của mỗi địa phương mà tên gọi
và tôn chỉ, mục đích của các Hội BVNTD ở địa phương có một số điểm khác nhau.
Ví dụ: Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam với tôn chỉ, mục đích:
“là một tổ chức không vì mục đích lợi nhuận, tự nguyện của những người hoạt động

11


trong các lĩnh vực tiêu chuẩn hóa, chất lượng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
nhằm giúp đỡ nhau nâng cao nghề nghiệp, xây dựng và áp dụng các biện pháp kỹ
thuật công nghệ trong lĩnh vực tiêu chuẩn hóa, chất lượng và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.”. [37].
Những năm gần đây, do nhu cầu BVQLNTD ở các địa phương, một số Hội
BVNTD ở các tỉnh đã được thành lập như Hội BVNTD ở Bắc Giang, Hội BVNTD
Hà Tĩnh, Hội BVNTD Đồng Nai… Tuy trong tôn chỉ, mục đích của hội địa phương
có đặc điểm khác so với tôn chỉ, mục đích hoạt động của Vinastas, nhưng đều có
chung mục đích BVQLNTD và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chân chính
góp phần xây dựng kinh tế đất nước phát triển bền vững.
Như vậy, hiện nay ở Việt Nam, các Hội BVNTD có tên gọi khác nhau, được
thành lập ở các thời điểm khác nhau, tại các địa phương khác nhau nhưng về cơ bản
đều là tổ chức xã hội về BVQLNTD và là sự tập hợp của các công dân, tổ chức Việt
Nam, tự nguyện gia nhập, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, có tôn chỉ nhằm
mục đích bảo vệ quyền lợi của tất cả NTD Việt Nam, các cá nhân, tổ chức sản xuất,

kinh doanh chân chính vì mục tiêu đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và ổn
định.
1.2. Sự cần thiết và cơ sở pháp lý xác định vai trò của Hội Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong việc bảo vệ người tiêu dùng
1.2.1. Sự cần thiết của Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong việc bảo vệ
người tiêu dùng
Quan hệ giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ là quan hệ dân sự phổ biến trong xã hội. Đây là loại quan hệ được thực hiện chủ
yếu trên cơ sở hợp đồng mua-bán, mà theo đó, người tiêu dùng là người mua hoặc
sử dụng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của nhà cung cấp không vi mục đích kinh
doanh kiếm lời. Quan hệ dân sự này được thiết lập, thực hiện theo nguyên tắc cơ
bản: thỏa thuận, bình đẳng của pháp luật dân sự.

12


Khi nền kinh tế còn ở trình độ sơ khai, quan hệ dân sự chủ yếu là quan hệ
mua-bán hàng hóa giữa các cá nhân với nhau trong xã hội, khi đó hàng hóa, dịch vụ
chủ yếu cũng ở dạng đơn giản, chất lượng hàng hóa dễ nhận biết và việc giao kết
hợp đồng diễn ra không phức tạp. Đến thế kỷ XX, khi khoa học và công nghệ phát
triển vượt bậc, đặc biệt là sự bùng nổ của công nghệ thông tin thì hàng hóa, dịch vụ
kỹ thuật, công nghệ phức tạp hơn. Hàng mỹ phẩm, sản phẩm dinh dưỡng có sử
dụng nguyên liệu hoặc chất phụ gia cùng với các loại hàng cơ khí, điện tử có các bộ
phận gây ảnh hưởng đến sự an toàn cho ngưởi sử dụng xuất hiện ngày càng nhiều.
Người tiêu dùng có nguy cơ mua phải những hàng hóa, dịch vụ không an toàn cho
sức khỏe của mình bởi họ không đủ chuyên môn để đánh giá được chất lượng hàng
hóa, dịch vụ đó bằng mắt thường. Ngoài ra, trước đây, nhà phân phối là những
người có kỹ năng để lựa chọn hàng hóa có chất lượng nhưng ngày nay bản thân họ
cũng bị hạn chế về hiểu biết đối với công nghệ của các sản phẩm họ bán. Mặt khác,
trong nền kinh tế thị trường hiện nay, người tiêu dùng vì nhiều lý do mà không còn

thận trọng trong các quyết định mua hàng.
Từ các lý do nêu trên, các giao dịch dân sự mua-bán hàng hóa giữa người
tiêu dùng và thương nhân dần dần đã chuyển từ thế bình đẳng sang thế bất cân
xứng, ở đó lợi thế nghiêng về phía nhà sản xuất (nhà chuyên môn) bởi những người
này hiểu rất rõ về hàng hóa, dịch vụ do mình cung cấp cũng như các khuyết điểm
tiềm ẩn những nguy cơ nguy hiểm có thể xảy ra cho người sử dụng. Có thể nói, khi
giao dịch mua-bán hàng hóa với thương nhân, người tiêu dùng gặp nhiều điểm bất
lợi và có 4 yếu thế cơ bản so với thương nhân. Đó là: yếu thế về thông tin, yếu thế
về khả năng đàm phán, yếu thế về khả năng chi phối giá cả và các điều kiện giao
dịch, và yếu thế về khả năng chịu rủi ro phát sinh từ quá trình tiêu dùng hàng hóa.
Bởi vậy, vì lợi nhuận, thương nhân làm ăn không chân chính sẵn sang lợi dụng yếu
thế này mà xâm phạm quyền lợi của họ.
Do đó, để đảm bảo sự cân bằng trong quan hệ giữa người tiêu dùng với
thương nhân đã xuất hiện ý tưởng cần thiết phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
trước hết là nhằm chống lại các hành vi lừa dối, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng

13


và để bảo vệ sự an toàn cho người sử dụng. Người tiêu dùng, với tư cách là các chủ
thể “yếu thế” trên thị trường, có thể củng cố vai trò, vị thế của mình trong mối quan
hệ với các chủ thể trên thị trường bằng cách lập ra các tổ chức xã hội (các hội đoàn)
bảo vệ người tiêu dùng.
Các quốc gia có nền kinh tế thị trường lâu đời thường có các hội, đoàn do
người tiêu dùng hoặc những nhà hoạt động xã hội đứng ra tổ chức với mục tiêu bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng. Chẳng hạn, tại Đan Mạch, các hội bảo vệ người tiêu
dùng đã được thành lập từ những năm 1920. Tại Hoa Kỳ, ở cấp địa phương, cấp
bang và liên bang, có hàng ngàn tổ chức xã hội hoạt động vì mục đích bảo vệ người
tiêu dùng. Trong số đó, phải kể đến các tổ chức như Liên minh người tiêu dùng
(Consumers Union), được thành lập từ năm 1936 và hiện thời là tổ chức bảo vệ

người tiêu dùng có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Liên đoàn người tiêu dùng Hoa Kỳ
(thành lập năm 1967) với chức năng đại diện và cổ vũ quyền lợi của người tiêu
dùng trước các cơ quan dân cử và các cơ quan điều tiết liên bang cũng là tổ chức có
vai trò rất lớn trong việc xây dựng chính sách bảo vệ người tiêu dùng tại Hoa Kỳ.
Tại Canada có Hiệp hội người tiêu dùng (Consumers Association of Canada) được
thành lập từ năm 1947. Số lượng thành viên của Hiệp hội này đã có lúc lên tới trên
150 ngàn. Tại Anh Quốc, Hiệp hội người tiêu dùng toàn quốc (Consumers’
Association) cũng được thành lập từ năm 1957. Đây là tổ chức phát hành ấn phẩm
quan trọng về bảo vệ người tiêu dùng có tên là “Which” trong đó đăng tải các thông
tin độc lập về chất lượng, tính năng của các loại hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
Ấn phẩm Which rất phổ biến ở Anh và đã từng có thời điểm số lượng người đặt
mua lên tới hơn 1 triệu.[5].
Ngày nay, phong trào bảo vệ người tiêu dùng đã đạt tới quy mô toàn cầu. Sự
hiện diện của Quốc tế người tiêu dùng (CI) - tổ chức quốc tế duy nhất của các
nhóm, các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng thuộc tất cả các châu lục là một minh
chứng điển hình. Tổ chức này được thành lập vào ngày 1/4/1960 bởi các nhóm bảo
vệ người tiêu dùng của Tây Âu, Úc và Hoa Kỳ tuy nhiên, tính đến hết năm 2010, tổ

14


chức này đã quy tụ khoảng hơn 220 tổ chức, hội bảo vệ người tiêu dùng thành viên
đến từ 115 quốc gia trên khắp các châu lục. [5]
Hội tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam là thành viên của tổ
chức CI từ năm 1992. CI có chức năng hỗ trợ tăng cường năng lực cho thành viên
và phong trào người tiêu dùng thế giới, đấu tranh trên phạm vi quốc tế cho những
chính sách có liên quan đến người tiêu dùng. Các hoạt động của CI có tính chất
không vì lợi nhuận, kinh phí hoạt động dựa vào sự ủng hộ của chính phủ các nước
và các tổ chức phi chính phủ.
Cùng với việc ra đời của Tổ chức Người tiêu dùng Quốc tế thì ở nhiều quốc

gia hay trên bình diện quốc tế, lĩnh vực pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
cũng được hình thành, phát triển và là một công cụ quan trọng được sử dụng để bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.
1.2.2. Cơ sở pháp lý cho sự tồn tại , hoạt động và xác định vai trò của các Hội
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Bảo vệ NTD không chỉ là vấn đề của các quốc gia chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường, mà cũng là vấn đề thời sự của các quốc
gia có nền kinh tế thị trường phát triển. Bảo vệ NTD còn trở nên đặc biệt phức tạp
trong điều kiện toàn cầu hóa, khi mà NTD và nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ
không chỉ đến từ cùng một quốc gia.
Có thể áp dụng nhiều công cụ và phương pháp khác nhau để bảo vệ NTD.
Có các chủ thể với các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau có thể tham
gia bảo vệ NTD. Trong đó Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đóng một vai trò
hết sức quan trọng trong việc tham gia xây dựng, bảo vệ và phát huy hiệu lực của
pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD một cách có hiệu quả.
Ở Việt Nam, sự ra đời của tổ chức Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng góp
thêm sức mạnh cộng đồng bảo vệ an toàn, nâng cao chất lượng cuộc sống. Căn cứ
theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật BVQLNTD thì vai trò của các Hội
BVQLNTD được thể hiện trên ba phương diện sau:
- Thứ nhất, vai trò của Hội BVQLNTD được thể hiện trong công tác phản
biện xã hội;
15


- Thứ hai, vai trò của Hội BVQLNTD được thể hiện trong công tác giáo dục
NTD;
- Thứ ba, vai trò của Hội BVQLNTD được thể hiện trong việc giải quyết
khiếu nại của NTD.
Theo pháp luật hiện hành, hoạt động của các Hội BVQLNTD chịu sự điều
chỉnh của các văn bản pháp luật chủ yếu sau:

Nghị định số 45/2010/NĐ/CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định chi
tiết về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Khoản 1 Điều 2 Nghị định này quy định:
“Hội được hiểu trong Nghị định này là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức
Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp,
đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả,
góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt
động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan”.
Hội BVQLNTD (Bao gồm Hội Trung ương và Hội ở các tỉnh), là đối tượng
áp dụng của Nghị định này. Ngoài ra, Hội BVQLNTD còn chịu sự điều chỉnh của
các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng như: Luật
BVQLNTD năm 2010; Nghị định số 99/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVQLNTD.
Điều 1 của Luật BVQLNTD quy định rõ: “Luật này quy định về quyền và
nghĩa vụ của người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức xã hội trong bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng; giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng”.
Ngoài Luật BVQLNTD năm 2010, Nghị định số 99/2010/NĐ-CP, Hội
BVQLNTD còn chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự và các văn bản quy phạm
pháp luật khác có liên quan.

16


1.3. Sự hình thành và phát triển của quy định pháp luật về vai trò của Hội bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam
Việt Nam mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường trong thời gian chưa
dài. Vì vậy, việc bảo vệ người tiêu dùng trong pháp luật Việt Nam còn là lĩnh vực

tương đối mới. Xét một cách tổng quát, có thể phân chia sự hình thành và phát triển
của quy định pháp luật về vai trò của Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo
những mốc thời gian sau:
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1986
Đây là thời kỳ mà ở Việt Nam hầu như không có văn bản pháp lý nào liên
quan đến bảo vệ người tiêu dùng. Hành vi đầu cơ lương thực cũng bị trừng trị theo
các quy định của luật hình sự, luật hành chính chỉ nhằm bảo đảm an ninh lương
thực sau chiến tranh và bảo đảm độc quyền cho kinh tế Nhà nước. Những hoạt động
đầu cơ giai đoạn này là rất nhỏ và không ảnh hưởng đến đời sống người tiêu dùng.
Ngoài ra, việc sản xuất hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung không phải do lựa chọn hay sức ép của người tiêu dùng, cho nên, ngay cả
trong kinh tế học thời đó, người tiêu dùng rất ít được đề cập cũng như Hội bảo vệ
người tiêu dùng. Khái niệm người tiêu dùng và Hội bảo vệ người tiêu dùng đôi khi
cũng được truyền thông nhắc tới nhưng chỉ với tư cách là nguồn đánh giá tham
khảo cho việc xét duyệt các danh hiệu thi đua sản xuất giữa các đơn vị kinh tế quốc
doanh và tập thể.
1.3.2. Giai đọan từ năm 1986 đến năm 1999
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam năm
1986 đã đánh dấu bước chuyển của nền kinh tế nước ta từ nên kinh tế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Với việc hình thành
nền kinh tế thị trường, khái niệm người tiêu dùng xuất hiện với đúng nghĩa là thành

17


tố của thị trường. Cũng từ đây, ý kiến, nguyện vọng của người tiêu dùng không còn
là nguồn tham khảo trong đánh giá thi đua giữa các doanh nghiệp. Kết quả là sau
thời gian đổi mới, hàng hóa, dịch vụ được sản xuất ở Việt Nam đã trở nên phong
phú hơn thời kì bao cấp. Người tiêu dùng đã bước đầu có quyền lựa chọn những sản

phẩm phù hợp nhất với nhu cầu và túi tiền của mình thay vì buộc phải mua theo tem
phiếu như trước kia.
Những quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giai đoạn này
nằm tản mạn, rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như: Hiến
pháp Việt Nam năm 1992 (Điều 28); Bộ luật hình sự năm 1985 với các tội: Tội làm
hàng giả, tội buôn bán hàng giả (Điều 167); Tội lừa dối khách hàng (Điều 170)..
Ngoài ra, một số pháp lệnh và nghị định có liên quan cũng đề cập vấn đề bảo vệ
người tiêu dùng như pháp lệnh đo lường ngày 06/7/1990, Pháp lệnh chất lượng
hàng hóa ngày 27/12/1990, Nghị định số 140-HĐBT ngày 25/4/1991 quy định về
kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả, Bộ luật dân sự năm 1995…Tuy
nhiên, trước đòi hỏi của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng đã bộc lộ
những nhược điểm như các quy định pháp luật còn mang tính chung chung, đặc biệt
là thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện, do vậy, hiện tượng kinh doanh thiếu trung thực,
lừa dối người tiêu dùng thường xuyên xảy ra và chưa có cơ chế giải quyết thống
nhất. Thêm vào đó, việc giáo dục cho người tiêu dùng nhận thức đúng và đủ về
hàng hóa chưa được quan tâm đúng mức.
Khi nền kinh tế nước ta bắt đầu chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa bên cạnh những mặt tích cực do nền kinh tế thị trường đem
lại thì cũng này sinh những hành vi vi phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích
chính đáng của người tiêu dùng như gây bất ổn cho nền kinh tế và cho xã hội. Ngay
khi nảy sinh vấn đề người tiêu dùng, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến công
tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong
quan hệ giữa những người sản xuất với người tiêu dùng.

18


×