Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LÊ SƠN TÙNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI KHI
XÂM PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG

LÊ SƠN TÙNG

2014 - 2016

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI KHI
XÂM PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
LÊ SƠN TÙNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS LÊ ĐÌNH NGHỊ

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoạn luận văn
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi xâm phạm quyền lợi của người tiêu
dùng” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Lê Sơn Tùng


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa học và đề tài nghiên cứu tôi đã nhận được sự quan tâm,
giúp đỡ quý báu của quý Thầy, Cô trong Ban Giám hiệu Nhà trường, các Thầy, Cô
giáo Khoa Sau Đại học, Viện Đại học Mở Hà Nội. Xin gửi tới quý Thầy, Cô lòng
biết ơn chân thành và tình cảm quý mến nhất.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Thầy giáo TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ - người
hướng dẫn khoa học, Thầy đã nhiệt tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn
thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể các chuyên gia, nhà quản lý đang công tác
tại Sở Công Thương thành phố Hà Nội đã giúp đỡ, tận tình, tạo điều kiện để tôi

hoàn thành đề tài này.
Tôi xin cảm ơn tới gia đình, những người thân, bạn bè và đồng nghiệp đã
góp ý, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Hà Nội, ngày

tháng

Tác giả luận văn

Lê Sơn Tùng

năm 2016


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết đầy đủ

NTD

NTD

BTTH

BTTH

TNBTTH


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................................... 1
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ........................................................................................ 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu ..................................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................. 4
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ........................................................................... 4
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI KHI XÂM PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG............................ 5
1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về người tiêu dùng và quyền của người tiêu dùng ..... 5
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng................................................................................. 5
1.1.2. Quyền lời người tiêu dùng ................................................................................. 8
1.2. Nhận diện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng .................................................. 11
1.2.1. Nhận diện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng .......................... 11
1.2.2. Phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng
trong hợp đồng và ngoài hợp đồng ................................................................................... 23
1.2.3. Ý nghĩa các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi xâm
phạm quyền lợi của người tiêu dùng ................................................................................ 25
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI KHI XÂM PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU
DÙNG........................................................................................................................................27
2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi xâm phạm quyền lợi của
người tiêu dùng .................................................................................................................. 27
2.1.1. Có thiệt hại xảy ra.................................................................................................... 27
2.1.2. Phải có hành vi trái pháp luật ................................................................................. 30

2.1.3. Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật ..... 32
2.1.4. Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại .......................................... 34
2.2. Chủ thể ........................................................................................................................ 34
2.2.1. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ...................................................... 34
2.2.2. Chủ thể được bồi thường thiệt hại .......................................................................... 38


2.3. Nội dung của quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi xâm phạm
quyền lợi của người tiêu dùng ........................................................................................... 42
2.3.1. Quyền được bồi thường thiệt hại của người tiêu dùng.......................................... 42
2.3.2. Các quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 ......................................... 43
2.3.3. Các quy định của Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010; Nghị định
99/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan về bảo
vệ người tiêu dùng ............................................................................................................. 47
2.3.4. Các quy định trong thủ tục tố tụng ......................................................................... 55
CHƯƠNG 3: NHỮNG MẶT TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN
THIỆN TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG ..... 58
3.1. Những mặt tồn tại, hạn chế về bồi thường thiệt hại khi xâm phạm quyền lợi của
người tiêu dùng .................................................................................................................. 58
3.1.1. Hạn chế từ phía người tiêu dùng Việt Nam ........................................................... 58
3.1.2. Hạn chế đến từ nhà sản xuất và phân phối sản phẩm, hàng hóa tiêu dùng ở Việt
Nam..................................................................................................................................... 63
3.1.3. Hạn chế đến từ phía cơ quan quản lý nhà nước ................................................ 65
3.2. Định hướng các phương án nhằm đẩy mạnh công tác giải quyết vấn đề về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại khi xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng trong thực
tiễn nước ta hiện nay ................................................................................................. 73
3.2.1. Tăng cường công tác đào tạo, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng ..................................................................................... 74
3.2.2. Tăng cường hỗ trỡ và tìm giải pháp cho bài toán kinh phí hoạt động trong công

tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của các Hội bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
trên cả nước ............................................................................................................... 75
3.2.3. Tăng cường thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ..................................... 76
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 81


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển
đột phá. Các doanh nghiệp kinh doanh được chủ động sản xuất, kinh doanh, và tự
do cạnh tranh. Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển nền kinh tế thị trường có sự định
hướng của nhà nước thì chúng ta đã xây dựng một hệ thống pháp luật tạo hành lang
pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động và là cơ sở để nhà nước tiến hành hoạt
động quản lý. Sự phát triển kinh tế thể hiện qua hàng hoá, dịch vụ ngày càng được
cung cấp đầy đủ, đa dạng hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân. Đó là
một thuận lợi rất lớn cho NTD có thể lựa chọn hàng hóa, dịch vụ thích hợp với nhu
cầu của mình. Bên cạnh những thuận lợi đó, NTD cũng gặp phải rất nhiều khó khăn
việc lựa chọn hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho mục đích tiêu dùng của mình. Bởi với
sự đa dạng của chủng loại hàng hoá, dịch vụ đòi hỏi NTD phải có những kiến thức
tiêu dùng nhất định; ngoài ra một số loại hàng hoá, dịch vụ còn đòi hỏi phải có kiến
thức chuyên sâu mới có thể thẩm định về chất lượng của chúng và sự quản lý, kiểm
định chặt chẽ của nhà nước. Điều này thì không phải mọi NTD đều có thể đáp ứng,
mặt khác điều kiện của nước ta - xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp khi bước
sang phát triển theo nền kinh tế thị trường nên kỹ năng quản lý còn yếu kém. Lợi
dụng điều đó, nhiều nhà sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đã chạy theo lợi
nhuận mà không tuân thủ các quy định của nhà nước trong quá trình sản xuất và
cung ứng ra thị trường để cung cấp cho NTD những hàng hoá không đảm bảo chất
lượng và gây thiệt hại cho NTD. Vì vậy nhu cầu cần có một hệ thống pháp lý để bảo
vệ quyền lợi NTD nói chung và quyền được BTTH của NTD nói riêng là một nhu

cầu cấp bách tồn tại song song vơi sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường là do tiêu dùng điều tiết, vì vậy
tiêu dùng đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định chính sách kinh tế và
NTD là đối tượng được mọi hoạt động hướng tới đặc biệt là hoạt động sản xuất,

1


kinh doanh. Vai trò của NTD đã được cố Tổng thống Mỹ John Fitzgerald Kennedy
đề cập tới trong buổi phát biểu tại Thượng Nghị Viện Mỹ ngày 15/03/1967: “người
tiêu dùng theo định nghĩa, bao gồm toàn thể chúng ta. Họ là nhóm người đông đảo
nhất, có ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của hầu hết các quyết định về kinh tế, dù là
của nhà nước hay tư nhân. Vậy mà, họ là nhóm người quan trọng độc nhất mà quan
điểm của họ thường không được chú ý tới”. Trong lời phát biểu đó, không những
vai trò của NTD được đề cập tới mà vấn đề quyền lợi của NTD chưa được quan tâm
đúng mức cũng đã được đề cập tới. Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam, quyền và lợi
ích của NTD không chỉ không được quan tâm đúng mức mà nó còn đang bị xâm
phạm một cách nghiêm trọng ở mọi lúc mọi nơi, mọi lĩnh vực và có thể đặc biệt là
trong vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đã và đang là vấn đề gây bức xúc cho NTD
và làm đau đầu các nhà quản lý. Vì lợi nhuận trước mắt nên nhiều cá nhân, tổ chức
sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đã sản xuất, nhập khẩu buôn bán hàng giả,
hàng kém chất lượng và thực phẩm không an toàn xâm hại không nhỏ đến sức khoẻ,
tính mạng, tài sản của NTD. Trong khi sự quản lý của nhà nước còn nhiều yếu kém
nên dẫn đến tình trạng dù đã áp dụng nhiều biện pháp nhưng tình hình hàng giả,
hàng kém chất lượng vẫn tràn lan trên thị trường và không chỉ có ở các cửa hàng
nhỏ lẻ mà cả trong các siêu thị; số ca ngộ độc thực phẩm do sử dụng hàng hoá
không đảm bảo chất lượng; các bệnh lây truyền do thực phẩm không an toàn ngày
càng gia tăng.
Vấn đề đặt ra trong điều kiện như vậy là phải có các biện pháp hữu hiệu để

bảo vệ NTD. Biện pháp hữu hiệu nhất để bảo vệ NTD vẫn là pháp luật. Ý thức được
điều này, nhà nước ta đã xây dựng hệ thống pháp luật khá hoàn thiện để có thể bảo
vệ được quyền lợi của NTD khi quyền và lợi ích của họ bị xâm phạm. Theo quy
định của pháp luật hiện hành, khi quyền lợi của NTD dùng bị xâm hại do việc sử
dụng hàng hoá dịch vụ của nhà sản xuất, kinh doanh thì họ có thể yêu cầu nhà sản
xuất, kinh doanh hàng hoá BTTH cho mình và trong trường hợp nếu hai bên không
thể thoả thuận được về cách bồi thường và mức bồi thường thì NTD có thể khởi
kiện ra toà. Và khi quyền và lợi ích của NTD bị xâm phạm thì việc BTTH có thể

2


giải quyết theo quy định pháp luật theo hợp đồng hoặc theo quy định ngoài hợp
đồng. Tuy nhiên nếu như các quy định của pháp luật về BTTH cho NTD do vi
phạm quyền lợi của họ trong hợp đồng khá chi tiết và cụ thể thì quy định về BTTH
cho NTD ngoài hợp đồng lại rất chung chung và còn nhiều bất cập. Hơn nữa, việc
BTTH cho NTD từ phía các doanh nghiệp là rất hạn chế, một số doanh nghiệp vì
muốn giữ uy tín nên họ đành chấp nhận đền bù nhưng phần lớn thì lại tỏ thái độ
chây lì khi BTTH cho NTD. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề này không chỉ có ý
nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn và trên cơ sở đó tôi đã chọn đề tài
nghiên cứu là: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi xâm phạm quyền lợi của
người tiêu dùng”. Thông qua đề tài này, tôi rất muốn đóng góp một phần nào đó
vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ NTD.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
TNBTTH khi xâm phạm quyền lợi của NTD là một đề tài rất rộng và được
nhiều ngành luật điều chỉnh trong các quy định về Hình sự; Hành chính; Dân sự.
- Dưới góc độ luật hình sự, các nhà làm luật quan tâm tới hành vi vi phạm
quyền lợi NTD gây ra các hậu quả nghiêm trọng cho xã hội và phải chịu trách
nhiệm hình sự.
- Dưới góc độ luật hành chính, các nhà làm luật quan tâm tới hành vi vi phạm

quyền lợi NTD trong trường hợp làm trái các quy định gì của nhà nước về trật tự
quản lý sản xuất, kinh doanh.
- Dưới góc độ luật dân sự thì sự quan tâm được tập trung vào trách nhiệm
dân sự của nhà sản xuất, kinh doanh đối với NTD đã bị thiệt hại do sử dụng hàng
hoá, dịch vụ đó.
Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu có hạn của mình, tôi chỉ tập trung vào giải
quyết một số vấn đề chính liên quan đến vấn đề TNBTTH khi xâm phạm quyền lợi
của NTD như: Cơ sở lý luận của TNBTTH ngoài hợp đồng; Cơ sở lý luận của
TNBTTH khi xâm phạm quyền lợi của NTD; Quyền được BTTH và khởi kiện khi
quyền và lợi ích của NTD bị xâm phạm; Trách nhiệm của các tổ chức sản xuất, kinh

3


doanh phải BTTH cho NTD khi vi phạm; Thực trạng quy định của pháp luật Việt
Nam về bảo vệ quyền lợi NTD.
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề TNBTTH khi xâm phạm quyền lợi của NTD
như: Khái niệm NTD; Quyền của NTD; Cơ sở để NTD buộc các doanh nghiệp
BTTH (điều kiện phát sinh TNBTTH khi xâm phạm quyền lợi của NTD); Vai trò
của cơ quan nhà nước trong quản lý bảo vệ NTD…
Đánh giá, phân tích thực trạng pháp luật ở nước ta hiện nay trong vấn đề về
BTTH khi xâm phạm quyền lợi của NTD.
Đưa ra một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng quyền lợi NTD bị xâm phạm
và phương hướng cụ thể để hoàn thiện các quy định của pháp luật về BTTH khi
xâm phạm quyền lợi của NTD.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phương pháp so
sánh, phân tích, tổng hợp và thống kê.

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận, đề tài nghiên cứu là công trình nghiên cứu một cách có hệ
thống các quy định của pháp luật về BTTH khi xâm phạm quyền lợi của NTD góp
phần xây dựng các luận cứ khoa học cho việc bảo vệ NTD theo pháp luật hiện hành.
Ngoài ra, đề tài còn phục vụ trực tiếp cho quá trình hoàn thiện các quy định của
pháp luật về BTTH cho NTD.

4


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI KHI XÂM PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG
1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về người tiêu dùng và quyền của người tiêu
dùng
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng
NTD là chủ thể trung tâm, là nhân tố quyết định sự phát triển của thị trường
hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, trong quan hệ sản xuất – tiêu dùng thì NTD luôn bị
yếu thế so với các nhà sản xuất, phân phối hàng hóa. Cho nên các nhà sản xuất,
phân phối hàng hóa thường trục lợi bằng cách xâm hại những lợi ích của NTD.
Điều trước tiên và vô cùng quan trọng đối với các nhà làm luật khi xây dựng cơ chế
pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi NTD là phải xác định từ nhiều góc độ khác nhau
trong nội hàm khái niệm “người tiêu dùng” (consumer) – những chủ thể được
hưởng lợi từ pháp luật bảo vệ NTD.
Dưới góc độ kinh tế: Từ tiếng Anh chỉ NTD là consumer , hoặc có nơi gọi là
“end consumer” (NTD cuối cùng). Khái niệm “khách hàng” mang nghĩa rộng hơn,
dùng để chỉ người mua hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho bản thân hoặc làm nguyên
liệu (materials) cho sản xuất, kinh doanh. Do vậy, người mua, sử dụng hàng hóa,
dịch vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh không thuộc phạm vi điều chỉnh của

pháp luật bảo vệ NTD. Bởi vậy, có thể hiểu theo nghĩa hẹp thì NTD là người mua,
họ là những người sử dụng hàng hóa, dịch vụ cuối cùng (consumer goods/services
hoặc final goods/services) và làm chúng tiêu hao hoặc biến mất qua việc sử dụng
đó. Hiểu theo nghĩa rộng thì trong mọi nền sản xuất xã hội, xét cho cùng đối tượng
được hướng tới chính là NTD với những động thái chi tiêu của họ (consumer
behaviors) chính là tư liệu để phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh.

5


Dưới góc độ pháp lý: Khái niệm NTD chỉ xuất hiện với tư cách là chủ thể
pháp luật từ khi lĩnh vực pháp luật về bảo vệ NTD ra đời. Theo pháp luật bảo vệ
NTD, NTD được hưởng sự ưu tiên hơn so với chủ thể luật dân sự khác trong các
giao dịch với thương nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Sở dĩ, NTD được ưu tiên
hơn so với thương nhân trong quan hệ tiêu dùng bởi họ có nhiều yếu thế hơn như:
thiếu thông tin về hàng hóa dịch vụ; về khả năng đàm phán khi giao kết hợp đồng;
yếu về khả năng chịu rủi ro phát sinh trong quá trình tiêu dùng. Bởi vậy, trong thực
tiễn áp dụng pháp luật thì NTD được hưởng sự ưu tiên hơn so với những chủ thể
luật dân sự khác trong các giao dịch cũng như trong giải quyết tranh chấp. Chính
bởi sự ưu tiên này, nhằm đảm bảo hiệu quả điều chỉnh và tính công bằng trong áp
dụng các ưu đãi, pháp luật thì NTD không thể là đối tượng chung chung mà luôn
phải là các chủ thể cụ thể và dưới góc độ pháp lý việc xác định chủ thể nào là NTD
và là đối tượng được bảo vệ của pháp luật bảo vệ NTD có vai trò vô cùng quan
trọng.
- Luật pháp của đa số các nước trên thế giới quy định, NTD chỉ là các cá
nhân và không coi tổ chức là NTD. Các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ mà tổ
chức tham gia mặc dù đối tượng của giao dịch hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng sẽ được
bảo vệ theo pháp luật hợp đồng chứ không được bảo vệ theo pháp luật bảo vệ NTD.
+ Luật Bảo vệ người tiêu dùng ở Liên Xô cũ định nghĩa NTD là “Công dân
sử dụng, mua đặt hàng hoặc có ý định mua sắm sản phẩm để sử dụng riêng”. Như

vậy với định nghĩa này, NTD chỉ được sử dụng với nghĩa rất hẹp, chưa tính đến
những người sử dụng các dịch vụ. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử mà việc đáp ứng
những nhu cầu của người dân ở giai đoạn này mới ở mức tối thiểu, mặt khác các
loại hình dịch vụ chưa có điều kiện phát triển nên việc xác định như vậy là do hạn
chế của lịch sử; Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Tiệp và Slovakia năm 1992 có
định nghĩa: “Người tiêu dùng là người vì mình hoặc vì các thành viên của gia đình
mình mua sắm sản phẩm hoặc sử dụng dịch vụ để tiêu dùng cho mục đích cá nhân”.
Theo định nghĩa này đã khắc phục được hạn chế về trường hợp những người sử
dụng dịch vụ phục vụ cho nhu cầu cá nhân mà theo định nghĩa của Luật Bảo vệ

6


người tiêu dùng của Liên Xô cũ không có nhưng nó cũng có thiếu sót - những người
của một tổ chức không phải là các thành viên của gia đình khi sử dụng hàng hoá,
dịch vụ với tư cách là tập hợp các cá nhân và sử dụng vì mục đích không phải là
kinh doanh hay không phải vì mục đích lợi nhuận cũng không được coi là NTD.
Khi họ sử dụng hàng hoá dịch vụ vì mục đích sinh hoạt mà bị thiệt hại thì áp dụng
quy định nào để BTTH cho họ; khi họ không sử dụng hàng hoá, dịch vụ với mục
đích kinh doanh, vì lợi nhuận.
+ Theo hệ thống pháp luật Hoa Kỳ, tuy các đạo luật cụ thể không quy định
khái niệm NTD nhưng theo các chuyên gia pháp luật Hoa Kỳ thì: “Người tiêu dùng
là cá nhân tham gia giao dịch với mục đích chủ yếu vì nhu cầu cá nhân hoặc sinh
hoạt gia đình”. Còn theo quan niệm về NTD của Liên minh châu Âu (EU) cũng
được thể hiện trong Chỉ thị số 1999/44/EC ngày 25/5/1999 về việc mua bán hàng
hóa tiêu dùng và các bảo đảm có liên quan. Theo Chỉ thị này thì “Người tiêu dùng
là bất cứ tự nhiên (tức cá nhân) tham gia vào các hợp đồng trong chỉ thị này vì mục
đích không liên quan tới hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của mình”. Quan
điểm này trước đó cũng đã từng được thể hiện trong phán quyết của Tòa Công lý
châu Âu (European Court of Justice) năm 1991 khi giải quyết tranh chấp giữa các

nước thành viên. Cùng thống nhất với Chỉ thị số 1999/44/EC thì Bộ luật bảo vệ
người tiêu dùng của Pháp năm 1993 giải thích: “Người tiêu dùng là người mua
hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho cá nhân, gia đình hoặc hộ gia đình mà không có ý
định bán lại hoặc nhằm mục đích kinh doanh”; Điều 13 Bộ luật Dân sự Đức năm
2002 quy định: “Người tiêu dùng là bất cự tự nhiên nhân (cá nhân) nào tham gia
giao dịch không thuộc phạm vi hoạt động kinh doanh, thương mại hoặc nghề
nghiệp của người này”.
+ Hệ thông pháp luật của các quốc gia châu Á cũng có quan điểm tương
đồng, Điều 2 Luật Hợp đồng người tiêu dùng của Nhật Bản năm 2000 giải thích:
“Người tiêu dùng là cá nhân, không bao gồm trường hợp cá nhân trở thành một bên
của hợp đồng như một thương nhân vì mục đích thương mại”; Theo Luật bảo vệ
người tiêu dùng của Đài Loan thì “Người tiêu dùng là người tham gia vào các giao

7


dịch, sử dụng hàng hoá hoặc dịch vụ vì mục đích tiêu dùng” (Khoản 1, Điều 2, Luật
Bảo vệ người tiêu dùng của Đài Loan).(1)
- Ở Việt Nam, theo Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng số 13/1999/PLUBTVQH10 ngày 24/07/1999 và tiếp tục được ghi nhận trong Luật Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng năm 2010 thì cả hai văn bản này đều quy định: “Người tiêu
dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt
của cá nhân, gia đình, tổ chức”. Có thể thấy, so với pháp luật của nhiểu nước trên
thế giới, đối tượng là NTD được bảo vệ theo pháp luật bảo vệ NTD của Việt Nam
có sự mở rộng hơn. Ngoài đối tượng là các cá nhân được pháp luật bảo vệ như
thông lệ quốc tế, pháp luật Việt Nam còn coi các tổ chức cũng là NTD khi tổ chức
đó mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng. Tuy nhiên,
việc xác định tổ chức hay thương nhân có là NTD hay không là vấn đề còn nhiều ý
kiến khác nhau. Trong đó nổi bật với hai luồng ý kiến:
Một là, thương nhân khi mua hàng hóa không nhằm mục đích bán lại hoặc
kinh doanh thì vẫn được coi là NTD.

Hai là, trường hợp thương nhân mua hàng hóa, dịch vụ đều là những hành vi
thương mại phụ thuộc, phục vụ cho hoạt động kinh doanh của thương nhân nên đều
phải được điều chỉnh theo pháp luật hợp đồng thương mại chứ không được bảo vệ
theo pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD.
1.1.2. Quyền lợi người tiêu dùng
NTD chính là người bỏ tiền ra để mua sản phẩm, hàng hóa, thuê dịch vụ của
nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ, do vậy NTD chính là người mang lại lợi nhuận
cho các doanh nghiệp, các nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ. Hay nói cách khác,
NTD là người duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp (khi sản phẩm, dịch
vụ của một doanh nghiệp đưa ra thị trường mà không có người sử dụng hoặc chỉ có
một số ít người sử dụng thì doanh nghiệp đó sẽ không thu được lợi nhuận và nhanh

1

Xem luật bảo vệ NTD Đài Loan năm 1994, sửa đổi bổ sung năm2003 và 2005

8


chóng phá sản), do đó một khẩu hiệu (slogan) mà toàn thế giới biết đến đó là “khách
hàng là thượng đế” (Consumer is God).
Hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD được hình thành và phát triển đã khá lâu,
nhưng những quyền của NTD thì chưa được xác định rõ rệt. Ngày 15/03/1962, từ
phát biểu của Tổng thống Kennedy trong một cuộc họp của Thượng viện Mỹ thì
những quyền của NTD đã dần dần được hình thành và phát triển thành bốn quyền
cơ bản, đó là: quyền được an toàn, quyền được thông tin, quyền được lựa chọn và
quyền được bày tỏ quan điểm. Bốn quyền này là cốt lõi của hoạt động bảo vệ quyền
lợi NTD trên thế giới trong giai đoạn đó.
Theo Nghị quyết số 39/248 ngày 09/4/1985 của Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua “Bản hướng dẫn bảo vệ Người tiêu dùng” thì NTD có tám quyền cơ bản

bao gồm:
1. Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản;
2. Quyền được an toàn;
3. Quyền được thông tin;
4. Quyền được lựa chọn;
5. Quyền được lắng nghe;
6. Quyền được khiếu nại và bồi thường;
7. Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng;
8. Quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững.
Bản hướng dẫn đã vạch ra những nguyên tắc khung để tăng cường các chính
sách bảo vệ NTD của các quốc gia dựa trên 08 quyền của NTD. Sau này Liên hợp
quốc vào năm 1983 đã chính thức tuyên bố ngày 15 tháng 3 hàng năm trở thành
“Ngày quyền của người tiêu dùng thế giới”, được gọi tắt theo tiếng Anh là WCRD
(World Consumer Rights Day).

9


Với sự phê chuẩn của Liên hợp quốc, tám quyền cơ bản quyền của NTD đã
được đưa lên vị trí hợp pháp và được quốc tế công nhận, được tất cả các quốc gia dù
là phát triển hay đang phát triển thừa nhận. Chính phủ nhiều nước đã đưa nội dung
tám quyền của NTD vào pháp luật bảo vệ NTD của nước mình và nó được dùng
làm cơ sở để các quốc gia hoạch định chính sách bảo vệ NTD trong nước cũng như
là cơ sở cho hoạt động của các tổ chức bảo vệ NTD trên thế giới. Ở nước ta, Luật
bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 quy định NTD Việt Nam có tám quyền cơ bản
sau:
“Điều 8
1. Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp.

2. Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng
hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin
cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng.
3. Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc không tham
gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
4. Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả,
chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội
dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ.
5. Tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.

10


6. Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội
dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết,
quảng cáo hoặc cam kết.
7. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo
vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật có liên quan.
8. Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch
vụ.”
Như vậy, quyền lợi NTD là những lợi ích NTD được công nhận và được đảm
bảo thực hiện trong quá trình tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ.
1.2. Nhận diện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trách

nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng
1.2.1. Nhận diện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” là những chế định quan
trọng của luật dân sự. Vấn đề này đã được các nhà luật học đề cập từ rất sớm để bảo
vệ các quyền cơ bản của con người như: quyền bất khả xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, danh dự nhân phẩm... hay quyền sở hữu tài sản. Vì vậy, việc nghiên cứu sự
hình thành và phát triển của các khái niệm này là cơ sở để áp dụng thống nhất và có
ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà cả về mặt thực tiễn.
1.2.1.1. Khái niệm thiệt hại
Ngay từ thời La Mã cổ đại khái niệm về “thiệt hại” đã được các luật gia La
Mã đề cập và cho rằng khái niệm này được cấu thành bởi hai thành phần, cụ thể:
- Thành phần thứ nhất là Damnumemrgens - sự thiệt hại, sự mất mát của một
bộ phận tài sản cụ thể.

11


- Thành phần thứ hai là Lucrum cessans - bỏ mất lợi tức, sự mất mát tài sản
có thể có nếu hoàn cảnh diễn ra bình thường(1).
Như vậy về cơ bản thì luật La Mã xác định thiệt hại là những tổn thất mất
mát về tài sản đang có và sẽ có trong tương lai - thiệt hại mang tính tài sản. Chẳng
hạn, theo luật gia Gaius ông đã đưa ra một ví dụ: một nô lệ thuộc một nhóm nhạc
công và nếu nô lệ này bị giết, thì khi xét BTTH phải lưu ý tới tình trạng cả nhóm
nhạc công nô lệ bị giảm giá trị do người nô lệ đó bị giết(2). Qua ví dụ này, ta thấy
việc BTTH do hành vi trái pháp luật giết người nô lệ là một nhạc công trong một
nhóm nhạc thì không những phải BTTH cho những mất mát trực tiếp của chủ nô lệ
đó mà còn phải BTTH cho cả những mất mát gián tiếp - sự giảm sút giá trị của
nhóm nô lệ nhạc công do nô lệ kia bị giết, những lợi ích sẽ có của người chủ nô lệ
này nếu không có sự kiện đó xảy ra. Ngoài ra, ta còn thấy chế định về thiệt hại của
luật La Mã chủ yếu đề cập đến thiệt hại về vật chất - thiệt hại mang tính tài sản, bởi

bản chất của các quan hệ pháp luật dân sự là những quan hệ mang tính tài sản.
Ngày nay, những tư tưởng pháp lý này của các luật gia La Mã đã được các
nhà lập pháp kế thừa; chẳng hạn theo Điều 1149 của Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà
Pháp quy định “những thiệt hại phải bồi thường cho người có quyền gồm những
khoản mà họ mất và mức lợi mà họ không được hưởng”(3). Ngoài ra các nhà lập
pháp ngày nay còn phát triển và xác định thêm thiệt hại còn bao gồm cả thiệt hại phi
vật chất - thiệt hại về tinh thần; Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định tại Điều707 thì
một người chịu TNBTTH cả những thiệt hại phi vật chất bất kể thiệt hại như vậy
xảy ra đối với quyền lợi, uy tín hay tài sản của người khác. Hay Bộ luật Dân sự của
Cộng hoà Liên Bang Đức có quy định:
“1. Đối với trường hợp do vi phạm của hoạt động tố tụng thì có quy định:
trong trường hợp gây thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ cũng như trong trường hợp

(1)
Đại học Quốc Gia Hà Nội, Đại học Tổng hợp, Khoa luật, Luật La Mã, sđ d.tr 112: theo luật gia Gaius,
quyển 3, điều 212, Bộ Degest, quyển 9, mục 2, trích 22, Điều 1
(2)
Đại học Quốc Gia Hà Nội, Đại học Tổng hợp, Khoa luật, Luật La Mã, sđ d.tr 112
(3)
Bộ luật Dân sự Pháp l999, Nxb chính trị Quốc Gia Hà Nội

12


bị phạt tù giam thì người bị thiệt hại cũng có quyền yêu cầu bồi thường bằng tiền
đối với những tài sản không mang tính tài sản.
2. Người phụ nữ cũng có quyền yêu cầu tương tự nếu người này bì thiệt hại
trong các trường hợp vi phạm đạo đức nghiêm trọng hoặc bị cưỡng bức quan hệ
tình dục ngoài hôn nhân bằng âm mưu thâm độc, bị đe doạ hoặc lạm dụng mối
quan hệ phụ thuộc.”

Theo nghĩa hiểu thông thường thì “thiệt hại là những mất mát, hư hỏng nặng
nề về người và của”(1).
Theo quan điểm pháp lý của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam thì: “thiệt
hại là tổn thất về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức
được pháp luật bảo vệ”(2).
Ở Việt Nam thì trước khi có Bộ luật Dân sự chính thức quy định về vấn đề
này thì tồn tại hai quan điểm trái ngược về xác định thiệt hại phi tài sản - thiệt hại về
tinh thần…, trong đó:
Quan điểm thứ nhất, cho rằng thiệt hại tinh thần không thể bồi thường vì tính
mạng, tình cảm của con người là vô giá; do đó không có căn cứ để xác định mức
thiệt hại.
Quan điểm thứ hai, cho rằng thiệt hại cả về vật chất và tinh thần đểu phải bồi
thường vì mọi tính toán chỉ mang tính tương đối, mà bản chất của BTTH đều là
nhằm khắc phục hậu quả của thiệt hại đã xảy ra. Quan điểm này đã được thừa nhận
chính thức và được ghi nhận trong Thông tư của Toà án Nhân dân Tối cao số
173/1972/TT-UBTP ngày 23/3/1972 hướng dẫn xét xử về BTTH ngoài hợp đồng
(sau đây gọi tắt là TT số 173) nhưng chưa được áp dụng thống nhất trong thời kỳ
này. Đến khi nước ta chính thức có Bộ luật Dân sự 1995 thì thiệt hại được chính
thức xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần thông qua quy
định về TNBTTH:
1
2

Nguyễn Như Ý, Nxb.Thông tin Hà Nội, Đại Từ Điển Tiếng Việt, sđ d.tr 1570
Nxb. Công An Nhân Dân, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, 1999, sđ d.tr 118

13


“Điều 310. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại

1- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt
hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần.
2- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn
thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm
tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị
giảm sút.
3- Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác, thì ngoài việc chấm
dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản
tiền cho người bị thiệt hại.”
Đến Bộ Luật dân sự 2005 thì quy định này tiếp tục được kế thừa tại Điều
307: “Như vậy ta có thể định nghĩa thiệt hại là tổn thất, mất mát về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tin, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo
vệ.”
1.2.1.2. Nhận diện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Montesquieu - nhà tư tưởng lỗi lạc của thời kỳ khai sáng đã từng tuyên bố
một chân lý: “Tự do có nghĩa là có thể làm tất cả những gì mà không làm thiệt hại
đến người khác”. Tư tưởng ấy sau đó đã được áp dụng vào hoạt động lập pháp của
nhiều quốc gia sau này. Chẳng hạn Điều 4 của Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của nước Cộng hoà Pháp năm 1789 đã trích dẫn tư tưởng này: “Tự do bao
gồm quyền làm mọi điều không gây hại cho người khác. Như vậy việc thực hành các
quyền tự nhiên của mỗi người chỉ bị giới hạn trong việc bảo đảm cho các thành
viên của xã hội được hưởng các quyền đó. Các giới hạn này chỉ có thể do pháp luật
quy định”(1). Tư tưởng này khẳng định việc thực hiện các quyền tự nhiên của mỗi
người là “tự do”. Nhưng quyền tự do này chỉ có thể được đảm bảo thực hiện và

1

Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp


14


được thực hiện khi từng thành viên trong xã hội thực hiện quyền của mình trên cơ
sở đảm bảo cho các thành viên khác cũng có được quyền này có nghĩa là không có
tự do tuyệt đối mà việc thực hiện quyền tự do của một thành viên bất kỳ trong xã
hội phải bảo đảm không xâm phạm đến tự do của các thành viên xã hội còn lại hay
tự do của họ có những giới hạn nhất định và giới hạn này phải do nhà nước - thông
qua pháp luật quy định nhằm đảm bảo sức mạnh cưỡng chế với tất cả mọi người.
Trên thực tế ta cũng thấy rằng, việc thực hiện các quyền của từng cá nhân
này luôn chứa đựng những nguy cơ gây ảnh hưởng, tổn thất thậm chí còn có thể gây
thiệt hại cho người khác. Vì vậy, việc được hưởng các quyền tự do của con người là
một nhu cầu khách quan thì cũng tồn tại song hành khả năng xâm phạm đến quyền
lợi của người khác và nó yều cầu cần có một quy phạm mang tính cưỡng chế chung
để điều hoà các mặt đối lập này trong đó pháp luật chính là nhân tố có khả năng và
chức năng điều hoà. Để bảo vệ các quyền đó, pháp luật dân sự đã quy định các hành
vi gây thiệt hại và TNBTTH để điều hoà hai mặt đối lập trong việc thực hiện quyền
tự do của con người.
Theo quan điểm của hầu hết các nhà luật gia thì “TNBTTH là trách nhiệm
của người có hành vi vi phạm, có lỗi trong việc gây ra thiệt hại về vật chất, tinh
thần phải bồi hoàn cho người bị thiệt hại nhằm phục hồi tình trạng tài sản, bù đắp
tổn thất tinh thần cho người bị thiệt hại. TNBTTH bao gồm: TNBTTH về vật chất và
TNBTTH về tinh thần. TNBTTH về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất thực tế,
tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra bao gồm tổn thất về tài sản,
chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất bị giảm sút của người
bị thiệt hại. TNBTTH về tinh thần là trách nhiệm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi,
cải chính công khai và bồi thường một khoản tiền cho người bị thiệt hại”(1).
Xem xét lịch sử hình thành và phát triển của chế định TNBTTH ta thấy khái
niệm này đã xuất hiện từ rất sớm, tuy chưa đưa ra định nghĩa khái niệm này một
cách cụ thể nhưng nó đã đưa ra những tiền đề để phát triển chế định này ngày nay.

1

Nxb.CAND, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học,1999, sđ d.tr 128

15


Thời La Mã cổ đại thì chế định này đầu tiên mang tính trả thù cá nhân, nhằm vào
nhân thân người gây thiệt hại, do người bị thiệt hại hoặc người thân của người này
áp dụng (chế độ phục cừu là nguyên tắc trả thù ngang bằng như máu trả máu, mắt
trả mắt, răng trả răng, tính mạng trả tính mạng…)(1). Sau đó nó được chuyển dần
sang hình thức phạt tiền, phạt bằng tài sản hay còn gọi là chế độ phục kim, có lợi
cho người bị thiệt hại. Lúc đầu thì việc phạt tài sản do người bị thiệt hại quy định
với tính chất là sự cưỡng chế cá nhân sau dần là hình thức phạt tiền BTTH do Pháp
quan thay mặt Nhà nước áp dụng theo quy định và trình tự tố tụng nhất định(2). Vào
thế kỷ thứ V và thứ VI sau công nguyên, có một bộ luật rất điển hình là Bộ luật
Xalic (Lox Salica) của quốc gia Frăng được ban hành và đầu thế kỷ thứ VI, quy
định bảo vệ những gia súc lớn, người gây thiệt hại phải bồi thường những thiệt hại
cụ thể về tài sản như người ăn trộm chó săn bị phạt 15 xôlit

(3)

, ăn trộm bê sữa bị

phạt 3 xôlit… Bộ luật này còn quy định TNBTTH về sức khoẻ, tính mạng, danh dự
của người khác khi bị xâm phạm. Chẳng hạn, trong trường hợp giết một người
Frăng tự do, họ hàng của anh ta chia nhau chịu một nửa vecghen (tiền phạt về tội
giết người)(4). Như vậy, ta thấy việc BTTH được quy định trong các bộ luật cổ là rất
nghiêm khắc và thường mang tính trừng phạt nặng nề hơn là tính khắc phục hậu quả
như luật ngày nay.

Ở Việt Nam thời kỳ trước, trách nhiệm dân sự do hành vi gây thiệt hại về tài
sản, sức khoẻ, tính mạng cũng được pháp luật quy định từ rất sớm, như ở trong
Quốc triều hình luật hay Hoàng Việt luật lệ. Tuy nhiên những quy định về chế định
BTTH cũng mang nặng tính trừng phạt; Điều 579 của Quốc triều hình luật có quy
định: “trong trường hợp người nhận giữ súc vật hoặc của cải khác mà đem dùng
hay tiêu đi thì phải bồi thường số tài sản đã tổn thất và người gây hại còn phải phạt
80 trượng tính những của cải ấy trả cho người có nợ, còn thừa thì trả cho người
1

TS. Phùng Trung Tập, BTTH ngoài hợp đồng về tài sản, sức khoẻ và tính mạng, Nxb Hà Nội, sđ d.tr 11
Luận án TS. Luật học của Lê Mai Anh TNBTTH do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng
gây ra sđ d.tr 17
3
một loại tiền của người Frăng thời bấy giờ
4
Luận án TS Luật học của Lê Mai Anh TNBTTH do người có thẩm quyền củ cơ quan tiến hành tố tụng gây
ra, sđ d.tr15
2

16


mắc nợ”; Điều 134 Bộ luật Gia Long cũng cấm các chủ nợ không được tự tiện bắt
gia súc hay tài sản của con nợ và không được bắt thân nhân của con nợ làm nô tì.
Người gây thiệt hại có thể phải nộp một số tiền phạt để tránh sự trả thù...(1) . Như
vậy qua các chế định của pháp luật phong kiến, ta thấy chưa có sự phân định rõ ràng
giữa các chế định về trách nhiệm hình sự và về trách nhiệm dân sự, đồng thời thì
trách nhiệm dân sự bị hình sự hoá và mang nặng tính trừng phạt. Tuy nhiên, do
hoàn cảnh kinh tế - xã hội ngày càng thay đổi và cách nhận thức của con người
cũng đổi thay thì trong tiến trình phát triển đó, luật pháp nước ta cũng không nằm

ngoài ngoại lệ và một trong số những sự thay đổi của luật pháp được thể hiện qua
các chế định về TNBTTH hiện nay đã có sự khác biệt nhiều so với chế định đó
trong pháp luật phong kiến.
Trước khi Bộ luật Dân sự năm 1995 được ban hành, ở Việt Nam cũng đã có
một số văn bản pháp luật điều chỉnh, hướng dẫn giải quyết những tranh chấp về
BTTH do hành vi trái pháp luật gây ra. Một trong số những văn bản đó là Thông tư
số 173/1972/TT-UBTP. Thông tư này có nội dung và các huớng dẫn tương đối đầy
đủ về TNBTTH ngoài hợp đồng.
Khi Bộ luật Dân sự năm 1995 ra đời và có hiệu lực thì chế định BTTH được
quy định cụ thể tại Điều 310 của bộ luật này. Chế định này tiếp tục được kế thừa và
giữ nguyên giá trị khi được quy định lại tại Điều 307 Bộ luật Dân sự 2005: Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại, cụ thể:
“1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt
hại về vật chất, trách nhiệm bội thường thiệt hại bù đắp tổn thất về tinh thần.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn
thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất
về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực
tế bị mất hoặc bị giảm sút.

1

Xem. Quốc Triều Hình Luật

17


3. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt
hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền bù
đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.”

Như vậy, ta có thể nêu ra định nghĩa về BTTH ngoài hợp đồng:“BTTH ngoài
hợp đồng là một hình thái trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt
hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn
thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại”1
Điều kiện phát sinh TNBTTH: Qua nghiên cứu cho thấy hiện nay có nhiều
quan điểm khác nhau về điều kiện phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng. Không chỉ
giữa các luật gia của các quốc gia khác nhau trên thế giới có các quan điểm khác
nhau về điều kiện phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng mà các luật gia trong nước ở
các giai đoạn lịch sử khác nhau cũng có quan điểm khác nhau về điều kiện phát sịnh
TNBTTH ngoài hợp đồng. Theo Bộ luật Dân sự Pháp để xem xét TNBTTH của một
người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì phải căn cứ vào ba điều kiện sau: có
thiệt hại; xuất hiện một sự kiện; có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và sự kiện.
Người gây thiệt hại phải BTTH nếu có đầy đủ ba điều kiện này. Theo luật dân sự
của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thì để làm phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng
phải có đủ bốn điều kiện: phải có hành vi vi phạm pháp luật; phải có lỗi của người
có hành vi vi phạm pháp luật; phải có thiệt hại xảy ra; phải có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi vi phạm pháp luật và thiệt hại xảy ra. Như vậy, theo quan điểm của các
luật gia Pháp thì khi xác định điều kiện phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng, họ
quan tâm đến sự kiện xảy ra trên thực tế còn đối với các luật gia Trung Hoa thì họ
quan tâm tới hành vi thực hiện khi sự kiện xảy ra, lỗi của người thực hiện hành vi vi
phạm làm nảy sinh thiệt hại và BTTH - các yếu tố thuộc về mặt khách quan và mặt
chủ quan của một cấu thành quy phạm pháp luật. Ở Việt Nam, nghiên cứu lịch sử
lập pháp ở nước ta thì thấy mỗi một giai đoạn khác nhau thì quan điểm về điều kiện
phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng cũng có sự khác nhau. Trong bộ Quốc triều
1

Nxb. CAND, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, 1999, sđ d.tr 30

18



×