Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Pháp luật về giải quyết việc làm và thực tiễn thi hành tại huyện hóc môn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÂM THANH NHỰT

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI HUYỆN HÓC MÔN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị Thúy Lâm

HÀ NỘI – NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ luật học này là công trình nghiên cứu
của tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Trần Thị Thúy Lâm - Giảng viên Khoa
Pháp luật kinh tế - Đại học Luật Hà Nội. Các số liệu, tài liệu tham khảo trong
luận văn là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.
Xác nhận của giảng viên hƣớng dẫn

Ngƣời thực hiện

PGS.TS. Trần Thị Thúy Lâm


Lâm Thanh Nhựt


CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Từ viết tắt

Nội dung

DVVL

Dịch vụ việc làm

BLLĐ

Bộ luật Lao động


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ...................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................... 4
4. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 4
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 5
5. Kết cấu của luận văn ................................................................................ 5
CHƢƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM, GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
HÀNH……………………………………………………………………… 6
1.1. Khái quát chung về việc làm và giải quyết việc làm ......................... 6


1.1.1. Khái niệm việc làm và giải quyết việc làm ......................................... 6
1.1.2. Vai trò của giải quyết việc làm cho người lao động........................ 11
1.2.Giải quyết việc làm theo quy định của pháp luật hiện hành .......... 13
1.2.1. Trách nhiệm của các chủ thể hữu quan trong việc giải quyết
việc làm ...................................................................................................... 13
1.2.2. Các biện pháp pháp lý nhằm hỗ trợ và giải quyết việc làm ............. 17
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TẠI HUYỆN HÓC MÔN- THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH ................................................................................................ 29
2.1. Vị trí địa lý và tình hình phát triển kinh tế - xã hội Huyện
Hóc Môn .................................................................................................... 29
2.2. Thực trạng giải quyết việc làm tại Huyện Hóc Môn ..................... 33
2.2.1. Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình việc làm ............. 33
2.2.2. Quỹ giải quyết việc làm .................................................................... 36


2.2.3. Hoạt động của tổ chức dịch vụ việc làm ........................................... 37
2.2.4. Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài ............................... 39
2.2.5. Dạy nghề gắn với việc làm ............................................................... 41
2.2.6. Thực tiễn thực hiện chính sách việc làm công ..................................... 44
2.2.7. Thực tiễn thực hiện các biện pháp giải quyết việc làm khác ................ 44
2.2.8 Một só nhận xét về thực tiễn thực hiện pháp luật về giải quyết việc làm ở
huyện Hóc Môn ............................................................................................... 45

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM Ở HUYỆN HÓC MÔN- THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH……………………………………………………..........................48
3.1. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết việc làm........................................ 48

3.1.1 Yêu cầu cơ bản hoàn thiện pháp luật về giải quyết việc làm ở
Việt Nam .......................................................................................................... 48
3.1.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật laođộng về
giải quyết việc làm........................................................................................... 50
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm tại
Huyện Hóc Môn Thành phố Hồ Chí Minh ................................................. 58
3.2.1. Xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội Huyện Hóc Môn
gắn với giải quyết việc làm ............................................................................. 58
3.2.2. Thực hiện tốt vấn đề dân số, kế hoạch hoá gia đình............................ 59
3.2.3. Đẩy mạnh công tác đưa laođộng đi làm việc ở nước ngoài ................. 59
3.2.4 Về đào tạo nghề gắn với việc làm ở Hóc Môn ....................................... 60
3.2.5. Hoàn thiện các thể chế, chính sách có liên quan .................................. 62

KẾT LUẬN ............................................................................................... 64


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm là một trong những vấn đề có tính chất toàn cầu, là mối quan
tâm của hầu hết các quốc gia, có tác động không chỉ đối với sự phát triển kinh
tế mà còn đối với đời sống xã hội, nó phản ánh thực trạng phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó. Tăng việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp là một trong
những biện pháp tốt nhất để từng bước ổn định và nâng cao đời sống nhân
dân, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết của nhà nước đã đạt được những kết quả nhất định trong phát triển
kinh tế như: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong một số năm, giải quyết tốt
vấn đề về lương thực .Tuy nhiên Việt Nam cũng còn phải đối phó với những
thách thức to lớn trong quá trình phát triển. Một trong những thách thức đó là

tỷ lệ thất nghiệp cao, nhu cầu về việc làm đang tạo lên sức ép to lớn đối với
nền kinh tế. Trong bối cảnh đó việc chăm lo giải quyết việc làm đã trở thành
nhiệm vụ cơ bản và cấp bách, đòi hỏi mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi gia đình và
toàn xã hội phải quan tâm.Chính vì vậy, việc xây dựng kế hoạch giải quyết
việc làm là nhiệm vụ hết sức quan trọng và cần thiết. Đây là một bộ phận
quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.Nó hỗ trợ, thúc đẩy, xây
dựng các kế hoạch bộ phận khác trong tổng thể hệ thống kế hoạch hoá quốc
gia nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần
đưa nước ta có được vị thế mới trên trường quốc tế.
Giải quyết việc làm ở các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước
có lực lượng lao động lớn như Việt Nam đang ngày càng trở thành vấn đề cấp
bách, nếu không giải quyết tốt sẽ trở thành yếu tố kìm hãm tăng trưởng kinh
tế và là nguyên nhân, nguồn gốc sâu xa nhất gây ra những tiêu cực về mặt xã
hội. Đối với nước ta, giải quyết việc làm còn là tiền đề quan trọng để sử dụng
có hiệu quả nguồn lực lao động, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động đáp


2

ứng nhu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người.
Xuất phát từ tầm quan trọng và tính bức xúc của vấn đề giải quyết việc
làm, từ nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của người lao động, Đảng và
Nhà nước có những chủ trương, chính sách và biện pháp để tạo việc làm,
kiểm soát thất nghiệp. Việc ban hành các văn bản luật như BLLĐ, Luật
Doanh nghiệp, Luật Bảo hiểm Xã hội, Luật Đất đai, Luật Giáo dục nghề
nghiệp, Luật việc làm…đã xác lập khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh, tạo
môi trường thông thoáng, thuận lợi trong việc đầu tư phát triển sản xuất, thúc
đẩy quan hệ lao động và thị trường lao động phát triển, người lao động tự tạo
việc làm và có việc làm, đáp ứng yêu cầu bức xúc về đời sống của xã hội.

Những kết quả đó đã góp phần quan trọng đưa nước ta bước sang một giai
đoạn phát triển mới, giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Bên cạnh những thuận lợi, quá trình đổi mới cũng đặt ra nhiều thách
thức, tạo sức ép đối với vấn đề tạo việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp năm 2012 của
lao động trong độ tuổi là 1,99%, trong đó khu vực thành thị là 3,25%, khu vực
nông thôn là 1,42%. Tỷ lệ thiếu việc làm vẫn còn khá cao, 2,8% (khu vực
thành thị là 1,58%, khu vực nông thôn là 3,35%). Thực tế cho thấy, chúng ta
vẫn còn thiếu những chính sách đủ mạnh để khuyến khích đầu tư, huy động
mọi nguồn lực, phát triển các thị trường (đặc biệt là thị trường lao động), các
quy định của pháp luật còn bộc lộ nhiều bất cập trong quá trình triển khai thực
hiện, phần nào ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm, đặc biệt
đối với những khu vực đông dân cư.
Huyện Hóc Môn là một trong những huyện của thành phố Hồ Chí Minh
có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi, lực lượng lao động dồi dào, được đánh
giá là có trình độ cao của thành phố song Huyện Hóc Môn cũng là huyện chịu
sức ép gay gắt về việc làm. Với thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế văn hoá của đất nước, sự phát triển của Huyện Hóc Môn cũng có tác động lớn


3

tới sự phát triển chung của thành phố. Do đó, vấn đề giải quyết việc làm cho
người lao động trên địa bàn là hết sức quan trọng, có vai trò như đầu tàu cho
sự chuyển dịch cơ cấu lao động của thành phố. Chính vì thế, tôi đã chọn đề tài
“ Pháp luật về giải quyết việc làm và thực tiễn thi hành tại Huyện Hóc Môn Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có nhiều bài viết, nhiều đề tài, công trình nghiên cứu
khoa học về vấn đề việc làm.
Dưới góc độ kinh tế, xã hội có thể kể tới một số bài viết trên các tạp chí
như“Giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập” của tác giả Nguyễn Thị Kim

Ngân (Tạp chí Cộng sản số 23 năm 2007), “Giải quyết việc làm cho lao động
Việt Nam: Nghịch lý thiếu, thừa” của tác giả Lan Ngọc (Báo Lao động số 291
ngày 16/12/2008), “Pháp luật lao động trong quá trình toàn cầu của tác giả
Phan Trọng Nghĩa (Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 11 năm 2008), “Việc
làm trong hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta” của tác giả Nguyễn Tiệp (Tạp
chí Lao động - xã hội số 394 năm 2010).
Bên cạnh đó là các Đề tài khoa học: “Đánh giá việc thực hiện chiến
lược việc làm giai đoạn 2001 - 2005 và xây dựng chiến lược việc làm trong
kỳ đại hội X” của Viện Khoa học Lao động xã hội năm 2004, “Nghiên cứu,
đánh giá tác động về lao động, việc làm và xã hội sau khi Việt Nam gia nhập
WTO và đề xuất những giải pháp” của Cục Việc làm năm 2008, “Cơ sở lý
luận và thực tiễn xây dựng luật việc làm” của Cục Việc làm (2009),. Ngoài ra
còn có các công trình nghiên cứu dưới góc độ pháp lý như luận văn thạc sỹ
luật học “Việc làm và quy định của pháp luật về việc làm ở Việt Nam Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Văn Quynh (2003),
“Những vấn đề pháp lý cơ bản về việc làm và giải quyết việc làm trong bối
cảnh suy thoái kinh tế ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lâm Thị Thu Huyền
(2012).


4

Các công trình nêu trên đã đề cập tới khía cạnh pháp luật về việc làm
và giải quyết việc làm ở mức độ nhất định.Song việc tiếp tục nghiên cứu để
có các góc nhìn đa chiều và góp thêm tiếng nói để hoàn thiện pháp luật việc
làm trong giai đoạn hiện nay cũng là cần thiết nhất là khi chúng ta đang triển
khai thực hiện luật Việc làm. Đặc biệt đây lại là công trình nghiên cứu về
thực hiện pháp luật giải quyết việc làm ở một địa phương cụ thể - đó là thực
tiễn thực hiện pháp luật về giải quyết việc làm tại Huyện Hóc Môn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:

Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận
cơ bản về việc làm, giải quyết việc làm, phân tích, đánh giá thực tiễn thực
hiện các quy định của pháp luật về giải quyết việc làm ở Huyện Hóc Môn,
phát hiện những điểm còn hạn chế, bất cập của pháp luật; từ đó luận văn sẽ đề
xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về việc làm, giải quyết việc làm;
phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết việc làm.
- Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về giải quyết
việc làm ở Huyện Hóc Môn.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật lao động
về giải quyết việc làm và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết
việc làm ở Huyện Hóc Môn
4. Phạm vi nghiên cứu
Việc làm là vấn đề có thể nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Luận
văn này nghiên cứu việc làm dưới góc độ pháp luật lao động ở các nội dung
như chương trình việc làm, quỹ giải quyết việc làm, chính sách việc làm công,
dạy nghề gắn với việc làm, đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài. Luận văn không nghiên cứu về xử lý vi phạm cũng như giải quyết


5

tranh chấp trong lĩnh vực việc làm. Bên cạnh đó luận văn nghiên cứu thực
tiễn thực hiện pháp luật việc làm ở huyện Hóc Môn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội, về vấn đề việc làm và giải
quyết việc làm. Trong quá trình nghiên cứu tác giả sẽ vận dụng các nguyên lý

của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để phân tích làm sáng tỏ
các nội dung nghiên cứu.
Luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu sau để nghiên cứu: phương
pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh; phương pháp tổng kết lịch sử;
phương pháp thống kê, điều tra…
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về việc làm, giải quyết việc làm theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật về giải quyết việc làm tại
Huyện Hóc Môn - Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết
việc làm ở Việt Nam và nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm taị Huyện Hóc
Môn- Thành phố Hồ Chí Minh


6

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM, GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
HÀNH
1.1. Khái quát chung về việc làm và giải quyết việc làm
1.1.1. Khái niệm việc làm và giải quyết việc làm
1.1.1.1. Khái niệm việc làm
Việc làm là vấn đề mang tính chất toàn cầu, phản ánh sự phát triển của
lao động xã hội. Hoạt động kiếm sống là hoạt động quan trọng nhất của thế
giới động vật nói chung và con người nói riêng. Tuy nhiên, đối với con người,
kiếm sống không chỉ là hoạt động đơn thuần giúp con người thích ứng với

thiên nhiên, với điều kiện sống mà qua đó còn cải tạo con người, biến con
người từ sinh vật hoang dã thành sinh vật xã hội, có ý thức, tham gia các quan
hệ xã hội. Hoạt động kiếm sống của con người được gọi chung là việc làm
hoặc thực hiện việc làm.
Theo Phó cố vấn Kinh tế Giăng Mu - tê, Văn phòng Lao động quốc tế,
“việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công
bằng tiền hoặc hiện vật, có một sự tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và
trực tiếp vào nỗ lực sản xuất”
Theo Guy Hân - tơ, Viện Phát triển hải ngoại Luân Đôn “việc làm theo
nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả
những gì quan hệ đến cách thức kiếm sống của con người, kể cả các quan hệ
xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế”.
Giáo sư Sô-nin và Phó tiến sỹ Ê. Jit - nốp (Liên Xô cũ) lại cho rằng
“việc làm là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động
xã hội có ích trong khu vực xã hội hóa của sản xuất, trong học tập, trong công
việc nội trợ, trong kinh tế phụ của nông trang viên”.
Đối với Tổ chức lao động quốc tế (ILO), thuật ngữ “việc làm”được đề
cập đến trong nhiều văn kiện như Tuyên ngôn Philadenphia năm 1944;


7

“Chương trình việc làm thế giới” năm 1969; Tuyên bố tại Hội nghị việc làm
thế giới năm 1976; Công ước số 122 năm 1964… nhưng trong các văn kiện
này chưa nêu ra khái niệm “việc làm”. Đến tận Hội nghị quốc tế lần thứ
13 năm 1993 của các nhà thống kê lao động, ILO mới đưa ra quan niệm về
người có việc làm và người thất nghiệp. Theo đó, người có việc làm được
hiểu là những người làm một việc gì đóđược trả tiền công, lợi nhuận hoặc
được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động
mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được

nhận tiền công hoặc hiện vật; còn người thất nghiệp là những người không có
việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ trở lại làm việc.
Gần đây nhất, năm 2005, Tổ chức Lao động quốc tế đã đưa vào Từ điển
chuyên ngành khái niệm “việc làm”.Theo đó, “Việc làm là công việc được trả
công. Việc làm cũng đề cập đến đối tượng người tự tạo việc làm và tham gia
làm việc để được trả công” (Employment: work carried out in return for
payment. Also refers to the number of people in paid employment and selfemployment).Đây là khái niệm ngắn gọn, chỉ chung chung đến những công
việc do cá nhân thực hiện cho chính bản thân hoặc cho chủ thể khác để được
trả công.
Ở Việt Nam, dưới góc độ ngôn ngữ học, việc làm nói chung là“công
việc được giao cho và được trả công”
Dưới góc độ pháp lý, quyền việc làm được coi là quyền hiến định của
mọi công dân. Tuy nhiên, trước năm 1986, khái niệm việc làm chỉ bó hẹp
trong phạm vi những gì mà pháp luật cho phép. Do đó, mọi hoạt động của con
người không trái pháp luật nhưng pháp luật không cho phép đều không được
thừa nhận là có việc làm. Trong giai đoạn này, chỉ những người trong biên
chế Nhà nước hoặc là xã viên hợp tác xã mới được coi là có việc làm nghiêm
chỉnh.Quan niệm này xuất phát từ việc đề cao các hình thức sở hữu được coi
là thể hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là quốc doanh và tập thể. Bên
cạnh đó, luật pháp cũng không thừa nhận sức lao động là một loại hàng hoá,


8

không thừa nhận có sự tồn tại của các hiện tượng kinh tế - xã hội như thất
nghiệp, thị trường lao động, quyền tự do kinh doanh của người dân. Nhà nước
là chủ sở hữu lớn nhất và cũng là chủ sử dụng lao động lớn nhất của nền kinh
tế, có trách nhiệm đảm bảo việc làm cho mọi người lao động theo kế hoạch.
Cũng từ quan niệm trên, các quy định pháp lý về vấn đề việc làm chủ yếu thể
hiện các chế độ như tuyển dụng lao động, cho thôi việc đối với công nhân

viên chức Nhà nước. Nhà nước lo tất cả mọi vấn đề về việc làm cho lực lượng
lao động trong biên chế từ tiền lương, các chế độ bảo hiểm xã hội… cũng như
các ưu đãi, phúc lợi xã hội khác.
Về mặt xã hội, mọi người có sức lao động đều có quyền có việc làm.
Đó là một trong những quyền cơ bản của con người. Con người được tự do
trong lao động, đây chính là điều kiện cơ bản để giải phóng sức lao động và
khai thác triệt để tiềm năng của con người. Chính vì vậy, BLLĐ năm 1994
(Điều 13) đã đưa ra một quan niệm mới về việc làm: “Mọi hoạt động tạo ra
nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”
.Điều 5 của Bộ Luật cũng khẳng định quyền làm việc và tự do lựa chọn việc
làm: “Mọi người đều có quyền có việc làm, tự lựa chọn việc làm và nghề
nghiệp… Mọi hoạt động tạo ra việc làm, tự tạo việc làm, dạy nghề và học
nghề để có việc làm, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thu hút nhiều lao
động đều được Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi hoặc giúp
đỡ”.
Xét về mặt lịch sử pháp lý, đây là lần đầu tiên quan niệm về việc làm
được ghi nhận trong một văn bản pháp luật quan trọng của Nhà nước. Trước
đó, trong các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực lao động, tuy có ít
nhiều đề cập đến vấn đề việc làm nhưng chủ yếu là đề cập ở góc độ các cơ
chế, chính sách bảo đảm việc làm cho người lao động, chứ chưa đưa ra một
quan niệm hay định nghĩa chính thức về việc làm.
Khái niệm về việc làm được ghi nhận tại BLLĐ năm 1994 vẫn được
giữ nguyên qua các lần sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006 và 2007. Đến BLLĐ


9

năm 2012, quan niệm về việc làm tại Điều 9 mặc dù được diễn đạt một cách
ngắn gọn hơn nhưng về cơ bản vẫn giống như quan niệm tại Điều 13 BLLĐ
năm 1994: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp

luật cấm”.
Như vậy, trên cơ sở những quy định của BLLĐ, ta có thể hiểu một cách
khái quát nhất: việc làm là hoạt động lao động, mang lại thu nhập cho người
lao động và không bị pháp luật cấm.
Từ quan niệm trên cho thấy việc làm được cấu thành bởi ba yếu tố:
Thứ nhất, là hoạt động lao động, thể hiện sự tác động của sức lao động
của con người vào tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ.
Thứ hai, việc làm tạo ra thu nhập, điều này chỉ rõ tính chất hữu ích và
nhấn mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm. Những hoạt động của con
người dù có tiêu tốn sức lực mà không tạo ra thu nhập, tức không vì mục đích
kiếm sống thì không được thừa nhận là việc làm.
Thứ ba, hoạt động đó không bị pháp luật cấm.Điều này chỉ rõ tính chất
pháp lý của việc làm. Hoạt động có ích không giới hạn về phạm vi, ngành
nghề và hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở Việt
Nam trong quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần. Người lao động hợp
pháp ngày nay được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do hành nghề, tự do
liên doanh liên kết, tự do tìm kiếm việc làm, tự do thuê mướn lao động trong
khuôn khổ của pháp luật, không bị phân biệt đối xử dù làm việc trong hay
ngoài khu vực Nhà nước. Điều này còn khẳng định tính chất pháp lý trong
hoạt động của người lao động thuộc khu vực ngoài Nhà nước và các khu vực
phi chính thức.
Tuy nhiên, với dấu hiệu này có thể thấy giữa các quốc gia khác nhau
quan niệm về việc làm có thể khác nhau, phụ thuộc vào luật pháp, phong tục
tập quán của quốc gia đó. Có những nghề ở quốc gia này thì được cho phép
và được coi là việc làm, nhưng ở quốc gia khác, ví dụ đánh bạc ở Việt Nam bị


10

cấm, nhưng ở Thái Lan và Mỹ lại được coi là một nghề. Thậm chí nghề này

rất phát triển, vì nó thu hút khá đông tầng lớp thượng lưu.
Khái niệm việc làm theo BLLĐ tuy đã chỉ ra các dấu hiệu cơ bản của
việc làm tuy nhiên khái niệm này vẫn hep chưa bao quát được hết các trường
hợp việc làm. Chẳng hạn, hoạt động nội trợ không được coi là việc làm, trong
khi đó hoạt động nội trợ tạo ra các lợi ích phi vật chất và gián tiếp tạo ra lợi
ích vật chất không hề nhỏ cho gia đình.
Vì vậy, thiết nghĩ việc làm cần phải được hiểu là hoạt động lao động
tạo ra thu nhập (trực tiếp hoặc gián tiếp) và được xã hội thừa nhận
Tùy theo các mục đích nghiên cứu khác nhau mà người ta phân chia
việc làm ra thành nhiều loại.
Theo mức độ sử dụng thời gian làm việc, có việc làm chính và việc làm
phụ. Việc làm chính là công việc mà người thực hiện giành nhiều thời gian
nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác. Việc làm phụ là công
việc mà người thực hiện giành nhiều thời gian nhất sau công việc chính.
Ngoài ra, người ta còn chia việc làm thành việc làm toàn thời gian, bán
thời gian, việc làm thêm.
- Việc làm toàn thời gian: Chỉ một công việc làm 8 tiếng mỗi ngày,
hoặc theo giờ hành chính 8 tiếng mỗi ngày và 5 ngày trong tuần.
- Việc làm bán thời gian: Mô tả công việc làm không đủ thời gian giờ
hành chính quy định của Nhà nước 8 tiếng mỗi ngày và 5 ngày mỗi tuần. Thời
gian làm việc có thể dao động từ 0.5 đến 5 tiếng mỗi ngày và không liên tục.
- Việc làm thêm: Mô tả một công việc không chính thức, không thường
xuyên bên cạnh một công việc chính thức và ổn định.
Trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, Tổ chức lao động
quốc tế (ILO) còn khuyến cáo và đề cập tới việc làm nhân văn hay việc làm
bền vững.
1.1.1.2. Khái niệm giải quyết việc làm


11


Bên cạnh quan niệm về việc làm, pháp luật cũng quy định về vấn đề
giải quyết việc làm, bảo đảm việc làm cho người lao động. Điều 13 BLLĐ
năm 1994 khẳng định: “Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả
năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của
các doanh nghiệp và toàn xã hội”. Điều 9 BLLĐ năm 2012 cũng khẳng định:
“Nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia giải
quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội
có việc làm”. Đây là những khẳng định có tính chất tuyên ngôn của Nhà nước
về vấn đề giải quyết việc làm cho người laođộng. Theo đó, giải quyết việc
làm còn bao gồm phát triển kinh tế - xã hội nhằm tạo việc làm, khuyến khích
mọi tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế nhằm tự tạo việc làm cho mình
và cho xã hội.Điều này có nghĩa là, vấn đề tự tạo việc làm cho bản thân chịu
tác động của việc thực hiện hàng loạt cơ chế pháp lý khác như quyền tự do
kinh doanh, tự do cư trú, bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, khuyến khích đầu tư... Còn việc làm cho người lao động trong
quan hệ với người sử dụng lao động chịu sự tác động của các chế độ pháp lý
như quyền được lao động, tự do tìm kiếm việc làm, tự do cư trú, hợp đồng lao
động, dạy nghề, bảo đảm việc làm, thất nghiệp...
Do vậy giải quyết việc làm được hiểu là tổng hợp các biện pháp nhằm
tạo việc làm, hạn chế thất nghiệp nhằm mục tiêu phát triển kinh tế và đảm
bảo các vấn đề xã hội.
1.1.2. Vai trò của việc làm và giải quyết việc làm
1.1.2.1. Dưới góc độ kinh tế - xã hội
Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể
thiếu đối với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên
suốt trong các hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã
hội, nó chi phối mọi hoạt động của cá nhân và xã hội.
Đối với từng cá nhân, việc làm sẽ tạo ra thu nhập để nuôi sống bản thân
mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá nhân.



12

Việc làm ngày nay gắn chặt với trình độ học vấn, trình độ tay nghề của từng
cá nhân. Tình trạng không có việc làm trong thời gian dài sẽ dẫn tới việc mất
cơ hội trau dồi, nắm bắt và nâng cao trình độ kĩ năng nghề nghiệp, làm hao
mòn và mất đi kiến thức, trình độ vốn có. Giải quyết tốt vấn đề việc làm sẽ là
điều kiện và cơ sở để triển khai các chính sách xã hội khác như phát triển văn
hóa, y tế, giáo dục… góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội.
Đối với xã hội, mỗi cá nhân, gia đình là một yếu tố cấu thành nên xã
hội, vì vậy việc làm cũng tác động trực tiếp đến xã hội. Khi mọi cá nhân trong
xã hội có việc làm thì xã hội đó được duy trì và phát triển do không có mâu
thuẫn nội sinh trong xã hội, không tạo ra các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội, con
người được dần hoàn thiện về nhân cách và trí tuệ… Ngược lại, khi nền kinh
tế không đảm bảo đáp ứng về việc làm cho người lao động có thể dẫn đến
nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân
cách con người. Con người có nhu cầu lao động ngoài việc đảm bảo nhu cầu
đời sống còn đảm bảo các nhu cầu về phát triển và tự hoàn thiện, vì vậy trong
nhiều trường hợp khi không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến lòng tự tin của con
người, sự xa lánh cộng đồng và là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội. Mặt
khác, các chỉ số về việc làm, thất nghiệp còn gián tiếp phản ánh mức độ lành
mạnh, sự ổn định của xã hội và là những yếu tố không thể thiếu để đảm bảo
cho sự phát triển bền vững của xã hội.
Ở góc độ kinh tế kinh tế, việc làm luôn gắn liền với vấn đề sản xuất. Nó
là nhân tố tạo nên tăng trưởng kinh tế và thu nhập quốc dân. Nền kinh tế luôn
phải đảm bảo nhu cầu việc làm cho các cá nhân trong xã hội.Chỉ có như thế,
nền kinh tế mới thực sự phát triển một cách bền vững.Đồng thời, nó cũng duy
trì lợi ích và phát huy tiềm năng của người lao động. Đó là tiền đề quan trọng
để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động xã hội, là yếu tố quyết định để phát

huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội,
đáp ứng nguyện vọng và yêu cầu chính đáng của nhân dân. Nếu không giải


13

quyết tốt vấn đề việc làm và thất nghiệp sẽ kìm hãm sự phát triển của nền
kinh tế.
1.1.2.2. Dưới góc độ chính trị - pháp lý
Ở khía cạnh pháp lý, có việc làm là quyền cơ bản của con người. Mỗi
cá nhân có khả năng lao động, có nhu cầu lao động đều có quyền được làm
việc để tạo ra thu nhập cho bản thân nếu hoạt động đó không trái pháp luật.
Điều này đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế và pháp luật
của nhiều nước.Điều 2 Tuyên ngôn về quyền con người năm 1948 của Liên
hợp quốc ghi nhận: “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do chọn nghề,
được có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng vàđược bảo vệ
chống lại thất nghiệp”. Điều 1 Công ước số 122 của ILO về chính sách việc
làm năm 1964 cũng nêu rõ: “Các nước thành viên phải tuyên bố vàáp dụng
một chính sách tích cực nhằm xúc tiến toàn dụng lao động, có năng suất
vàđược tự do lựa chọn” cho người lao động.
Ngay tại Điều 9 của Bộ Luật lao động năm 2012 của Việt Nam cũng
khẳng định: “ Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị
pháp luật cấm. Nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội có trách nhiệm
tham gia giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động
đều có cơ hội có việc làm”.
Về mặt pháp lý, những quy định trên của quốc tế cũng như của quốc
gia là cơ sở pháp lý để đảm bảo cho mỗi cá nhân đều có việc làm và thu nhập,
có được cuộc sống ổn định và bền vững, đáp ứng nhu cầu tối thiểu của con
người.
1.2. Giải quyết việc làm theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện

hành
1.2.1. Trách nhiệm của các chủ thể trong lĩnh vực việc làm
Việc làm có ý nghĩa quan trọng đối với người lao động, gia đình và xã
hội. Chính vì vậy, không chỉ bản thân người lao động mà người sử dụng lao
động, Nhà nước và xã hội cũng có trách nhiệm trong lĩnh vực việc làm.


14

Khoản 2 Điều 9 Bộ luật Lao động 2012 quy định: “Nhà nước, người sử dụng
lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia giải quyết việc làm, bảo đảm cho
mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm”. Như vậy trách
nhiệm giải quyết việc làm cho người lao động được xác định thuộc về các chủ
thể: Nhà nước, người sử dụng lao động, các cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, bản
thân người lao động cũng có trách nhiệm trong việc tìm kiếm và tạo việc làm.
Về phía Nhà nước, trách nhiệm cơ bản là “khuyến khích, tạo điều kiện
để tổ chức, các nhân tạo việc làm cho người lao động”1. Trách nhiệm này
được cụ thể hóa trong Bộ luật Lao động 2012 và Luật Việc làm 2013 như sau:
- Nhà nước xác định chỉ tiêu tạo việc làm tăng thêm trong kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 05 năm, hằng năm. Căn cứ điều kiện kinh tế - xã hội
trong từng thời kỳ, Chính phủ trình Quốc hội quyết định chương trình mục
tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề.
- Có chính sách bảo hiểm thất nghiệp, các chính sách khuyến khích để
người lao động tự tạo việc làm; hỗ trợ người sử dụng lao động sử dụng nhiều
lao động nữ, lao động là người khuyết tật, lao động là người dân tộc ít người
để giải quyết việc làm.
- Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong
nước và nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh để tạo việc làm cho
người lao động.
- Hỗ trợ người sử dụng lao động, người lao động tìm kiếm và mở rộng

thị trường lao động ở nước ngoài.
- Thành lập Quỹ quốc gia về việc làm để hỗ trợ cho vay ưu đãi tạo việc
làm và thực hiện các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
- Có chính sách đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia gắn với
việc nâng cao trình độ kỹ năng nghề.
- Có chính sách ưu đãi đối với ngành, nghề sử dụng lao động có trình
độ chuyên môn kỹ thuật cao hoặc sử dụng nhiều lao động phù hợp với điều
1

Khoản 1 Điều 57 Hiến pháp năm 2013


15

kiện phát triển kinh tế - xã hội.
Để thực hiện trách nhiệm này, Chính phủ sẽ thống nhất quản lý nhà
nước về việc làm trong phạm vi cả nước; Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về việc làm;
Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý
nhà nước về việc làm và Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, thực hiện quản lý nhà nước về việc làm tại địa phương.
Cùng với Nhà nước, các cơ quan, tổ chức cũng có trách nhiệm trong
lĩnh vực giải quyết và đảm bảo việc làm. Cụ thể, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức thành viên trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có
trách nhiệm tuyên truyền, vận động cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức và
cá nhân tạo việc làm cho người lao động; tham gia với cơ quan nhà nước
trong việc xây dựng và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về việc
làm theo quy định của pháp luật.Đặc biệt, theo Luật Công đoàn năm 2012 thì
Công đoàn - với tư cách là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, đồng thời là tổ

chức đại diện cho người lao động, còn có thêm trách nhiệm tư vấn pháp luật
về lao động – việc làm cho người lao động, hướng dẫn giúp đỡ tìm việc làm,
học nghề đối với đoàn viên công đoàn và thực hiện nhiều hoạt động khác
nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động.Các cơ quan, tổ chức khác trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến
chính sách, pháp luật về việc làm; tạo việc làm; bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động, người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật
( Điều 8 Luật Việc làm 2013).
Với người sử dụng lao động, vấn đề đảm bảo việc làm cho người lao
động vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ. Bên cạnh quyền tuyển chọn, tăng giảm
lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh, NSDLĐ cũng có trách
nhiệm đảm bảo việc làm cho NLĐ theo thời hạn đã thoả thuận trong HĐLĐ;
tham gia bảo hiểm thất nghiệp khi sử dụng người lao động theo hợp đồng lao


16

động không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên2;
bảo đảm thực hiện bình đẳng giới và các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
trong tuyển dụng, sử dụng3; không được từ chối tuyển dụng người khuyết tật
có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng
trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của người khuyết
tật4; phải ưu tiên đào tạo lại cho người lao động để tiếp tục sử dụng nếu như
có chỗ làm việc mới trong trường hợp doanh nghiệp thay đổi về cơ cấu công
nghệ mà ảnh hưởng đến việc làm của nhiều người lao động5; khi chấm dứt
hợp đồng lao động với người lao động đã làm việc thường xuyên từ 12 tháng
trở lên thì phải trả trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc làm ( Điều 49
BLLĐ 2012)…
Người sử dụng lao động có trách nhiệm thực hiện đúng điều khoản việc
làm như đã cam kết đối với người lao động trong hợp đồng lao động. Người

sử dụng lao động không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc
sa thải người lao động trái pháp luật dẫn đến người lao động bị mất việc làm.
Đối với người lao động, bên cạnh quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp,
việc làm và nơi làm việc, pháp luật cũng nhấn mạnh trách nhiệm của người
lao động là phải “chủ động tìm kiếm việc làm và tham gia tạo việc làm”6 dưới
sự khuyến khích và hỗ trợ của Nhà nước. Khi đã có việc làm, người lao động
có trách nhiệm phải thực hiện đầy đủ các cam kết về công việc phải làm trong
hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể; chấp hành các yêu cầu của
người sử dụng lao động trong quá trình thực hiện việc làm7. Có như vậy mới
giữ được việc làm lâu dài, đảm bảo được việc làm ổn định trong hoàn cảnh thị
trường lao động biến động không ngừng. Ngoài ra, người lao động làm việc
theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ

2

Khoản 1 Điều 43 Luật Việc làm năm 2013
Khoản 1 Điều 154 Bộ luật Lao động năm 2012
4
Khoản 2 Điều 33 Luật Người khuyết tật năm 2010
5
Khoản 1 Điều 44 Bộ luật Lao động năm 2012
6
Khoản 3 Điều 8 Luật Việc làm năm 2013
7
Khoản 2 Điều 5 Bộ luật Lao động năm 2012
3


17


3 tháng trở lên cũng là chủ thể có nghĩa vụ bắt buộc phải tham gia bảo hiểm
thất nghiệp để đảm bảo việc làm cho bản thân. Khi bị chấm dứt hợp đồng lao
động dẫn đến bị thất nghiệp, người lao động có nghĩa vụ phải tích cực tham
gia vào thị trường lao động, thể hiện bằng việc phải thông báo tìm kiếm việc
làm hằng tháng và phải nhận việc làm phù hợp do trung tâm dịch vụ việc làm
giới thiệu, nếu vi phạm trách nhiệm này nhiều lần thì sẽ bị cơ quan bảo hiểm
xã hội cắt chế độ trợ cấp thất nghiệp8.
Như vậy, có thể thấy, pháp luật lao động đã quy định trách nhiệm của
mọi chủ thể trong xã hội đối với vấn đề giải quyết việc làm cho người lao
động, từ chủ thể quản lý đến các chủ thể trong quan hệ lao động và cộng đồng
xã hội nói chung. Điều này giúp giải quyết triệt để nhu cầu việc làm của
người lao động trong xã hội, đảm bảo cho mọi cá nhân có khả năng lao động
đều có cơ hội có việc làm, từ đó thúc đẩy quan hệ lao động và giải quyết các
vấn đề xã hội nói chung.
1.2.2. Các biện pháp pháp lý nhằm hỗ trợ và giải quyết việc làm
Để giải quyết việc làm cho người lao động, Nhà nước có thể áp dụng
tổng hợp các biện pháp khác nhau, bao gồm cả những biện pháp trực tiếp giải
quyết việc làm (như chính sách việc làm công, đưa người lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài… ) và những biện pháp mang tính chất hỗ trợ (như
xây dựng chương trình về việc làm, quỹ về việc làm, hệ thống tổ chức dịch vụ
việc làm, dạy nghề gắn với lao động, hỗ trợ hỗ trợ chuyển dịch việc làm đối
với người lao động ở khu vực nông thôn, hỗ trợ phát triển thị trường lao
động… ).Các biện pháp pháp lý nhằm hỗ trợ và giải quyết việc làm bao gồm:
- Xây dựng và thực hiện các chương trình về việc làm
Chương trình việc làm có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết việc
làm cho người lao động bởi trên cơ sở chương trình việc làm các cơ quan, tổ
chức sẽ tiến hành triển khai thực hiện nhằm giải quyết việc làm cho người lao
động. Vì vậy, trách nhiệm xây dựng và thực hiện các chương trình việc làm
8


Khoản 3 Điều 53 Luật Việc làm năm 2013


18

trước hết thuộc về nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm xây dựng chính sách
phát triển kinh tế - xã hội nhằm tạo việc làm cho người lao động đồng thời bố
trí nguồn lực để thực hiện chính sách về việc làm.Để làm được điều này,
trước hết phải xây dựng các chương trình về việc làm.Ở cấp quốc gia, căn cứ
điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, Chính phủ có trách nhiệm trình
Quốc hội quyết định chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề.
Ở địa phương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng chương
trình việc làm của địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.
Nội dung của chương trình về việc làm bao gồm: Mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu,
đối tượng, phạm vi thực hiện, thời gian, tổ chức thực hiện và cơ chế, chính
sách để thực hiện.Các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội và người sử dụng lao động khác trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm tham gia thực hiện chương trình việc làm.
Việc xây dựng và thực hiện các chương trình về việc làm nhằm đảm bảo cho
mọi người lao động có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc đều có có việc
làm đầy đủ và có hiệu quả, thông qua đó giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với ổn định xã hội. Trên thực tế, tùy thuộc điều kiện kinh
tế - xã hội của từng thời kỳ mà chương trình việc làm sẽ được xây dựng độc
lập.
- Hình thành và sử dụng các loại quỹ về việc làm
Quỹ việc làm cũng được coi là biện pháp quan trọng nhằm hỗ trợ giải
quyết việc làm.Chính vì vậy cần phải hình thành các quỹ việc làm. Theo quy
định của pháp luật hiện hành, có bốn loại quỹ giải quyết việc làm, gồm Quỹ
quốc gia giải quyết việc làm, Quỹ giải quyết việc làm ở địa phương, Quỹ giải
quyết việc làm cho người tàn tật và Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước. Các quỹ

này được hình thành chủ yếu với mục đích thực hiện chính sách tín dụng ưu
đãi để hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm.
Quỹ quốc gia về việc làm là biện pháp pháp lí quan trọng của Nhà nước
nhằm triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Theo


19

quy định của Bộ luật Lao động năm 2012, Luật Việc làm năm 2013 và các văn
bản hướng dẫn thì Quỹ quốc gia về việc làm được hình thành chủ yếu từ
nguồn Ngân sách nhà nước, ngoài ra còn có nguồn hỗ trợ của tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước và các nguồn hợp pháp khác. Với ý nghĩa là nguồn tín
dụng ưu đãi tạo việc làm nên Quỹ quốc gia về việc làm được sử dụng cho các
hoạt động cho vay ưu đãi đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ
hợp tác, hộ kinh doanhvà người lao động để hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở
rộng việc làm; cho vay ưu đãi đối với người lao động đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng9. Riêng những đơn vị sử dụng nhiều lao động là người
khuyết tật, người dân tộc thiểu số hoặc người dân tộc thiểu số đang sinh sống
tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, người khuyết tật được
vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm với mức lãi suất thấp hơn. Ngoài ra, Quỹ
quốc gia về việc làm còn được sử dụng để hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn
do suy giảm kinh tế để hạn chế người lao động mất việc làm và hỗ trợ phát
triển tổ chức dịch vụ việc làm và hệ thống thông tin thị trường lao động 10.
Hiện nay, Quỹ được giao cho Ngân hàng Chính sách xã hội quản lý và cho
vay theo quy định của Chính phủ.
Quỹ giải quyết việc làm địa phương được hình thành từ các nguồn: ngân
sách địa phương do hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
quyết định; các nguồn hỗ trợ của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước và các
nguồn hỗ trợ khác. Quỹ này được sử dụng làm vốn cho vay giải quyết việc
làm theo đúng mục tiêu của chương trình giải quyết việc làm của địa

phương11.
Quỹ việc làm cho người tàn tật được hình thành từ các nguồn: ngân
sách địa phương, khoản thu từ các doanh nghiệp nộp do không nhận đủ số lao
9

Điều 20 Nghị định số 61/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/07/2015 quy định về chính sách hỗ trợ tạo
việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm
10
Điều 4 Nghị định số 03/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/01/2014 quy định chi tiết thi hành một số
điều của Bộ luật lao động về việc làm
11
Thông tư số 107/2005/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 07/12/2005 hướng dẫn lập, quản lý, sử dụng Quỹ
giải quyết việc làm địa phương và kinh phí quản lý Quỹ quốc gia về việc làm


20

động là người tàn tật vào làm việc theo qui định, trợ giúp của các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước và các nguồn thu khác. Quỹ việc làm cho người tàn
tật được sử dụng vào mục đích: cấp để hỗ trợ hoặc cho vay với lãi suất thấp
cho một số cơ sở, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động tàn tật; các hoạt
động phục hồi chức năng lao động cho người tàn tật12.
Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước được hình thành từ các nguồn: đóng
góp của doanh nghiệp và người lao động, hỗ trợ của ngân sách nhà nước và
các nguồn thu hợp pháp khác. Quỹ này được thành lập nhằm phát triển và mở
rộng thị trường lao động ngoài nước, nâng cao chất lượng nguồn lao động, hỗ
trợ giải quyết rủi ro cho người lao động và doanh nghiệp13.
- Thực hiện chính sách việc làm công
Chính sách việc làm công là chính sách trong lĩnh vực việc làm được
quy định trong luật Việc làm 2013.Việc làm công là việc làm tạm thời có trả

công được tạo ra thông qua việc thực hiện các dự án hoặc hoạt động sử dụng
vốn nhà nước gắn với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn
xã, phường, thị trấn như: xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp; xây dựng cơ sở hạ tầng công
cộng; bảo vệ môi trường; ứng phó với biến đổi khí hậu và các dự án, hoạt
động khác phục vụ cộng đồng tại địa phương. Theo đó, các dự án, hoạt động
nói trên phải lựa chọn đối tượng lao động tham gia là những người lao động
đang cư trú hợp pháp tại địa phương tự nguyện tham gia chính sách việc làm
công. Người lao động là người dân tộc thiểu số; người thuộc hộ nghèo, hộ cận
nghèo hoặc hộ bị thu hồi đất nông nghiệp; người chưa có việc làm hoặc thiếu
việc làm được ưu tiên tham gia chính sách việc làm công; người lao động
thuộc hộ gia đình hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu được ưu tiên khi
tham gia chính sách việc làm công. Khi sử dụng lao động tham gia chính sách
việc làm công, người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với
12

Nghị định số 81/CP của Chính phủ ngày 23/11/1995 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Bộ luật Lao động về lao động là người tàn tật, Nghị định số 116/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày
23/04/2004 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 81/CP
13
Điều 66, 67 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nhà nước theo hợp đồng năm 2006


×