Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Giám sát quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước theo Luật Đất đai năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (977.5 KB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN VĂN DỤNG

GIÁM SÁT QUYỀN ĐẠI DIỆN CHỦ SỞ HỮU TOÀN DÂN
VỀ ĐẤT ĐAI CỦA NHÀ NƯỚC THEO
LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM 2013

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN QUANG TUYẾN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.

Tác giả
Nguyễn Văn Dụng



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BMNN

: Bộ máy nhà nước

BĐS

: Bất động sản

BLDS

: Bộ luật dân sự

HĐND

: Hội đồng nhân dân

UBND

: Uỷ ban nhân dân

SHTD

: Sở hữu toàn dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa



MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU…………………………………………………………………...1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT QUYỀN ĐẠI DIỆN
CHỦ SỞ HỮU TOÀN DÂN VỀ ĐẤT ĐAI CỦA NHÀ NƯỚC ………………..9
1.1. Cơ sở của việc giám sát quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của
Nhà nước………………………………………......................................................9
1.1.1. Cơ sở chính trị………………………………………………………..9
1.1.2. Cơ sở lý luận…………………………………………………….…..11
1.1.3. Cơ sở thực tiễn………………………................................................14
1.1.4. Cơ sở pháp lý………………………………………..........................17
1.2. Khái quát giám sát quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của
Nhà nước…………………………………………………………………………19
1.2.1. Khái niệm quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước19
1.2.1.1. Cơ sở của việc Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai.19
1.2.1.2. Định nghĩa quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà
nước……………………………………………………………………………….22
1.2.1.3. Đặc điểm quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà
nước……………………………………………………………………………….24
1.2.1.4. Phương thức thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất
đai của Nhà nước………………………………………………………………….25


1.2.2. Khái niệm giám sát quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của
Nhà nước………………………………………………….....................................27
1.2.2.1. Định nghĩa………………………………………............................27
1.2.2.2. Đặc điểm…………………………………………………………..30
1.3. Mục đích, ý nghĩa của việc giám sát quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân
về đất đai của Nhà nước…………………………………………………………32
1.4. Nguyên tắc của việc giám sát quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất

đai của Nhà nước……………………………………………...............................34
1.5. Tiêu chí giám sát quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà
nước……………………………………………………………………………….36
Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM
2013 VỀ GIÁM SÁT QUYỀN ĐẠI DIỆN CHỦ SỞ HỮU TOÀN DÂN VỀ
ĐẤT ĐAI CỦA NHÀ NƯỚC……………………………………………………38
2.1. Nội dung các quy định của Luật đất đai năm 2013 về giám sát quyền đại
diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước……………………………38
2.1.1. Nội dung quy định về chủ thể giám sát và chủ thể bị giám sát…....38
2.1.1.1. Chủ thể giám sát…………………………............................38
2.1.1.2. Chủ thể bị giám sát…………………………………………41
2.1.2. Nội dung quy định về nội dung giám sát quyền đại diện chủ sở hữu
toàn dân về đất đai của Nhà nước……………………………………………….42
2.1.3. Nội dung quy định về hình thức giám sát quyền đại diện chủ sở hữu
toàn dân về đất đai của Nhà nước………………….............................................42


2.1.4. Nội dung quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khi nhận được ý kiến của người dân…………………………………….44
2.2. Bình luận về các quy định của Luật đất đai năm 2013 về giám sát quyền
đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai của Nhà nước………….............45
2.2.1. Ưu điểm, thành công…………………………………………..........45
2.2.2. Khiếm khuyết, nhược điểm…………………………………………47
Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC THI QUYỀN GIÁM SÁT QUYỀN
ĐẠI DIỆN CHỦ SỞ HỮU TOÀN DÂN VỀ ĐẤT ĐAI CỦA NHÀ NƯỚC
THEO LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM 2013…………………….……………………...51
3.1. Sự cần thiết của việc đề xuất các giải pháp bảo đảm thực thi các quy định
của Luật đất đai năm 2013 về giám sát quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về
đất đai của Nhà nước……………………………….............................................51
3.2. Định hướng của việc đề xuất các giải pháp bảo đảm thực thi các quy định

của Luật đất đai năm 2013 về giám sát quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về
đất đai của Nhà nước……………………………………………………………55
3.3. Một số giải pháp bảo đảm thực thi các quy định của Luật đất đai năm
2013 về giám sát quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà
nước……………………………………………………………………………….55
KẾT LUẬN………………………………………………………………………60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………….61


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với các hoạt động như thanh tra, kiểm tra v.v, giám sát là một
phương thức góp phần bảo đảm thực thi quyền lực nhà nước mà Nhân dân
trao cho các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, không phải bất cứ lúc nào, không
phải bất cứ cơ quan nhà nước nào cũng tự giác thực thi quyền lực nhà nước
theo đúng pháp luật. Trên thực tế, khi được trao quyền lực nhà nước, cơ quan
nhà nước, công chức nhà nước có xu hướng lạm dụng quyền lực hoặc sử dụng
quyền lực vượt quá thẩm quyền cho phép nếu không bị kiểm tra, giám sát.
Hành vi này được giới chuyên môn gọi là “sự tha hóa” quyền lực nhà nước.
Nếu như thanh tra, kiểm tra là hoạt động kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà
nước giữa các cơ quan nhà nước với nhau trong mối quan hệ nội bộ (mối quan
hệ bên trong giữa các cơ quan nhà nước) thì giám sát của người dân và công
luận đối với việc thực thi quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước là
hoạt động kiểm soát quyền lực từ bên ngoài bộ máy nhà nước. Việc giám sát
quyền lực nhà nước thể hiện bản chất của Nhà nước ta đã được quy định tại
Khoản 2, Điều 2, Hiến pháp 2013:“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội

ngũ trí thức”, phát huy quyền làm chủ của người dân. Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn
bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ
chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân;
giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của


2

Tổ quốc và của nhân dân”[1]. Như vậy, giám sát là một hoạt động không thể
thiếu được nhằm bảo đảm quyền lực mà Nhân dân trao cho các cơ quan nhà
nước được thực thi đúng pháp luật, phục vụ lợi ích của Nhân dân.
Xét trong lĩnh vực đất đai, chế độ sở hữu đất đai ở nước ta được xây
dựng dựa trên nguyên lý cơ bản của Học thuyết Mác - Lê nin, các tư liệu sản
xuất chủ yếu của xã hội (trong đó có đất đai) thuộc về của chung (chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất) nhằm xóa bỏ nguồn gốc gây ra bất công, bóc lột trong
xã hội. Chế độ sở hữu toàn dân ( SHTD) về đất đai ra đời cùng với việc ban
hành Hiến pháp năm 1980 với quy định đất đai … là của Nhà nước thuộc sở
hữu toàn dân (Điều 19). Chế độ sở hữu đất đai này tiếp tục được khẳng định
trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên, thực tiễn quản lý
và sử dụng đất được xác lập dựa trên chế độ SHTD về đất đai cho thấy nhược
điểm lớn nhất của chế độ sở hữu đất đai này là không xác định được người
chủ sở hữu cụ thể về đất đai. Hơn nữa, xem xét dưới góc độ khoa học pháp lý,
toàn dân với tư cách là một cộng đồng người không phải là chủ thể của một
quan hệ pháp luật (Chủ thể của một quan hệ pháp luật là tổ chức (pháp nhân)
hay cá nhân (thể nhân). Chính việc không xác định rõ người chủ sở hữu cụ thể
về đất đai đã dẫn đến tình trạng “cha chung không ai khóc”, đất đai bị buông
lỏng quản lý, phát sinh tình trạng xâm chiếm, chiếm dụng đất công, đầu cơ,

buôn bán đất đai lòng vòng nhằm mục đích kiếm lời v.v gây thất thoát, lãng
phí tài nguyên đất đai, gia tăng sự bất công trong lĩnh vực đất đai và khiến dư
luận bức xúc, bất bình. Để khắc phục hạn chế này, Luật đất đai năm 2003
được ban hành bổ sung quy định đất đai thuộc SHTD do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu (Điều 5). Quy định này được kế thừa trong Hiến pháp năm 2013
và Luật đất đai năm 2013. Tìm hiểu các quy định về sở hữu đất đai trong pháp
luật đất đai hiện hành cho thấy đất đai thuộc sở hữu toàn dân (cộng đồng


3

người) do Nhà nước (pháp nhân công) đại diện chủ sở hữu. Nhà nước thực
hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai thông qua các cơ quan nhà
nước, bao gồm: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp (HĐND các cấp), Chính
phủ, Ủy ban nhân dân các cấp (UBND các cấp). Trên thực tế, người thay mặt
Quốc hội, HĐND các cấp, Chính phủ, UBND các cấp ký các quyết định về
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quyết định mục đích sử dụng đất; quyết định
giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất; quyết định
giá đất làm căn cứ để bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất v.v nhằm thực hiện
quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước lại là cá nhân
đứng đầu những cơ quan này. Như vậy, về thực chất người đứng đầu các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền mới là người trực tiếp thực hiện quyền đại diện
chủ sở hữu toàn dân về đất đai. Xét ở khía canh khác, đất đai mang đặc trưng
cơ bản là có nguồn gốc không do con người tạo ra mà do tự nhiên tạo ra và có
trước con người; cố định về vị trí địa lý, không di dời được, bị giới hạn bởi
không gian, diện tích và có nguy cơ giảm sút. Trong khi đó, nhu cầu sử dụng
đất của con người ngày càng tăng do sức ép của tốc độ tăng dân số. Mặt khác,
việc đổi mới cơ chế quản lý đất đai trong nền kinh tế thị trường đã trả lại cho
đất đai những giá trị ban đầu vốn có khiến đất đai ngày càng trở lên có giá.
Những yếu tố này làm cho đất đai trở thành “miếng bánh” béo bở cho tham

nhũng, tiêu cực, đầu cơ trục lợi; cho sự tha hóa, lạm dụng quyền lực trong việc
phân phối đất đai vì lợi ích nhóm, lợi ích riêng tư, cục bộ v.v tồn tại nếu
không có cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả. Tìm hiểu thực tiễn thi hành
Luật đất đai cho thấy việc thanh tra đất đai do các cơ quan nhà nước thực hiện
dường như không đem lại hiệu quả như mong muốn; bởi lẽ, thanh tra chỉ là cơ
quan phát hiện vi phạm và tham mưu đường lối giải quyết mà không có thẩm
quyền xử lý vi phạm. Trong khi đó, giám sát việc thi hành pháp luật đất đai
nói chung và thực thi chế định đại diện chủ SHTD về đất đai nói riêng thông


4

qua các cơ quan đại diện, bao gồm Quốc hội, HĐND các cấp, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận dường như chưa đáp
ứng được sự kỳ vọng của người dân do các cơ quan này chưa có thực quyền
hoặc sự chồng chéo về quyền lực giữa Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam. Vì vậy, tăng cường sự giám sát trực tiếp của người
dân trong việc thực thi quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai - một nội
dung sửa đổi, bổ sung của Luật đất đai năm 2013- trong thời điểm hiện nay là
một giải pháp hữu hiệu và rất cần thiết nhằm tạo áp lực xã hội trong việc lên
án và đưa ra ánh sáng công lý những hành vi lạm dụng, tha hóa quyền lực nhà
nước trong thực thi quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của cơ quan
nhà nước, công chức nhà nước trả lại niềm tin cho nhân dân. Với lý do đó, em
lựa chọn đề tài“Giám sát quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của
Nhà nước theo Luật đất đai năm 2013” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Giám sát, phân công, kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề nhận
được sự quan tâm nghiên cứu của giới luật học nước ta- đặc biệt là của các
nhà khoa học, chuyên gia về lý luận nhà nước và pháp luật, về tổ chức bộ máy
nhà nước. Đã có nhiều công trình khoa học về vấn đề này được công bố. Tuy

nhiên, tìm hiểu về giám sát quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của
Nhà nước theo Luật đất đai năm 2013 một cách có hệ thống, toàn diện trên
phương diện lý luận và thực tiễn thì dường như chưa có công trình nào được
công bố. Với tất cả sự khiêm tốn và kính trọng đối với các nhà khoa học đi
trước, tác giả luận văn cho rằng dường như đây là một trong số ít các công
trình nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về lý luận và thực tiễn về
giám sát quyền đại diện chủ SHTD về đất đai của Nhà nước theo Luật đất đai
năm 2013. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn tiếp thu và kế thừa kết quả


5

nghiên cứu của các công trình khoa học về sự phân công, phối hợp, giám sát
và kiểm soát quyền lực nhà nước đã công bố ở nước ta trong thời gian qua.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Mục đích tổng quát của luận văn là nghiên cứu, đề xuất các giải pháp
hoàn thiện cơ chế giám sát quyền đại diện chủ SHTD về đất đai của Nhà nước
theo Luật đất đai năm 2013.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn xác định các nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu làm rõ khái niệm, hình thức, vai trò giám sát quyền đại
diện chủ SHTD về đất đai của Nhà nước.
- Phân tích nội dung, đánh giá các quy định của Luật đất đainăm 2013
về giám sát quyền đại diện chủ SHTD về đất đai của Nhà nước.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế giám sát quyền
đại diện chủ SHTD về đất đai của Nhà nước theo Luật đất đai năm 2013.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn chủ yếu tập trung vào các vấn đề cụ
thể sau:


6

- Các quan điểm, hệ tư tưởng, trường phái lý thuyết về giám sát quyền
lực nhà nước nói chung và giám sát quyền đại diện chủ SHTD về đất đai của
Nhà nước nói riêng.
- Các quy định của Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi
hành về giám sát quyền đại diện chủ SHTD về đất đai của Nhà nước.
- Tổng kết thực tiễn thực hiện việc giám sát quyền đại diện chủ SHTD
về đất đai của Nhà nước ở nước ta.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giám sát quyền đại diện chủ SHTD về đất đai của Nhà nước theo Luật
đất đai năm 2013 là đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng. Hiện có nhiều phương
thức giám sát quyền đại diện chủ SHTD về đất đai của Nhà nước, bao gồm: i)
Giám sát của các cơ quan dân cử, gồm Quốc hội, HĐND các cấp; ii) Giám sát
của các đoàn thể quần chúng nhân dân, tổ chức xã hội thông qua Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; iii) Giám sát của công luận xã hội
gồm báo chí, phát thanh, truyền hình …; iv) Giám sát của hệ thống cơ quan
quản lý nhà nước v.v. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một bản luận văn thạc sĩ
luật học, luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu đi sâu tìm hiểu việc giám sát
trực tiếp của người dân đối với quyền đại diện chủ SHTD về đất đai của Nhà
nước theo Luật đất đai năm 2013. Thiết nghĩ đây là một nội dung mới của
Luật đất đai năm 2013. Hơn nữa, việc nghiên cứu, tìm hiểu nội dung này sẽ
tạo ra tính mới, tính độc đáo và làm cho luận văn có bản sắc riêng khi đặt cạnh
các bản luận văn thạc sĩ khác.
5. Phương pháp nghiên cứu



7

Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu,
luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lên nin.
- Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau đây:
i) Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp diễn giải,
lập luận lôgic v.v được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề
lý luận về giám sát quyền đại diện chủ SHTD về đất đai của Nhà nước.
ii) Phương pháp đánh giá, phương pháp bình luận, phương pháp so sánh
luật học v.v được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng các quy
định của Luật đất đai năm 2013 về giám sát quyền đại diện chủ SHTD về đất
đai của Nhà nước.
iii) Phương pháp quy nạp, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân
tích v.v được sử dụng trong Chương 3 khi nghiên cứu giải pháp bảo đảm thực
thi quyền đại diện chủ SHTD về đất đai của Nhà nước theo Luật đất đai năm
2013.
6. Một số đóng góp của luận văn
Luận văn được nghiên cứu và bảo vệ thành công sẽ có một số đóng góp
mới và cơ bản sau đây:
- Tập hợp, hệ thống hóa và góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về giám
sát quyền đại diện chủ SHTD về đất đai của Nhà nước.


8

- Phân tích, giải mã khái niệm, hình thức và vai trò của việc giám sát

quyền đại diện chủ SHTD về đất đai của Nhà nước.
- Đánh giá, bình luận các quy định của Luật đất đai năm 2013 về giám
sát quyền đại diện chủ SHTD về đất đai của Nhà nước.
- Đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực thi việc giám sát quyền đại
diện chủ SHTD về đất đai của Nhà nước theo Luật đất đai năm 2013.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần cam đoan, danh mục các từ viết tắt, mục lục, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu làm 3 chương:
- Chương 1. Những vấn đề lí luận về giám sát quyền đại diện chủ sở
hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước.
- Chương 2. Thực trạng các quy định củaLuật đất đai năm 2013về giám
sát quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước.
- Chương 3.Giải pháp bảo đảm thực thi việcgiám sát quyền đại diện chủ
sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước theo Luật đất đai năm 2013.


9

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT QUYỀN ĐẠI DIỆN CHỦ
SỞ HỮU TOÀN DÂN VỀ ĐẤT ĐAI CỦA NHÀ NƯỚC
1.1. Cơ sở của việc giám sát quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất
đai của Nhà nước
1.1.1. Cơ sở chính trị
Chúng ta đang trong giai đoạn xây dựng “ Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” trong đó “ tất cả
quyền lực thuộc về Nhân dân”. Với tư cách là người làm chủ, Nhân dân có
quyền giám sát Nhà nước trong việc thực thi quyền lực của mình. Đó là
nguyên lý thuộc về bản chất của Nhà nước ta, đồng thời là đòi hỏi ngày
càng hiện hữu để Nhà nước phải thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng và lợi

ích của Nhân dân, đảm bảo gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích chung của
toàn dân tộc. Do đó, tăng cường sự giám sát trực tiếp của Nhân dân đối với
quyền lực Nhà nước nói chung và quyền đại diện chủ SHTD về đất đai là
phù hợp vớiquan điểm chính trị của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN. Bởi lẽ, chỉ có thể chế dân chủ mà trụ cột là nhà nước pháp
quyền với những yếu tố đầy đủ của nó, mới có thể tạo ra môi trường
cho sự tranh luận, bàn thảo một cách dân chủ những vấn đề liên quan đến
lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng.
Cũng với logic đó, dường như có thể khẳng định, chế độSHTD về đất đai ở
nước ta hiện nay đã tạo điều kiện để Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo vệ lợi ích
của người lao động tốt nhất. Trong thể chế chính trị dân chủ XHCN mà chúng
ta đang xây dựng là thể chế có khả năng tạo lập môi trường xã hội - chính trị
rộng rãi nhất để mọi tầng lớp nhân dân tham gia đối thoại, trình bày những ý


10

kiến, quan điểmcủa mình trước những vấn đề liên quan đến quốc kế, dân sinh.
Nói cách khác, trong nền dân chủ XHCN ở Việt Nam, giám sát là một trong
những cách thức, công cụ để Nhân dân tham gia vào quá trình xây dựng và
thực hiện các quyết sách chính trị; là cách thức và công cụ để hiện thực hóa
nguyên

tắc

pháp



mỗi


hay

mọi công dân đều



thể tham gia vàocông việc của Nhà nước - trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua
các tổ chức đại diện; đó cũng là con đường tạo lập sự đồng thuận giữa lực
lượng cầm quyền với quần chúng nhân dân (xã hội) thông qua sự thỏa thuận
có tính thể chế. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều
chủ trương, giải pháp nhằm phát huy hiệu quả vai trò giám sát của Nhân
dân như Nghị quyết Hội nghị BCHTW lần thứ 8 Khóa VII, Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, X. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI tiếp tục khẳng định: “Nhà nước phục vụ Nhân dân, gắn bó mật thiết
với Nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của Nhân dân, tôn trọng, lắng
nghe ý kiến của Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân; có cơ chế và
biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ
nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ
quốc và của Nhân dân”[ 1]Như vậy, giám sát là một hoạt động không thể
thiếu được nhằm bảo đảm quyền lực mà Nhân dân trao cho các cơ quan nhà
nước được thực thi đúng pháp luật, phục vụ lợi ích của Nhân dân.
Trong điều kiện lịch sử - cụ thể của nước ta, đất đai không chỉ là một
phạm trù kinh tế, mà còn thuộc phạm trù chính trị - xã hội, an ninh - quốc
phòng; đất đai là nguồn lực to lớn cho sự phát triển đất nước… Đất đai là
thành quả của sự nghiệp giữ nước và dựng nước lâu dài của cả dân tộc, không
thể để cho một số người nào đó có quyền độc chiếm, sở hữu. Đất đai của quốc
gia, dân tộc phải thuộc sở hữu chung của toàn dân và được sử dụng phục vụ



11

cho mục đích chung của toàn dân tộc, của Nhân dân.Những sai lầm và thiếu
sót của cơ quan nhà nước- đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai - thời gian
qua trong lĩnh vực đất đai không phải là bản chất của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa và có thể sửa chữa được. Vấn đề là chúng ta phải thực sự xây dựng
được thiết chếgiám sát để Nhà nước ta phải hành động như Nhà nước xã hội
chủ nghĩa thực chất. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh vai trò giám sát đất đai của
các cơ quan Nhà nước, nhất là người dân trực tiếp giám sát quyền đại diện chủ
SHTD về đất đai -một việc làm quan trọng và cần thiết, nhằm đẩy nhanh tiến
độ hội nhập sâu, rộng quốc tế và phát triển của đất nước.
1.1.2. Cơ sở lý luận
Tư tưởng giám sát quyền lựcnhà nước được các nhà triết học đặt ra từ
thời La Mã cổ đại và phát triển hoàn thiện ở thời kỳ Khai sáng với sự ra
đời của thuyếttam quyền phân lập.Nội dung cốt lõi của học thuyết này cho
rằng, quyền lực nhà nước (QLNN) luôn có xu hướng tự mở rộng, tự tăng
cường vai trò của mình, dần dần xuất hiện xu thế lạm quyền, chuyên quyền
trong việc thực thi QLNN. Do vậy, để đảm bảo các quyền tự do cơ
bản của công dân được thực thi, ngăn ngừa hành vi lạm quyền của các chủ thể
nắm giữ quyền lực, Nhà nước cần phải thiết lập cơ chế nhằm giới hạn
quyềnlực của các cơ quan của mình.Theo đó, thuyết tam quyền phân lập đề
cao phương án giới hạn quyền lực củacác nhánh quyền lực bằng công cụ pháp
lý thông qua việc phân chia thành các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp,
làm cho các nhánh quyền lực này chỉ được phép hoạt động trong phạm vi quy
định của pháp luật. Trên thực tế, sự phân chia này không chỉ nhằm chuyên
môn hoá các quyền mà còn tạo ra cơ chế giám sát, chế ước lẫn nhau giữa các
nhánh quyền lực, tạo nên sự cân bằng về quyền lực giữa các cơ
quan công quyền.



12

Đặc biệt trong tác phẩm “ Khế ước xã hội”, Jean - Jacques Rousseau (1712
- 1778) nhận thấy có một vấn nạn là khi nắm giữ quyền lực trong tay, chính
quyền dễ có khuynh hướng lạm dụng quyền hành, và khi chính quyền càng
cần nhiều quyền lực để điều hành thì chủ quyền tối thượng cũng cần có quyền
lực tương đương để kềm chế chính quyền khỏi lạm dụng quyền hành (Chương
1, q. III). Thêm vào đó, quyền lập pháp là quyền riêng biệt, chỉ có thể nằm
trong tay của Hội đồng tối cao - bao gồm tất cả mọi công dân mà chỉ nghĩ đến
cái tốt chung cho cả tập thể. Theo Rousseau, chủ quyền Nhân dân mang tính
chất tối cao, không thể từ bỏ và không thể phân chia. Việc chia quyền lực nhà
nước thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chỉ là biểu hiện bên
ngoài, trong một giai đoạn nhất định của hoạt động của Nhà nước. Thực chất,
các bộ phận này đều phụ thuộc vào và nhằm thực hiện quyền lực tối cao của
Nhân dân. Chủ quyền Nhân dân là nền tảng cho sự ra đời của Nhà nước, vì thế
cao hơn, chi phối và là cơ sở bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà
nước. Nhân dân thực hiện chủ quyền của mình bằng cách giám sát và kiểm
soát quyền lực bên ngoài [5].
Ở nước ta, giám sát cơ quan Nhà nước, giám sát cán bộ là quyền của dân,
quyền của những người chủ đất nước đối với những quan chức được dân trao
quyền sử dụng để thực hành chủ quyền của mình. Chức năng quan trọng
hàng đầu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sau đây gọi là Mặt trận) là giám
sát và phản biện, đó là trách nhiệm của Mặt trận với dân, với Đảng và cũng
là lý do tồn tại của Mặt trận. Sau Đại thắng mùa xuân 1975, đất nước lún sâu
vào cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, quyền dân chủ dương như chưa
được phát huy một cách hiệu quả, việc giám sát còn khá mới mẻ với rất
nhiều người dân; trong khi đó, Mặt trận dần dần bị“hành chính hoá”, “đảng
hóa” và cách bố trí cán bộ, những người sắp về hưu, điều về Mặt trận làm



13

cho Mặt trận không có thực lực không thể hoạt động độc lập, trở thành một
cơ quan của tỉnh, nhiều nơi cán bộ vẫn gọi là "đầu sai" của cấp uỷ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Nhân dân không bao giờ trao chủ quyền của
mình, quyền lực chính trị của mình cho bất kỳ ai. Nhân dân không trao cho
Nhà nước quyền sở hữu của chủ quyền mà chỉ trao cho Nhà nước quyền sử
dụng để thực hành chủ quyền của mình và chỉ trao quyền sử dụng ấy một
cách rất hạn chế về thời gian và về cái diện bao quát nội dung của chủ
quyền. Đồng thời,Nhân dân luôn luôn kiểm tra, giám sát Nhà nước trong
việc sử dụng phần quyền được trao ấy, nếu thấy cần thiết thì Nhân dân thu
lại, không trao quyền sử dụng ấy nữa” [6].Kể từ khi đất nước thực hiện công
cuộc đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường nhiều thành
phần; trong xã hội xuất hiện các lợi ích khác nhau - thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại. Lúc này, bắt đầu manh nha xuất hiện những lợi ích cục bộ, bản
vị, địa phương; lợi ích nhóm trong bộ phận cán bộ, công chức được trao
trách nhiệm thực hành quyền lực nhà nước. Hơn nữa, cơ chế thị trường đã
giải phóng mọi năng lực sản xuất - kinh doanh, phát huy tính chủ động, sáng
tạo của người lao động; sự dân chủ, cởi mở trong xã hội ngày càng phát
triển. Con người nhận thức được vị trí và tầm quan trọng của dân chủ trong
đời sống kinh tế - xã hội. Bên cạnh mặt tích cực, cơ chế thị trường cũng bộc
lộ những mặt tiêu cực như tệ nạn tham nhũng, tiêu cực, coi trọng quá mức
giá trị vật chất và “tiền tệ hóa” các quan hệ xã hội v.v. Điều này gây ra sự
nhức nhối, bức xúc trong xã hội. Để phản ứng với những mặt trái của cơ chế
thị trường, người dân đòi hỏi phải có sự giám sát, kiểm soát việc thực thi
quyền lực nhà nước, tránh sự lạm quyền, chuyên quyền mà một trong những
hình thức giám sát, kiểm soát được thực hiện; đó là việc họ giám sát trực tiếp
việc sử dụng quyền lực của các cơ quan nhà nước.



14

1.1.3. Cơ sở thực tiễn
Trong tác phẩm kỷ niệm 100 năm công dân Trung Quốc, ông Leo một
học giả lớn của nước này cho rằng: “Người Trung Quốc cổ đại nhầm tưởng
rằng bản tính con người vốn là thiện, lừa người và tự lừa mình, từ đó hình
thành đặc trưng nhân cách của quyền lực Trung Hoa, xem trọng nhân trị, xem
nhẹ pháp trị, dẫn đến chủ nghĩa chuyên trị kéo dài suốt mấy nghìn năm. Trong
khi đó, phương Tây cổ đại lại cho rằng bản tính con người vốn là ác, họ
không tin vào nhân trị, mà rất coi trọng pháp trị, vì thế nhân cách thị trường
của họ được coi trọng và đề cao và cuối cùng hình thành một chế độ kiểm soát
Chính phủ, điều đó khiến cho mức độ tai hại do quyền lực gây nên được giảm
thiểu đi rất nhiều” [7]. Như vậy, tham nhũng có thể được xem như một thói
hư, tật xấu của con người và nó sẽ phát tác khi có điều kiện và điều kiện đó
không có gì thích hợp hơn là nắm giữ trong tay quyền hành, của cải. Điều này
chẳng khác nào việc nhân danh vai trò “đại diện chủ sở hữu toàn dân”, các cơ
quan “đại diện”nhằm nắm giữ toàn quyền và độc quyền trong việc lập và sửa
đổi quy hoạch đất đai ở Việt Nam. Quá trình lạm dụng sẽ bắt đầu một cách
“bài bản” khi có các nhóm lợi ích tư nhân từ phía các doanh nghiệp tham gia,
thậm chí chi phối, dẫn đến hậu quả là quy hoạch không còn phục vụ các mục
đích “quốc kế dân sinh” mà chỉ nhằm hỗ trợ các nhóm lợi ích tư nhân tìm
kiếm lợi nhuận thông qua các dự án kinh tế cụ thể.
Trên thực tế, toàn dân là chủ sở hữu đất đai nhưng không thực hiện
được các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt mà lại ủy quyền cho
pháp nhân công là Nhà nước thực hiện đại diện quyền sở hữu.Nhà nước thực
hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai thông qua các cơ quan nhà
nước. Do đó, các cơ quan này có quyền hạn rất lớn trong quản lý đất đai
(Chính phủ và UBND các cấp). Như vậy, chế độ SHTD về đất đai đã tạo ra sự



15

mâu thuẫn về mặt lý luận, pháp lý và trên thực tế. Chính những quy định lòng
vòng này đã tạo điều kiện cho đất đai bị buông lỏng quản lý gây nên tình trạng
tham nhũng, tìm kiếm lợi ích nhóm, đầu cơ đất tăng nhanh trong những năm
gần đây. Theo kết quả điều tra xã hội học năm 2012 về “Tham nhũng từ góc
nhìn của người dân, doanh nghiệp và cán bộ công chức” do Ngân hàng Thế
giới (WB) và Thanh tra Chính phủ phối hợp thực hiện thì quản lý đất đai là
một trong những ngành tham nhũng nhiều nhất. Gần 60% ý kiến chọn lĩnh vực
quản lý đất đai xếp ở vị trí thứ hai trong 3 ngành tham nhũng nhất. Trong khi
đó, 70% khiếu nại trên cả nước liên quan đến lĩnh vực này [ 8].
Hơn nữa, do tồn tại chế độ SHTD về đất đai mà ở Việt Nam xuất hiện
thị trường sơ cấp bất động sản (BĐS) là quyền phát sinh giữa cơ quan đại diện
chủ SHTD về đất đai với tố chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất trong việc
xác lập quyền sử dụng đất thông qua giao đất, cho thuê đất. Vì vậy, để tiếp
cận được đất đai và chỉ phải đóng một khoản tiền điều tiết địa tô tuyệt đối rất
nhỏ (Địa tô tuyệt đối là khoản lợi nhuận mà người sử dụng đất có được khi
chiếm hữu, sử dụng đất đai) vào ngân sách nhà nước;nên trong hoạt động
quản lý đất đai còn tiềm ẩn nguy cơ cấu kết giữa quan chức với các doanh
nghiệp.
Chẳng hạn yếu tố “lạm dụng”: Thời gian qua, các lạm dụng trong lĩnh
vực đất đai chủ yếu đến từ các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước
tại địa phương. Sự “lạm dụng” xảy ra đặc biệt nghiêm trọng trong quy hoạch
sử dụng đất và trong thu hồi đất của người dân (nhất là nông dân) để xây dựng
các dự án công nghiệp và thương mại.Trong một số trường hợp, khi có sự
tham gia và bị chi phối bởi các nhóm lợi ích mà Nhà nước không quản lý,
giám sát được sẽ dẫn đến những hậu quả là đất đai không còn phục vụ các
mục đích chung vì cộng đồng và vì lợi ích của người dân, mà tạo điều kiện



16

cho các nhóm lợi ích tìm kiếm lợi nhuận được che đậy thông qua các dự án
đầu tư về kinh tế - xã hội. Thực tế cho thấy, các dự án kinh tế quy mô vừa và
nhỏ có thể đáp ứng yêu cầu phải tuân thủ quy hoạch, song các dự án lớn, thậm
chí “khổng lồ”, với vốn đầu tư được đưa ra hàng tỷ USD hay hàng chục tỷ
USD, thì chắc chắn sẽ tác động làm thay đổi quy hoạch phát triển. Và hơn
nữa, các dự án đó đa phần lại được khởi xướng bởi các “lực lượng tư nhân” lực lượng quan tâm chủ yếu đến tỷ suất đầu tư, lợi nhuận hơn là những mục
tiêu quốc kế dân sinh.
Một diện tích rừng rất lớn bằng cả diện tích tỉnh Tây Ninh được các địa
phương giao cho người nước ngoài thuê. Một vị phó chủ tịch tỉnh nọ một ngày
ký 7 quyết định thu hồi đất với diện tích hàng trăm ha… Điều này cảnh báo
rằng, chế độ SHTD về đất đai dễ bị định đoạt bằng quyết định hành chính sẽ
tạo cơ hội cho nhóm lợi ích phát triển.
Việc thu hồi đất nông nghiệp cho việc xây dựng sân golf cũng rất đáng
lo ngại. Trong tổng số hơn 23.000 ha của 76 dự án sân golf đã và đang triển
khai trong cả nước, có tới 8.000 ha đất (chiếm 35%) để kinh doanh BĐS, biệt
thự, nhà nghỉ, nhà hàng… Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực BĐS cho rằng,
thực chất hàng trăm ngôi biệt thự cao cấp “đính kèm” bên cạnh sân golf trong
mỗi dự án mới là mục tiêu chính mà các chủ đầu tư nhắm đến. Ví dụ, trong
tổng diện tích 4.200 ha đất của 9 dự án sân golf đang triển khai tại Lâm Đồng,
chỉ có 20% diện tích dành cho sân golf, phần còn lại chủ yếu được sử dụng
xây nhà nghỉ, biệt thư cao cấp để bán và cho thuê [ 9].
Bên cạnh đó, sự lạm dụng quyền để thu hồi đất với diện tích lớn hơn
nhu cầu thực tế, thu hồi đất sai đối tượng, những quyết định hành chính thu
hồi đất sai… diễn ra khá phổ biến ở các địa phương.Công tác quản lý đất đai
còn nhiều hạn chế, thiếu minh bạch, tình trạng tham nhũng đất cũng ngày càng
nặng nề, nguồn lực đất đai bị phân tán. Nguồn thu từ đất đai chưa tương xứng



17

với tiềm năng, Nhà nước chưa điều tiết một cách hợp lý các loại lợi ích khi sử
dụng quỹ đất dẫn đến hậu quả là phần lớn lợi ích rơi vào túi các nhà đầu tư, tư
nhân nước ngoài, lỏng lẻo trong quản lý đất đai, những yếu kém trong định giá
đất, giải phóng mặt bằng… đã gây ra những hiệu ứng xã hội “bất thuận”: Tình
trạng khiếu kiện về đất đai ngày càng gay gắt, diễn biến phức tạp và tiền ẩn
nguy cơ mất ổn đinh chính trị - xã hội.
Những điều nêu trên, không phải do bản chất của chế độ SHTD về đất
đai, mà chủ yếu là do chúng ta chưa có một cơ chế đủ mạnh để hạn chế sự lạm
quyền của công chức nhà nước, viên chức nhà nước trong thực thi chính sách,
pháp luật đất đai. Vấn đề đặt ra là cần phải có giải pháp hữu hiệu để giám sát
việc thực thi quyền lực trên thực tế. Trong khi đó, giám sát của các cơ quan
công quyền, các tổ chức xã hội…chưa tạo ra bước đột phá, còn chồng chéo về
mặt quyền lực, chưa đáp ứng được nguyện vọng của người dân.Muốn vậy,
không ai khác chính người dân - những người chủ sở hữu đất đai đích thực
phải thực hiện giám sát quyền đại diện chủ sở hữu đất đaiđể hạn chế tham
nhũng, làm giàu bất chính.
1.1.4. Cơ sở pháp lý
Cơ sở để Nhân dân thực hiện quyền giám sát đại diện chủ SHTD về đất đai là
Hiến pháp, Luật đất đai và Ppháp lệnh dân chủ cơ sở. Nhà luật học và nhà
chính trị nổi tiếng Thomas Jefferson đã nói “Trong các vấn đề quyền lực,
đừng nói thêm gì nữa về lòng tin vào đức tính tốt của con người, mà phải trói
anh ta lại bằng sợi dây xích hiến pháp để anh ta không làm được những điều
ác” (1789).Bởi lẽ, quyền lực khi trao cho Nhà nước thì các cơ quan Nhà nước
bao giờ cũng có xu hướng lạm quyền.
Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân, vìdân, Hiến pháp năm 2013 khẳng định quyền lực nhà nước



18

không chỉ là thống nhất, phân công, phối hợp mà còn được kiểm soát. Đây là
một nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN, Nhà nước của dân
nên quyền lực phải được kiểm soát. Kiểm soát quyền lực có thể thực hiện
bằng cơ chế kiểm soát bên trong Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước
theo luật định và thông qua cơ chế bên ngoài Nhà nước. Đó là sự kiểm
soát của các tổ chức Đảng, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên, của các tổ chức xã hội và cá nhân công dân.
Với tư tưởng chỉ đạo như vậy, bảo đảm tính hợp lý, logic, Điều 8 và
Điều 12 Hiến pháp năm 1992 được viết gọn lại, ghi nhận trực tiếp quyền giám
sát của Nhân dân đối với bộ máy nhà nước được thể hiện trong Điều 8 Hiến
pháp năm 2013 là “ Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và
pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải
tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa
quyền”.
Công dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với Nhà nước thông
qua hoạt động tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Hoạt động đó thể hiện
bằng nhiều hình thức khác nhau như: công dân có quyền bầu cử, ứng cử vào
các cơ quan quyền lực nhà nước, đóng góp ý kiến vào xây dựng, phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội đất nước; thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo cơ quan
nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, cán
bộ, công chức nhà nước; tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Hiến pháp và
pháp luật; giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Nhằm tăng cường ý
thức trách nhiệm, vai trò làm chủ của công dân, bảo đảm thực hiện các quyền
trên, Hiến pháp năm 2013 quyđịnh “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà



19

nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các
vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện
đểcông dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong
việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28).
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên Luật Đất đai
năm 2013 dành một điều khoản riêng quy định về quyền giám sát của công
dân với việc quản lý và sử dụng đất: “Công dân có quyền tự mình hoặc thông
qua các tổ chức đại diện thực hiện quyền giám sát và phản ánh các sai phạm
trong quản lý và sử dụng đất đai”( khoản 1,Điều 199). Quy định này một lần
nữa khẳng định vai trò của người dân trong việc giám sát quyền đại diện chủ
SHTD về đất đai.Để thực hiện quyền giám sát của mình đối với đại diện chủ
SHTD về đất đai, người dân phải có quyền nắm bắt các thông tin về đất đai và
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có trách nhiệm cung cấp thông tin
này “Cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong quản lý, sử dụng đất đai
có trách nhiệm tạo điều kiện, cung cấp thông tin về đất đai cho tổ chức, cá
nhân theo quy định của pháp luật” ( Khoản 4, Điều 27 Luật đất đai 2013).
1.2. Khái quát giám sát quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của
Nhà nước
1.2.1. Khái niệm quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà
nước
1.2.1.1. Cơ sở của việc Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai.
Trước hết phải khẳng định, đất đai là lãnh thổ thiêng liêng của quốc gia,
là tư liệu sản xuất quan trọng và là nền tảng để tạo ra của cải vật chất như Các
Mác đã nói “ đất là mẹ, lao động là cha” [10]. Duy trì chế độ SHTD về đất đai
tức là mỗi người dân đều có quyền, còn Nhà nước chỉ là đại diện chủ sở hữu
thực hiện quyền quản lý về đất đai, bảo đảm sử dụng hợp lý, có hiệu quả.



×