Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Một số quy định pháp luật Việt Nam về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trong thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THU PHƢƠNG

MỘT SỐ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ QUAN HỆ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ
NƢỚC NGOÀI TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60380108

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NÔNG QUỐC BÌNH

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên của luận văn, Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám
hiệu, Khoa sau đại học và thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện
thuận lợi cho Tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo Trường Đại học Luật
Hà Nội nói chung và các thầy cô Khoa Pháp luật Quốc tế - Trường Đại học Luật
nói riêng đã trực tiếp giảng dạy, tận tình truyền đạt kiến thức cho Tôi trong suốt
thời gian học tập tại trường.
Đặc biệt, Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Thầy giáo – PGS.TS. Nông
Quốc Bình, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ Tôi trong suốt thời


gian Tôi học tập, thực hiện và hoàn thành luận văn Thạc sĩ này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2015

Học viên

Nguyễn Thị Thu Phương


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ luật học: “Một số quy định pháp luật
Việt Nam về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trong thời kỳ
hội nhập” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những nội dung trong luận văn
này là hoàn hoàn trung thực, do Tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của
Thầy giáo – PGS.TS. Nông Quốc Bình. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo
trong luận văn đã được nêu rõ nguồn trong danh mục tài liệu tham khảo. Tôi hoàn
toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận văn này.

Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2015
Tác giả luận văn

Học viên

Nguyễn Thị Thu Phương


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU


1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2

3. Phạm vi nghiên cứu đề tài

3

4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài

3

5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

4

6. Đóng góp của luận văn

4

7. Kết cấu của luận văn

5


CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài

6
6

1.1.1. Khái niệm quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài

6

1.1.2. Khái niệm quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài

7

1.1.3. Dấu hiệu nhận biết quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài

8

1.2. Phƣơng pháp điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nƣớc ngoài

9

1.2.1. Phương pháp xung đột

9


1.2.2. Phương pháp thực chất

10

1.3. Nguyên tắc áp dụng để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình
có yếu tố nƣớc ngoài

11

1.3.1. Nguyên tắc chung

11

1.3.2. Nguyên tắc chuyên biệt

14

1.4. Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nƣớc ngoài
1.4.1. Pháp luật quốc gia

17
17


1.4.2. Điều ước quốc tế

19

1.4.3. Tập quán quốc tế


19

CHƢƠNG 2. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ QUAN HỆ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ NƢỚC
NGOÀI TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP – SO SÁNH PHÁP LUẬT
MỘT SỐ NƢỚC

21

2.1. Ảnh hƣởng của quá trình hội nhập đối với pháp luật về quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài ở Việt Nam

21

2.2. Một số quy định cơ bản hiện hành của pháp luật Việt Nam về
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài

26

2.2.1. Quan hệ hôn nhân

26

2.2.2. Quan hệ gia đình

31

2.3. Một số điểm mới về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nƣớc ngoài trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014


34

2.3.1. Vấn đề hôn nhân đồng giới

35

2.3.2. Vấn đề mang thai hộ

38

2.3.3. Vấn đề nam, nữ chung sống như vợ chồng

41

2.4. Pháp luật Việt Nam về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nƣớc ngoài – So sánh với pháp luật một số nƣớc trên thế giới

44

CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT NHẰM THỰC HIỆN
HIỆU QUẢ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUAN HỆ HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TRONG THỜI KỲ HỘI
NHẬP

52

3.1. Tình hình ban hành và thực hiện các quy định pháp luật Việt
Nam về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài hiện nay


52

3.2. Thực trạng quy định và thực hiện pháp luật về quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài ở Việt Nam hiện nay

55

3.2.1. Những thành công đã đạt được trong việc giải quyết quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài

55


3.2.2. Một số bất cập còn tồn tại trong quy định pháp luật về quan
hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài

57

3.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả quy định
về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài trong thời kỳ
hội nhập

60

3.3.1. Kiến nghị đảm bảo thực hiện pháp luật về hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài trong thời kỳ hội nhập

60

3.3.2. Các giải pháp tăng cường vai trò, chức năng cho các thiết chế 63

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

70


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật Dân sự.

CHXHCN Việt Nam

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

ĐƯQT

: Điều ước quốc tế.

HĐTTTP

: Hiệp định tương trợ tư pháp.

HNGĐ

: Hôn nhân và gia đình.

TQQT

: Tập quán quốc tế.


UBND

: Ủy ban nhân dân.


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước thời kỳ đổi mới, ở Việt Nam, hôn nhân và gia đình (HNGĐ) có yếu tố
nước ngoài là loại quan hệ ít phổ biến và chưa thật điển hình. Tuy nhiên, hơn hai
thập kỷ qua, đặc biệt trong quá trình hội nhập quốc tế, khi mà Việt Nam tham gia
ngày càng sâu, rộng vào các quan hệ quốc tế, quan hệ HNGĐ có yếu tố nước
ngoài không còn là hiện tượng ít gặp trong đời sống xã hội mà ngày càng phát
triển một cách đa dạng và phức tạp cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Việc điều chỉnh
các quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài trở thành một yêu cầu cấp bách, quan
trọng không chỉ góp phần ổn định và phát triển giao lưu dân sự quốc tế, mà còn là
nhu cầu thiết yếu của xã hội, hướng đến bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân khi tham gia vào quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài [12].
Để tạo điều kiện cho công dân Việt Nam cũng như người nước ngoài tham
gia vào các quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài, Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản có giá trị cao để điều chỉnh quan hệ này như Luật HNGĐ năm 1986, Luật
HNGĐ năm 2000, Luật Nuôi con nuôi năm 2010 và gần đây nhất là Luật HNGĐ
năm 2014 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, Việt Nam còn gia
nhập điều ước quốc tế (ĐƯQT) đa phương như Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ
trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế và ký kết nhiều hiệp định tương
trợ tư pháp (HĐTTTP) với các nước để giải quyết vấn đề về quan hệ HNGĐ có
yếu tố nước ngoài. Các văn bản pháp luật này điều chỉnh toàn diện vấn đề HNGĐ
từ kết hôn, ly hôn, quan hệ pháp lý giữa vợ và chồng, quan hệ cha mẹ và con, vấn

đề nuôi con nuôi, cấp dưỡng...
Đặc biệt, Luật HNGĐ năm 2014 mới ra đời với những sửa đổi, bổ sung
nhiều quy định trong đó có cả những quy định điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu
tố nước ngoài để phù hợp hơn với tình hình hội nhập của quốc gia. Vì vậy, nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện pháp luật điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố
nước ngoài tại Việt Nam hiện nay và đưa ra những giải pháp nhằm thực thi pháp
luật một cách hiệu quả nhất trong thời kỳ hội nhập là một việc làm cấp bách đặt ra.


2

Nhận thức được tính cấp thiết trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Một số quy
định pháp luật Việt Nam về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
trong thời kỳ hội nhập” cho Luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo thạc sỹ luật
học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài ở nước ta đã được rất nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm và cho ra đời các công trình nghiên cứu như Luận án tiến sỹ,
Luận văn thạc sĩ và một số bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Có
thể kể đến các công trình nghiên cứu như Luận án tiến sĩ luật học của Nông Quốc
Bình với đề tài: “Pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở
Việt Nam”; Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Hồng Bắc với đề tài “Pháp luật
điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới”; TS. Nông Quốc Bình, TS. Nguyễn Hồng Bắc với đề tài “Quan hệ HNGĐ
có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế”, Nxb Tư pháp,
Hà Nội năm 2006 và đề tài “Quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài những vấn đề
lý luận và thực tiễn”, Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2011; Luận văn thạc sĩ luật học
của Tạ Tùng Hoa với đề tài “Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”; Lê Thị Hoàng Thanh, Trương Hồng Quang

với bài viết “Pháp luật Việt Nam về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài”
đăng trên tạp chí luật học số 9/2011... Tuy nhiên, các bài viết, đề tài nghiên cứu
chủ yếu tìm hiểu về quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài theo các quy định của
ĐƯQT, Luật HNGĐ năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Hiện nay, Luật
HNGĐ năm 2014 mới được ban hành với nhiều quy định được sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp với quá trình hội nhập hiện nay. Tuy nhiên, đến nay, chưa có công
trình nghiên cứu nào hệ thống đầy đủ quy định về quan hệ HNGĐ có yếu tố nước
ngoài theo quy định của Luật HNGĐ năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi
hành.
Việc thực hiện đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Về mặt lý
luận, luận văn góp phần tổng hợp, hệ thống hóa pháp luật về quan hệ HNGĐ có
yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong các văn bản pháp luật hiện hành. Về mặt thực
tiễn, luận văn tập trung đưa ra các giải pháp nhằm thực thi pháp luật về quan hệ


3

HNGĐ có yếu tố nước ngoài một cách hiệu quả nhất trong thời kỳ hội nhập hiện
nay.

3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Pháp luật điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài là một vấn đề có
phạm vi rộng, với nhiều nội dung cần nghiên cứu. Tuy nhiên, trong khuôn khổ
luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu về một số quan hệ HNGĐ có yếu tố nước
ngoài được điều chỉnh trong Luật HNGĐ năm 2014 như quan hệ kết hôn, quan hệ
ly hôn, quan hệ pháp lý giữa vợ và chồng, quan hệ cha, mẹ và con, quan hệ cấp
dưỡng và đặc biệt là một số quy định mới của Luật HNGĐ năm 2014 so với các
văn bản pháp luật trước đó.
Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài cũng là một trong những quan
hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, quan hệ này đã được quy định riêng

tại Luật Nuôi con nuôi năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong phạm
vi của luận văn, tác giả sẽ không nghiên cứu các quy định điều chỉnh quan hệ này.
Khi nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, luận văn tìm
hiểu quy định về quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài trong các văn bản pháp luật
trong nước, các ĐƯQT mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập, đồng thời có so sánh với
pháp luật một số nước về vấn đề xung đột pháp luật trong quan hệ HNGĐ có yếu
tố nước ngoài để tìm ra điểm tương đồng và khác biệt. Từ những phân tích các
quy định của pháp luật hiện hành, luận văn chỉ ra những vấn đề còn thiếu hoặc
chưa phù hợp của pháp luật và đề xuất các giải pháp nhằm thực thi pháp luật về
HNGĐ nói chung và quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài nói riêng một cách hiệu
quả nhất.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Để thực hiện đề tài, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp lịch sử;
- Phương pháp thống kê.


4

5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài là một vấn đề khá phổ biến và phức
tạp trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Do đó, đề tài nghiên cứu nhằm mục đích sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề chung về quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài
được quy định trong pháp luật Việt Nam hiện nay;
- Phân tích, bình luận một số quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành,

đặc biệt là một số quy định mới của Luật HNGĐ năm 2014 điều chỉnh quan
hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài trong thời kỳ hội nhập;
- Chỉ ra một số điểm chưa phù hợp của các quy phạm pháp luật điều chỉnh
quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài để từ đó có những hướng dẫn cho phù
hợp;
- Qua quá trình nghiên cứu đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm thực thi
Luật HNGĐ năm 2014 nói chung và pháp luật về quan hệ HNGĐ có yếu tố
nước ngoài nói riêng đạt hiệu quả tốt nhất.

6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở mục đích của việc nghiên cứu đã đề ra, luận văn đã có một số
đóng góp mới như sau:
- Luận văn nghiên cứu có hệ thống lý luận về quan hệ HNGĐ có yếu tố nước
ngoài;
- Luận văn chỉ ra một số quy định mới của Luật HNGĐ năm 2014 so với các
quy định của pháp luật trước đây về quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài;
- Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về quan hệ
HNGĐ có yếu tố nước ngoài, luận văn chỉ ra những quy định chưa phù hợp
và một số vấn đề chưa được pháp luật HNGĐ Việt Nam dự liệu;
- Trên cơ sở nghiên cứu các quy phạm của pháp luật và tình hành ban hành
các văn bản pháp luật về điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài,
tác giả đề xuất các giải pháp để thực thi pháp luật về quan hệ HNGĐ có yếu
tố nước ngoài đạt hiệu quả tốt nhất trong thời kỳ đất nước hội nhập quốc tế
hiện nay.


5

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt và danh mục tài liệu

tham khảo, nội dung của luận văn gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài
Chương 2: Một số quy định của pháp luật Việt Nam về quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài trong thời kỳ hội nhập – So sánh với pháp luật một
số nước
Chương 3: Thực trạng và đề xuất nhằm thực hiện hiệu quả quy định pháp
luật về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trong thời kỳ hội nhập.


6

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài
1.1.1. Khái niệm quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài
Hôn nhân là một hiện tượng xã hội đặc biệt, trong đó các bên chủ thể gắn kết
với nhau với mục đích tạo dựng một tế bào xã hội là gia đình. Khác với các quan
hệ dân sự bình thường, mục đích của các chủ thể trong quan hệ hôn nhân không
phải nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần trong một thời điểm nhất định
mà nhằm xác lập mối quan hệ lâu dài. Nói cách khác, hôn nhân là cơ sở tạo nên
quan hệ vợ chồng và quan hệ huyết thống mà tổng hợp các mối quan hệ này là nền
tảng của gia đình.
Khái niệm hôn nhân đã được nhiều tài liệu đề cập đến. Theo Từ điển tiếng
Việt, khái niệm hôn nhân được hiểu là “việc nam nữ chính thức lấy nhau làm vợ
chồng” [10, tr.9].
Theo giải thích cuả Oxford advanced Learner’s Dictionary do Oxford
University Press xuất bản năm 1992 thì “hôn nhân là sự liên kết pháp lý giữa một
người đàn ông với một người đàn bà như vợ chồng” [10, tr.9].
Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội

thì “hôn nhân là sự liên kết giữa người nam và người nữ trên nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng theo điều kiện và trình tự luật định nhằm chung sống với nhau
suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc và hòa thuận” [10, tr.10].
Theo khoản 1 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014 thì “Hôn nhân là quan hệ giữa
vợ và chồng sau khi kết hôn”.
Quan hệ hôn nhân là quan hệ giữa các chủ thể trong hôn nhân, nó được xác
lập từ khi các bên nam nữ chính thức lấy nhau làm vợ chồng và chấm dứt khi các
bên không còn quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật. Có thể nói, việc xác
lập và chấm dứt quan hệ hôn nhân trước hết hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của các cá nhân trong hôn nhân phù hợp với quy định của pháp luật. Theo
đó, quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài bao gồm: quan hệ kết hôn có yếu tố


7

nước ngoài; quan hệ vợ chồng có yếu tố nước ngoài; quan hệ ly hôn có yếu tố
nước ngoài.
Căn cứ vào khoản 25 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014, quan hệ hôn nhân có
yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân mà ít nhất một bên tham gia là người nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân giữa các bên tham
gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó
theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến
quan hệ đó ở nước ngoài.

1.1.2. Khái niệm quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài
Gia đình là hiện tượng xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển
của xã hội loài người. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, gia đình là tế bào của xã hội
mà trong đó có sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa lợi ích của mỗi công dân, nhà nước và
xã hội.
Quan hệ gia đình là loại quan hệ xã hội bao gồm quan hệ giữa vợ và chồng;

cha, mẹ và con cái; quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình. Theo đó,
quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài bao gồm: quan hệ giữa cha, mẹ và con có
yếu tố nước ngoài; quan hệ cấp dưỡng có yếu tố nước ngoài; quan hệ nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài.
Căn cứ khoản 25 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014, quan hệ gia đình có yếu tố
nước ngoài là quan hệ gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ gia đình giữa các bên tham gia là
công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo
pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ
đó ở nước ngoài.
Ngoài ra, quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài bao gồm quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình như quan hệ giữa ông, bà nội, ông, bà ngoại và cháu;
giữa anh, chị, em và giữa các thành viên trong gia đình có yếu tố nước ngoài.


8

1.1.3. Dấu hiệu nhận biết quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài
Các quan hệ HNGĐ được coi là quan HNGĐ có yếu tố nước ngoài khi có
một trong những dấu hiệu sau:
Chủ thể trong quan hệ HNGĐ là người nước ngoài, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài. Theo quy định tại Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (sửa
đổi năm 2014), người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao
gồm: người có quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch. Người có quốc
tịch nước ngoài có thể là người có một hoặc nhiều quốc tịch nước ngoài. Như vậy,
quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài có thể xảy ra trong các trường hợp sau: giữa
công dân Việt Nam với người có quốc tịch nước ngoài; giữa công dân Việt Nam với
người không quốc tịch; giữa người có quốc tịch nước ngoài với nhau thường trú tại
Việt Nam; giữa người không quốc tịch với nhau thường trú tại Việt Nam; giữa người

có quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam.
Theo quy định tại Khoản 25 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014 thì các quy định
của Chương VIII Luật HNGĐ năm 2014 cũng được áp dụng đối với quan hệ
HNGĐ giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở
nước ngoài. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với thực tế vì trong điều kiện kinh
tế xã hội hiện nay, với chính sách “mở cửa” và “hội nhập” với các nước trong khu
vực và thế giới, số lượng người Việt Nam cư trú ở nước ngoài nhập cảnh vào Việt
Nam ngày càng tăng. Do đó, quan hệ HNGĐ giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam cũng tăng lên.
Vì vậy, việc điều chỉnh quan hệ HNGĐ giữa công dân Việt Nam với nhau mà một
bên hoặc cả hai bên cư trú ở nước ngoài là cần thiết và đây cũng được coi là quan
hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài [12, tr.8].
- Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ HNGĐ xảy ra ở
nước ngoài. Nó có thể là sự kiện, hành vi... phù hợp với pháp luật Việt Nam hoặc
pháp luật nước ngoài.
- Tài sản liên quan đến quan hệ HNGĐ ở nước ngoài. Nếu quan hệ HNGĐ
có liên quan đến tài sản đang tồn tại ở nước ngoài thì cũng được coi là quan hệ
HNGĐ có yếu tố nước ngoài.


9

1.2. Phƣơng pháp điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nƣớc ngoài
Phương pháp điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài là phương
pháp xung đột và phương pháp thực chất. Hai phương pháp này được kết hợp hài
hòa và tác động tương hỗ với nhau trong điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố
nước ngoài nhằm đảm bảo một trật tự pháp lý dân sự quốc tế ổn định trong điều
kiện hội nhập hiện nay.


1.2.1. Phương pháp xung đột
Phương pháp xung đột (hay còn gọi là phương pháp điều chỉnh gián tiếp) là
phương pháp điều chỉnh dựa vào các quy tắc được ấn định để áp dụng pháp luật
của một nước được chỉ định nhằm giải quyết quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài
phát sinh thông qua các quy phạm xung đột pháp luật [10, tr.65].
Phương pháp xung đột được hình thành và phát triển trên nền tảng hệ thống
các quy phạm xung đột của quốc gia và các quy phạm xung đột trong các ĐƯQT
mà quốc gia đó là thành viên. Quy phạm xung đột là quy phạm pháp luật ấn định
pháp luật của nước nào cần phải được áp dụng để điều chỉnh quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài trong một tình huống thực tế. Có thể nói, quy phạm xung đột là
loại quy phạm pháp luật “dẫn chiếu”; theo sự “dẫn chiếu” của quy phạm xung đột,
các cơ quan có thẩm quyền chọn được hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ dân
sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài [10, tr.66].
Hiện nay, để giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực HNGĐ có yếu tố
nước ngoài, các nước thường sử dụng một số kiểu hệ thuộc cơ bản sau: luật nhân
thân (lex personalis) gồm hai biến dạng là luật quốc tịch (lex patriae) và luật nơi
cư trú (lex domicili); luật nơi có tài sản (lex rei sitae); luật nơi thực hiện hành vi
(lex loci astus) và luật tòa án (lex fori).
Quy phạm xung đột được ghi nhận, trước hết, trong các văn bản pháp luật
của từng quốc gia. Ở Việt Nam, quy phạm xung đột về quan hệ HNGĐ có yếu tố
nước ngoài được ghi nhận trong Luật HNGĐ năm 2014 và một số văn bản khác.
Ngoài ra, quy phạm xung đột còn được ghi nhận trong các HĐTTTP Việt Nam ký


10

kết với các nước. Các hiệp định này đều xây dựng các quy phạm xung đột thống
nhất để điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài.

1.2.2. Phương pháp thực chất

Phương pháp thực chất (hay còn gọi là phương pháp điều chỉnh trực tiếp) là
phương pháp áp dụng các quy phạm pháp luật thực chất để điều chỉnh trực tiếp
các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Quy phạm thực chất là
quy phạm quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các chủ thể.
Quy phạm thực chất có thể được xây dựng trong các ĐƯQT gọi là các quy
phạm thực chất thống nhất. Việc xây dựng các quy phạm thực chất trong các
ĐƯQT điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài là hết
sức cần thiết. Nó làm hài hòa hóa sự khác biệt trong pháp luật của các quốc gia và
có tính đơn giản hóa, hữu hiệu hóa trong điều chỉnh các quan hệ dân sự quốc tế
nói chung và quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài nói riêng. Khi các quốc gia ký
kết với nhau ĐƯQT, trong đó có các quy phạm thực chất thống nhất, cơ quan có
thẩm quyền sẽ chiểu theo đó để xem xét và giải quyết thực chất vấn đề trên cơ sở
áp dụng ngay quy phạm đó.
Hiện nay, các nước thường tăng cường ký kết các ĐƯQT, trong đó xây dựng
các quy phạm thực chất thống nhất để điều chỉnh các quan hệ dân sự quốc tế.
HĐTTTP Việt Nam ký kết với các nước đã xây dựng quy phạm thực chất thống
nhất để điều chỉnh các quan hệ này, trong đó có một số quy phạm thực chất điều
chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài.
Ngoài ra còn phải kể đến loại quy phạm thực chất trong các văn bản pháp lý
trong nước điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế một cách trực tiếp. Các quy phạm
này cũng là một phần của Tư pháp quốc tế. Luật HNGĐ năm 2014 cũng ghi nhận
quy phạm thực chất này (ví dụ khoản 1, 3 Điều 121).
Như vậy, để điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài, các quốc gia
thường sử dụng hai phương pháp: phương pháp xung đột và phương pháp thực
chất. Hai loại quy phạm này cùng song song tồn tại, hỗ trợ cho nhau, với những
chức năng khác nhau điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài.


11


1.3. Nguyên tắc áp dụng để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình
có yếu tố nƣớc ngoài
Các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài bao gồm
các nguyên tắc cơ bản áp dụng chung cho cả hệ thống pháp luật Việt Nam và các
nguyên tắc cơ bản áp dụng riêng cho việc điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố
nước ngoài.

1.3.1. Nguyên tắc chung
Quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài là một phần trong quan hệ HNGĐ Việt
Nam. Vì thế, nó cũng được điều chỉnh bằng các nguyên tắc cơ bản của chế độ
HNGĐ. Các nguyên tắc này được quy định tại Điều 2 Luật HNGĐ năm 2014 bao
gồm:
Một là nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng
bình đẳng.
Hai là nguyên tắc hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn
giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín
ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Ba là nguyên tắc xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành
viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không
phân biệt đối xử giữa các con.
Bốn là nguyên tắc nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ
trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về HNGĐ; giúp
đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch
hóa gia đình.
Năm là nguyên tắc kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam về HNGĐ.
Ngoài ra, quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài còn được điều chỉnh bằng các
nguyên tắc chung sau:
- Một là nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài

ở Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam và ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên.


12

Khoản 1 Điều 121 Luật HNGĐ năm 2014 đã thể hiện rõ quan điểm đó là:“Ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam, quan hệ HNGĐ có yếu tố nước
ngoài được tôn trọng và bảo vệ phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam
và ĐƯQT mà CHXHCN Việt Nam là thành viên”. Như vậy, quan hệ HNGĐ có
yếu tố nước ngoài thực hiện theo quy định của pháp luật sẽ được tôn trọng và bảo
vệ bằng nhiều biện pháp khác nhau. Khi quyền của các chủ thể tham gia vào quan
hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài bị xâm phạm, chủ thể đó có thể sử dụng các biện
pháp bảo vệ mà pháp luật cho phép hoặc có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền bảo vệ quyền lợi của mình. Khi thực hiện biện pháp bảo vệ quan hệ HNGĐ
có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam, cần lưu ý, các biện pháp bảo vệ đó phải phù
hợp với pháp luật Việt Nam và các ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên.
- Hai là nguyên tắc bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam
ở nước ngoài phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại, pháp luật và
tập quán quốc tế (TQQT). Đồng thời không phân biệt đối xử với người nước ngoài
trong quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam. Theo Điều 4 Luật quốc
tịch năm 2008 (sửa đổi năm 2014), công dân Việt Nam là người có một quốc tịch
Việt Nam. Như vậy, công dân Việt Nam ở nước ngoài là người có một quốc tịch
Việt Nam (có thể đã nhập quốc tịch nước ngoài nhưng vẫn giữ quốc tịch Việt
Nam) nhưng làm ăn, sinh sống ở nước ngoài. Khi công dân Việt Nam ở nước
ngoài tham gia vào quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài, quyền và lợi ích hợp
pháp của họ được Việt Nam bảo hộ. Vấn đề này đã được ghi nhận thành nguyên
tắc tại khoản 3 Điều 121 Luật HNGĐ năm 2014.
Pháp luật Việt Nam cũng bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người nước
ngoài ở Việt Nam. Người nước ngoài tham gia vào quan hệ HNGĐ có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam được hưởng quyền và nghĩa vụ như công dân Việt Nam. Vấn

đề này được quy định tại khoản 2 Điều 121 Luật HNGĐ năm 2014: “Trong quan
hệ HNGĐ với công dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam có các quyền,
nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định
khác.” Theo nguyên tắc trên, khi người nước ngoài tham gia vào quan hệ HNGĐ
có yếu tố nước ngoài, sẽ được hưởng các quyền nhân thân và quyền tài sản như
công dân Việt Nam, trừ một số trường hợp cụ thể mà pháp luật Việt Nam quy định


13

dành riêng cho công dân Việt Nam. Điều này là hoàn toàn xuất phát từ yêu cầu
cần thiết của việc bảo vệ nền kinh tế, bảo đảm chủ quyền, an ninh của Việt Nam
và cũng phù hợp với quy định các nước trên thế giới.
- Ba là nguyên tắc áp dụng pháp luật về HNGĐ của Việt Nam đối với quan
hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài. Nguyên tắc này được quy định tại khoản 1 Điều
122 Luật HNGĐ năm 2014: “Các quy định của pháp luật về HNGĐ của nước
CHXHCN Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài,
trừ trường hợp Luật này có quy định khác.
Trong trường hợp ĐƯQT mà CHXHCN Việt Nam là thành viên có quy định khác
với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của ĐƯQT đó”. Theo đó, nếu
Luật HNGĐ không có quy định khác thì các quy định của pháp luật HNGĐ Việt
Nam được áp dụng đối với quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài. Quy định này
hoàn toàn phù hợp với thực tế hiện nay, nhất là trong điều kiện chúng ta chưa xây
dựng được các quy phạm xung đột để điều chỉnh tất cả quan hệ HNGĐ phát sinh
trên thực tế.
Ngoài ra theo Điều 6 Luật HNGĐ năm 2014, các quy định của Bộ luật Dân
sự (BLDS) và các luật khác liên quan đến quan hệ HNGĐ được áp dụng đối với
quan hệ HNGĐ không có quy định. Đây chính là phương pháp áp dụng tương tự
quy định pháp luật. Phương pháp này được đặt ra trong trường hợp hệ thống pháp
luật trong nước và ĐƯQT không có quy định thực chất cũng như không có quy

phạm xung đột để chọn luật.
- Bốn là nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài đối với quan hệ HNGĐ có
yếu tố nước ngoài không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam
về quan hệ HNGĐ. Để điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài, một trong
những cách phổ biến là quốc gia xây dựng quy phạm xung đột trong hệ thống
pháp luật của mình và trong các ĐƯQT mà nước đó là thành viên. Về nguyên tắc,
theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột thì các cơ quan có thẩm quyền sẽ phải
áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài.
Việc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết quan hệ HNGĐ có yếu tố nước
ngoài là hết sức cần thiết. Nó đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
đương sự, đồng thời thúc đẩy sự phát triển các mối giao lưu dân sự quốc tế. Do


14

vậy, trong một số trường hợp nhất định, pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật
của hầu hết các nước trên thế giới đều cho phép áp dụng luật nước ngoài.
Ở Việt Nam, trong quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài, pháp luật nước
ngoài được áp dụng khi: “2. Trong trường hợp Luật này, các văn bản pháp luật
khác của Việt Nam có dẫn chiếu về việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp
luật nước ngoài được áp dụng, nếu việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc
cơ bản được quy định tại Điều 2 của Luật này.
Trong trường hợp pháp luật nước ngoài dẫn chiếu trở lại pháp luật Việt Nam thì
áp dụng pháp luật về HNGĐ Việt Nam.
3. Trong trường hợp ĐƯQT mà CHXHCN Việt Nam là thành viên có dẫn chiếu về
việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật nước ngoài được áp dụng” (Điều
122 Luật HNGĐ năm 2014).
Trong các trường hợp trên, pháp luật nước ngoài được áp dụng “nếu việc áp
dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 2 của Luật
này” (khoản 2 Điều 122 Luật HNGĐ năm 2014).

Trong trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh quan hệ
HNGĐ có yếu tố nước ngoài mà “Trong trường hợp pháp luật nước ngoài dẫn
chiếu trở lại pháp luật Việt Nam thì áp dụng pháp luật về HNGĐ Việt Nam”.
(khoản 2 Điều 122 Luật HNGĐ năm 2014). Như vậy, pháp luật Việt Nam đã chấp
nhận vấn đề dẫn chiếu ngược trở lại của pháp luật nước ngoài . Quy định này có ý
nghĩa rất quan trọng, bởi vì nó mở rộng phạm vi áp dụng pháp luật Việt Nam, góp
phần giải quyết nhanh chóng, hữu hiệu các việc HNGĐ có yếu tố nước ngoài. Đây
cũng là cách giải quyết phổ biến được ghi nhận trong pháp luật của một số nước.

1.3.2. Nguyên tắc chuyên biệt
Ngoài các nguyên tắc chung được quy định trong pháp luật Việt Nam điều
chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài, quan hệ này còn được điều chỉnh theo
các nguyên tắc chuyên biệt, bao gồm các nguyên tắc sau:
- Một là nguyên tắc điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài theo
pháp luật của nước mà đương sự có quốc tịch (hay còn gọi là nguyên tắc luật
quốc tịch của đương sự). Nguyên tắc luật quốc tịch của đương sự là nguyên tắc
được áp dụng phổ biến trong các quan hệ dân sự quốc tế, đặc biệt là trong quan hệ


15

HNGĐ có yếu tố nước ngoài. Theo nguyên tắc này, quan hệ HNGĐ có yếu tố
nước ngoài phát sinh giữa công dân của nước nào thì áp dụng pháp luật của nước
đó để điều chỉnh.
Luật HNGĐ năm 2014 (Điều 126) đã sử dụng nguyên tắc này. Nguyên tắc
luật quốc tịch cũng đã trở thành nguyên tắc quan trọng trong các HĐTTTP giữa
Việt Nam với Cuba, Hungari, Séc và Slovakia (Tiệp Khắc cũ) và một số nước
khác.
- Hai là nguyên tắc điều chỉnh các quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài theo
pháp luật của nước nơi đương sự cư trú (hay còn gọi là nguyên tắc luật nơi cư trú

của đương sự). Theo nguyên tắc này, quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài được
điều chỉnh theo pháp luật của nước nơi có đương sự cư trú. Trong Luật HNGĐ
Việt Nam năm 2014, nguyên tắc nơi cư trú của đương sự được áp dụng trong một
số quan hệ HNGĐ như quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài (Điều 127); xác định
cha, mẹ cho con có yếu tố nước ngoài (Điều 128); nghĩa vụ cấp dưỡng có yếu tố
nước ngoài (Điều 129)... Trong các HĐTTTP Việt Nam ký kết với một số nước
như Liên bang Nga, Lào, Ucraina... thường sử dụng nguyên tắc nơi cư trú của
đương sự để điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài [10, tr.109].
Như vậy, ở Việt Nam hiện nay, pháp luật trong nước cũng như các ĐƯQT
mà Việt Nam ký kết với các nước điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài
thường có xu hướng thiên về áp dụng nguyên tắc nơi cư trú của đương sự. Việc
mở rộng áp dụng nguyên tắc này là phù hợp với thực tế, vì thông thường, nơi cư
trú của đương sự là nơi mà người đó là công dân (cũng có trường hợp nơi cư trú
không phải là nơi mà người đó là công dân) và việc áp dụng nguyên tắc nơi cư trú
của đương sự làm đơn giản hóa quá trình dẫn chiếu của quy phạm xung đột.
- Ba là nguyên tắc điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài theo
“luật của nước nơi có Tòa án, cơ quan có thẩm quyền” (lex fori) đối với các vấn
đề phát sinh. Nguyên tắc lex fori được áp dụng trong nhiều lĩnh vực như tố tụng
dân sự, kinh tế, thương mại có yếu tố nước ngoài và nó còn được áp dụng để điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực HNGĐ có yếu tố nước ngoài. Trong
quan hệ này, nguyên tắc lex fori được áp dụng để xác định pháp luật áp dụng giải
quyết các vấn đề về HNGĐ có yếu tố nước ngoài. Luật HNGĐ Việt Nam đã ghi


16

nhận nguyên tắc lex fori trong một số lĩnh vực. Khoản 2 Điều 123 Luật HNGĐ
năm 2014 quy định: “Thẩm quyền giải quyết các vụ việc HNGĐ có yếu tố nước
ngoài tại Tòa án được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự”.
Khi giải quyết việc hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các

tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ,
con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới
với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam
thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện và theo quy định của Luật
HNGĐ năm 2014 và các quy định khác của pháp luật Việt Nam (khoản 3 Điều
123). Như vậy, các tòa án của Việt Nam áp dụng nguyên tắc lex fori giải quyết các
tranh chấp liên quan đến quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài.
- Bốn là nguyên tắc điều chỉnh các quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài theo
“luật nơi thực hiện hành vi” (lex loci astus). Nguyên tắc luật nơi thực hiện hành vi
được thực hiện ở nước nào sẽ được điều chỉnh theo pháp luật của nước đó. Pháp
luật Việt Nam cũng áp dụng luật nơi thực hiện hành vi để điều chỉnh các vấn đề
liên quan đến quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài. Ví dụ, Điều 126 Luật HNGĐ
năm 2014 quy định: “1. Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn;
nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thì
người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết
hôn.
2. Việc kết hôn giữa những người nước ngoài thường trú ở Việt Nam tại cơ quan
có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật này về điều
kiện kết hôn”.
Như vậy, những nguyên tắc cơ bản nêu trên điều chỉnh quan hệ HNGĐ có
yếu tố nước ngoài luôn gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau tạo cơ sở pháp lý vững
chắc để bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích của các bên đương sự góp phần thúc đẩy
giao lưu dân sự quốc tế phát triển, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng quan hệ đối
ngoại và chủ động hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ
quốc tế.


17


1.4. Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nƣớc ngoài
Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài là các hình
thức chứa đựng các nguyên tắc, các quy phạm điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu
tố nước ngoài. Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài
có 3 loại nguồn: Pháp luật quốc gia, ĐƯQT và TQQT.

1.4.1. Pháp luật quốc gia
Pháp luật quốc gia với tư cách là nguồn của pháp luật điều chỉnh quan hệ
HNGĐ có yếu tố nước ngoài là hình thức chứa đựng các nguyên tắc, các quy
phạm pháp luật trong nước nhằm điều chỉnh các quan hệ HNGĐ có yếu tố nước
ngoài.
Quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam được quy định trong các
văn bản pháp luật: Hiến pháp, các Bộ luật, Luật và một số văn bản dưới Luật.
Hiến pháp
Quan hệ về HNGĐ được coi là quyền cơ bản của công dân, được ghi nhận
trong các Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013. Quyền về
HNGĐ được coi là quyền của con người và được pháp luật bảo hộ. Khoản 2 Điều
36 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận việc Nhà nước bảo hộ quan hệ HNGĐ: “2. Nhà
nước bảo hộ HNGĐ, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em”.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, các nguyên tắc trong HNGĐ được cụ
thể hóa trong các văn bản pháp luật như BLDS, Luật HNGĐ, Luật Nuôi con nuôi
và các văn bản pháp luật có liên quan khác.
Bộ luật
Quan hệ dân sự nói chung và quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài nói riêng
được quy định trong Phần thứ bảy của BLDS năm 2005. Những nguyên tắc này
kết hợp với những quy định về HNGĐ nói chung trong BLDS đã tạo thành các
nguyên tắc cơ bản trong việc điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài.
Ngoài ra, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 (sửa đổi và bổ sung năm 2011) quy
định về thẩm quyền của Tòa án đối với các vụ việc về quan hệ HNGĐ có yếu tố



18

nước ngoài cũng là nguồn của pháp luật điều chỉnh quan hệ HNGĐ có yếu tố nước
ngoài.
Luật
Quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam đã được ghi nhận trong
các văn bản Luật HNGĐ năm 1986, 2000 và 2014. Hiện nay, Luật HNGĐ năm
2014 là văn bản pháp luật quan trọng nhất điều chỉnh hầu hết các quan hệ HNGĐ
có yếu tố nước ngoài (trừ quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài). Luật
HNGĐ năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 bao gồm 9 chương và 133 điều
trong đó có 10 điều (từ Điều 121 đến Điều 130) quy định về quan hệ HNGĐ có
yếu tố nước ngoài. Luật HNGĐ năm 2014 kế thừa các nguyên tắc cơ bản và các
quy định đã được thực tiễn kiểm nghiệm trong Luật HNGĐ năm 2000; sửa đổi các
quy định đã có nhiều bất cập, hạn chế trong thực tiễn thi hành, đồng thời bổ sung
các quy định để giải quyết các vấn đề thực tiễn phát sinh phù hợp với quá trình
thay đổi của gia đình hiện đại và đời sống xã hội; bảo đảm tính khả thi của Luật
HNGĐ; và đảm bảo sự tương thích pháp luật HNGĐ với Hiến pháp năm 2013, các
quy định của pháp luật hiện hành khác và các ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên.
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài cũng là một trong các quan hệ HNGĐ có
yếu tố nước ngoài. Trước đây, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được
quy định trong các văn bản Luật HNGĐ. Tuy nhiên, Luật HNGĐ năm 2014 không
còn điều chỉnh về quan hệ này. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài hiện nay được
điều chỉnh bởi Luật Nuôi con nuôi năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Ngoài ra, quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài còn được quy định trong
Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 (sửa đổi 2014)...
Các văn bản dưới Luật
Hiện nay, để hướng dẫn thi hành Luật HNGĐ năm 2014 và Luật Nuôi con
nuôi năm 2010 nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản để điều chỉnh quan hệ

HNGĐ có yếu tố nước ngoài như Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật HNGĐ năm 2014, Thông tư 02a/2015/TTBTP hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 126/2014/NĐ-CP, Nghị định
số 19/2011/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con
nuôi... Các văn bản này cùng với các Luật, Bộ luật và Hiến pháp tạo thành cơ sở


×