Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN TUẤN AN

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO
NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VƢƠNG THANH THÚY

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Vương Thanh
Thúy, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em suốt thời gian em thực hiện
Luận văn này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, các thầy, cô
giáo Khoa Sau Đại học – Trường Đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy
cho chúng em trong suốt thời gian qua.
Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu thực hiện và hoàn thành luận văn nhưng
chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Do đó, em rất mong nhận được


sự chỉ bảo, góp ý của các thầy, cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Học viên

Nguyễn Tuấn An


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trong luận văn là trung thực. Các kết luận khoa học trong luận văn chưa từng
được ai công bố trong các công trình khác
Tác giả luận văn

Nguyễn Tuấn An


1

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU……………………………………………………………..3
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI
HỢP ĐỒNG VÀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO
NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA
1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng……………..9
1.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra……………………………………………………………………….……..14
1.2.1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ………………………...…………14
1.2.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm độ gây
ra……………………………………………………………………..……….19

1.3. Sự phát triển của những quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong pháp luật Việt Nam…………….………21
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1995………………………………………...……..21
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1995 đến nay…………………………….……………29
CHƢƠNG 2
TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM
CAO ĐỘ GÂY RA THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN HÀNH
2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra……………………………………………. …………..……….32
2.1.1. Có thiệt hại xảy ra………………………………………………………..32
2.1.2. Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ..41
2.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của
nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra…………………………….…….43
2.1.4. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra…………………………………………………………..…………….44


2

2.2. Những trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra………………………………………………...………..…..46
2.3. Chủ thể bồi thường thiệt hại………………………………..……………49
CHƢƠNG 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO
NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA
3.1. Thực tiễn áp dụng…………………………………………………………55
3.1.1. Những vướng mắc còn tồn tại…………………………………...…….55
3.1.2. Nguyên nhân………………….………………………………………..64

3.2. Một số giải pháp và kiến nghị hoàn thiện những quy định của pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra…..……69
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan tới trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra…………………………69
3.2.2. Một số kiến nghị khác…………………………………………...…….73
KẾT LUẬN……………………………………………….…………………75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………….………….…77


3

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định ra đời từ rất sớm
trong lịch sử pháp luật thế giới nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng. Đây
là một chế định khá quan trọng trước nhu cầu cấp thiết của cuộc sống khi các
chủ thể xảy ra tranh chấp về quyền và lợi ích hợp pháp khi bị xâm hại. Trải qua
một thời gian dài áp dụng cũng như phát triển chế định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại nói chung và trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói riêng đã
có nhiều thay đổi và từng bước hoàn thiện.
Với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường và sự đổi mới
từng ngày của khoa học kỹ thuật đã mang lại cho con người những thành tựu vô
cùng to lớn không chỉ trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật mà kéo theo đó đời sống
nhân dân cũng ngày càng phát triển. Trước kia, trong nền kinh tế bao cấp, người
dân chỉ cốt sao “ăn no, mặc ấm”, những thành tựu của khoa học kỹ thuật được
coi là nguồn nguy hiểm cao độ như ô tô, xe máy chỉ thuộc sở hữu của một số ít
người, chủ yếu thuộc sở hữu nhà nước… Sau một thời gian dài phát triển không
ngừng về mọi mặt của đời sống, xã hội đã làm cho đời sống nhân dân được nâng
cao, các phương tiện giao thông cơ giới, máy móc, thiết bị, hóa chất áp dụng cho
nền sản xuất công nghiệp… đã trở nên phổ biến. Hiện nay, trong mỗi gia đình từ

thành thị cho đến nông thôn, không ít nhiều trong mỗi gia đình đều có chiếc xe
máy, thậm chi ô tô… Tuy vậy, mặt trái của sự phát triển đó là việc gây thiệt hại
của chính những nguồn nguy hiểm cao độ khi mà bản thân chúng đã tiềm ẩn rất
nhiều nguy cơ. Minh chứng cho điều này là ngày càng gia tăng những vụ tai nạn
giao thông vô cùng thảm khốc, những vụ rò rỉ điện hay những vụ cháy, vụ nổ
gây thiệt hại không chỉ tới tài sản, sức khỏe mà cả tính mạng của nhừng người
xung quanh… Do đó, một vấn đề mang tính cấp thiết được đặt ra bên cạnh
những giải pháp phòng người thiệt hại, đó là việc giải quyết hậu quả của các vụ
tai nạn, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của của chủ sở hữu, người
được giao chiếm hữu sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ dưới góc độ pháp luật.


4

Mặc dù trải qua một thời gian dài phát triển cũng như áp dụng các quy
định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra. Không thể phủ nhận sự hoàn thiện của pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ nói riêng nhưng trên thực tế một số quy đinh liên
quan tới trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra vẫn
còn một số hạn chế, bất cập không chỉ trong các quy định mà ngay trong thực
tiễn áp dụng xét xử như nhầm lẫn giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành
vi con người gây ra với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra…chính điều này đã gây không ít khó khăn cho Thẩm phán trong
công tác xét xử, thiếu sự thống nhất trong việc áp dụng các quy định của pháp
luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra ở mỗi Tòa án làm cho việc giải quyết tranh chấp thường kéo dài, ảnh
hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại…
Hiện nay, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra được quy định khá đầy đủ trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Tuy nhiên,

những quy định này vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, vướng mắc. Một số quy định
còn thiếu cụ thể, rõ ràng nên đã gây nên nhiều vướng mắc khi áp dụng pháp luật,
làm cho các Tòa án gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp khi có
nhiều quan điểm không thống nhất về việc áp dụng. Do vậy, việc nghiên cứu
chuyên sâu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra sẽ làm rõ hơn những vấn đề lý luận cũng như quy định của luật thực định về
vấn đề này. Ngoài ra, việc nghiên cứu thực tế xét xử của một số Tòa án sẽ giúp
đánh giá chân thực hơn tính hợp lý của pháp luật, để từ đó có những kiến nghị
hoàn thiện pháp luật. Với những lí do nên trên, việc lựa chọn đề tài “Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra” là cấp thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.


5

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quá trình tìm hiểu và sưu tầm tài liệu cho thấy trước đây đã có một số
công trình nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu như: luận án tiến sỹ luật
học của Nguyễn Thanh Hồng “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ
tai nạn giao thông đường bộ” hay luận văn tốt nghiệp của Đào Thị Thu An
“Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao
thông đường bộ” đề cập đến trách nhiệm bồi thường do phương tiện giao thông
vận tải gây ra – một loại nguồn nguy hiểm cao độ. Một số công trình khoa học
như: chuyên đề “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra” của TS Vũ Thị Hải Yến trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường đại
học Luật Hà Nội; “Trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại – vấn đề lý luận
và thực tiễn “ năm 2009 do PGS TS Trần Thị Huệ làm chủ nhiệm đề tài; luận
văn thạc sỹ luật học của Trần Trà Giang: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”; khóa luận

tốt nghiệp của Nguyễn Thị Trang “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra” hay “Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra – bình luận bản
án” của PGS TS Đỗ Văn Đại.
Ngoài ra, nội dung này cũng được đề cập trong các bài viết đăng trên các
tạp chí khoa học như “Bàn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra” của TS Lê Đình Nghị (tạp chí Nghề luật số 6/2008); “Bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” của Th.S Mai Bộ (tạp chí
Tòa án nhân dân số 2/2003); “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra” của Lê Phước Ngưỡng (tạp chí Kiểm sát số 7/2005).
Tuy nhiên, phần lớn các công trình trên chỉ đề cập đến những khía cạnh
khác nhau của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra hoặc có nghiên cứu chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây thì vẫn chưa bao quát được các nội dung. Luận văn “Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ


6

gây ra”- là luận văn đầu tiên tập trung nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong bối cảnh Bộ
luật Dân sự năm 2005 đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu
đặt ra của thực tiễn áp dụng pháp luật.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu về
tách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra – một trong
những trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Với mong muốn đưa ra được cái nhìn khái quát, toàn diện về vấn đề nghiên cứu
tác giải triển khai nội dung của luận văn qua cách tiếp cận sự phát triển của chế
định qua những giai đoạn khác nhau, để so sánh sự phát triển các quy định của
pháp luật qua các thời kỳ. Bên cạnh những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, tác giả cũng
tìm hiểu thực trạng những bất cập của vấn đề này trên thực tế thông qua tìm hiểu
các bản án, vụ việc cụ thể để từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị góp phần
hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao tính hiệu quả của việc giải
quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong
thực tiễn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đồng thời sử dụng và kết hợp một
cách hợp lý các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phương pháp phân tích,
phương pháp lịch sử, phương pháp tổng hợp, diễn giải, suy luận logic, so sánh…
nhằm chứng minh các luận điểm nêu ra trong luận văn. Bên cạnh đó, tác giả còn
sử dụng một số vụ án, vụ việc, số liệu thống kê của các ngành liên quan trên
thực tế nhằm minh họa cho những nhận định, đánh giá của luận văn.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận, nội dung của
pháp luật Việt Nam về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng


7

cũng như những điểm chưa phù hợp cần sửa đồi bổ sung từ đó đưa ra những giải
pháp và hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này. Qua đó, tác
giả mong muốn góp một cái nhìn tổng thể và toàn diện khi nghiên cứu cũng như
khi giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tốt nghiệp phải thực hiện các nhiệm
vụ sau:
- Khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng như sơ lược sự phát triển

của chế định này qua các thời kì.
- Phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Đưa ra các bản án, vụ việc điển hình trên thực tế về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra để thấy được một cách cụ thể, chính xác
các vướng mắc còn hạn chế của quy định pháp luật về vấn đề này
- Đưa ra những giải pháp, kiến nghị và hướng hoàn thiện các quy định của
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học có tính hệ thống những vấn
đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra với những điểm mới so với các công trình nghiên cứu khoa học trước đây
sau:
- Phân tích một cách hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đồng thời so
sánh với các quy định trong lịch sử về cùng nội dung.
- Chỉ ra nhưng hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện
hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra


8

chưa được đề cập đến một cách cụ thể và chi tiết trong các công nghiên cứu
khoa học trước đây như mâu thuẫn trong việc quy định nguyên tắc giảm mức bồi
thường trong phần chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra…
- Đưa ra các bản án, vụ việc trên thực tiễn liên quan đến trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra để xác định một cách cụ thể

những hạn chế, vướng mắc, bất cập của quy định pháp luật hiện hành về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trên cơ sở đó chỉ
ra nguyên nhân và đề xuất hướng hoàn thiện các quy định này.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 phần:
Phần 1: Lời mở đầu
Phần 2: Phần nội dung, gồm 3 chương:
 Chương 1: Khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra
 Chương 2: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra theo quy định của pháp luật hiện hành
 Chương 3: Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện những quy định của
pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra
Phần 3: Kết luận


9

Chƣơng 1

KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG VÀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT
HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA
1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng
Trước bối cảnh hội nhập toàn cầu, thúc đẩy phát triển kinh tế phát triển
quá nhanh đã làm gia tăng các tranh chấp trong các lĩnh vực khác nhau của đời
sống hằng ngày, đặc biệt là các tranh chấp trong lĩnh vực dân sự. Các tranh chấp
phát sinh khi quyền và lợi ích của các bên bị xâm phạm và lúc đó vấn đề thiệt

hại và bồi thường thiệt hại tất yếu được đặt ra. Tức là khi một người xâm phạm
tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác và gây thiệt hại thì sẽ phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại mình đã gây ra. Dưới góc độ pháp lý, trách
nhiệm đó được hiểu là trách nhiệm dân sự được áp dụng đối với người vi phạm
pháp luật dân sự nhằm bù đắp tổn thất vật chất và tinh thần cho người bị thiệt
hại.
Trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý. Do đó nó mang đầy
đủ các đặc điểm giống với các trách nhiệm pháp lý khác đó là: (i) là sự cưỡng
chế của Nhà nước và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng; (ii) chỉ áp
dụng khi có hành vi vi phạm pháp luật và chỉ áp dụng đối với người có hành vi
vi phạm; (iii) luôn mang lại hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm. Ngoài
ra, trách nhiệm dân sự còn có những đặc điểm riêng như sau: (i) luôn liên quan
tới tài sản; (ii) được áp dụng đối với người có hành vi vi phạm nhưng cũng có
thể áp dụng với những người khác (cha, mẹ, người giám hộ…); (iii) hậu quả bất
lợi mà người vi phạm gánh chịu là phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hoặc phải bồi
thường thiệt hại cho người bị thiệt hại.
Có thể hiểu, trách nhiệm dân sự là sự cưỡng chế của Nhà nước buộc
người có hành vi vi phạm phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hoặc phải bồi thường
thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ của mình gây ra.


10

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một dạng cụ thể của
trách nhiệm dân sự nói chung. Đó là một loại trách nhiệm pháp lý, có tính cưỡng
chế của Nhà nước nhằm buộc người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho
người khác phải bồi thường, đồng thời giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt
hại không có quan hệ hợp đồng hoặc có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây
thiệt hại hoàn toàn không liên quan tới nội dung hợp đồng. Hiểu một cách đơn
giản hơn thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế tài dân sự

do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng nhằm để buộc người có lỗi cố ý
hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của
pháp nhân hoặc chủ thể khác phải bồi thường những thiệt hại mà mình đã gây
ra. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là sự giới hạn
hai bên chủ thể trong quan hệ (giữa bên có hành vi vi phạm và bên có quyền, lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm). Trách nhiệm dân sự được áp dụng thống nhất và
giống nhau đối với các chủ thể trong quan hệ pháp luật dựa trên nguyên tắc bình
đẳng, không phân biệt địa vị pháp lý giữa các chủ thể trong quan hệ. Đây là một
điểm khác biệt căn bản giữa trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hành chính.
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao
gồm bốn điều kiện sau:
- Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền do việc xâm phạm
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân tổ chức [20,
Tr.283].
Theo Luật La Mã, có hai thành phần tạo nên khái niệm thiệt hại:
(i)damnun emgens, tức là thiệt hại thực, sự mất đi của một bộ phận tài sản cụ
thể. Đây có thể hiểu là những thiệt hại nhìn thấy được, cân, đong, đo, đếm, xác
định được; (ii)lucrum cessams, tức là mất lợi tức, là sự mất mát tài sản có thể
nếu hoàn cảnh diễn ra bình thường. Đây có thể hiểu là thiệt hại phái sinh. Vì
thiệt hại chính xảy ra dẫn tới những thiệt hại liên quan khác tới thiệt hại chính.


11

Còn theo quy định của pháp luật Việt Nam thiệt hại được xác định bao
gồm: (i)thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản,
những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền
với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Đây là những thiệt hại về vật

chất của người bị thiệt hại; (ii)thiệt hại về tính mạng, sức khỏe làm phát sinh
thiệt hại về vật chất bao gồm chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi
chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng
sức khỏe; (iii)thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại bao gồm chi
phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút
do danh dự nhân phẩm uy tín bị xâm hại; (iv)thiệt hại về tinh thần;
Như vậy, dù là thiệt hại thực tế hay lợi tức mất thì Luật La Mã vẫn lấy cơ
sở là những thiệt hại về tài sản khi quy định. Trong khi đó, theo quy định của
pháp luật Việt Nam thì thiệt hại không chỉ có thiệt hại về vật chất mà còn được
phát triển thêm nội dung là thiệt hại về tinh thần. Lý giải cho điều này, theo
quan điểm của tác giả, pháp luật Việt Nam được xây dựng bên cạnh những cơ sở
lý luận thực tiễn còn để cao tinh thần nhân đạo, truyền thống tương thân, tương
ái của dân tộc. Do đó, thiệt hại để xác định trách nhiệm bồi thường không chỉ
bao gồm thiệt hại về vật chất, những thứ có thể nhìn thấy và xác định cụ thể
được thành tiền mà còn bao gồm thiệt hại không thể nhìn thấy được như sự “đau
thương, mất mát, tâm lý, tình cảm…” của người bị thiệt hại hoặc những người
thân thích của người bị thiệt hại phải gánh chịu. Đồng thời, để đúng với ý nghĩa
là bồi thường thiệt hại về tinh thần thì pháp luật Việt Nam đưa ra khái niệm
“tiền bù đắp tổn thẩn tinh thần” bởi đây là những thiệt hại phi vật chất, không
thể tính được cụ thể thành tiền, “tiền bù đắp tổn thất về tinh thần” mang ý nghĩa
đồng cảm, động viên, chia sẽ sự suy sụp, mặc cảm tâm lý của người bị thiệt hại
hay những lo lắng, đau thương, mất mát mà người thân thích của người bị thiệt
hại.


12

- Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật
Hành vi trái pháp luật là những hành vi đã bị pháp luật cấm do tính chất
nguy hiểm của nó đối với xã hội. Hành vi gây thiệt hại có thể là hành vi trái

pháp luật hình sự, dân sự, hành chính, kể cả những hành vi phạm đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm quy tắc sinh hoạt trong từng cộng
đồng dân cư … Hành vi gây thiệt hại thông thường thể hiện dưới dạng hành
động, chủ thể đã thực hiện hành vi mà đúng ra không được thực hiện các hành vi
đó. Hành vi gây thiệt hại có thể là hành vi hợp pháp nếu người thực hiện hành vi
đó theo nghĩa vụ mà pháp luật hoặc nghề nghiệp buộc họ phải thực hiện các
hành vi đó. Ví dụ: nhân viên phòng cháy, chữa cháy có thể phá huỷ các nhà dễ
cháy xung quanh đám cháy. Trong trường hợp này thì người gây thiệt hại không
phải bồi thường. Đây là những trường hợp gây thiệt hại trong phòng vệ chính
đáng, tình thế cấp thiết hoặc theo yêu cầu của người bị thiệt hại. Tuy nhiên, nếu
vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng, vượt quá yêu cầu của tình thế cấp
thiết thì người gây ra thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.
- Có lỗi của người gây thiệt hại
Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi. Lỗi được hiểu là
thái độ tâm lí của người có hành vi gây ra thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng
cố ý hoặc vô ý.
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình
sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không
mong muốn nhưng để cho thiệt hại xảy ra. Còn vô ý gây thiệt hại là một người
không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết
trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt
hại nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Thông thường một người bị coi là có lỗi nếu họ có khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi của mình. Vì vậy, những người không nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình thì được coi là không có lỗi trong việc thực hiện hành
các hành vi đó.


13


Những người không có năng lực hành vi dân sự, người bị mất năng lực
hành vi dân sự không thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình nên họ không
phải chịu trách nhiệm. Trong trường hợp này, cha, mẹ, người giám hộ, bệnh
viện, trường học là những người theo quy định của pháp luật phải chăm sóc,
quản lý, giáo dục… được suy đoán là có lỗi khi không thực hiện nghĩa vụ nêu
trên và họ phải chịu trách nhiệm do lỗi của họ.
Lỗi của pháp nhân, cơ quan, tổ chức là lỗi của nhân viên các cơ quan đó
trong quá trình họ thực hiện nhiệm vụ được giao. Vì vậy, các cơ quan này phải
bồi thường thiệt hại do nhân viên cơ quan của họ khi thực hiện nhiệm vụ được
giao.
Trong trách nhiệm hình sự thì hình thức và mức độ lỗi có vai trò quan
trọng trong việc xác định tội danh và quyết định hình phạt. Tuy nhiên, trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, hình thức và mức độ lỗi có ảnh hưởng rất ít
đến việc xác định trách nhiệm. Thậm chí người gây ra thiệt hại phải bồi thường
ngay cả khi họ không có lỗi. Có những trường hợp người gây thiệt hại được giảm
mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại hoặc thiệt hại xảy ra quá lớn so
với khả năng kinh tế trước mặt và lâu dài của họ hoặc thiệt hại xảy ra hoàn toàn do
lỗi của người bị thiệt hại thì không phải bồi thường.
- Có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra
Mối quan hệ nhân quả này biểu hiện, hành vi trái pháp luật phải có trước
và là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại xảy ra, thiệt hại phải xảy ra sau và chính là
kết quả của viêc thực hiện hành vi trái pháp luật trước đó.
Trong thực tế, một kết quả xảy ra có thể do rất nhiều nguyên nhân hoặc
một nguyên nhân có thể dẫn đến rất nhiều kết quả. Do đó, khi xác định kết quả
phải xác định chính xác đâu là nguyên nhân dẫn đến kết quả và đâu là kết quả
của nguyên nhân ban đầu. Tức là, khi xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành
vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra phải xác định chính xác hành vi trái pháp luật
có phải là nguyên nhân gây ra thiệt hại không và ngược lại.



14

1.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra
1.2.1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ
Khái niệm về nguồn nguy hiểm cao độ được quy định trong nhiều bộ luật
của các quốc gia khác nhau. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, “nguồn
nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiên vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà
máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất
phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”
(Khoản 1 Điều 623 Bộ luật dân sự 2005).
Theo pháp luật Thái Lan, nguồn nguy hiểm cao độ là “bất cứ sự vật nào
được kéo, đẩy bằng máy móc (…), những vật có thể gây nguy hiểm bởi tính chất,
mục đích hoặc sự vận hành cơ khí của chúng…” (Điều 437, BLDS và thương
mại Thái Lan).
Theo quy định của Bộ luật dân sự Nhật Bản “các nhà máy chế tạo, nơi
khai thác khoáng sản dễ gây cháy nổ, độc hại, phương tiện giao thông, vận tải
cơ giới là nguồn nguy hiểm cao độ”
Như vậy, có thể thấy theo các quy định nêu trên của pháp luật dân sự một
số nước cũng như trong Bộ luật dân sự Việt Nam thì vẫn chưa có một khái niệm
chính thống về nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ được diễn đạt dưới dạng liệt kê
và có thể hiểu khái quát: nguồn nguy hiểm cao độ là những đối tượng mà khi sử
dụng, bảo quản, cất giữ, trông coi luôn tiềm ẩn sự nguy hiểm, rủi ro cao độ đối
với tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người.
Tại điểm b Mục 1 Phần III Nghị quyết số 03/2006/NĐ-HĐTP ngày
8/7/2006 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng xác định: “để
xác định nguồn nguy hiểm cao độ cần phải căn cứ vào Khoản 1 Điều 623 Bộ
luật Dân sự và văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan hoặc quy định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực cụ thể đó”.



15

Do đó để xác định thế nào là nguồn nguy hiểm cao độ, cần phải làm rõ
các khái niệm được liệt kê trong quy định bao gồm: phương tiên vận tải cơ giới,
hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất
cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác
thông qua các quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật liên quan.
- Phương tiện vận tải cơ giới
Mặc dù có nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh những cho tới hiện tại vẫn
chưa có một khái niệm hoàn chỉnh về “phương tiện vận tải cơ giới” trong pháp
luật Việt Nam. Theo như tinh thần quy định tại Khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân
sự năm 2005 thì phương tiện vận tải cơ giới gồm phương tiện vận tải hoạt động
trên đường bộ, đường săt, đường thủy, đường hàng không, được trang bị và hoạt
đồng bằng máy móc.
Đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ:
Theo Khoản 1 điều 3 Luật giao thông đường bộ năm 2008 quy định:
“phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm: xe ô
tô; máy kéo; rơ móoc hoặc sơ mi rơ móc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô
tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe
tương tự kể cả xe cơ giới dành cho người tàn tật”.
Đối với phương tiện giao thông cơ giới đường thủy: Theo Khoản 7 điều 3
Luật Giao thông đường thủy nội địa năm 2004 quy định: “phương tiện thủy nội
địa (sau đây gọi là phương tiện) là tàu, thuyền và các cấu trúc nổi khác, có động
cơ hoặc không có động cơ, chuyên hoạt động trên đường thủy nội địa” và Điều
11 Luật Hàng hải 2005 quy định: “Tàu biển là tàu hoặc cấu trúc nổi di dộng
khác chuyên hoạt động trên biển”
Đối với phương tiện vận tải đường sắt: Theo Khoản 2 Điều 3 Luật Đường
sắt 2005 quy định: “phương tiện vận tải đường sắt gồm có đầu máy, toa xe động

lực, phương tiện động lực chuyên dùng để di chuyển trên đường sắt”
Đối với phương tiện vận tải hàng không: Theo Khoản 1 điều 13 Luật
Hàng không dân dụng Việt Nam 2006 quy định: “tàu bay là thiết bị được nâng


16

giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ với không khí, bao gồm: máy bay,
trực thăng, tàu lượn, khí cầu và các thiết bị bay khác, trừ thiết bị được nâng giữ
trong khí quyền nhờ tác động tương hỗ với không khí phản lại từ bề mặt trái
đất”.
- Hệ thống tải điện
Được hiểu là đường dây truyền dẫn điện, công tơ, máy phát điện, cầu dao.
Ví dụ: hệ thống truyền tải điện 500KV Bắc – Nam.
- Nhà máy công nghiệp
Nhà máy công nghiệp là nơi lắp đặt các máy móc, thiết bị nhằm thực hiện
hoạt động sản xuất như nhà máy công nghiệp nặng, nhà máy công ngiệp nhẹ.
Phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công
nghiệp chỉ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ khi “chúng hoạt động”, hay nói
cách khác có nghĩa là sự vận hành của chúng. Vì trạng thái “động” của chúng sẽ
tiềm ẩn nguy cơ gây hại cho xung quanh. Ví dụ: xe máy đang chạy trên đường,
hệ thống tải điện đang có dòng điện chạy qua hay nhà máy công nghiệp đang
trong quá trình vận hành, sản xuất. Còn nếu chúng không đang trong trạng thái
hoạt động thì khi đó sẽ không được coi là nguồn nguy hiểm cao độ, bởi khi ở
trạng thái “tĩnh” chúng giống như các sự vật bình thường không tạo ra sự nguy
hại cho những người xung quanh.
- Vũ khí
Vũ khí bao gồm: vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn, vũ khí thô
sơ (Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ ban hành theo nghị
định 47/CP ngày 12 tháng 8 năm 1996). Cụ thể:

Vũ khí quân dụng gồm: các loại súng ngắn, súng trường, súng liên thanh,
các loại pháo, dàn phóng, bệ phóng tên lửa, súng cối, các loại đạn, bom, mìn,
lựu đạn, ngư lôi, thủy lôi, vật liệu nổ quân dụng và các vũ khí khác phục vụ
quốc phòng an ninh.


17

Vũ khí thể thao gồm: các loại súng trường, súng ngắn thể thao chuyên
dụng các cỡ, các loại súng hơi, các loại vũ khí khác dùng trong luyện tập, thi đấu
thể thao và các loại đạn dùng cho các loại súng thể thao nói trên.
Súng săn gồm: các loại súng săn một nòng, nhiều nòng các cỡ, tự động
hoặc không tự động, súng hơi các cỡ, súng hỏa mai, súng kíp, súng tự chế và các
loại đạn, thuốc đạn dùng cho các loại súng nêu trên.
Vũ khí thô sơ gồm: dao găm, gây, kiếm, giáo, mác, đinh ba, đại đao, mã
tấu… Tuy nhiên, không phải tất cả mọi loại vũ khí khi sử dụng đều là nguồn
nguy hiểm cao độ. Những loại vũ khí thô sơ như dao găm, gậy, đinh ba nhiều
khi là công cụ sản xuất, tư liệu sinh hoạt thì không phải là nguồn nguy hiểm cao
độ.
- Chất cháy, chất nổ
Theo quy định tại Điều 3 Luật phòng cháy chữa cháy thì chất cháy, chất
nổ là chất lỏng, chất khí, chất rắn dễ xảy ra cháy nổ”
Chất cháy với đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với oxy trong không khí,
nước hoặc dưới tác động của các yếu tố khác ở nhiệt độ nhất định. Ví dụ: diêm
tiêu (Kali nitrat), phốt pho, thuốc đạn, xăng dầu…
Chất nổ theo quy định tại khoản 1, Thông tư liên tịch số 01/TTLT-CNNV ngày 13/11/1998 của Bộ Công nghiệp, Bộ Nội vụ hướng dẫn về quản lý
kinh doanh, cung ứng vật liệu nổ công công nghiệp là: “ hóa chất hoặc hỗn
hợp hóa chất đặc biệt mà khi có tác động lý, hóa học hoặc nhiệt năng đủ liều
lượng sẽ gây ra phản ứng hóa học biến hóa chất hoặc hỗn hợp chất đặc biệt đó
thành năng lượng nổ và phá hủy môi trường xuong quanh. Ví dụ: thuốc nổ,

thuốc pháp, thuốc súng…
- Chất độc
Chất độc là những chất có độc tính cao, rất nguy hiểm cho sức khỏe, tính
mạng của con người, động vật cũng như môi trường xung quanh. Ví dụ: các chất
độc bảng A như: A-cô-ni-tin và các loại muối kẽm của nó, kẽm phốt pho, ni-côtin, thạch tín, thủy ngân và các loại muối của nó… Theo quy định tại khoản 4, 5


18

điều 4 Luật hóa chất năm 2007 quy định: hóa chất độc là hóa chất nguy hiểm có
ít nhất một trong những đặc tính nguy hiểm sau: (i) dễ nổ; (ii) oxy hóa mạnh;
(iii) ăn mòn mạnh; (iv) dễ cháy; (v) độc cấp tính; (vi) độc mãn tính; (vii)gây
kích ứng đối với con người; (viii) gây ung thư hoặc có nguy cơ gây ung thư; (ix)
gây biến đổi gen; (x) độc với sinh sản; (xi) tích lũy sinh học; (xii) ô nhiễm hữu
cơ khó phân hủy; (xiii) độc hại với môi trường.
- Chất phóng xạ
Theo Pháp lệnh An toàn và kiểm soát bức xạ năm 1996 chất phóng xạ là
chất ở thể rắn, lỏng hoặc khí có hoạt động phóng xạ trên 70 kilo Becoren trên
kilogam (70Kbo/kg). chất phóng xạ là nhân tố sát thương của vũ khí hạt nhân
gồm đồng vị không bền của các nguyên tố hóa học (Urani, Radi…) có khả năng
phóng ra các chùm tia phóng xạ không nhìn thấy, gây nhiễm xạ với người, động
vật và với môi trường sống,
- Thú dữ
Thú dữ là “động vật bậc cao có lông mao, có tuyến vú, nuôi con bằng sữa,
lớn, rất hung dữ, có thể làm hại người”. ví dụ: hổ, báo, gấu, voi… đây là những
động vật tiềm ẩn sự nguy hiểm bởi bản tính hoang dã của chúng trong tự nhiên,
chúng có thể gây thiệt hại lớn về người và tài sản khi không kiểm soát [24,
tr.790]
- Các nguồn nguy hiểm cao độ khác
Bên cạnh những nguồn nguy hiểm cao độ được liệt kê trên, thì pháp luật

còn quy định thêm “các nguồn nguy hiểm cao độ khác”. Các nguồn nguy hiểm
cao độ khác ở đây có thể được hiểu là ngoài các nguồn nguy hiểm cao độ được
quy định tại Khoản 1 Điều 627 Bộ luật Dân sự năm 2005, thì pháp luật có quy
định về các nguồn nguy hiểm cao độ khác ở trong các văn bản quy phạm pháp
luật khác.
Tuy nhiên, cho đến hiện tại thì ngoài quy định tại Khoản 1 Điều 627 Bộ
luật Dân sự năm 2005 nêu trên thì chưa có văn bản pháp luật khác nào quy định
thêm về nội dung này.


19

Như vậy, hiểu một cách chung nhất về nguồn nguy hiểm cao độ thì:
nguồn nguy hiểm cao độ là những vật trong thế giới tự nhiên hoặc do con người
tạo ra mà hoạt động, tính chất hoặc bản năng của những vật này tiềm ẩn khả
năng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản cho những người xung quanh.
1.2.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
độ gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là
một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo đó, chủ sở hữu
hoặc người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng hợp pháp nguồn nguy
hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cũng như bù đắp
tổn thất về tinh thần cho những những người bị thiệt hại do tự thân nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra, ngay cả trong trường hợp không có lỗi của họ.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ đặt ra
đối với trường hợp tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại. Bản thân
nguồn nguy hiểm cao độ khi hoạt động luôn tiềm ẩn trong nó khả năng gây ra
những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản cho những người xung quanh.
Đây là những thiệt hại do chính sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra, thiệt hại hoàn toàn do “tự thân” sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ,

độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con người như ô tô, xe máy
đang chạy trên đường thì mất phanh, nổ lốp… thì khi đó trách nhiệm bồi thường
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mới phát sinh. Còn nếu những thiệt hại xảy
ra do hành vi trái pháp luật của con người tác động thông qua nguồn nguy hiểm
cao độ mà gây thiệt hại như phóng nhanh, vượt ẩu gây tai nạn, vi phạm quy tắc
an toàn của hệ thống điện gây chết người thì sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hành vi của con người.
Tuy nhiên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra ở đây được xác
định đối với “người xung quanh” những người không liên quan gì tới nguồn
nguy hiểm cao độ, đó là hành khách trên các phương tiện giao thông, là người
tham gia giao thông đối với các phương tiện giao thông cơ giới khác đang hoạt


20

động, khán giả trong rạp xiếc, người thăm quan trong vườn bách thú và trong
quan hệ bồi thường, “người xung quanh” là chủ thể được hưởng bồi thường thiệt
hại [26, tr.32].
Từ bản chất đó là luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho người xung
quanh, nguồn nguy hiểm cao độ có thể gây thiệt hại cho bất cứ ai có thể là chủ
sở hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng, vận hành hoặc ngay cả những
người hoàn toàn không có bất cứ liên quan gì tới nguồn nguy hiểm cao độ.
Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại đối với chính người chủ sở
hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ thì
được xác định đó là rủi ro mà người đó phải gánh chịu. Ví dụ: chủ sở hữu đang
điều khiển chiếc xe máy của mình đi trên đường, thì xe bị nổ lốp dẫn tới mất lái
đâm vào lan can hai bên đường gây thiệt hại về sức khỏe của bản thân và hư
hỏng chiếc xe máy. Tuy nhiên, trong trường hợp này mặc dù là thiệt hại do tự
thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong quá trình vận hành, hoạt động của
mình đó là chiếc xe máy đang đi thì bị nổ lốp, nhưng đây được xác định là rủi ro

bởi vì: (i) nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại chính là tài sản thuộc sở hữu
của mình; (ii) trách nhiệm quản lý, bảo dưỡng, kiểm tra nguồn nguy hiểm cao độ
thuộc về chính chủ sở hữu. Vì vậy,trong trường hợp này, chủ sở hữu có lỗi trong
việc quản lý, kiểm tra, bảo dưỡng đối với chính nguồn nguy hiểm cao độ thuộc
sở hữu của mình và khi thiệt hại xảy ra thì chủ sở hữu phải tự gánh chịu những
thiệt hại xảy ra và được xác định đó là những rủi ro.
Có thể thấy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến nguồn nguy hiểm
cao độ. Cụ thể là: (i)nếu thiệt hại xảy ra trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ như đã nói trên là những thiệt hại xảy ra do chính sự
hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, thiệt hại hoàn toàn do tự thân sự
hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ, hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự quản
lý, kiểm soát của con người thì thiệt hại như ô tô đang chạy trên đường thì nổ
lốp, mất phanh…. (ii)về thiệt hại, “đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do


21

nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức
khỏe. Còn danh dự, nhân phẩm và uy tín là những giá trị nhân thân gắn liền với
một cá nhân, tổ chức cụ thể, chúng chỉ có thể bị thiệt hại thông qua hành động,
lời nói, chữ viết của con người nhằm mục đích xuyên tạc, bôi nhọ làm tổn thất
về tinh thần cho chủ thể bị thiệt hại” [25, tr.30-31]. (iii)về lỗi, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không yêu cầu điều kiện lỗi
còn đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con
người liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ thì lỗi là một trong những điều
kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong trách nhiệm bồi
thường thiệt hại liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ, thiệt hại xảy ra là hậu
quả từ hành vi của con người tác động thông qua nguồn nguy hiểm cao độ mà
gây ra thiệt hại như người điểu khiển ô tô phóng nhanh, vượt ẩu gây tai nạn... Vì

thế cần tránh nhầm lẫn giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra và trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến nguồn
nguy hiểm cao độ.
1.3. Sự phát triển của những quy định về trách nhiệm bồi thƣờng
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong pháp luật Việt Nam
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1995
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định và áp
dụng từ rất sớm [20]. Trong thời kỳ cổ xưa, xã hội chưa có nhiều định chế để
giải quyết các vụ tranh chấp giữa cá nhân với nhau, nên khi xảy ra tranh chấp,
quyền và lợi ích của cá nhân bị xâm phạm, các cá nhân được tự ý trừng phạt lẫn
nhau hoặc bắt đối phương làm nô lệ, hay tước đoạt tài sản của họ. Dấu ấn của
chế độ này còn lưu lại trong các quy định của pháp luật La Mã về “chế độ phục
cừu”, “chế độ phục kim”. Sau nhiều giai đoạn phát triển, pháp luật La Mã đã dần
có sự phân biệt giữa trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự nhưng mới chỉ
thể hiện trong một số trường hợp nhất định mà chưa quy định được một nguyên
tắc trách nhiệm tổng quát, buộc người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.


22

Trong pháp luật Việt Nam, chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
đã được quy định từ khá sớm, ngay trong hai bộ cổ luật đó là Luật Gia Long và
Luật Hồng Đức đã đề cập tới nội dung này. Tuy nhiên, những quy định mới chỉ
dừng ở một số vấn đề chung. Ví dụ như Điều 591 Bộ luật Hồng Đức quy định
về việc chủ nợ mà tùy tiện bắt đồ đạc của cải của người mắc nợ mà không trình
quan nếu số của cải đó mà vượt quá số tiền nợ thì bị xử phạt 80 trường và buộc
phải trả lại phần giá trị thừa ra hay Điều 134 Luật Gia Long quy định cấm các
chủ nợ không được tự tiện bắt gia súc hay tài sản của con nợ và cũng không
được bắt nhân thân của họ làm nô tỳ. Ngoài ra người gây thiệt hại cũng phải nộp
một số tiền chuộc để tránh bị trả thù. Có thể thấy, mặc dù chưa có một quy định

cụ thể nào về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung nhưng
manh nha trong hai bộ cổ Luật của Việt Nam đã phần nào quy định trách nhiệm
của chủ nợ trong việc bắt nợ đối với con nợ, nếu việc bắt nợ mà quá số tiền nợ
hay trong quá trình bắt nợ chủ nợ gây ra thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm dân
sự.
Cùng với sự phát triển của xã hội cũng như bộ máy Nhà nước, các quy
định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại dần được hình thành rõ nét hơn. Điều
229 Luật Hồng Đức quy định về tiền đền mạng theo phẩm trật của người bị chết
với các mức tiền bồi thường khi làm chết người tương ứng với phẩm trật của
người bị thiệt hại hay tiền bồi thường khi xâm phạm sức khỏe trong trường hợp
đánh người gây thương tích tại Điều 466 Luật Hồng Đức. Tương tự, luật Gia
Long cũng quy định về các mức bồi thường thiệt hại trong các trường hợp xâm
phạm đến tính mạng hay gây thương tích cho người người khác như Điều 201
qui định về tiền bồi thường cho gia đình nạn nhân trong trường hợp phạm tội
giết người, phạm nhân bị phạm tội chiếu theo điều luật cố ý đả thương nhân
thương chí tử nhưng cho chuộc tội. Tiền chuộc thì giao cho gia đình nạn nhân để
lo chôn cất. Nếu phạm nhân bị phạt tội giảo thì thì số tiền chuộc là 12 lạng bạc.
Hay Điều 271 Bộ Luật Gia Long dự liệu bồi thường trong các trường hợp gây
thiệt hại như hỏng mắt, gãy tay chân, làm hỏng bộ phận trong cơ thể…thì ngoài


×