Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

ẢNH HƯỞNG của đạo đức NHO GIÁO đến GIÁO dục GIA ĐÌNH VIỆT NAM từ TRUYỀN THỐNG đến HIỆN đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.55 KB, 72 trang )

Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐẾN GIÁO DỤC
GIA ĐÌNH VIỆT NAM TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

SINH VIÊN THỰC HIỆN

TS. GVC. ĐINH NGỌC QUYÊN

DƯƠNG THỊ BÍCH
LỚP: SP. GDCD K33
MSSV : 6076584

SVTH: Dương Thị Bích

Trang 1

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp



GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

Cần Thơ năm 2010

SVTH: Dương Thị Bích

Trang 2

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. ..1
1. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.... .. .................................................................. 2
2.1. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 2
2.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.. ..................................................................... 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu ............ ..................................................................... 3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ........................................................... 3
4.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................ 3
4.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 3
5. Kết cấu của luận văn... ........................................................................................ 3
PHẦN NỘI DUNG ............. .................................................................................. 4

Chương 1 KHÁI LƯỢC VỀ NHO GIÁO VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO
ĐỨC NHO GIÁO ................ .................................................................................. 4
1.1. Khái lược về hoàn cảnh kinh tế - xã hội dẫn đến sự ra đời của Nho giáo ......... 4
1.2. Khái lược về Nho giáo ở Trung Quốc ............................................................... 8
1.2.1. Nho giáo thời kỳ Tiên tần .......................................................................... 8
1.2.2. Nho giáo thời kỳ nhà Hán .................................................................... 14
1.2.3. Nho giáo thời Tống – Minh ................................................................. 15
1.2.4. Nho giáo thời kỳ đầu nhà Thanh .......................................................... 17
1.3. Nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo........................................................... 18
1.3.1. Nhân.................................................................................................... 18
1.3.2. Nghĩa................................................................................................... 20
1.3.3. Lễ ........................................................................................................ 22
1.3.4. Trí ....................................................................................................... 24
1.3.5. Tín....................................................................................................... 25
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐẾN GIÁO DỤC GIA
ĐÌNH VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ .................................................................. 27
SVTH: Dương Thị Bích

Trang 3

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

2.1. Khái lược quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam ............................... 27
2.2. Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục gia đình Việt Nam
trong lịch sử .......................................................................................................... 31

2.2.1. Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục gia đình Việt Nam
truyền thống .......................................................................................................... 31
2.2.1.1. Những ảnh hưởng tích cực ................................................................. 31
2.2.1.2.Ảnh hưởng tiêu cực............................................................................. 35
2.2.2. Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục gia đình Việt Nam
hiện nay ........................................................................................................................ 37
2.2.2.1. Thực trạng tình hình đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay............................. 37

2.2.2.2. Nguyên nhân của những biến đổi tiêu cực trong đạo đức gia đình
mới ở nước ta hiện nay .......................................................................................... 43
2.3. Vấn đề khai thác, kế thừa hợp lý đạo đức Nho giáo trong việc xây dựng
nền đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay............................................................... 48
2.3.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh đối với việc tiếp thu, kế thừa đạo đức
Nho giáo................................................................................................................ 48
2.3.2. Những nhân tố hợp lý của đạo đức Nho giáo cần được kế thừa trong
việc xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay............................................... 52
PHẦN KẾT LUẬN ....................... ...................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............ ...................................................................... 66

SVTH: Dương Thị Bích

Trang 4

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên


LỜI CẢM ƠN
Qua những năm tháng học tập và rèn luyện tại trường Đại học Cần Thơ, tôi đã
tích lũy được những kiến thức bổ ích và cần thiết để tiến hành thực hiện luận văn tốt
nghiệp của mình. Luận văn tốt nghiệp là một trong những hành trang tri thức, đề tài
cuối cùng mà tôi nghiên cứu khi còn học ở trường Đại học Cần Thơ. Tôi nghĩ việc
nghiên cứu, thực hiện luận văn tốt nghiệp sẽ giúp cho bản thân tôi có được nhiều điều
bổ ích về tri thức và những kinh nghiệm quý báu cho công tác giảng dạy sau này.
Trong suốt quá trình nghiên cứu tìm tòi để bắt đầu viết cho đến khi hoàn thành
luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều lời động viên, chỉ dạy chân thành và sự giúp
đỡ của thầy Đinh Ngọc Quyên, từ tất cả quý thầy cô thuộc khoa Khoa học Chính trị và
các bạn trong lớp. Chính sự động viên, giúp đỡ đó đã tạo cho tôi thêm nhiều nghị lực
để hoàn thành tốt luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy Đinh Ngọc Quyên đã hết lòng giúp đỡ, hướng
dẫn, góp ý cho bài viết của tôi. Tôi cũng xin chân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa
Khoa học Chính trị, trường Đại học Cần Thơ đã dìu dắt và truyền đạt kiến thức cho tôi
trong mấy niên học vừa qua, đồng thời đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi có được
những tài liệu cần thiết phục vụ cho việc thực hiện đề tài luận văn này. Và tôi xin cảm
ơn các bạn lớp Sư phạm Giáo dục công dân khóa 33 với những lời động viên và sự
giúp đỡ chân thành.
Tuy nhiên, do thời gian có hạn và vốn kiến thức còn hạn chế, nên không tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Cần Thơ, tháng 12 năm 2010
Dương Thị Bích
SVTH: Dương Thị Bích

Trang 5

MSSV: 6076584



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

PHẦN MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Kể từ năm 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đang tiến hành
công cuộc đổi mới toàn diện, triệt để trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong bối
cảnh toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nước ta
đang có bước chuyển mình quan trọng. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn
về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, quan hệ quốc tế, làm cho đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân từng bước được nâng cao. Những chuyển biến tích cực về đạo đức
và lối sống đã góp phần khơi dậy được tiềm năng to lớn của nguồn lực con người Việt
Nam tạo nên động lực quan trọng thúc đẩy đất nước phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đạt được, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng nảy sinh nhiều diễn
biến phức tạp: hiện tượng tham nhũng, chạy theo lối sống thực dụng, vấn đề đạo đức,
lối sống của một bộ phận quần chúng trong đó có vấn đề đạo đức gia đình đang là một
mối quan tâm lớn của xã hội nước ta hiện nay. Chính vì vậy, việc xây dựng đạo đức gia
đình ở nước ta hiện nay vừa là một nhu cầu cấp bách, vừa là nhiệm vụ quan trọng của
Đảng và Nhà nước ta . Bởi vì, đạo đức gia đình góp phần không nhỏ vào công cuộc
xây dựng đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Để thực hiện được việc đó, về phương diện lý luận cần phải tìm và luận chứng
những nguyên nhân gây ra các hiện tượng trên. Ngoài nguyên nhân kinh tế thị trường
mang tính tất yếu khách quan, cần phải làm rõ ảnh hưởng của các hệ tư tưởng cũ trong
đó có Nho giáo. Nho giáo hiện nay ở nước ta không còn tồn tại, song, như là yếu tố của
hệ tư tưởng vốn được định hình hàng nghìn năm, những ảnh hưởng của nó thông qua
phong tục, tập quán, lối sống, cách suy nghĩ, đạo đức, luân lý vẫn còn tác động cả mặt

tích cực lẫn tiêu cực đối với từng gia đình ở Việt Nam. Chính vì vậy, kế thừa những
yếu tố tích cực của Nho giáo trên lập trường đạo đức cách mạng của chủ nghĩa MácLê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với thực tiễn của cách mạng nước ta để xây
dựng đạo đức gia đình Việt Nam là vấn đề mang ý nghĩa cấp thiết. Vì vậy tác giả chọn
SVTH: Dương Thị Bích

Trang 6

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

đề tài: “Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục gia đìnhViệt Nam từ truyền
thống đến hiện đại” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Mục dích:
Luận văn tìm hiểu một cách có hệ thống nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo;
phân tích những ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục gia đình Việt Nam từ
truyền thống đến hiện đại. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm kế thừa, phát
huy những yếu tố hợp lý của đạo đức Nho giáo trong xây dựng đạo đức gia đình ở
nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ:
Luận văn phân tích khái lược về Nho giáo và nội dung cơ bản của đạo đức Nho
giáo.
Trên cơ sở đó phân tích thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục
gia đình Việt Nam trong lịch sử.
Nêu lên một số giải pháp nhằm kế thừa, phát huy những yếu tố hợp lý của đạo
đức Nho giáo trong xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu trực tiếp nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo trong lịch
sử Triết học Trung Hoa Cổ, Trung đại.
Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục gia đình Việt Nam từ truyền thống
đến hiện đại
Những nhân tố hợp lý của đạo đức Nho giáo cần được kế thừa trong xây dựng đạo
đức gia đình ở nước ta hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ nghiên cứu nội dung của Nho giáo và ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo
đến giáo dục gia đình Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Cơ sở lý luận:

SVTH: Dương Thị Bích

Trang 7

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời có sử dụng kết quả nghiên cứu của một
số công trình khoa học đã được công bố của một số tác giả có liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng

và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó chú ý các phương pháp: Logic và lịch sử, phân
tích và tổng hợp, gắn lý luận với thực tiễn để thực hiện nhiệm vụ đề tài đặt ra.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đựơc chia
thành 2 chương, 6 tiết.

SVTH: Dương Thị Bích

Trang 8

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI LƯỢC VỀ NHO GIÁO VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO

1.1. Khái lược về hoàn cảnh kinh tế - xã hội dẫn đến sự ra đời của Nho giáo
Những năm đầu nhà của Chu, xã hội có trên dưới, thứ bậc từ thiên tử cho đến dân.
Theo sách sử ghi lại, thì có thể coi đó là một thời đại yên ổn, xã hội có trật tự, có quy
tắc. Thứ nhân thì phục tùng sĩ, sĩ phục tùng khanh đại phu, khanh đại phu phục tùng
chư hầu, chư hầu phục tùng thiên tử, trên thiên tử còn có một ông trời (thiên) không
nhìn thấy được, trời là đấng tối cao, có thể giám sát, khống chế thiên tử. Chế độ phân
phong bắt đầu hình thành từ thời kỳ nhà Chu. Nhà Chu thực hiện việc phong đất đai
cho người thân hoặc người có công trong chiến trận, lập nên các nước chư hầu. Thiên
tử thời nhà Chu là chủ của toàn “thiên hạ”. Song đến thời Xuân Thu chế độ này không

còn giữ nguyên được nguyên tắc quan hệ ban đầu của nó; các thiên tử nhà Chu không
còn khả năng nắm giữ quyền hành và cai quản đất nước; các chư hầu không còn nghe
theo lệnh của thiên tử, thậm chí có chư hầu công khai đứng lên phản kháng lại. Cùng
với sự mất uy tín của thiên tử, các chư hầu lần lượt tự mình quyết định mọi việc không
tuân theo sự phân cấp của nhà Chu.
Đến thời Xuân Thu – Chiến Quốc, sự băng hoại của chính trị đương thời, sự sụp
đổ của chế độ phân phong, sự tấn công của các nước Di, Dịch và chiến tranh thôn tín
lẫn nhau giữa các vùng và trung nguyên đã làm cho xã hội Trung Hoa trở nên biến
động hỗn loạn. Trong thời kỳ này người dân luôn phải sống trong cảnh nước sôi lửa
bỏng, chịu muôn vàn khó khăn, khó có thể sinh tồn, nếu không bị chết đói thì cũng
phải đào tẩu bốn phương. Các nước chư hầu thôn tín lẫn nhau, cảnh can qua diễn ra
không ngừng nghỉ ở khắp mọi nơi. Bên cạnh việc các nước chư hầu thôn tín lẫn nhau,
chiến tranh liên miên, thì người dân phải chịu thuế khóa vô cùng nặng nề, thuế ruộng
đất tăng lên so với trước đó ít nhất 3,4 lần. Phân hóa xã hội trở nên sâu sắc chưa từng
có, những trật tự xã hội cũ biến đổi mạnh mẽ.

SVTH: Dương Thị Bích

Trang 9

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

Bước vào thời Chiến Quốc, vương thất nhà Chu mỗi lúc một suy yếu hơn. Sau khi
Tây Chu rơi vào nhà Tần, đến năm 249 trước công nguyên, nước Tần tiêu diệt nốt
Đông Chu – nước Chu diệt vong.

Sự suy vong của nhà Chu đã để lại nhiều hậu quả làm cho đời sống kinh tế - xã
hội của đất nước Trung Hoa rộng lớn có những thay đổi nhiều mặt:
Về phương diện chính trị
Các nước bá chủ suy yếu, các khanh đại phu dần dần chấp chính, chuyên quyền,
không còn chịu mệnh lệnh từ vương thất nữa. Khanh đại phu của các nước chư hầu
ngày càng ngang ngược, việc khanh đại phu thí quân (giết vua) hoặc đuổi vua ra khỏi
nước của mình trở thành phổ biến. Ngoài các khanh đại phu chấp chính, còn có các bồi
thần. Bồi thần đối với khanh đại phu, cũng giống hệt như các khanh đại phu đối với
vua, không chịu sự ước thúc, ngày càng trở nên hoành hành hơn. Điều đó cho thấy
chính quyền ngày càng đi xuống, chính trị quý tộc cũng do đó mà băng hoại. Trật tự xã
hội đã bị đảo ngược, kèm theo đó là chiến tranh loạn lạc.
Chế độ chiếm hữu nô lệ dần bị thủ tiêu. Người cai quản quận hay huyện là do vua
chỉ định, có thể được cất nhắc, có thể bị bãi nhiệm. Vì vậy, chế độ phong đất mang tính
cát cứ đặc quyền của giai cấp quý tộc dần dần trở thành chính quyền quan lại. Các bậc
vương công thường là dùng gạo hoặc vàng để thưởng cho quan lại, chứ rất ít khi phong
đất như trước đây. Do đó, quan lại đối với vua không còn tính chất riêng tư, mà mang
tính chất công việc chung, dẫn đến sự thay đổi hình thái quan hệ xã hội.
Trong thời kỳ phong đất cho tướng lĩnh có công, giai cấp quý tộc cũng chính là
thủ lĩnh quân sự. Đến thời kỳ Chiến Quốc, tướng cầm quyền và quan lại trong triều là
hai chức vụ khác hẳn nhau, được phân chia rõ ràng và có vai trò khác nhau và thường
thì chức vụ quân sự lấn át chức vụ chính trị. Người cầm quyền do có công chiến trận,
lại do nắm sức mạnh trong tay nên nhiều khi điều khiển cả quần thần.
Về phương diện kinh tế
Dưới thời kỳ phong đất, nông dân không được sở hữu ruộng đất, giàu nghèo chưa
trở thành một vấn đề bức xúc. Song, đến cuối thời Xuân Thu đồng thời với việc các
tướng được phong đất là việc ruộng đất được tự do mua bán. Thời kỳ này, sự sa sút của
giới quý tộc đã dẫn đến tình trạng họ phải bán đi phần lớn ruộng đất đã chiếm đoạt
SVTH: Dương Thị Bích

Trang 10


MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

được. Nhờ biện pháp của Thương Ưởng chế độ tư hữu về ruộng đất được xác lập ở
nước Tần và sau đó việc buôn bán ruộng đất một cách tự do cũng diễn ra ở các nước
khác, từ đó giàu nghèo có sự phân hóa rõ rệt, đặc biệt đời sống của nông dân ngày càng
khó khăn.
Thời Xuân Thu, việc canh tác đất đai dựa vào sức kéo của trâu bò và công cụ
bằng sắt, đã tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ trong xã hội.
Thời Chiến Quốc, trong mỗi một nước lớn đều hình thành các khu vực dân cư
mang tính tổ chức, trật tự cao, do đó thương nghiệp có điều kiện phát triển mạnh.
Thậm chí giữa các nước có thể buôn bán hoặc trao đổi hàng hóa với số lượng lớn.
Muối của nước Tề, vải vóc của nước Sở, gạo, ngũ cốc của nước Tần, gia súc của hai
nước Yên và Triệu đều là những mặt hàng được trao đổi, buôn bán thường xuyên giữa
các nước.
Từ Xuân Thu đến Chiến Quốc, các nước đều không thể không chú ý đến công
thương, những nhà buôn trở thành những bậc đại phú, tạo nên sự tôn trọng của nhà vua
đối với họ. Cuối thời Xuân Thu, dường như chỉ có một số ông chủ nhỏ trong các nước.
Song, đến thời Chiến Quốc thì xuất hiện ngày càng nhiều người mở các xưởng lớn với
vô số các nô lệ và các thợ thủ công. Họ kinh doanh gạo, sản xuất tơ, làm muối hoặc rèn
sắt, cũng có người nuôi gia súc với số lượng lớn… những người đó ngày càng giàu có,
vượt qua cả các vua chúa đương thời và tất nhiên, thế lực của họ, ảnh hưởng của họ
ngày càng trở nên mạnh hơn bao giờ hết. Trường hợp Lã Bất Vi thao túng chính trị nhà
Tần là một ví dụ điển hình.
Tuy từ thời nhà Thương đã có dấu hiệu của việc sử dụng tiền tệ, song trên thực tế,

cuối thời Xuân Thu, tiền (bằng vàng, đồng) vẫn chưa được đưa vào lưu hành rộng rãi.
Đầu thời Chiến Quốc, do sự phát triển của công thương nghiệp mà tiền (bằng đồng)
mới được chế tạo ra nhiều và được đưa vào sử dụng một cách phổ biến. Thời kỳ này
vàng cũng được đưa vào trong giao dịch và được sử sách ghi chép lại rất nhiều.
Về phương diện xã hội
Đầu thời Tây Chu, giai cấp thống trị xã hội chủ yếu là chủ nô. Họ là quý tộc, được
hưởng vô số đặc quyền, đảm đương những nhiệm vụ của các thiên tử, chư hầu, khanh
đại phu. Nhưng đến thời Xuân Thu, tình hình có khác. Một số người bình dân dốc công
SVTH: Dương Thị Bích

Trang 11

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

trong chiến trận mà trở nên có quyền lực, ỷ vào quyền đó đã bao chiếm ruộng đất công
và biến thành ruộng tư hữu; một số người khác là nhà buôn giàu có đã dành tiền mua
ruộng đất và mua chức tước, bước vào thang bậc trên của xã hội; một số người khác do
bản thân hoặc tập hợp được những người nghèo khổ tiến hành phát hoang, khai phá
ruộng đất mới và trở thành người chủ sở hữu lớn về ruộng đất,... Tất cả họ hợp lại
thành giai cấp địa chủ, vừa giàu có về ruộng đất, vừa đòi hỏi quyền lực về chính trị. Họ
tham gia vào giai cấp thống trị xã hội, sánh vai cùng giai cấp chủ nô.
Đến cuối thời Xuân Thu – Chiến Quốc, do cạnh tranh quyết liệt mà giai cấp quý
tộc do được nuôi dưỡng trong điều kiện quá thuận lợi đã mất đi tính tiến bộ, tính tranh
đấu. Giai cấp này ngày càng mục nát, hủ bại, nhân tài ngày càng ít. Chính vì vậy mà
đến thời Chiến Quốc, vua các nước thường bắt giết các quý tộc. Chế độ tông pháp thời

Tây Chu đi đến chỗ suy diệt.
Những hiện tượng trên cho thấy tôn ti, trật tự được hình thành từ thời Tây Chu
theo thang bậc từ trên xuống dưới, đối với đương thời chỉ còn là danh nghĩa, hình thức.
Trong thực tế, ít người có ý thức tuân thủ địa vị và danh phận đã quy định. Những
thang bậc trong xã hôi đang đứng trước những thử thách của sự biến lịch sử.
Nguyên nhân thật sự và chủ yếu của các sự kiện lịch sử nói trên là do lực lượng
sản xuất phát triển làm cho quan hệ sản xuất vốn có của nó không còn phù hợp nữa.
Việc phát hiện ra sắt và chế tạo ra công cụ sản xuất bằng sắt đã tạo ra bước ngoặt mới
của sản xuất lúc bấy giờ. Công cụ sắt tốt hơn công cụ đồng, năng suất lao động nhờ đó
mà cao hơn trước, nghề nông, nghề thủ công đều có sự phát triển mới dẫn đến sự thay
đổi trong quan hệ sản xuất. Nếu như đầu thời Tây Chu, quan hệ sản xuất chủ yếu là
quan hệ giữa chủ nô và nô lệ thì đến thời Xuân Thu, quan hệ đó đã rạn nứt và quan hệ
sản xuất phong kiến với hai giai cấp mới là địa chủ và nông dân dần dần được xác lập,
tồn tại xen kẽ với quan hệ chủ nô – nô lệ. Giai cấp địa chủ ngày càng có xu thế lấn át
giai cấp chủ nô trong việc chi phối mọi hoạt động sinh hoạt của xã hội. Không thỏa
mãn với trật tự xã hội cũ, giai cấp địa chủ mới có nhu cầu xây dựng trật tự xã hội mới.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất diễn ra không đồng đều ở các nước chư hầu.
Có nước sản xuất phát triển nhanh tạo nên sức mạnh kinh tế, quân sự ngày một lớn, có
sức lấn át các nước khác, có nước sản xuất phát triển chậm, ở vào thế bị thua kém và
SVTH: Dương Thị Bích

Trang 12

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên


dẫn đến bị thôn tính. Đến thời Đông Chu tình trạng các nước lớn gọi là bá chủ thôn
tính nhiều nước nhỏ khác đã xuất hiện. Người đương thời đã từng lên án các bá chủ đó
là hung bạo, là vô đạo, là không có nghĩa…nhưng xét về xu thế phát triển của lịch sử
thì hợp nhất, thôn tính giữa các cộng đồng người theo nhiều hình thức khác nhau là
điều tất yếu.
Trong điều kiện kinh tế - xã hội như vậy, một vấn đề đặt ra là kẻ sĩ cần phải được
trọng dụng. Hơn bất cứ tầng lớp xã hội nào khác, kẻ sĩ là người có khả năng đáp ứng
yêu cầu của thời đại. Có kiến thức họ có thể làm những việc đúc kết kinh nghiệm của
lịch sử, biến những lý tưởng thành những học thuyết có hệ thống. Được trọng dụng, họ
nhiệt tình đem hết hiểu biết của mình cống hiến cho các vương hầu và truyền bá cho
người khác, khiến lý thuyết đi vào cuộc sống và có điều kiện để khảo nghiệm. Tất
nhiên, trong số kẻ sĩ cũng có những người bất tài, không đóng góp được gì để thúc đẩy
thời thế, nhưng cũng có những người tài năng xuất chúng, nhờ hoàn cảnh tự do mà
phát triển tư duy, xác lập quan điểm và trở thành những người sáng lập ra các học
thuyết hoặc phát triển các học thuyết đã có. Các học thuyết về xã hội và con người đã
được ra đời trong những điều kiện như thế.
Các trường phái học thuật thời kì này tuy xuất hiện nhiều, song tất cả đều nhắm
vào một điểm, đó là giải thích, giải đáp những vấn đề bức xúc của một xã hội loạn lạc,
một chế độ băng hoại, cuộc sống con người bị bấp bênh, phải làm sao để cứu đời, cứu
người. Nói cách khác, con người là nền tảng xuất phát cho bất cứ một học thuyết nào
xuất hiện trong thời kỳ này. Sự sống còn, sự tồn tại con người là nền tảng để từ đó các
học thuyết ra đời mà tiêu biểu phải nói đến là sự ra đời của học thuyết Nho giáo.
1.2. Khái lược về Nho giáo ở Trung Quốc
1.2.1. Nho giáo thời kỳ Tiên tần
Nho giáo thời kỳ Tiên tần hình thành và phát triển gắn liền với tên tuổi của của
người sáng lập là Khổng Tử và cùng với Khổng Tử là hai nhà tư tưởng lớn Mạnh Tử
và Tuân Tử.
Khổng tử thuộc dòng dõi nhà Chu sinh năm 551 và mất năm 479 trước công
nguyên tại nước Lỗ được Chu Công Đán xây dựng. Khổng Tử rất mến phục tài đức của
Chu Công người đã đem lại cho nước Lỗ một nền văn hóa tốt đẹp trên cở sở kế thừa

SVTH: Dương Thị Bích

Trang 13

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

tinh hoa của các thế hệ đi trước như: Nghiêu, Thuấn, Văn Vũ…vì thế Ông luôn ngưỡng
mộ nhà Chu và hết lời ca ngợi “Nhà Chu thịnh vượng thay, ta theo nhà Chu”. Ông
khen chính sự của nước Lỗ và cho rằng chỉ có nước Vệ và nước Tề mới có khả năng
theo kịp [10,tr.16].
Cũng chính sự ngưỡng mộ như thế nên khi xã hội nhà Chu đi vào thời kỳ suy
thoái về xã hội. Bởi lẽ, lúc bấy giờ uy thế của Thiên tử nhà Chu ngày càng sa sút do sự
tranh chấp đất đai, quyền lực. Nhà Chu chuyển kinh đô từ Miền Tây (Tây Chu) sang
miền Đông (Đông Chu). Vì thế, Ông rất đau lòng và tự nhủ rằng sẽ cố gắng phấn đấu
để ngăn chặn những cảnh tàn bạo, xấu xa đang diễn ra trước mắt. Ông ước mơ làm thế
nào cho xã hội trở lại được cuộc sống thanh bình.
Trước tình cảnh đó, Khổng Tử nêu lên những tấm gương của người xưa để răn
dạy người đời như khi nói về Vua Thuấn và Vua Vũ, Ông đã nêu “Tam chí cao lớn vòi
vọi thay! Vua Thuấn và vua Vũ có thiên hạ, làm bực Thiên tử, nhưng lòng chẳng
dự”[9,tr.129]. Khổng Tử cũng vói rằng: “Vua Vũ nhà Hạ, ta chẳng chê trách được.
Trong việc ăn uống hàng bữa, ngài giữ đạm bạc; nhưng trong việc cúng tế quỷ thần, lễ
vật ngài dâng lên rất trọng hậu. Y phục ngài thường mặc thì xấu, nhưng áo mão ngài
trang sức trong dịp cúng tế thì rất đẹp. Cung thất của ngài thì nhỏ hẹp, nhưng ngòi
lạch trong nước ngài tận lực mà sửa san cho dân nhờ” [9,tr.131].
Không những thế, Khổng Tử còn ca ngợi vua Nghiêu “Ông Nghiêu làm vua, đức

nghiệp lớn thay! Vọi vọi thay! Chỉ có trời là lớn thôi; chỉ có vua Nghiêu có thể so sánh
với trời thôi. Lồng lộng thay! Dân chúng chẳng có thể khen tặng đức nghiệp của Ngài
cho xiết. Vòi vọi thay những sự thành công của Ngài! Lễ nhạc và pháp độ của Ngài rỡ
ràng thay!” [9,tr.129].
Ngoài ra, Khổng Tử còn muốn lấy chuyện xưa để giáo dục đời nay. Ông muốn
“ôn cái cũ mà biết cái mới”; “người nào ôn lại những điều đã học, do nơi đó mà biết
thêm những điều mới, người đó có thể làm thầy thiên hạ đó”. Ông tuyên bố: “ta ham
kinh sách của Thánh hiền là truyền lại cho đời sau, chứ ta chẳng có làm ra. Ta tin
tưởng và hâm mộ đạo lý người xưa” [9,tr.99]. Ông lại nói: “ta chẳng muốn nói
nữa”,“Trời có nói chăng? Thế mà bốn mùa (Xuân, Hạ, Thu, Đông) cứ xoay dần mãi,
trăm vật trong vũ trụ cứ sanh hóa mãi. Mà trời có nói gì chăng?” [9,tr.279].
SVTH: Dương Thị Bích

Trang 14

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

Vì không đủ bằng chứng để chứng minh cho lời nói của mình, Khổng Tử đã dành
nhiều thời gian để thu thập tài liệu lịch sử và di sản tư tưởng của ngày xưa. Ông đã
chép và soạn lại thành Kinh thi, Kinh thư, Kinh dịch, Kinh lễ, Kinh Xuân Thu. Dựa
vào tư liệu ấy, ông đã phát biểu ý kiến với học trò, bình luận và mở rộng thêm, tạo nên
học thuyết hoàn chỉnh và bền vững của mình.
Học thuyết của Ông hướng vào việc: Làm như thế nào để chấm dứt tình trạng hỗn
loạn của xã hội, sự suy thoái về đạo đức, sự khốn khổ của nhân dân trong chiến tranh
và đói rét.

Khổng tử không phải là nhà cách tân để có đủ chủ trương đổi mới xã hội theo
chiều hướng phát triển. Ông chỉ biết luyến tiếc thời xưa và nghĩ rằng, nếu như đất nước
lại có những vua hiền, tôi giỏi thì mọi sự sẽ trở lại tốt đẹp. Hy vọng suốt đời của ông là
làm sao có được vua hiền, tôi giỏi ấy. Đó chính là phẩm chất cao quý của ông và cũng
chính là bi kịch của ông.
Khổng Tử muốn đem chế độ và lễ giáo của nhà Chu để áp đặt trở lại vào thời
Đông Chu. Nhưng ở đây hoàn cảnh kinh tế xã hội đã đổi khác. Đến đây xã hội đã phát
triển. Động cơ thúc đẩy của giới cầm quyền và của tầng lớp xã hội chủ chốt không còn
là điều “Nhân nghĩa” của Nghiêu, Thuấn, Vũ mà là những lợi vật chất đang xâu xé xã
hội và xâu xé con người. Từ quyền lợi thiết thực của giới kinh doanh thương nghiệp và
nông nghiệp, Tần Doanh Chính đã thống nhất Trung Quốc, hoàn toàn xóa bỏ nhà Chu
và căm ghét học thuyết của Khổng Tử, Ông ta không chỉ đốt sách và chôn nhà Nho mà
thực tế đã chôn cả Khổng Tử. Khổng Tử và cả học thuyết của ông đã được báo tử kể từ
ấy.
Mạnh Tử (371 – 289 TCN), tên thật là Mạnh Kha, tự là Dư, người đất Trâu nước
Lỗ. Ông được tôn là “Á Thánh” (bậc thánh nhân số hai sau Khổng Tử). Mạnh Tử là
học trò của Tử Tư, Mạnh Tử từng đi chu du nhiều nước nhưng chưa từng làm quan,
suốt một đời lo việc dạy học. Tư tưởng của ông chủ yếu phản ánh trong bảy Thiên sách
Mạnh Tử do ông và học trò biên soạn qua những lời của ông và học trò.
Mạnh Tử đứng trên lập trường của bộ phận lạc hậu trong giai cấp địa chủ, quý
tộc, thị tộc cũ đang trên con đường chuyển hóa lên giai cấp địa chủ phong kiến để lập
thuyết, truyền bá tư tưởng của mình. Ông là người đầu tiên đề cập đến vấn đề cá nhân,
SVTH: Dương Thị Bích

Trang 15

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp


GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

vấn đề nhân tính một cách có hệ thống và cụ thể. Mạnh Tử chủ trương thuyết “Tính
thiện”, khẳng định “Thiện” là bản tính của con người, khi mới sinh ra ai cũng có. Theo
ông, bản tính của con người, khi sinh ra ai cũng có. Ông cho rằng, bản chất của con
người là thiện, ai cũng có cái tâm, ai cũng có lòng “trắc ẩn”. Tâm là cái chủ đạo điều
khiển mọi hành vi. Ông còn khẳng định, con người không phải cần tìm chân lý ở ngoài
thế giới khách quan, mà chỉ cần trở về suy xét cho đến rốt ráo nội tâm của mình là đủ.
Trên thực tế, con người hiện thực có thể là ác, đó là do tác động của hoàn cảnh , của xã
hội.
Mạnh Tử đã phát triển tư tưởng của Khổng Tử : Ông cho rằng, đọc mà cứ mê mệt
vào sách, không biết biến hóa của nó thì đừng đọc còn hơn. Ông đưa ra luận điểm nổi
tiếng là: “Trong quốc gia, quý nhất là dân, rồi đến đất đai, thóc gạo, của cải ( xã tắc),
cuối cùng mới là vua”. Đây là quan điểm hết sức mới mẻ và tiến bộ của ông. Ngoài ra,
ông còn có ba mệnh đề nổi tiếng: Một là, chú trọng việc công hơn việc riêng; hai là,
chú trọng hòa bình, ghét chiến tranh; ba là, không bao giờ chia rẽ chính trị với nhân
nghĩa trên chính trường.
Thế giới quan của Mạnh Tử bao gồm cả chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ
nghĩa duy tâm chủ quan. Về nhận thức luận, Ông cho rằng, mọi người sinh ra đều có
năng lực nhận biết, nhưng cái năng lực nhận biết đó không phải do cảm giác hay quá
trình thực tiễn đưa ra mà nó vốn có sẵn trong tâm. Khác với chủ nghĩa kinh nghiệm của
Mặc Gia, Mạnh Tử nhấn mạnh tầm quan trọng của nhận thức lý tính, nhấn mạnh giá trị
của tư duy.
Về chính trị, xã hội Mạnh Tử chủ trương Đức trị, tuyên truyền vương đạo, chống
phá đạo, Ông công khai ủng hộ chế độ đẳng cấp. Ông tuyên bố dứt khoát người quân
tử là người có quyền lực thống trị, bóc lột kẻ tiểu nhân, kẻ tiểu nhân là người phục vụ
nuôi dưỡng người quân tử.
Tư tưởng triết học duy tâm thần bí và những luận thuyết về luân lý, chính trị của
Mạnh Tử được Đổng Trọng Thư kế thừa, phát triển thành thứ chủ nghĩa duy tâm tôn

giáo cực đoan, trở thành hệ tư tưởng của chế độ phong kiến từ đời Hán về sau.
Tuân Tử (298 – 238 TCN), tên là Huống, nhà triết học duy vật kiệt xuất trong lịch
sử triết học Trung Hoa thời cổ đại. Đứng trên lập trường cơ bản là duy vật, Tuân Tử đã
SVTH: Dương Thị Bích

Trang 16

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

kế thừa có phê phán tất cả các trào lưu tư tưởng trước đó trên tất cả các phương diện
như nhận thức luận, lý luận xã hội, biện chứng pháp, vũ trụ quan…và xây dựng nên
học thuyết của mình. Tác phẩm của Ông được hậu thế sưu tầm và biên tập lại thành bộ
Tuân Tử. Có thể nói, ông là người tổng kết lịch sử tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại.
Về thế giới quan, Tuân Tử đặt mối quan hệ giữa trời và người, mệnh đề “Trời và
người có sự phân biệt” là nội dung quan trọng nhất trong tư tưởng triết học của Tuân
Tử. Ông phản bác lối lập luận duy tâm thần bí về mối quan hệ giữa trời và người của
Tử Tư và Mạnh Tử.
So với Khổng Tử, Tuân Tử có nhiều điểm mới. Mối quan hệ giữa con người và
trời đất, Khổng Tử và Mạnh Tử giải quyết theo hướng duy tâm – thiên mệnh. Tuân tử
giải quyết vấn đề này có nhiều yếu tố duy vật. Theo ông, trời, đất, người là ba bộ phận
cấu thành vũ trụ, mỗi bộ phận có quy luật hoạt động riêng; trời, đất, thiên mệnh không
quyết định và can thiệp vào công việc của con người.
Con người của triết học Khổng – Mạnh là nạn nhân của số phận, thiên mệnh. Con
người trong triết học của Tuân Tử chống lại thiên mệnh, chống lại định mệnh cải tạo số
phận của mình. Ông cho rằng, con người khác động vật là ở chỗ sống tập thể theo xã

hội có tổ chức, có lễ nghĩa trên dưới.
Về nhận thức luận, đứng trên quan điểm duy vật về thế giới quan, Tuân Tử đã giải
quyết đúng đắn về nhận thức. Ông cho rằng: sự vật khách quan là cái có trước, danh từ,
khái niệm là sự phản ánh các sự vật khách quan là cái có sau. Ông coi thế giới là đối
tượng của nhận thức. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cảm giác và tư duy trong
quá trình nhận thức. Ông coi tri thức là kết quả của quá trình hoạt động vật chất. Đó là
những quan điểm tiến bộ, duy vật về lý luận nhận thức của Tuân Tử.
Về luân lý đạo đức, Ông đưa ra thuyết “tính ác” để phản đối “tính thiện” của
Mạnh Tử. Ông cho rằng, bản tính của con người vốn là ác. Bởi vậy, con người ai cũng
có lòng ham lợi, con người ai cũng có dục vọng. Đây là hai nguồn gốc gây nên tội ác.
Học thuyết của Tuân Tử đề cập đến nhiều mặt: triết học, chính trị, con người, xã hội,
văn hóa nghệ thuật. Ông đặc biệt đánh giá cao khả năng cải tạo con người, cải tạo xã
hội và cải tạo tự nhiên; nhưng nội dung, mục đích và phương pháp cải tạo đó thì Tuân
Tử không thoát khỏi quỹ đạo của học thuyết Khổng – Mạnh.
SVTH: Dương Thị Bích

Trang 17

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

Nhìn chung, Nho giáo thời kỳ Tiên Tần đã trãi qua ba kỳ biến thiên lớn:
Lúc đầu, Khổng Tử lấy “Nhân” mà dạy người ta cách đối thời dục vật, tức là lấy
cái trực giác mẫn nhuệ mà theo thiên lý để xử trí mọi việc cho hợp thời thuận lý, khiến
vạn vật các đắc kỳ sở và giữ được cái sinh thú ở đời. Thật là một sự học có thái độ ung
dung hoằng đại, đáng làm cơ sở cho sự học của người quân tử.

Cái học ấy truyền được hơn một trăm năm, Mạnh Tử lại phát minh ra cái mối tâm
học rõ ràng hơn nữa. Ông dạy người ta giữ lấy cái bản tâm, rất linh diệu, tự nó sáng
suốt, khiến ta biết rõ chân lý ở đời. Theo cái học của ông, mà hễ người nào giữ được
cái tâm sáng suốt thì biết “nhân” là nhà rộng ta ở, “nghĩa” là đường lớn ta đi, không
bao giờ bị một cái lợi và cái dục làm cho ta lầm đường lạc lối.
Cách Mạnh Tử độ mấy chục năm thì Tuân Tử xướng lên cái thuyết “tinh ác” và
lại chú trọng sự dùng lễ mà kiểu sức cái tính ác. Tuy ông vẫn giữ cái nền nhân nghĩa
trung tín để làm cơ sở cho sự giáo hóa, nhưng ông thiên về mặt công dụng và chủ
trương thủ đoạn chuyên chế để trừ bỏ những điều mà ông cho là tà thuyết, bí từ. Cái
kết quả của sự học ấy gây thành cái chính trị chuyên chế ở đời nhà Tần.
Tóm lại, với sự khởi xướng của Khổng Tử, sự bổ sung và phát triển của Mạnh Tử
và Tuân Tử Nho giáo thời Tiên Tần có những đặc điểm đáng chú ý sau:
Thứ nhất, vấn đề trung tâm của triết học Nho giáo thời Tiên Tần là vấn đề chính
trị - đạo đức.
Thứ hai, mặc dù đây là giai đoạn hình thành và bước đầu phát triển song vấn đề
cơ bản của triết học Nho giáo đã được nêu ra và giải quyết thấu đáo từ thời kỳ này, các
nhà tư tưởng về sau chỉ bổ sung và hoàn thiện nó trên cơ sở nhu cầu lịch sử của từng
thời đại.
Thứ ba, Nho giáo thời Tiên Tần còn chứa đựng nhiều giá trị mang tính nhân văn
hơn những giai đoạn phát triển về sau.
Thứ tư, Nho giáo thời Tiên Tần đang cố gắng thoát khỏi ảnh hưởng của thế giới
quan thần quyền thời Hạ, Thương và giai đoạn đầu nhà Chu nên các yếu tố tôn giáo,
thần bí không sâu đậm bằng Nho giáo thời Hán.
Nhìn chung, những nội dung cơ bản của triết học Nho giáo đã được hình thành và
ổn định từ thời kỳ này. Các nhà tư tưởng đời sau thông qua “chú giải’ mà có thể thu
SVTH: Dương Thị Bích

Trang 18

MSSV: 6076584



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

hẹp hoặc mở rộng những nội dung nguyên thủy ấy nhưng vẫn trên danh nghĩa là bảo vệ
và phát triển học thuyết Nho giáo.
1.2.2. Nho giáo thời kỳ nhà Hán
Qua thử thách nghiệt ngã dưới ngọn lửa “đốt sách, chôn nho” của nhà Tần, sang
đời Hán Nho giáo lại được hồi sinh. Buổi đầu nhà Hán, do thực hành chính sách phục
sức dân, ổn định đời sống xã hội, nên các tư tưởng “vương đạo”, “nhân chính”, “ hữu
vi” của Nho gia được tôn sùng. Đến thời Hán Vũ Đế, để thích ứng với nhu cầu tăng
cường nền chuyên chế phong kiến, các trào lưu triết học chủ yếu phục hồi luân lý chính
trị, đạo đức, thần quyền thời Tây Chu và lợi dụng chủ nghĩa thần bí trong thuyết Âm
dương – Ngũ hành xuất hiện cuối thời Chiến Quốc, đề cao Nho học của Khổng –
Mạnh, mê tín thuật thần tiên, ảo tưởng ở sự trường sinh bất tử…
Vào năm 136 TCN, Đổng Trọng Thư đã cho điện định lại tất cả sách vở, kinh
điển của Nho gia và phân thành năm loại gọi là ngũ kinh: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh
Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu. Ông đã dùng học thuyết “tam cương”, “ngũ thường”
để thuần bí hóa trật tự lễ nghĩa của xã hội phong kiến và quan niệm đạo đức luân lý của
Nho gia. Nho học được Đổng Trọng Thư cải tạo, kết hợp với thần học “sấm vĩ” thành
một trào lưu tư tưởng phản động của chủ nghĩa duy tâm thần bí, chính thức trở thành
hình thái ý thức chiếm địa vị thống trị trong xã hội phong kiến thời Lưỡng Hán. Đó là
vũ khí tinh thần của giai cấp thống trị nhằm nô dịch quần chúng nhân dân lao động,
hòa hoãn mâu thuẫn giai cấp trong xã hội và khống chế các tập đoàn phong kiến địa
phương. Tuy nhiên, trên cơ sở phát triển của đời sống xã hội và những thành tựu khoa
học, kỹ thuật, tư tưởng triết học duy vật vô thần có bước phát triển mới. Nhân cuộc
khủng hoảng xã hội với các cuộc bạo động của nông dân liên tiếp nổ ra, phái không
cầm quyền là những tầng lớp địa chủ mới nổi lên, những nhà tri thức tiến bộ đã đưa ra

thế giới quan duy vật và những quan điểm chính trị - xã hội tiến bộ, làm vũ khí tư
tưởng chống lại tầng lớp địa chủ, quý tộc cầm quyền lấy quan điểm thần học Nho giáo
làm hệ tư tưởng chính thống trong đời sống tinh thần xã hội đương thời.
Dưới sự chế biến của Đổng Trọng Thư, những yếu tố tích cực trong tư tưởng luân
lý, đạo đức đầy tính nhân bản và sinh động thời Khổng – Mạnh đã trở nên xơ cứng,

SVTH: Dương Thị Bích

Trang 19

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

nghèo nàn, mang đậm tính chất duy tâm thần bí nên nó đã làm mất đi ý nghĩa uyên bác
của Nho học.
Như vậy, sự phát triển của Nho giáo thời kỳ nhà Hán có những đặc điểm cơ bản
sau đây:
Thứ nhất, từ thời Hán Vũ Đế, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng thống trị và chuẩn
mức đạo đức của xã hội phong kiến Trung Quốc.
Thứ hai, Nho giáo thời Hán có sự pha trộn tư tưởng của các trường phái triết học
và phát triển theo hướng cực đoan, duy tâm thần bí. Nó đề cao sức mạnh của thần
quyền và dùng sức mạnh đó để phù trợ cho vương quyền.
1.2.3. Nho giáo thời Tống – Minh
Nho giáo thời Tống – Minh một lần nữa được phục hồi và tôn sùng gắn liền với
tên tuổi của các danh Nho như Trình Di, Trình Hạo, Vương Thủ Nhân, Chu Hy…
Mặc dù có sự “tịch phật” của Hàn Dũ cả trong triều và trong dân gian nói chung

người ta đều không tách biệt hẳn, càng không đối lập hẳn Nho giáo với Phật giáo, cũng
như đã không tách biệt và đối lập Nho giáo với Lão giáo ở các thời đại trước. Các nhà
Nho không thể không nhớ đến một câu có tính nguyên tắc lớn trong cuốn Trung Dung:
“Các đạo cùng hành mà không chống đối nhau” (Đạo tịnh hành nhi bất tương bội).
Nho giáo và Lão giáo đã cùng đồng hành với nhau. Nho và Phật cũng có thể và đã từng
bước thực hiện sự đồng hành với nhau mà không chống đối nhau. Ảnh hưởng qua lại
lẫn nhau giữa Nho, Lão và Phật trong Tam giáo thúc đẩy các vị thầy của Tống Nho
ngay từ buổi đầu đã có hướng đi sâu vào vũ trụ quan vào những lĩnh vực vô hình với
những khái niệm và phạm trù tâm, tính, tình, lý… Cảnh tượng Hàn Dũ đả kích Phật
giáo một cách gay gắt nhường chỗ cho cảnh tượng Chu Đôn Di cùng với hòa thượng
Thọ Nhai ở chùa Hạc Lâm trao đổi ý kiến về Thái cực đồ của Thầy Chu và những triết
lý của Đức Phật.
Cố nhiên điều đó không có nghĩa là các nhà Nho đã chịu ảnh hưởng của cả Tam
giáo thì cũng coi người lập ra các giáo đều ngang nhau. Trái lại chính trong lúc Tam
giáo thịnh hành, các nhà Nho càng đặc biệt đề cao Khổng Khâu, nâng phu tử của mình
lên tận mây xanh. Thiệu Ung đã từng suy tính – chẳng biết bằng phép toán học nào:
“Đạo của hoàng là sự nghiệp nghìn đời, đạo của đế là sự nghiệp trăm đời, đạo của
SVTH: Dương Thị Bích

Trang 20

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

vương là sự nghiệp mười đời, đạo của bá là sự nghiệp một đời. Khổng Tử thì là sự
nghiệp của vạn đời”.

Sang đời Nam Tống, nét nổi bật nhất của hoạt động Nho giáo là sự chú giải cuốn
sách kinh điển do Chu Hy tiến hành. Tất cả các trước tác về các tài liệu kinh điển của
Khổng Khâu, Tăng Sâm, Mạnh Kha đều được Chu Hy chú giải kỹ. Dù không có sự
sáng tạo đặc sắc gì. Song, thầy Chu cũng đã được đánh giá rất cao, triều đình kén chọn
nhân tài cũng đã áp dụng một số phương pháp lấy các trước tác của Chu Hy làm căn cứ
đối chiếu.
Khi nhà Minh đã giành lại được ngôi hoàng đế về người tộc Hán đã tạo điều kiện
cho nhiều nhà Nho nổi lên. Tuy vậy, con đường hoạt động của Nho giáo chủ yếu vẫn là
con đường giảng dạy thi cử theo tinh thần “học không chán, dạy không mỏi” và theo
phương châm “học giỏi thì làm quan, làm quan giỏi thì học”. Đến đầu thế kỷ XVI, Nho
giáo mới có một bước phát triển mới, một trường phái mới khác với trường phái Hán
Nho và Tống Nho.
Ngọn cờ nổi lên trên bước phát triển này là Vương Thủ Nhân, tự Bá An và thường
có tên gọi quen thuộc hơn là Vương Dương Minh. Là người vừa nổi tiếng về mặt khoa
giáp vừa là một vị tướng lập nhiều võ công xuất sắc. Vương Dương Minh đã có ưu thế
về học thuật lại có ưu thế về kinh nghiệm các mặt và đã đưa đạo lý Nho giáo đi đến
chỗ có một số nét mới độc đáo. Với Vương Dương Minh, rõ ràng Nho giáo có bước
tiến lên tuy không thật sự thoát ra khỏi những vòng lẩn quẩn bế tắc từ trước. Nói đây là
những bước tiến thì cũng phải nói thêm ngay rằng hướng tiến lên ở đây lại là hướng
duy tâm nhất nguyên, duy tâm cực đoan. Có thể khẳng định rằng học thuyết của Vương
Dương Minh là học thuyết duy tâm triệt để nhất ở Trung Quốc. Vương cũng nói, cũng
nói trời và cũng nói sự và vật nhưng cho rằng tất cả đều là tâm: “Tâm tức là đạo, đạo
tức là trời, biết tâm thì biết đạo, biết trời” (Tâm tức đạo, đạo tức thiên, tri âm tắc tri
đạo, tri thiên). Vương còn nói: “Ngoài tâm, không có lý, ngoài tâm, không có sự” và
chủ tể của thân là tâm, tâm phát ra chính là ý, bản thể của ý tức là trị, chỗ sở tại của ý
chính là vật”. Cho nên “học của thánh nhân là tâm học” (thánh nhân chi học giã chi học
dã) nắm được tâm cũng là nắm được tri, biết được đạo, biết được trời, biết được sự vật.
Tâm vốn hoàn toàn sáng, tâm học nhằm đạt tới lương tri (trí lương tri) và đã “trí lương
SVTH: Dương Thị Bích


Trang 21

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

tri” thì cũng đồng thời “cách vật được” nghĩa là “hành” được, làm cho đạo trở thành
cuộc sống hiện thực. Từ đó Vương Dương Minh xây dựng thuyết “biết và làm hợp
nhất”. Theo thuyết ấy, biết là khởi đầu của làm, làm là thành quả của biết, đạo học của
thánh chỉ có một công phu, biết và làm không thể chia làm hai được”. Nhưng rốt cuộc
tâm học của Vương Dương Minh đã không làm mờ được lý của Tống Nho.
Tóm lại, Nho giáo thời Tống – Minh có mấy đặc điểm chính sau đây:
Thứ nhất, đây là thời kỳ Nho giáo đạt đến đỉnh cao và chiếm được vị trí độc tôn
hơn lúc nào hết.
Thứ hai, Nho giáo thời Tống – Minh được bổ sung thêm phần bản thể luận triết
học trên lập trường duy tâm, có sự pha trộn của Tam giáo (Nho, Phật, Lão) và kế thừa
những tư tưởng đặc sắc của thời kỳ cổ đại, được phân làm hai phái: phái Lý học do
Chu Hy và Trình Hạo, Trình Di đại diện; phái Tân học do Lục Cửu Uyên và Vương
Thủ Nhân đại diện.
1.2.4. Nho giáo thời kỳ đầu nhà Thanh
Cuối đời Minh, triều đình phong kiến mục nát, dân tình đói khát, cơ cực bởi áp
lực nặng nề và thiên tai triền miên. Nhân cơ hội rối loạn và suy sụp của nhà Minh,
người Mãn Thanh tràn vào Trung Nguyên thôn tính tộc Hán, lập ra nhà Thanh. Phản
ánh tình hình xã hội đầy biến động ấy, trên lĩnh vực tư tưởng xuất hiện nhiều nhà triết
học duy vật tiến bộ, chống lại Lý học duy tâm của Tống Nho và chế độ chuyên chế
phong kiến.
Nét nổi bật của Nho giáo giai đoạn đầu của nhà Thanh là xu hướng “Thực học”

phát triển.
Phê phán mạnh mẽ sự khắt khe và tính chất viễn vong, kinh viện của Lý học
Trình – Chu và Tâm học Lục – Vương, các nhà triết học đầu nhà Thanh chủ trương
“Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, đòi hỏi việc nghiên cứu học thuật phải gắn
với hiện thực đời sống xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho quốc kế dân sinh. Từ đó
hình thành trường phái “thực học” lấy việc sửa trị việc đời làm mục đích và đã sản sinh
ra nhiều nhà triết học lừng danh như Hoàng Tông Hy, Vương Phu Chi, Đới Chấn,
Nhan Nguyên…

SVTH: Dương Thị Bích

Trang 22

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

Tóm lại, Nho giáo hình thành và phát triển qua nhiều thời đại lịch sử, giai đoạn
sau đều có những đặc điểm khác biệt so với những giai đoạn trước. Tuy nhiên, nét
chung nhất của Nho giáo đó là học thuyết chính trị - đạo đức bàn về con người, về đạo
làm người, chủ trương dùng “nhân trị”, “đức trị” để tổ chức nhà nước và quản lý xã
hội. Trong quan niệm của Nho giáo, chính trị và đạo đức thường thống nhất và gắn kết
với nhau. Thậm chí nhà nghiên cứu Cao Xuân Huy cho rằng, cả thế giới quan Nho giáo
cũng nhuốm màu luân lý, Nho giáo đã “luân lý hóa cả vũ trụ, cả thượng đế” trong học
thuyết đạo đức – chính trị của nó [7.tr.152].
1.3. Nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo:
Đạo đức Nho giáo gồm một hệ thống các phạm trù nhất quán, chặt chẽ, nhất quán

và có liên quan mật thiết với nhau. Tam cương, ngũ thường là nội dung cơ bản của đạo
đức Nho giáo, nó chi phối mọi suy nghĩ và hành động của con người. Giáo sư Vũ
Khiêu cho rằng: “Tam cương” là nền tảng tư tưởng của đạo đức Nho giáo, còn “Ngũ
thường” là giá trị đạo đức cao nhất của Nho giáo. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét những
biểu hiện của đạo đức Nho giáo qua Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
1.3.1. Nhân
Trong thuyết Nho giáo, cụ thể là trong Luận ngữ chúng ta thấy chữ “nhân” được
nhắc đến nhiều lần và trở thành tư tưởng cốt lõi của đạo đức Nho giáo. Theo Nho gia,
đức lý tưởng này bao hàm trong nó mọi đức tốt đẹp khác. Người có đức “Nhân” đồng
nghĩa với người hoàn thiện nhất nên “nhân” là nghĩa rộng nhất của đạo làm người.
“Nhân” được coi là tiêu chuẩn cao nhất trong đạo làm người.
Đạo làm người có hàng ngàn, hàng vạn điều nhưng quy chung lại chỉ là những
điều đối với mình và đối với người khác, nên “nhân” có thể hiểu là cách cư xử với
mình và cách cư xử với người.
Đối với mình: “Trước hết phải làm những việc khó, sau hưởng thành quả mới có
thể gọi là nhân” [9,tr.199]. Khác với những người “bất nhân” – những người không
cam chịu cảnh khốn quẫn và cũng không thể hưởng lâu dài cảnh khoái lạc – người
“nhân” sẵn sàng sống trong cảnh vui vẻ dù bất kì hoàn cảnh nào, dù đấy là vinh hoa
hay đói nghèo, túng thiếu, vì đối với người “nhân” cái cao cả nhất là “đức nhân” của
mình.
SVTH: Dương Thị Bích

Trang 23

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên


Người sáng lập ra Nho giáo đã đề cập đến nhiều biểu hiện khác nhau của đức
nhân, song, chung quy lại “Người có đức nhân là người phải nghiêm trang, tề chính,
rộng lượng, khoan dung; đức tín, lòng thành; siêng năng, cần mẫn; bố đức, thi ân”
“Nghiêm trang, tề chỉnh sẽ làm người khác không dám khinh nhờn; rộng lượng, khoan
dung sẽ làm người khác bị thu phục; đức tín, lòng thành sẽ làm người khác phải tin
cậy; thi ân, bố đức sẽ làm người khác bị sai khiến và cần mẫn, siêng năng sẽ đem lại
nhiều điều bổ ích” [Luận ngữ].
Đối với người: nguyên tắc suốt đời người có đức nhân phải theo là “ái nhân”
(thương yêu người khác). Khổng Tử dạy: “Người nhân muốn tự lập lấy mình thì cũng
phải lo tập cho người, muốn thành đạt cho mình thì cũng phải lo thành đạt cho người.
Người nhân ứng xử với mình thế nào cũng phải ứng xử với người khác như thế”
[9,tr.211-212].
Tất nhiên, theo Nho gia không phải bất kì ai người nhân cũng phải thương yêu,
đùm bọc. Đạo lý của xã hội luôn luôn là tiêu chuẩn để người nhân phân định, đánh giá,
tỏ thái độ của mình đối với người khác.
Đánh giá vai trò của đức nhân, Khổng Tử cho rằng: Nếu tâm con người luôn
hướng về đức nhân thì không bao giờ con người nghĩ đến chuyện phản loạn, miệng
không nói những điều sàm bậy và thân không dấn vào việc ác. Chính vì vậy, đối với
dân, đức nhân cần thiết hơn cả lửa, nước và đối với những người cầm quyền, đức nhân
như một thành trì vững chắc để giữ gìn và bảo vệ những gì họ đạt được.
Như vậy, “Nhân” là phạm trù quan trọng nhất, cơ bản nhất trong đạo đức Nho
giáo. Nhân là cái đích tu dưỡng của Nho học. Song, Nhân chỉ dừng lại ở nguyên tắc
mang tính phổ quát. Cái cụ thể của nguyên tắc này là “Hiếu”.
Chữ “hiếu” được người Trung Quốc nói đến rất sớm. Những bản kim văn như Đại
Khắc Đỉnh, Trung Đôn, Quốc Khương Ân, Đỗ Bá Sở đã đề cập đến “Hiếu”. Kinh thi
cũng nói về trung hiếu, khắc hiếu…Ở đây chữ hiếu đã đề cập đến quan hệ giữa người
với người, song, nó thuộc đời sống chính hệ, nó như sợi dây nối liền bề dưới với bề
trên, nối liền con người với tổ tiên, thần thánh; còn “hiếu” với tính cách là chuẩn mực
đạo đức, như các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã khẳng định, đến đời Khổng Tử mới

hoàn toàn rõ nét.
SVTH: Dương Thị Bích

Trang 24

MSSV: 6076584


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên

Theo Khổng Tử, Hiếu có lúc là cội nguồn của Nhân và cũng có lúc Hiếu với
Nhân là một. Sách Luận ngữ có ghi lại lời Hữu Tử phản ánh tư tưởng Hiếu là cội
nguồn của Nhân như sau: “Bậc quân tử luôn chú vào việc gốc. Cái gốc vững vàng thì
đạo lý từ đó mà sinh ra. Hiếu đễ chính là cái gốc của đức nhân đó chăng?” [9,tr.6].
Sách Luận ngữ cũng ghi: có lần Tể Ngã hỏi Khổng Tử: “Cái tang ba năm tưởng nên
thâu lại một năm cũng đã là dài rồi. Người quân tử ba năm chẳng tập lễ thì sự học lễ
của mình ắt hư hỏng, ba năm chẳng tập nhạc thì nhạc ắt cũng lụi bại. Vả lại lúa trọn
năm thì lúa cũ đã ăn hết, lúa mới đã gặt xong, những cây lúa lửa cũng đã dùng hết cả.
Vậy nên để tang một năm là cũng được rồi”. Khổng Tử lại hỏi: “Trong khi chưa mãn
tang ba năm, mà ăn gạo thơm, mặc áo ấm thì người có an lòng chăng?”…Này, bậc
quân tử khi cư tang dẫu ăn đồ ngon cũng không biết mùi vị, dẫu nghe nhạc hay cũng
chẳng thấy vui…
Tể Ngã lui ra. Khổng Tử than rằng: “trò Dư là người bất nhân”.
Hiếu theo Khổng Tử là vô vi, vô cải.
Như vậy, nếu Nhân là đức cao nhất của con người và nếu thực chất của nhân là
hiếu thì hiếu trở thành ý nghĩa lớn lao của cuộc sống.
Tóm lại, Nhân chính là đạo làm người. Đạo làm người rất sâu rộng, vừa xử thế
vừa là tu nhân, tức là cả đối với mình và đối với người, nói vắn tắt chính là “trung”

“thứ”. Đó là những điều theo Nho giáo là hợp với đạo trời và lòng người. Nếu Nhân
thể hiện tình cảm sâu sắc giữa con người với con người thì Nghĩa là trách nhiệm để
thực hiện tình cảm đó.
1.3.2. Nghĩa
Với nội dung và ý nghĩa sâu rộng như trên, nhân không chỉ bao hàm hiếu đễ,
trung tín mà còn gốm cả đức “nghĩa”. Tư tưởng nhân nghĩa đã được các thế hệ nhà
Nho nối tiếp nhau bàn rất sâu sắc, rất kỹ và trở thành một giá trị đạo đức truyền thống
mang tính nhân văn sâu sắc của người Trung Hoa.
Theo Khổng Tử, “nghĩa” được hiểu trước hết là lẽ phải, là việc cần phải làm về
mặt đạo đức. Ông cho rằng người quân tử thấy điều gì đáng làm, hợp nghĩa thì cứ làm
mà không cần tính toán lợi hay hại cho bản thân. Khổng Tử đã từng nói: “Bậc quân tử
làm việc cho đời, không có việc gì người cố ý làm, không có việc gì người cố ý bỏ, hễ
SVTH: Dương Thị Bích

Trang 25

MSSV: 6076584


×