Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

ĐẢNG bộ TỈNH AN GIANG LÃNH đạo CÔNG tác dân vận TRONG THỜI kỳ đổi mới (2006 2010)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (963.38 KB, 62 trang )

Luận văn tốt nghiệp

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

-----o0o-----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:

ĐẢNG BỘ TỈNH AN GIANG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
DÂN VẬN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (2006-2010)

Sinh viên thực hiện:
Hồ Ngọc Thanh Dung
MSSV:6077777
Lớp: SP.GDCD- K33

Giáo viên hướng dẫn:
Th.S Hồ Thị Quốc Hồng

Cần Thơ, 05/2011

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 1

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài............................................................................... 1
2.Tình hình nghiên cứu đề tài............................................................... 2
3.Mục đích nghiên cứu......................................................................... 2
4.Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................... 2
5.Phương pháp nghiên cứu đề tài.......................................................... 3
6.Đóng góp của đề tài........................................................................... 3
7.Kết cấu của đề tài .............................................................................. 3
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................................ 4

1.1. Khái niệm về dân vận và công tác dân vận .................................... 4
1.2.Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về công tác dân vận ............. 4
1.3.Tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác dân vận............................. 9
1.4.Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân vận....... 12
CHƯƠNG II: ĐẢNG BỘ TỈNH AN GIANG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN
VẬN TRONG THỜI KỲ HIỆN NAY (2006-2010) ................................... 18

2.1. Vài nét về đất và người An Giang .................................................. 18
2.2. Thực trạng công tác dân vận của Đảng bộ An Giang thời gian trước 2006
............................................................................................................... 19
2.3. Vai trò của Đảng bộ An Giang trong công tác dân vận thời kỳ đổi mới
giai đoạn (2006-2010) .......................................................................... 23
2.3.1. Nhu cầu tất yếu đặt ra ................................................................. 23
2.3.2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng bộ An Giang................................. 25
2.4.Quá trình thực hiện công tác dân vận của Đảng bộ An Giang trong thời kỳ
đổi mới (2006-2010) ............................................................................ 29
2.5. Một số giải pháp và bài học kinh nghiệm ...................................... 49


GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 2

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................ 55

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 3

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Gần 25 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, vị thế của đất nước ngày càng được
nâng cao trên trường quốc tế. Bộ mặt thành thị, nông thôn có nhiều đổi mới, đời
sống của nhân dân thay đổi rõ rệt; dân chủ trong Đảng, trong xã hội mở rộng; lòng
tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước ngày càng thêm vững chắc. Kết quả đó thể
hiện sự lãnh đạo vững vàng, đường lối đổi mới đúng đắn cũng như công tác vận
động tập hợp quần chúng năng động của Đảng ta.
Song, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc

tế hiện nay cũng đang đặt ra cho công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác dân
vận nói riêng nhiều vấn đề cần nghiên cứu làm rõ để tiếp tục đổi mới, đáp ứng yêu
cầu của thời kỳ mới hiện nay.
Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ An Giang luôn xem
công tác dân vận là trọng yếu và thường xuyên cần đảm bảo thực hiện tốt trong mọi
lúc mọi nơi ở An Giang hiện nay. Vì An Giang là tỉnh có đường biên giới giáp với
Vương quốc Campuchia, có đồng bào dân tộc Kinh, Hoa, Chăm, Khmer sinh sống
nên công tác dân vận phải được triển khai thực hiện một cách mạnh mẽ để có thể
đáp ứng được những yêu cầu của thời kỳ mới hiện nay trong đó có việc chống lại
chiến dịch “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch bên ngoài.
Mặc dù, công tác dân vận của tỉnh trong thời gian qua đã đạt được những kết quả
khả quan, hầu hết nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc, tôn giáo đều thực hiện tốt
chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Thế nhưng, vẫn còn đại đa số người dân vẫn
chưa hiểu hết những chính sách của Đảng và chủ trương, pháp luật của Nhà nước, do
nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do công
tác dân vận vẫn chưa được thực hiện quán triệt từ khắp địa phương. Là một người
dân sinh ra và lớn lên trên mảnh đất An Giang, nhận thức được tầm quan trọng của
công tác dân vận trong việc phát triển kinh tế và ổn định chính trị của địa phương nói
riêng và cả nước nói chung. Do đó, em quyết định chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh An
Giang lãnh đạo công tác dân vận trong thời kỳ đổi mới (2006 – 2010) làm đề tài luận
văn tốt nghiệp của mình.

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 4

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp


2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Trong thời gian qua đã có rất nhiều bài viết nghiên cứu về vấn đề dân vận và
công tác dân vận, như:
- “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới của
Nguyễn Thị Cận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; nói về quyền hạn và lợi ích
của dân trong bài báo dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- “Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”; trình bày vai trò của công tác
dân vận, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công.
- “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận vào việc thực hiện đại
đoàn kết dân tộc, của Bùi Đình Phong, Tạp chí cộng sản, 2003; trình bày về vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận vào việc thực hiện chính sách đại
đòan kết dân tộc, công tác dân vận góp phần quan trọng vào việc thực hiện chính
sách đại đoàn kết dân tộc.
- “Công tác dân vận của cơ quan Nhà nước trong thời kỳ mới”, chủ biên
Nguyễn Tiến Thinh, Nxb Tư Pháp, 2005; trình bày về nội dung, hình thức, kinh
nghiệm ở một địa phương về công tác dân vận ở chính quyền.
- “Thái độ và phong cách cán bộ dân vận” của Phạm Văn Tản,Tạp chí dân vận.
2000; trình bày về nội dung phẩm chất người cán bộ dân vận, vì công tác dân vận
thành công hay không là do ở cán bộ tốt hay xấu.
Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết về công tác dân vận. Tuy nhiên, các bài viết chỉ
nói về công tác dân vận chung của cả nước, không có tính đặc thù của một địa
phương cụ thể. Đề tài em nghiên cứu về công tác dân vận ở An Giang (2006 –
2010) dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh. Nhưng, những bài viết trên là nguồn tư
liệu quý báu để em kế thừa trong quá trình làm luận văn của mình.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn:
Nhằm khẳng định vai trò quan trọng của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp
đổi mới của đất nước, đồng thờì tìm hiểu rõ hơn công tác vận động quần chúng của
Đảng bộ An Giang theo chủ trương của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới.
4. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn



Đối tượng nghiên cứu

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 5

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

Nghiên cứu vai trò của Đảng bộ An Giang trong công tác vận động quần chúng
thời kỳ đổi mới, và quá trình thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước của Đảng
bộ tỉnh An Giang trong giai đoạn 2006 -2010 về việc vận động quần chúng nhân
dân.


Nhiệm vụ nghiên cứu

 Làm rõ quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, của tư tưởng Hồ Chí Minh,
của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác vận động quần chúng.
 Làm rõ vai trò của Đảng bộ An Giang trong công tác dân vận thời kỳ đổi mới
giai đoạn 2006-2010.
 Làm rõ kết quả đạt được của Đảng bộ tỉnh trong công tác dân vận.
 Rút ra bài học kinh nghiệm và giải pháp cho công tác dân vận của tỉnh trong
những năm tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ nội dung của đề tài, tôi đã sử dụng chủ yếu phương pháp lịch

sử, logic và các phương pháp phối hợp khác như: phương pháp phân tích, tổng hợp,
phương pháp tra cứu sách vở, phương pháp tìm kiếm thông tin trên mạng của tạp
chí cộng sản, tạp chí dân vận.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu việc Đảng bộ tỉnh An Giang lãnh đạo công tác dân vận
trong thời kỳ đổi mới, góp phần làm rõ hơn việc quán triệt chủ trương của Đảng và
Nhà nước về công tác vận động quần chúng. Giúp chúng ta thấy được tầm quan
trọng của quần chúng trong sự nghiệp CNH-HĐH, đổi mới đất nước. Rút ra được
bài học kinh nghiệm và đưa ra những biện pháp kịp thời tiến bộ hơn trong việc nâng
cao và đổi mới chất lượng công tác vận động quần chúng, để thực hiện tốt mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, chống lại âm mưu phá
hoại của kẻ thù.
7. Kết cấu của luận văn: Gồm có 3 phần
Ngoài phần mở đầu và kết luận. Luận văn có 2 chương, 11 tiết, 58 trang

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 6

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm về dân vận và công tác dân vận
Theo Hồ Chí Minh: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người
dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân để thực hành
những công việc nên làm, những công việc chính phủ và đoàn thể giao cho". [28,

tr4]
Còn theo TS, Phó Vụ trưởng Vụ đoàn thể, Ban dân vận Trung ương Võ Thị
Mai thì Dân vận là tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục mọi người dân
thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Dân vận còn có nghĩa là làm gương trước dân. Nói theo nghĩa thông thường thì, dân
vận là công tác dân vận của các tổ chức dân vận của Đảng, chính quyền, đoàn thể
trong hệ thống chính trị nói chung và của cả hệ thống xã hội nói riêng. Nói tóm lại,
mục tiêu cao nhất của dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là vì dân. Do đó,
mọi hành động của chúng ta phải vì dân và mang lại hiệu quả thiết thực cho dân.
Công tác dân vận được xem là công việc (hay còn gọi là nhiệm vụ chính trị)
của các tổ chức đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội cần phải làm tròn
trước Đảng và nhân dân. Ví dụ như, công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực
hiện tốt đạo đức, tác phong, lối sống văn hóa, văn minh... theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VI cũng chỉ rõ: “Các cấp ủy
từ Trung ương đến cơ sở phải nắm vững và làm đúng chức năng lãnh đạo của mình
bằng phương pháp dân chủ, kiên quyết khắc phục tình trạng bao biện công việc của
Nhà nước, của các đoàn thể quần chúng”. Công tác dân vận trong thời kỳ đổi mới là
công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục mọi người dân thực hiện các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đáp ứng yêu
cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. [42, tr 2]
1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về công tác dân vận
Vấn đề chính quyền cách mạng của giai cấp vô sản làm công tác quần chúng,
Mác và Ăngghen đề cập chưa nhiều và chưa cụ thể, vì các ông chỉ chứng kiến sự ra

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 7

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung



Luận văn tốt nghiệp

đời và tồn tại của Công xã Pari trong một thời gian ngắn ngủi. Tuy nhiên, những tư
tưởng chung, tổng quát của Mác và Ăngghen về vai trò quần chúng nhân dân và về
công tác vận động quần chúng, trong đó có những tư tưởng liên quan đến vấn đề
chính quyền với công tác dân vận, vẫn là những tư tưởng rất khoa học, phù hợp với
lịch sử và ngày nay vẫn mang tính thời sự, vẫn là kim chỉ nam cho mọi việc nghiên
cứu và thực hành công tác dân vận.
Mác và Ăngghen đánh giá cao vai trò, lực lượng và khả năng của giai cấp bị áp
bức trong xã hội có đối kháng giai cấp. Giai cấp đó là lực lượng sản xuất lớn nhất
trong tất cả các lực lượng sản xuất của xã hội. Giai cấp đó có bản chất cách mạng
“Là một khối đông đảo quần chúng cách mạng đang làm cách mạng”. Giai cấp đó là
“những yếu tố vật chất” không thể thiếu của một cuộc cách mạng toàn diện. “Nếu
không có những yếu tố vật chất ấy của một cuộc cách mạng toàn diện... thì như lịch
sử của chủ nghĩa cộng sản đã chứng tỏ, ý niệm về cuộc cách mạng đó có được phát
biểu hàng trăm lần đi nữa, cũng hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì đối với sự phát triển
thực tế cả''.
Theo Mác – Ăngghen, quần chúng nhân dân đóng vai trò đặc biệt quan trọng là
có thể chuyển hóa những tư tưởng, lý luận cách mạng thành hiện thực cách mạng và
những cuộc cách mạng, có vai trò cực kỳ to lớn, như Mác đã từng khẳng định cách
mạng là “những đầu tàu của lịch sử”.
Như vậy quần chúng nhân dân không những là lực lượng sản xuất cơ bản của
xã hội, trực tiếp sáng tạo ra mọi của cải vật chất của xã hội, mà còn là người quyết
định vận mệnh của lịch sử, có sứ mệnh phá đi cái cũ lạc hậu, dựng nên cái mới tiến
bộ. Lịch sử xã hội phát triển, có những bước quanh co phức tạp, nhiều khi hỗn loạn,
nhưng rồi lại ổn định theo một trật tự nào đó. Và điều đó chính là nhờ hoạt động của
quần chúng, như Ăngghen đã từng nói: “Quần chúng là những người đã đưa được
mọi việc trở lại nề nếp”.
Tuy nhiên, quần chúng nhân dân là một khối đông đảo, không thuần nhất gồm

nhiều giai cấp và tầng lớp khác nhau, có đặc điểm và vị trí, vai trò khác nhau. Mác
– Ăngghen chú trọng trước hết giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử “là

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 8

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản”, cho nên trong quá trình cách mạng vô sản, “
bản thân quần chúng công nhân là điểm tựa tốt nhất”. [33, tr 676]
Ăngghen viết: “Các bạn hãy cố gắng làm cho thanh niên ý thức được rằng giai
cấp vô sản trí thức phải hình thành từ hàng ngũ sinh viên, bên cạnh và trong hàng
ngũ những người bạn của nó – các công nhân thủ công nghiệp – giai cấp ấy có sứ
mệnh phải đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng sắp tới...Sự nghiệp giải
phóng công nhân đòi hỏi phải có những bác sĩ, kỹ sư, nhà hóa học, nông học và các
chuyên gia khác, vấn đề là ở chỗ giành chính quyền lânh đạo không phải chỉ bộ
máy chính trị, mà còn phải toàn bộ nền sản xuất xã hội nữa, và ở đây cần đến những
kiến thức vững chắc, chứ không phải là những luận điệu huyênh hoang, rỗng tuyếch
[34, tr552 – 553].
Bên cạnh giai cấp công nhân, Mác – Ăngghen đặc biệt quan tâm đến nông dân
với vị trí, vai trò rất quan trọng: “là một nhân tố rất cơ bản của dân cư, của nền sản
xuất và của chính quyền”. [34, tr 563]
Các ông cho rằng nếu chính quyền vô sản xác định được lập trường đối với
nông dân thì sẽ có mọi tiêu điểm để xác định được thái độ của mình đối với những
thành phần khác trong dân cư. Ăngghen khẳng định lập trường và hành động đối
với nông dân “ một khi chính quyền đã về tay chúng ta” thể hiện ở hai điểm:

Một là, mặc dù thấy trước rằng tiểu nông không tránh khỏi bị tiêu vong, nhưng
tuyệt nhiên không có nhiệm vụ làm cho tiểu nông mau đi đến chỗ tiêu vong.
Hai là, không thể nghĩ đến dùng bạo lực để tước đoạt tiểu nông (dù có hoặc
không có bồi thường cũng vậy) như đã phải tước đoạt đối với bọn địa chủ.
Theo Mác và Ăngghen, Đảng và chính quyền giai cấp vô sản rất cần thiết phải
tiến hành công tác vận động quần chúng, vì:
Một là, quần chúng nhân dân có lực lượng và có khả năng to lớn, mà cách
mạng vô sản muốn bảo đảm thắng lợi lâu dài cần phải tranh thủ: “Những người xã
hội chủ nghĩa càng ngày càng hiểu rõ rằng họ không thể thu được thắng lợi lâu dài,
nếu trước đó không tranh thủ được đông đảo quần chúng nhân dân” [34, tr 618].
Hai là, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng chính bản thân quần
chúng cũng có những hạn chế về nhận thức, cần phải được tuyên truyền giáo dân để

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 9

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

hiểu rõ mục đích lý tưởng và trách nhiệm của mình: “Ở nơi nào mà vấn đề đặt ra là
phải cải tạo hoàn toàn tổ chức xã hội, thì bản thân quần chúng phải tự mình tham
gia vào công cuộc cải tạo ấy, phải tự mình hiểu rõ là vấn đề gì, vì sao mình phải
tham gia vào công cuộc cải tạo ấy, với cả thể xác lẫn sinh mệnh của mình. Đó là
điều mà lịch sử trong 50 năm gần đây đã dạy chúng ta. Nhưng muốn cho quần
chúng hiểu rõ là phải làm gì thì phải tiến hành một công tác lâu dài kiên nhẫn” [33,
tr 617]. Ăngghen còn nhận xét rằng, ngay cả ở Pari, sau thắng lợi, chính những
quần chúng vô sản cũng còn tuyệt đối chưa có một ý niệm gì rõ ràng về con đường

phải đi theo. Do đó, công tác giáo dân, vận động quần chúng vẫn phải được tiếp tục.
Ba là, quần chúng đông đảo là những người hăng hái nhiệt tình cách mạng,
nhưng cách mạng là một quá trình lâu dài, gian khổ, khó khăn có những lúc tạm
thời thất bại, khiến cho quần chúng nhiều khi mệt mỏi, thậm chí thất vọng. Vì vậy
vần phải thường xuyên tiến hành công tác vận động quần chúng vì lợi ích thực sự
của chính quần chúng. Trong lời nói đầu đấu tranh giai cấp ở Pháp, Ăngghen khẳng
định: “Tinh thần cách mạng của quần chúng hầu như luôn luôn rất nhanh chóng
nhường chỗ cho sự mệt mỏi hay thậm chí cho sự chuyển sang một hướng ngược lại
khi mà ảo tưởng đã bị tiêu tan mà niềm thất vọng đã nảy sinh. Nhưng vấn đề ở đây
không phải là những bề ngoài giả dối mà trái lại là sự thực hiện những lợi ích đặc
biệt nhất của chính quyền, những lợi ích từ lúc bấy giờ chưa được đại đa số quần
chúng nhận rõ, trong quá trình thực hiện thực tế” [38, tr 603].
Lý luận của Lênin về vấn đề chính quyền (không tách rời Đảng cầm quyền)
làm công tác vận động quần chúng, so với lý luận của Mác – Ăngghen, đã có sự mở
rộng, phát triển và cụ thể hơn.
Lênin cho rằng, trong những thời kỳ cách mạng, quần chúng nhân dân tỏ ra là
người tích cực sáng tạo ra những trật tự xã hội mới, có thể làm được những kỳ công.
Trong những lúc như thế, các nhà lãnh đạo “ cần phải biết đề ra các nhiệm vụ của
mình một cách rộng lớn hơn và mạnh bạo hơn; cần phải làm sao cho những khẩu
hiệu của họ luôn đi trước được tính chủ động cách mạng của quần chúng, chỉ rõ tất
cả sự đẹp đẽ và cao quý của lý tưởng dân chủ xã hội chủ nghĩa của chúng ta,chỉ rõ

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 10

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp


con đường thẳng nhất và ngắn nhất để đi tới thắng lợi hoàn toàn, tuyệt đối quyết
định” [38, tr 131].
Lênin cho rằng Đảng lãnh đạo và chính quyền giáo dân, tuyên truyền để thu
hút quần chúng một cách toàn diện những tầng lớp rộng rãi nhất dù trình độ của họ
như thế nào để họ tham gia vào tất cả các công việc hoạt động xã hội, tự giác và
cách mạng. “ Nhất thiết phải công tác ở bất cứ nơi nào có quần chúng. Phải biết tự
nguyện chịu mọi hy sinh, vượt qua mọi trở ngại lớn nhất để tiến hành công tác
tuyên truyền và cổ động có hệ thống, bền bĩ, dẻo dai và nhẫn nại, chính ngay trong
các cơ quan, các hội, các tổ chức- thậm chí phản động nhất – nghĩa là bất cứ nơi nào
có quần chúng vô sản hay nữa vô sản” [40, tr 47].
Lênin chỉ rõ liên minh công – nông có vai trò hết sức quan trọng để tập hợp đa
số dân cư, “bảo đảm cho chính quyền một sự ủng hộ vững chắc” [30, tr 315]. Và
điều kiện để xây dựng được chế độ xã hội chủ nghĩa là “ khi quần chúng đông đảo
gấp 10 lần, gấp 100 lần trước tự bắt tay vào việc xây dựng nhà nước và đời sống
kinh tế mới” [41, tr 523]
Lênin cho rằng cách thức tuyên truyền vận động quần chúng là phải biết chỉ
dẫn và giải thích cụ thể cho quần chúng biết rõ những khó khăn, phải dùng hết tinh
thần nghị lực vượt qua để thực hiện từng nhiệm vụ cụ thể. Đó cũng chính là nguyên
nhân thắng lợi của Đảng, của chính quyền Xô viết: “Nguyên nhân những thắng lợi
của chúng ta là ở chỗ Đảng và chính quyền Xô viết đã chỉ ra cho quần chúng lao
động thấy hết mọi khó khăn trước mắt và nhiệm vụ trước mắt; đã biết giải thích cho
quần chúng hiểu vì sao lúc này phải dồn hết sức cố gắng cho mặt này, lúc khác lại
dồn hết sức cố gắng cho mặt kia của công tác Xô viết; đã biết phát huy nghị lực,
tinh thần anh dũng và nhiệt tình của quần chúng, tập trung sức cố gắng cách mạng
cao độ vào nhiệm vụ trước mắt, quan trọng nhất” [39, tr 346].
Lênin đã nhiều lần chỉ ra nguy cơ xa rời quần chúng đối với một đảng cầm
quyền và chính quyền cách mạng. Người cho rằng nếu Đảng và chính quyền Xô
viết quên mất và tự cắt đứt những mối liên hệ khắng khích với quần chúng thì đó
chính là một trong những nguy hiểm lớn nhất, đáng sợ nhất và là một tai họa thật

sự. Vì vậy, theo Lênin để đảm bảo cho sự nghiệp đi đến thắng lợi hoàn toàn, Đảng

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 11

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

và chính quyền cách mạng không được xa rời quần chúng mà thường xuyên vẫn
phải:
“Liên hệ với quần chúng
Sống trong lòng quần chúng
Biết tâm trạng quần chúng
Biết tất cả
Hiểu quần chúng
Biết đến với quần chúng
Giành được lòng tin tuyệt đối của quần chúng” [41, tr 608].
Từ thực tế đời sống và yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, của công tác vận
động quần chúng, Lênin đã chỉ rõ phương châm làm công tác vận động quần chúng
một cách có hiệu quả là: “Phải sống sâu vào đời sống công nhân, phải biết tường tận
đời sống công nhân, biết xác định một cách chắc chắn bất cứ trong vấn đề nào,
trong lúc nào tâm trạng của quần chúng, những nhu cầu những ý nghĩa thật sự của
họ, biết nhận định rõ mà không mãi may lý tưởng hóa trình độ giác ngộ của họ và
sức mạnh ảnh hưởng của những thiền kiến hay những tàn dư nào của quá khứ, biết
chiếm được lòng tin cậy vô bờ bến của quần chúng bằng một thái độ ái hữu đối với
họ, bằng cách quan tâm thỏa mãn nhu cầu của họ” [41, tr 426].
Lênin khẳng định rằng liên hệ với quần chúng, là làm tốt công tác vận động

quần chúng, là một nguyên nhân bảo đảm uy tín của Đảng: “Uy tín của Đảng sở dĩ
duy trì được là do tín nhiệm của giai cấp công nhân. Mà tín nhiệm của giai cấp công
nhân không phải do bạo lực mà có được – bạo lực chỉ có thể phá hoại sự tín nhiệm
đó thôi – mà phải do lý luận đúng đắn của Đảng, chính sách đúng đắn của Đảng, do
lòng trung thành của Đảng đối với giai cấp công nhân, do mối liên hệ giữa Đảng
với quần chúng giai cấp công nhân, do Đảng có tự nguyện và có năng lực thuyết
phục quần chúng tin vào khẩu hiệu đúng đắn của mình không” [38, tr 52 – 53].
1.3. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác dân vận
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh – Vị lãnh tụ vĩ đại, người thầy, kính yêu của
Đảng, dân tộc ta và nhân dân ta luôn hết sức quan tâm, coi trọng công tác dân tộc và
vận động nhân dân. Bài viết “Dân vận” của Bác đăng trên báo “Sự thật” ngày

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 12

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

15/10/1949 thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác
vận động nhân dân nhất là các dân tộc trong đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Trong bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những quan điểm, tư
tưởng, phương châm, nội dung và mục tiêu công tác vận động nhân dân rất sâu sắc,
có tính chỉ đạo chiến lược. Trước hết, Bác khẳng định vai trò cực kỳ to lớn, quan
trọng của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, Bác luôn cho
rằng: Sự nghiệp cách mạng là của toàn dân, phải lấy dân làm điểm xuất phát, mọi
lực lượng và sức mạnh đều ở trong nhân dân. Dân vận là “vận động lực lượng ở mỗi
người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng của toàn dân”, là

làm cho dân được làm chủ, được hưởng quyền dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “ Nước lấy dân làm gốc, gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi
trên nền nhân dân” [25,tr 50]. “Lực lượng của nhân dân rất to, việc dân vận rất quan
trọng, dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành
công.”.
Suốt chặng đường dài lãnh đạo nhân dân đấu tranh cách mạng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh kính yêu luôn kiên định phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân. Luôn luôn
dựa vào dân, một lòng một dạ phục vụ nhân dân. Quần chúng nhân dân là người
làm nên lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng “là việc chung của cả dân
chúng chứ không phải việc của một hai người”. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu của
cách mạng phải dựa vào dân, làm tốt công tác truyên truyền vận động nhân dân phát
huy sức mạnh của toàn dân, thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng, của
Chính phủ,tức là biết làm tốt công tác “vận động quần chúng” - “dân vận khéo”. Cả
cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn phấn đấu cho quyền lợi
của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Bác luôn tin tưởng ở dân. Theo tư tưởng của
Bác: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân; bao nhiêu quyền hạn đều của dân; công việc đổi
mới, xây dựng là trách nhiệm của dân; sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công
việc của dân; chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra, đoàn thể
từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều
ở nơi dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Sự nghiệp cách mạng là của dân, do
dân và vì dân nên luôn chăm lo, củng cố cái “Gốc” để xây dựng Đảng, chính quyền

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 13

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp


vững mạnh. Kiên quyết đấu tranh với các hiện tượng làm tổn hại đến mối quan hệ ,
gắn bó giữa Đảng với nhân dân. Đảng đã xây dựng được căn cứ địa cách mạng
vững chắc của mình trong lòng dân nên đã huy động được sức mạnh của toàn dân
tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo Bác, để phát huy vai trò, trí tuệ, khả năng to lớn, quan trọng của quần
chúng nhân dân, nhất là nhân dân các dân tộc trong sự nghiệp kháng chiến kiến
quốc, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng, Nhà nước, cũng như mọi cán bộ, đảng viên của Đảng muốn tổ chức,
lãnh đạo được nhân dân thì phải biết làm tốt công tác giáo dân, tuyên truyền, hướng
dẫn, giúp đỡ và vận động quần chúng nhân dân thực hiện tốt mọi chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Giúp họ hiểu được đầy đủ, sâu sắc
về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của người công dân đối với Đảng, với Tổ
quốc và dân tộc, từ đó giúp họ tích cực, chủ động, tự giác, tự nguyện phấn đấu và
cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Trước hết, phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi
người dân hiểu rõ rằng: việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng
hái làm cho kỳ được. Điểm thứ hai, là bất kỳ việc gì đều phải bàn với dân, cùng với
dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực
với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành”.
Bác khẳng định: “Trách nhiệm đối với công tác dân vận, công tác vận động
quần chúng là công việc thường xuyên của Đảng, của Nhà nước. Song, trước hết và
chủ yếu là trách nhiệm thường xuyên của từng tổ chức Đảng, của cán bộ, của Đảng
viên. Bác viết: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên
của các tổ chức nhân dân đều phải phụ trách dân vận”. Quan điểm này của Bác còn
giúp cho mọi tổ chức Đảng, cán bộ, Đảng viên nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích
cực chủ động, sáng tạo để luôn có biện pháp vận động quần chúng phù hợp, thiết
thực có hiệu quả.
Theo Bác, để làm tốt công tác dân vận, công tác vận động quần chúng nhất là ở
những vùng dân tộc thiểu số, nhằm phục vụ thắng lợi sự nghiệp cách mạng, mỗi tổ


GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 14

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

chức Đảng, mỗi cán bộ, Đảng viên phải có phương pháp, tác phong công tác dân
vận khoa học, sâu sát, tỉ mỉ và thiết thực.
Tuyệt đối không được làm công tác vận động quần chúng một cách qua loa, đại
khái, giản đơn; nhất là phải tránh những biểu hiện: “lời nói không đi đôi với việc
làm; nói một đằng làm một nẻo, hoặc đánh trống bỏ dùi”. Bác chỉ rõ: “Những người
phụ trách công tác dân vận cần phải có óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng
nói, tay làm, chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật
thà nhúng tay vào việc”. Phải: “hiểu được nguyện vọng của dân, hiểu tâm lý của
dân, học sáng kiến của dân. Nhưng có việc dân không muốn mà phải làm như tản
cư, nộp thuế, những việc ấy phải giải thích cho dân rõ. Phải tôn kính dân, phải làm
cho dân tin, phải làm gương cho dân, muốn cho dân phục phải được dân tin, muốn
cho dân tin phải thanh khiết” [23, tr 55].
Đồng thời, trong công tác vận động quần chúng, cần kiên quyết phê phán và
khắc phục những nhận thức và những hành động sai lầm như:
 Xem khinh công tác dân vận;
 Làm sai chỉ thị của Chính phủ;
 Xa rời dân, không hiểu dân;
Chỉ dùng mệnh lệnh, thậm chí ép uổng, cưỡng bức, bắt bớ, không biết tuyên
truyền cổ động. “Cái lối làm việc nhu thế chỉ có hại, nó làm cho chúng ta không đi
sát phong trào, không hiểu rõ tình hình bên dưới, cho nên phần nhiều những chủ

trương của chúng ta không thi hành được đến nơi đến chốn”. Do đó, mỗi cán bộ phụ
trách công tác dân vận phải tận tụy với công việc, làm với tất cả tấm lòng của mình,
chứ không phải làm để lấy lệ, làm để đối phó. Tất cả phải vì nhân dân mà phục vụ,
vì “cán bộ là đầy tớ của nhân dân” .
1.4. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân vận trong
thời kỳ đổi mới.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn luôn chú trọng đến công tác dân
vận, nhằm đoàn kết, tập hợp, tuyên truyền, vận động quần chúng thành lực lượng
đông đảo, tham gia các phong trào cách mạng. Vừa mới ra đời, Đảng ta đã lãnh đạo
phong trào cách mạng 1930- 1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh, tiếp đó là các phong trào

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 15

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

Mặt trận dân chủ Đông Dương, Mặt trận phản đế, Mặt trận Việt Minh…Thông qua
các phong trào, Đảng ta đã xây dựng, phát triển lực lượng chính trị ngày càng đông
đảo, hùng hậu và phong phú với đầy đủ các thành phần, giai cấp, tôn giáo, dân tộc,
tầng lớp nhân dân, kết hợp với lực lượng vũ trang, chớp thời cơ làm nên thắng lợi
của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, giành độc lập tự do cho Tổ Quốc
xây dựng nhà nước công- nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Giai đoạn 1945- 1975, công tác dân vận của Đảng đã góp phần quan trọng
trong việc tuyên truyền, vận động, tổ chức những phong trào cách mạng rộng lớn và
sôi động nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân làm nên những chiến
thắng vẻ vang, những chiến công hiển hách thu non sông về một mối, đưa cả nước

đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội V, Đảng ta tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của công tác vận
động quần chúng. Sau đó, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương đã ban hành các
Chỉ thị, Nghị quyết chỉ đạo công tác quan trọng này: ngày 18/04/1983, Ban Bí thư
Trung ương Đảng khóa V ra Chỉ thị số 17-CT/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. Chỉ thị nêu rõ: trong cơ chế Đảng lãnh
đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ
chức chính trị - xã hội rộng lớn nhất, vừa có tính liên hiệp rộng rãi, vừa có tính quần
chúng sâu sắc…là sợi dây nối liền các tầng lớp xã hội rộng rãi với Đảng, là chỗ dựa
vững chắc của Nhà nước, được xây dựng trên cơ sở công nông liên minh dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Chỉ thị số 53 ngày 28/11/1984 của Ban Bí thư về tăng cường
công tác quần chúng của Đảng.
Đại hội VI của Đảng mở ra thời kỳ đổi mới đất nước, trong đó có công tác dân
vận. Đại hội đã rút ra bốn bài học lớn, trong đó có bài học quan trọng là: “ Trong
toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “ lấy dân làm gốc”; xây
dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động; phải đặc biệt chăm lo củng
cố mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân” [17, tr 354]. Hội nghị lần thứ VIII BCH
Trung ương( khóa VI) đã ban hành Nghị quyết Trung ương 8B “về đổi mới công tác
quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Nghị
quyết đã đề ra 4 quan điểm chỉ đạo: một là, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 16

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp


và vì dân; hai là, động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết
thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ
công dân; ba là, các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng; bốn là, công tác quần
chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể. Ngày 27/3/1990 Hội
nghị lần thứ VIII BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam( khóa VI) đã ra Nghị
quyết về “ Đổi mới công tác vận động quần chúng của Đảng, tăng cường mối liên
hệ giữa Đảng và nhân dân”. Về yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với công tác quần chúng, Nghị quyết nêu rõ: Phải làm sao để nhân dân cảm
nhận được Đảng bảo vệ lợi ích cho dân và quyền làm chủ của dân được Đảng tôn
trọng và phát huy.
Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã rút ra năm bài học lớn, trong đó có bài học
“ Sự nghiệp cách mạng là của dân, do dân và vì dân” ; “Không ngừng củng cố, tăng
cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết
quốc tế” [18, tr 349]. Hội nghị lần thứ III BCH Trung ương (khóa VII) đã ban hành
Nghị quyết về một số nhiệm vụ đổi mới, chỉnh đốn Đảng, trong đó chỉ rõ trách
nhiệm của các tổ chức Đảng là phải quan tâm chăm lo công tác dân vận và mọi
Đảng viên điều phải làm công tác dân vận, hệ thống chính quyền có trách nhiệm
dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần đổi mới tổ chức, phương
thức hoạt động cho phù hợp với tình hình đổi mới của đất nước.
Tại Đại hội VIII, Đảng ta đã xác định phải thực hiện phương châm “ Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước [19, tr 327]. Bộ Chính trị BCH Trung ương (khóa VIII) đã ban
hành Chỉ thị số 30 – CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Chỉ thị này là một chủ trương đúng đắn hợp lòng dân, được ban hành đúng lúc, đáp
ứng sự mong đợi của nhân dân, được nhân dân hưởng ứng rộng rãi, đi vào cuộc
sống. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, Đảng, Nhà nước, các cấp ủy Đảng tiếp
tục có những văn bản nhằm lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn công tác tổ chức, vận
động quần chúng, nhân dân. Bám sát nội dung chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương
lần thứ III (khóa 8), các cơ quan dân cử, đại biểu của nhân dân phát huy tinh thần


GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 17

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

trách nhiệm trong công việc xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh. Cải tiến
cách thức để nhân dân tham gia thảo luận và đóng góp ý kiến vào các dự án luật,
các dự thảo nghị quyết quan trọng của Đảng và Nhà nước thật sự thiết thực và có
hiệu quả; tránh làm hình thức tràn lan, tốn kém. Làm tốt công tác dân vận gắn với
công tác quản lý, điều hành của chính quyền, có nghĩa là làm tốt công tác vận động,
thuyết phục để nhân dân hiểu và tham gia mọi hoạt động của chính quyền; biết đặt
quyền lợi của nhân dân lên trên hết, thực hiện dân chủ, chấp hành đầy đủ với tính
sáng tạo khi vận dụng các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước một cách
có hiệu quả nhất. Kết hợp với biện pháp quản lý hành chính, biện pháp kinh tế để
không ngừng củng cố bộ máy chính quyền vững mạnh, chăm lo xây dựng đời sống
nhân dân được nâng cao. Đúng như Bác Hồ nói: “Dân vận khéo thì việc gì cũng
thành công”.
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân là đường lối
chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị [20, tr
248]. Hội nghị lần thứ VII BCH Trung ương ( khóa IX) đã ban hành ba Nghị quyết:
về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh; về công tác dân tộc ; về công tác tôn giáo. Đây là
những Nghị quyết rất quan trọng thể hiện sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, cụ
thể, thiết thực đối với công tác vận động quần chúng, đối với từng giai cấp, tầng

lớp, dân tộc, tôn giáo. Việc không ngừng đổi mới, hoàn thiện các chính sách cụ thể
đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo đã góp phần quan trọng
vào dân chủ hóa xã hội và thành công của công tác dân vận những năm qua.
Đảng ta luôn luôn quan tâm tăng cường bộ máy, tổ chức, cán bộ làm công tác
vận động quần chúng. Ngay từ khi được thành lập, trong điều kiện vô cùng thiếu
thốn, khó khăn, nguy hiểm, các đảng viên của Đảng đã lăn lộn trong phong trào
quần chúng; gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân che chở, bảo vệ, giúp đỡ.
Trong tất cả các thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã cử những đồng chí cán bộ có phẩm
chất, năng lực, uy tín, trưởng thành từ phong trào quần chúng phụ trách công tác
dân vận của Đảng. Hệ thống bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ làm công tác tham

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 18

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

mưu, vận động quần chúng ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, hoạt động ngày
càng có hiệu quả, nề nếp. Ngày 17/3/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã quyết
định thành lập Ban Dân vận Trung ương, “là cơ quan tham mưu chiến lược về công
tác dân vận”. Ngày 9/7/1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có Quyết định yêu
cầu “Phải kiện toàn Ban Dân vận Trung ương và tỉnh, thành phố; ở cấp huyện, lập
Khối Dân vận do đồng chí ủy viên Ban thường vụ phụ trách; phải có chính sách đãi
ngộ thỏa đáng đối với cán bộ dân vận và cán bộ đoàn thể”. Ngày 25/5/2000 Ban Tổ
chức Trung ương - Ban Dân vận Trung ương ban hành hướng dẫn 01 “Về chức
năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ của Ban Dân vận địa phương”.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng khẳng định “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên

nền tảng liên minh giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng
là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ
yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [21, tr 357]. Để đáp ứng kịp thời yêu cầu, nhiệm vụ
của giai đoạn cách mạng hiện nay, “đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”, công tác dân vận của Đảng cần được
tăng cường hơn nữa, trước hết góp phần thực hiện tốt một số nội dung, nhiệm vụ
sau đây:
Một là, quán triệt và thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của
quần chúng nhân dân.
Hai là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Ba là, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, thực hành dân chủ, chăm lo lợi ích,
phát huy nhân tố con người phải trở thành mục tiêu hàng đầu của công tác vận động
quần chúng.
Bốn là, không ngừng đổi mới hình thức và phương pháp vận động quần chúng
phù hợp với đặc điểm tình hình mới, từng đối tượng, điều kiện cụ thể.
Năm là, công tác vận động quần chúng nhân dân là nhiệm vụ của tất cả các
cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị.

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 19

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ
đoàn thể và tất cả các hội viên của tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh,…) đều
phụ trách Dân vận”. Ngày nay, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ đã và đang vận hành có kết quả trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến
cơ sở.
Sáu là, quan tâm xây dựng, kiện toàn Ban Dân vận các cấp, các ngành, xây
dựng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác vận động quần chúng.

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 20

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

CHƯƠNG II. ĐẢNG BỘ TỈNH AN GIANG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
DÂN VẬN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (2006- 2010)
2.1. Vài nét về đất và người An Giang
An Giang là tỉnh nằm ở phía Tây Nam của Tổ quốc, thuộc vùng Đồng bằng
Sông Cửu Long, phía Tây Bắc giáp với Vương quốc Campuchia, phía Đông giáp
với tỉnh Đồng Tháp, Phía Nam giáp với thành phố Cần Thơ và phía Tây Nam giáp
với tỉnh Kiên Giang, với thế mạnh là trồng lúa và nuôi thủy sản, ngoài ra An Giang
còn có nhiều ngành nghề khác như cơ khí, thương mại dịch vụ, công nghiệp xây
dựng và một số làng nghề truyền thống. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 3,536.76 km2
dân số là 2.217.488 người, 455.901 hộ, đây là tỉnh có dân số đông nhất ở khu vực
Đồng bằng Sông Cửu Long, có đường biên giới dài hơn 100km; dân số nông thôn
chiếm khoảng 87%, có khoảng 13% ở thành thị. Hằng năm, ở An Giang lượng mưa
cũng khá lớn đây cũng là điều kiện quan trọng để phá triển nông nghiệp. Tỉnh An

Giang gồm có 01 thành phố trực thuộc tỉnh, 02 thị xã và 08 huyện. Là tỉnh đầu
nguồn của hai con sông Tiền và sông Hậu nên vùng đất An Giang hàng năm luôn
được phù sa của hai con sông này bồi đắp làm cho đất đai ở đây màu mỡ và trù phú,
nhưng cũng với hai con sông này làm cho người dân cũng khốn khổ vô cùng, với
lượng nước hàng năm gây nên lũ lụt, sạt lỡ đất, dịch bệnh gây mất mùa, cho nên
cuộc sống người dân ở đây cũng hết sức khó khăn nhất là những người nông dân vì
họ chủ yếu sống bằng nghề nông. Mặt khác, An Giang còn có nhiều vùng đất đai bị
nhiễm phèn nặng, không thể phát triển kinh tế bền vững và nhanh chóng như các
vùng khác làm cho mức độ phát triển kinh tế của tỉnh không được đồng đều. Ngoài
ra, cơ sở hạ tầng của tỉnh cũng còn yếu kém, kinh rạch còn chằng chịt, giao thông đi
lại cũng còn khó khăn, đã tác động không nhỏ đến sự nghiệp phát triển kinh tế của
địa phương. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh vẫn còn chậm, lao động
thiếu việc làm, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo còn khá cao, ảnh hưởng đến mục tiêu
phát triển chung của tỉnh nói riêng và của cả nước nói chung. [15, tr 1-3]
Ngoài ra, do có 4 dân tộc anh, em sinh sống đó là Kinh, Hoa, Chăm, Khơmer
nên ở An Giang các cộng đồng dân tộc sống vừa xen kẽ với nhau vừa tập trung ở
các cụm dân cư, cơ cấu dân số và phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc không

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 21

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

đồng đều và chênh lệch khá xa. Đồng bào dân tộc Khmer có 18.512 hộ, 86.592
người, chiếm tỷ lệ 75,54% so tổng số người dân tộc thiểu số và chiếm 3,9% so tổng
dân số toàn tỉnh; trong đó có 16.838 hộ với dân số khoảng 80.000 người (chiếm gần

92% tổng số dân tộc Khmer toàn tỉnh) sống tập trung ở 2 huyện miền núi: Tri Tôn
và Tịnh Biên, số còn lại sống rải rác ở các huyện: Châu Phú, Châu Thành, Thoại
Sơn, người Khmer có bản sắc văn hóa truyền thống riêng, độc đáo, được lưu trữ lâu
đời và gắn liền với tập tục sinh hoạt tôn giáo, Phật giáo Nam Tông là đạo chinh
thống; bản tính cần cù , chăm chỉ sáng tạo trong lao động, chất phác giàu lòng yêu
thương quê hương, làng xóm, kính trọng và gần gũi với các vị sư sãi, sống gắn bó
với chùa chiền, phum sóc, xem chùa chiền là nơi gửi gấm tâm linh, nhưng đời sống
kinh tế vùng đồng bào Khmer còn chậm phát triển chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi
gia đình và làm thuê mướn theo thời vụ. Đồng bào dân tộc Chăm có 2.660 hộ,
13.722 người, chiếm tỷ lệ gần 12% so tổng số người dân tộc thiểu số và chiếm
0,62% so tổng dân số toàn tỉnh, sống tập trung khá đông ở huyện An Phú và thị xã
Tân Châu, số còn lại sống rải rác ở các huyện: Phú Tân, Châu Phú và Châu Thành.
Hầu hết đồng bào Chăm theo đạo Hồi, có mối quan hệ với tín đồ Hồi giáo các nước
Ả Rập, Malaysia, Indonesia, Campuchia. Nguồn thu nhập chính nghề bằng nghề
chài lưới, buôn bán nhỏ và dệt thủ công truyền thống. Còn đồng bào dân tộc Hoa có
2.839 hộ, 14.318 người, chiếm tỷ lệ 12,50% so tổng số người dân tộc thiểu số và
chiếm 0,65% tổng dân số toàn tỉnh. Đại bộ phận sống ở thành phố, thị xã, thị trấn,
thị tứ, có mối quan hệ chặt chẽ với người Hoa trong vùng và nhiều nước trên thế
giới, chủ yếu làm nghề kinh doanh, dịch vụ thương mại, tập trung thành cộng đồng
ở các khu vực trung tâm thị trấn,thị xã, bản sắc văn hóa có đặc thù riêng tổ chức
thành cộng đồng, đồng bào Hoa có truyền thống đoàn kết tương trợ trong cộng đồng
giúp nhau vượt qua khó khăn, kinh doanh thành đạt và làm giàu, cần cù, chịu khó,
năng động nhạy bén trong thương mại, trọng chữ tín trong kinh doanh; chú trọng
việc tôn tạo chùa chiền, đình miếu, tuy nhiên trong bộ phận đồng bào Hoa còn tư
tưởng an phận, ngại tham gia các tổ chức chính trị xã hội. [45, tr1]
2.2. Thực trạng công tác dân vận của Đảng bộ An Giang thời gian trước
2006

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng


Trang 22

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

Công tác dân vận ở tỉnh ta trong các cấp ủy những năm qua đã có sự chuyển
biến rõ nét, quan tâm lãnh đạo chỉ đạo bằng chủ trương, chính sách cụ thể nhằm
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tốt hơn.
Các cấp ủy tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo và tăng cường công tác dân
vận của Đảng, từ đó, đã tạo được sự chuyển biến , nâng cao hiệu quả công tác vận
động quần chúng trong hệ thống chính trị, lòng tin của nhân dân đối với Đảng và
chế độ được củng cố. Các phong trào hành động cách mạng của quần chúng, khối
đại đoàn kết toàn dân không ngừng được tăng cường, dân chủ được phát huy, kinh
tế - xã hội phát triển, an ninh trật tự được giữ vững.
Chuyển tải được các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước đến tận người dân, làm cho nhân dân hiểu và nắm được các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời tổ chức động viên nhân dân tự giác
thực hiện thắng lợi các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các nghị
quyết, quy định của chính quyền địa phương.
Tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân phát huy dân chủ, tập trung thực
hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực của nhân dân
như: xóa đói giảm nghèo, thực hiện tốt các chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội gắn với củng cố quốc phòng - an ninh; tuyên truyền, giáo dục, động viên
nhân dân thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng được
củng cố và tăng cường; việc xây dựng lực lượng cốt cán ở cơ sở ngày càng được
nâng chất; từng bước củng cố và kiện toàn các Ban chỉ đạo “ Thực hiện Quy chế
dân chủ cơ sở”, “Xây dựng đời sống văn hóa”, công tác tôn giáo,…tỉnh đã ban hành
chính sách hỗ trợ hàng tháng đối với cán bộ công tác Mặt trận, chi hội các đoàn thể

ở khóm, ấp và chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cho cán bộ chuyên trách ở
cơ sở. Từ đó, đã tạo sự phấn khởi, nâng cao hiệu quả công tác đối với cán bộ làm
công tác vận động quần chúng ở địa bàn dân cư.
Cấp ủy các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo giải quyết có hiệu quả các vụ việc
phức tạp liên quan đến tình hình dân tộc, tôn giáo; các vụ tranh chấp, khiếu kiện kéo
dài. Quan tâm lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện hội nhập, gắn với

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 23

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn; cùng với việc thực hiện đồng bộ các
giải pháp kiềm chế tăng giá, lạm phát và an sinh xã hội.
Các cấp chính quyền lãnh đạo điều hành các chương trình trọng điểm về phát
triển kinh tế, phòng chống dịch bệnh, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo; định
kỳ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với dân liên quan đến các vụ việc khiếu kiện về đất
đai, đền bù giải tỏa, tái định cư, công tác hòa giải ở cơ sở. Chỉ đạo cải cách hành
chính theo hướng đơn giản thủ tục, nâng cao tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ,
đáp ứng tốt thủ tục, yêu cầu của người dân. Mối quan hệ phối hợp giữa chính quyền
với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể ngày càng được gắn bó chặt chẽ,
mang lại hiệu quả thiết thực.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, các hội quần chúng có
nhiều đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đa dạng hóa hình thức tập hợp
quần chúng, chủ động hơn trong công tác vận động, tuyên truyền nhân dân chấp
hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Các phong trào

thi đua yêu nước, nổi bật là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư”, đến nay toàn tỉnh có 405.774 hộ gia đình văn hóa (trong đó có
12.950 hộ dân tộc Khmer) đạt 89% so với tổng số hộ; 632 khóm, ấp văn hóa (đạt
80,2%); 23 xã văn hóa (đạt 14,94%); 1.712 cơ quan, đơn vị trường học văn hóa, 18
chùa Khmer văn hóa. Mặt khác, tổ chức thực hiện nghiêm túc Quy chế dân chủ cơ
sở, tạo điều kiện cho dân biết, dân bàn, dân kiểm tra; qua đó đã huy động nhân dân
đóng góp hơn 193 tỷ đồng, xây dựng hàng ngàn công trình hạ tầng cơ sở: cầu,
đường, điện, trạm xá, công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp. Xây dựng “Quỹ vì
người nghèo”, “Cây mùa xuân”,…đã vận động hơn 67,3 tỷ đồng hỗ trợ cho 217.000
lượt hộ nghèo khó khăn, cất mới và sửa chữa 8.085 nhà đại đoàn kết. Thông qua các
dự án và nguồn vốn gần 520 tỷ đồng để giúp cho 175.000 lượt hộ vay sản xuất, giải
quyết việc làm 80.000 lao động, góp phần tích cực vào chương trình xóa đói giàm
nghèo của địa phương.
Các chính sách về tôn giáo, dân tộc đã được các cấp, các ngành quan tâm triển
khai và tạo điều kiện để hoạt động tôn giáo diễn ra đúng giáo luật và pháp luật.
Thường xuyên tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho các cơ sở thờ tự, các chức sắc, tín đồ

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 24

SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


Luận văn tốt nghiệp

tôn giáo trong các dịp lễ trọng đại, cũng như kịp thời giải quyết các nhu cầu chính
đáng của tôn giáo.
Các tổ chức đoàn thể thường xuyên quan tâm củng cố, nâng chất hoạt động;
xây dựng tổ chức đoàn, hội trong sạch, vững mạnh. Kết quả, đã giới thiệu cho Đảng

xét và kết nạp 2.925 đảng viên; bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho 10.000 lượt
cán bộ. Hiện toàn tỉnh có hơn 1.000.000 đoàn viên, hội viên, chiếm 42% dân số
trong độ tuổi. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế nhất định như:
- Một số nơi nhất là cơ sở, cấp ủy Đảng thiếu sự quan tâm lãnh đạo, còn có tư
tưởng khoán trắng công tác vận động quần chúng cho khối dân vận và các đoàn thể,
chưa thật sự quân tâm kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nhiệm vụ; công tác,
bộ máy cán bộ làm công tác dân vận, mặt trận đoàn thể còn gặp khó khăn, nhất là
vùng đồng bào dân tộc.
- Phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chuyển biến
chậm, chưa sâu; cơ cấu hội viên, đoàn viên trong tôn giáo - dân tộc còn mỏng chưa
đáp ứng yêu cầu.
- Công tác dân vận của các cơ quan chính quyền một số nơi chưa đáp ứng yêu
cầu, một bộ phận cán bộ, công chức trong các cơ quan Nhà nước chưa làm tốt công
tác dân vận trong thực hiện nhiệm vụ.
- Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhất là cấp cơ sở gặp khó khăn về công tác tổ
chức bộ máy, lực lượng cán bộ chuyên trách còn yếu, thiếu kinh nghiệm trong công
tác vận động quần chúng, ngại khó khăn, trình độ, điều kiện phương tiện hoạt động
còn nhiều hạn chế. Công tác giáo dục chính trị, giác ngộ lý tưởng cho đoàn viên, hội
viên quần chúng nhân dân còn chưa được quan tâm đúng mức, một bộ phận nhân
dân còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại sự giúp đỡ của Nhà nước, ý thức làm chủ chưa
tốt, chưa hăng hái tham gia các phong trào hành động cách mạng của địa phương;
còn nhẹ dạ cả tin nghe theo bọn xấu. Công tác tuyên truyền pháp luật chưa đáp ứng
yêu cầu, không ít những phát sinh, diễn biến xấu trong xã hội chưa phát hiện, xử lý
kịp thời.
- Công tác Dân vận chính quyền ở một số cơ quan có mối quan hệ với dân
chưa thật sự quán triệt quan điểm vận động quần chúng, vẫn còn một số cán bộ,

GVHD: Hồ Thị Quốc Hồng

Trang 25


SVTH: Hồ Ngọc Thanh Dung


×