Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, viên chức nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh cà mau hiện nay (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.19 KB, 69 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới mà Đảng và nhân ta tiến hành trong hơn hai thập niên qua đã
và đang đạt được những thành tựu to lớn. Việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đưa
đất nước ta thoát khỏi tình trạng trì trệ và khủng hoảng kéo dài. Việc vận hành cơ chế thị
trường đã và đang tạo ra sự biến đổi căn bản về mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Sự
biến đổi sâu sắc trong đời sống vật chất xã hội trong đó có đạo đức.
Kinh tế thị trường với mặt tích cực của nó đã làm cho xã hội nói chung và tỉnh
Cà Mau nói riêng trở nên năng động, phát triển. Cán bộ, đảng viên và quần chúng đã có
bước trưởng thành trong nền kinh tế thị trường. Năng lực cá nhân và năng lực xã hội
được đề cao và đang tiếp tục được trao dồi, rèn luyện để thích ứng, tồn tại và phát triển
trong thời đại mới. Song mặt trái của cơ chế thị trường nhiều biểu hiện tiêu cực về mặt
đạo đức đã và đang phát sinh đã ảnh hưởng không tốt đến quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trước biến động phức tạp trên thế giới và tình hình trong nước còn gặp nhiều
khó khăn, một bộ phận cán bộ, viên chức nhà nước và nhân dân nói chung và tỉnh Cà
Mau nói riêng có những biểu hiện dao động giảm sút niềm tin, nhận thức mơ hồ và lệch
lạc đối với chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội.
Xử lý pháp luật chưa nghiêm, kém hiệu lực và hiệu quả không ít những biểu hiện
nhu nhược, yếu kém của tổ chức, cơ quan có trọng trách thi hành, bảo vệ pháp luật, sự
hư hỏng thoái hóa của một bộ phận cán bộ, viên chức có chức, có quyền. Nguyên tắc
bình đẳng trước pháp luật không được thực hiện nghiêm minh. Tình trạng đó chẳng
những làm suy yếu thể chế, quyền làm chủ và nguyên tắc công bằng xã hội bị vi phạm,
mà còn tạo ra mảnh đất dung dưỡng cho những hành vi phản đạo đức, những cái ác, cái
xấu, cái giả, phi nhân tồn tại và phát triển. Môi trường đạo đức và nhân văn xã hội bị đe
dọa nghiêm trọng.
Giáo dục đạo đức, văn hóa đạo đức, nhất là giáo dục đạo đức truyền thống ở tỉnh
Cà Mau bị xem nhẹ. Đồng tiền lên ngôi, lối sống vụ lợi, thực dụng, tôn thờ các giá trị
vật chất, sự trổi vậy của chủ nghĩa cá nhân cực đoan…đã lấn át và làm xói mòn các giá
trị tinh thần, làm hủy hoại đạo đức, nhân cách. Thực tế cho thấy, tỉnh Cà Mau hiện nay

1




sự phát triển không đồng bộ giữa rèn luyện đạo đức nhân cách với sự phát triển xã hội,
nó làm cho con người thờ ơ trước cái thiện, dửng dưng trước cái ác.
Hậu quả này là do xem nhẹ giáo dục đạo đức gây nên mà giờ đây xã hội nói
chung tỉnh Cà Mau nói riêng đang phải hứng chịu, phải trả giá đắt. Phát triển có nguy cơ
biến thành phản phát triển bởi sự coi thường đạo đức và các giá trị nền tảng của đạo đức
xã hội khi đi vào kinh tế thị trường.
Mất mát tiền của vật chất là to lớn; mất mát về đạo đức, về các giá trị tinh thần
còn lớn hơn, nhất là sự xuất hiện nguy cơ khủng hoảng tinh thần, mất phương hướng lựa
chọn giá trị - niềm tin vào lối sống của một bộ phận cán bộ, viên chức và thế hệ trẻ.
Hiện trạng suy giảm đạo đức của cán bộ, viên chức đã và đang gây nhất nhối
trong tỉnh Cà Mau hiện nay làm cho lòng dân không yên, tiềm ẩn những mất mát ổn
định. An ninh xã hội và an toàn cuộc sống đang bị đe dọa. Đây thực sự là một hiểm họa
đối với sự phát triển lâu bền của tỉnh Cà Mau trong tương lai.
Tình huống đạo đức xã hội như vậy, không thể không đòi hỏi chúng ta phải suy
nghĩ nghiêm túc và đánh giá với tinh thần phê phán về tình hình đạo đức trong Đảng,
trong đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước ở tỉnh Cà Mau nói riêng và đạo đức xã hội nói
chung. Đã đến lúc chúng ta phải nghiên cứu, đánh giá và tìm kiếm những giải pháp để
nâng cao đạo đức.
Chúng ta phải nhận thức rằng để xây dựng một nền đạo đức mới, đạo đức cách
mạng cho cán bộ, viên chức và thể hệ trẻ luôn là vấn đề sống còn đối với bất cứ xã hội
nào, thời đại nào. Công nghệ dù hiện đại, con người dù tài giỏi đến đâu nếu có tài mà
không có đức cũng là người vô dụng. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh công tác xây dựng,
nâng cao đạo đức cách mạng trong mọi tầng lớp của xã hội đặt biệt đối với cán bộ, viên
chức nhà nước là những cánh tay đắc lực của Đảng, của nhà nước. Trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Cà Mau hiện nay rất cần những đội ngũ cán bộ, viên chức
nhà nước có phẩm chất đạo đức cách mạng biết hy sinh lợi ích của bản thân vì lợi ích
chung. Chính vì những lí do trên nên tôi quyết định chọn đề tài: “Vấn đề nâng cao đạo
đức cách mạng cho cán bộ, viên chức nhà nước trong nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Cà Mau hiện nay” để làm đề tài nghiên cứu luận văn
tốt nghiệp cho bản thân mình.

2


2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, viên
chức nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Cà Mau
hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: đạo đức của cán bộ, viên chức nhà nước ở tỉnh Cà Mau
trong giai đoạn hiện. Từ đó đề ra những giải pháp để nâng cao đạo đức cách mạng cho
cán bộ, viên chức nhà nước ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: mục đích của luận văn nhằm rút ra bài học trong việc nâng cao đạo
đức cách mạng cho cán bộ, viên chức nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Cà Mau nói riêng và cả nước nói chung.
- Nhiệm vụ: để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Những vấn đề lý luận chung về đạo đức cách mạng.
Thứ hai: Thực trạng đạo đức của cán bộ, viên chức nhà nước ở tỉnh Cà Mau và
những giải pháp định hướng nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, viên chức
nhà nước ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu, trình bày luận văn của mình.
Đồng thời tôi còn sử dụng hệ thống các phương pháp như: logic và lịch sử, phân tích và
tổng hợp, đối chiếu và so sánh, diễn dịch và quy nạp để nghiên cứu vấn đề nâng cao đạo
đức cách mạng cho cán bộ, viên chức nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 2
chương và 9 tiết.

3


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
1.1. Khái niệm đạo đức, đạo đức cách mạng
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Từ góc độ của triết học, với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những
tư tưởng đạo đức học đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây trong triết học Trung Quốc,
Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại.
Danh từ đạo đức học bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) - lề thói, (moralis
nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Còn “luân lí” thường xem như đồng nghĩa
với “đạo đức” thì gốc ở chữ Hy Lạp là Êthicos nghĩa là lề thói; tập tục. Hai danh từ đó
chứng tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến những lề thói tập tục và biểu hiện
mối quan hệ nhất định giữa người với người trong sự giao tiếp hàng ngày.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại bắt
nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo là một trong những phạm trù quan trọng
nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường, đường đời, về sau
khái niệm đạo đức được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo
còn có nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội.
Khái niệm đạo đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn đời nhà Chu và từ đó trở đi
nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức
tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như
vậy có thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những
nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Ngày nay, đạo đức được được định nghĩa như sau:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc,

chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh đánh giá và cách ứng xử của con người trong quan
hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức
mạnh của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Như vậy, đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội.

4


Xã hội học trước Mác không thể giải quyết một cách khoa học vấn đề nguồn gốc
và thực chất của đạo đức. Nó xuất phát từ “mệnh lệnh của thượng đế”, “ý niệm tuyệt
đối, lý tính trừu tượng”, bản tính bất biến của loài người,…chứ không xuất phát từ điều
kiện sinh hoạt vật chất xã hội, từ quan niệm xã hội hiện thực để suy ra toàn bộ lĩnh vực
tư tưởng trong đó có tư tưởng đạo đức.
Theo Mác và Ăngghen, trước khi sáng lập các thứ lý luận và nguyên tắc, con
người đã hoạt động, tức là đã sản xuất ra các tư liệu vật chất cần thiết cho đời sống. Ý
thức xã hội của con người là phản ánh tồn tại xã hội của con người. Các hình thái ý thức
xã hội khác nhau tùy theo phương thức phản ánh tồn tại và tác động riêng biệt đối với
đời sống xã hội. Đạo đức cũng vậy, nó là hình thái ý thức xã hội phản ánh một lĩnh vực
riêng biệt trong tồn tại xã hội của con người. Và cũng như các quan điểm triết học,
chính trị, nghệ thuật, tôn giáo điều mang tính chất của kiến trúc thượng tầng. Chế độ
kinh tế - xã hội là nguồn gốc của quan điểm về đạo đức con người.
Đạo đức là một phương thức để điều chỉnh hành vi của con người. Loài người đã
sáng tạo ra nhiều phương thức để điều chỉnh hành vi con người; phong tục, tập quán, tôn
giáo, pháp luật, đạo đức…Đối với đạo đức, sự đánh giá hành vi con người theo khuôn
phép và chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành những khái niệm thiện và ác,
vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Bất kỳ trong thời đại lịch sử nào, người ta điều
được đánh giá như vậy. Các khái niệm về thiện ác, khuôn phép và quy tắc hành vi của
con người thay đổi từ thế kỷ này sang thể kỷ khác, từ dân tộc này sang dân tộc khác. Và
trong xã hội có giai cấp thì bao giờ cũng biểu hiện lợi ích của một giai cấp nhất định.

Những khuôn phép và quy tắc đạo đức là yêu cầu của xã hội hoặc của một giai cấp nhất
định đề ra cho hành vi mỗi cá nhân. Nó bao gồm hành vi của cá nhân đối với xã hội và
đối với người khác.
Những chuẩn mực và quy tắc đạo đức phải được xã hội hay một giai cấp, dân tộc
thừa nhận. Đã là một thành viên của xã hội, con người phải chịu sự giáo dục nhất định
về ý thức đạo đức, một sự đánh giá đối với hành vi của mình và trong hoàn cảnh nào đó
còn chịu sự khiển trách của luơng tâm. Cá nhân phải chuyển hóa những đòi hỏi của xã
hội và những biểu hiện của chúng thành nhu cầu, mục đích trong hoạt động của mình.
Biểu hiện của sự chuyển hóa này là hành vi cá nhân tuân thủ những ngăn cấm, những

5


khuyến khích, những chuẩn mực phù hợp với những đòi hỏi của xã hội…Do vậy sự điều
chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, và xét về bản chất, đạo đức là sự lựa chọn của con
người.
1.1.2. Đạo đức cách mạng
Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy
định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. Phẩm chất tốt đẹp
của con người do tu dưỡng theo chuẩn mực đạo đức mà có.
Đạo đức cách mạng là đạo đức mới. Đạo đức cách mạng là đạo đức của những
tiến tiến - những người dám hy sinh lợi ích của mình vì quyền lợi chung của dân tộc,
của cộng đồng. Đạo đức cách mạng là tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng Cộng sản, cho
chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc sống phát triển xã hội nói chung và lịch sử phát triển đạo đức nói
riêng đã tồn tại các kiểu đạo đức khác nhau phản ánh trình độ phát triển xã hội qua các
thời đại khác nhau. Đạo đức là một phạm trù lịch sử. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều
có những chuẩn mực đạo đức phù hợp. Khi hình thái kinh tế - xã hội thay đổi thì những
chuẩn mực đạo đức cũ cũng dần mất đi nhường chỗ cho những chuẩn mực đạo đức mới.
Trong thời đại ngày nay, đạo đức mới là đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, đạo

đức cộng sản chủ nghĩa, đỉnh cao của đạo đức trong lịch sử xã hội loài người.
Đấu tranh mọi sự khác biệt giai cấp mâu thuẫn giai cấp, xây dựng xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh là tư tưởng cao nhất của giai cấp vô sản. Đạo đức cộng sản
phản ánh những lợi ích căn bản của giai cấp mình trong cách mạng vô sản, nó cũng là
vũ khí tinh thần mạnh mẽ của giai cấp này sử dụng để xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới. Đây là lần đầu tiên và lần cuối cùng đạo đức của một giai cấp lao động trở thành
đạo đức cách mạng và chiếm địa vị thống trị trong đời sống đạo đức của xã hội.
Đạo đức cộng sản trong lịch sử xã hội, nó đối lập với đạo đức của giai cấp bóc lột
và cũng khác với đạo đức của những người sản xuất nhỏ khác. Xét về mặt bản chất theo
Lênin: đạo đức mới là những gì góp phần đoàn kết tất cả những người lao động xung
quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới xã hội cộng sản.
Lênin nêu rõ rằng: đạo đức của chúng ta hoàn toàn phục vụ lợi ích đấu tranh của
giai cấp vô sản; đạo đức của chúng ta là từ những lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của

6


giai cấp vô sản mà ra. “Đạo đức cộng sản là đạo đức phục vụ cuộc đấu tranh ấy, là đạo
đức nhằm đoàn kết những người lao động chống mọi chế độ tư hữu nhỏ vì nó trao cho
cá nhân thành quả lao động của toàn xã hội sáng tạo ra” [18; tr372]. Vì vậy, đối với một
người cộng sản, tất cả đạo đức nằm trong cái kỷ luật đoàn kết keo sơn và trong cuộc đấu
tranh tự giác của giai cấp chống bọn bóc lột…Đạo đức giúp xã hội loài người tiến lên
cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động.
Vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và lý luận đạo đức nói riêng
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã trở thành nhà lý luận lỗi lạc, là tấm
gương đạo đức sáng ngời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Ngay từ khi bước vào con đường cách mạng, Hồ Chí Minh đã ý thức rất rõ ràng
và sâu sắc vai trò của đạo đức cách mạng đối với sự nghiệp cách mạng. Theo Người,
đạo đức cách mạng là đạo đức của những người cộng sản, đạo đức của một đội ngũ tiên

tiến nhất và tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kết hợp
nhuần nhuyễn và sinh động với những truyền thống đạo đức của dân tộc và những tinh
hoa đạo đức của nhân loại.
Đạo đức cách mạng “không phải là đạo đức thủ cựu”. Nó là đạo đức mới, đạo
đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của
dân tộc, của loài người” [22; tr251].
Đạo đức đó được hình thành và phát triển cùng với quá trình vận động, phát triển
sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Người xác định đạo đức cách mạng là “Tuyệt đối
trung thành với nhân dân”, “ra sức phấn đấu thực hiện mục tiêu của Đảng”, “quyết tấm
đấu tranh chống mọi kẻ thù”, “đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”, luôn hòa mình với
quần chúng. Người khẳng định rằng: “Đạo đức cách mạng là:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt
nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng…thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng.
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân
mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì nhân dân mà đấu tranh quên
mình, gương mẫu trong mọi việc.

7


Ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để
nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ” [22;
tr252].
Đạo đức mới, đạo đức cách mạng mà Hồ Chí Minh khởi xướng và cùng Đảng ta
xây dựng, bồi dưỡng cho các thế hệ cách mạng và cho nhân dân ta, xét về tính giai cấp
và mục đích, nó thống nhất với đạo đức vô sản, đạo đức cộng sản mà C.Mác và
Ph.Ăngghen là những người đặt nền mống và Lênin là người kế thừa, phát triển. Đạo
đức mới là đạo đức gắn liền với lợi ích của giai cấp công nhân nói riêng và giai cấp
nhân dân lao động nói chung. Đó là đạo đức chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng giải

phóng dân tộc vì sự tiến bộ của nhân loại, vì tự do, hạnh phúc của mỗi người.
Như vậy, đạo đức cách mạng luôn gắn liền với nhiệm vụ đấu tranh cách mạng
của giai cấp công nhân, của quần chúng lao động nhằm xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu tiến
tới xây dựng một xã hội tốt đẹp, mọi người sống yêu thương, bình đẳng với nhau. Đạo
đức cách mạng Việt Nam chính vì thế nó là sản phẩm của công cuộc bảo vệ và xây dựng
tổ quốc Việt Nam. Đạo đức cách mạng Việt Nam do nhân dân Việt Nam hun đúc bằng
chính truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm và lao động phát triển kinh tế đất nước.
Nó luôn luôn được thử thách gọt giũa và bồi dưỡng qua các thế hệ. Đó là giá trị văn hoá
cực kỳ quý báu của dân tộc ta, là lẽ sống, là linh hồn của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Nó vừa có tính ổn định bền vững nhưng đồng thời cũng bị chi phối bởi hoàn cảnh lịch
sử, bởi nền kinh tế, chính trị qua từng thời kỳ. Cũng chính vì thế nó không ngừng được
bổ sung. Song đạo đức cách mạng với những chuẩn mực của nó góp phần giữ vững trật
tự xã hội, điều chỉnh hành vi của con người và điều chỉnh các mối quan hệ của con
người với nhau, với xã hội. Để đạt được những chuẩn mực của đạo đức cách mạng đòi
hỏi người cách mạng phải không ngừng học tập, rèn luyện để tiến bộ. “Đạo đức cách
mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày mới
phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, và vàng càng luyện càng
trong” [23; tr292].
1.2. Những nội dung cơ bản của đạo đức cách mạng
Đạo đức cách mạng được hình thành, phát triển trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và
kế thừa truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm

8


gương tiêu biểu. Đạo đức cách mạng có nội dung rất phong phú, trong đó có một số vấn
đề quan trọng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời thường đề cập để giáo dục cán bộ,
đảng viên. Mặt khác, đạo đức cách mạng không phải là những tiêu chuẩn trừu tượng, mà
gắn với đặc điểm của từng thời kỳ cách mạng.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay ở nước ta, đạo đức của cán bộ, đảng viên

gồm có nội dung chủ yếu sau:
* Trung với nước, với Đảng, với lý tưởng cách mạng và hiếu với dân:
Trước kia đạo đức phong kiến dạy người ta “trung với vua, hiếu với cha mẹ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa vào khái niệm “trung hiếu” một nội dung mới của đạo
đức cách mạng. Theo Người, trung là trung với nước, với Đảng, với lý tưởng cách
mạng; còn hiếu không chỉ hạn hẹp đối với cha mẹ, mà còn bao hàm nội dung sâu rộng
hơn là hiếu với dân. Trung với nước, với Đảng, với lý tưởng cách mạng và hiếu với dân
không tách rời nhau, không thể có cái này mà không có cái kia, bởi vì dân là gốc của
nước.
Trung với Đảng, với nước, với lý tưởng cách mạng và hiếu với dân là cái gốc của
người cách mạng, là chuẩn mực và giá trị cao nhất của đạo đức cách mạng. Trong tình
hình hiện nay, điều này phải được thể hiện bằng sự kiên định lập trường chính trị vững
vàng, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, tích cực tham gia thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng, đem lại những kết quả thiết thực, góp phần vào việc thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
* Trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, với cách mạng thế
giới:
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Cách mạng của các
nước có ảnh hưởng tác động lẫn nhau trong mối quan hệ tương hỗ. Thắng lợi của cách
mạng Việt Nam không thể thiếu sự giúp đỡ của cách mạng thế giới; ngược lại, cách
mạng Việt Nam cũng ảnh hưởng nhất định đến các nước. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân là sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước trên cơ sở bình đẳng, cùng có
lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi
nước, không xem nhẹ lợi ích chính đáng của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng lợi ích
chính đáng của các dân tộc khác, chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.

9


Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là một chuẩn mực đạo đức quan trọng của

người cách mạng.
Ngày nay, trước những biến động cực kỳ phức tạp ở các nước xã hội chủ nghĩa
và phong trào cách mạng thế giới, trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch mưu toan xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên thế giới, sự trung
thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân và cách mạng thế giới phải được thể
hiện bằng hành động cách mạng, phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tăng cường đoàn kết với phong trào cách
mạng thế giới, làm thất bại mọi âm mưu thâm độc của kẻ thù, góp phần đấu tranh cho
các mục tiêu chung của thời đại: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
* Trau dồi chủ nghĩa tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân:
Chủ nghĩa tập thể đoàn kết gắn bó mọi người trong tổ chức, tạo nên sức mạnh to
lớn của cách mạng. Nhưng không nên đem chủ nghĩa tập thể đối lập một cách giản đơn
với cá nhân, không nên nhân danh tập thể mà coi thường những sáng kiến của cá nhân,
xâm phạm nhân cách và phẩm giá con người. Chủ nghĩa tập thể chẳng những không phủ
nhận vai trò của cá nhân, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cá nhân, cho
tự do sáng tạo, phát triển cá tính, nhân cách đa dạng, phong phú của mỗi người. Mác chỉ
rõ rằng, chỉ có trong tập thể mới có phương tiện làm cho mỗi cá nhân có khả năng phát
triển toàn diện năng khiếu của mình, chỉ có trong tập thể mới có tự do thật sự của cá
nhân.
Chủ nghĩa tập thể yêu cầu mỗi cá nhân kết hợp một cách hài hòa quyền lợi và
nghĩa vụ, tự do và trách nhiệm, lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể trong hoạt động của
mình theo phương châm: mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người, nhằm xây
dựng tổ chức cộng đồng vững mạnh, góp phần đắc lực của mỗi người vào sự nghiệp
chung. Chủ nghĩa tập thể như vậy là một tiêu chuẩn quan trọng của đạo đức cách mạng.
Chủ nghĩa cá nhân biểu hiện dưới mọi hình thức như: thói ích kỷ, tư tưởng cục bộ, bản
vị, tư tưởng tự do vô chính phủ, vô tổ chức, tư tưởng đặc quyền, đặc lợi…đều trái với
chủ nghĩa tập thể, gây tác hại lớn cho sự nghiệp cách mạng. Vì vậy chủ nghĩa cá nhân
cần được khắc phục.
* Gương mẫu trong lao động, lao động sáng tạo, cần kiệm xây dựng và bảo vệ tổ


10


quốc:
Sự khác nhau giữa con người và động vật có nhiều điểm, nhưng cơ bản nhất là
lao động sáng tạo của con người. Thông qua lao động con người cải tạo tự nhiên, cải tạo
xã hội và bản thân mình, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội và không ngừng đáp ứng nhu cầu
mọi mặt của đời sống con người. Bất cứ lao động nào có ích cho con người, cho xã hội
đều được quý trọng, không phân biệt đối xử, coi lao động này là cao cả, lao động kia là
thấp hèn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng: trong xã hội ta không có nghề nào là thấp
hèn, chỉ có kẻ lười biếng, ỷ lại mới đáng xấu hổ. Người nấu bếp, người quét rác cũng
như thầy giáo, kỹ sư, nếu làm tròn trách nhiệm thì đều vẻ vang như nhau. Do đó, yêu lao
động và lao động sáng tạo là một trong những chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách
mạng. Điều đó đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong lao động, đem hết nhiệt
tình, trí tuệ làm cho lao động của mình và của tập thể đạt được năng suất và hiệu quả
ngày càng cao trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, góp phần xây dựng
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện đại, giàu mạnh, ấm no, hạnh phúc. Thái độ
chây lười, ăn bám, vô trách nhiệm, lãng phí, tham ô cần phải nghiêm khắc lên án, vì nó
trái với đạo đức cách mạng và gây tác hại cho sự nghiệp chung.
* Tinh thần nổ lực học tập, cầu tiến bộ:
Đấu tranh cải tạo xã hội cũ là một quá trình rất khó khăn, nhưng xây dựng một xã
hội mới - xã hội chủ nghĩa, lại càng khó khăn hơn. Theo Lênin, chúng ta chỉ có thể xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở một nền học vấn hiện đại, nếu
không có nền học vấn đó thì chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản cũng chỉ là ước vọng
mà thôi. Điều đó lại càng đặc biệt quan trọng đối với Đảng ta và nhân dân ta, bởi vì
Đảng ta phải lãnh đạo đất nước từ nền kinh tế lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Công cuộc đổi mới là một sự nghiệp hết sức to lớn và cũng hết sức khó khăn, đòi
hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải từng bước nắm vững kiến thức khoa học hiện đại, trước
hết là những kiến thức trong lĩnh vực mình hoạt động. Những kiến thức khoa học lại

không ngừng phát triển cùng với sự phát triển của thực tiễn xã hội. Cho nên, muốn làm
được điều đó phải có tinh thần nỗ lực học tập, luôn cầu tiến bộ để có thể tiếp cận được
những tri thức mới, làm giàu trí tuệ của mình trong hoạt động sáng tạo. Lênin và Chủ

11


tịch Hồ Chí Minh thường nhắc mọi người phải học, học nữa, học mãi, và coi đó là phẩm
chất đạo đức không thể thiếu được của người cách mạng. Do đó, mọi thái độ ngại học
tập, coi thường lý luận, coi thường khoa học, thỏa mãn với những tri thức đã coi là trái
với đạo đức cách mạng.
* Có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, giữ gìn đoàn kết trong Đảng, quan hệ giữa
Đảng và chính quyền, đoàn thể:
Sự tiến bộ cống hiến của người cán bộ, đảng viên gắn bó chặt chẽ với tổ chức.
Một tổ chức vững mạnh phải có kỷ luật nghiêm, dựa trên sự tự giác tôn trọng tổ chức và
ý thức chấp hành nghị quyết, kỷ luật của các thành viên. Trong điều kiện mới, Đảng đòi
hỏi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần sáng tạo. Song điều đó không có nghĩa là
có thể vượt ra ngoài các nguyên tắc, vi phạm điều lệ Đảng và các quy chế, nói và làm
trái với các nghị quyết hiện hành của Đảng. Tính tổ chức kỷ luật còn phải thể hiện ở
việc chấp hành nghiêm các chính sách, pháp luật của nhà nước, tôn trọng các quyết định
của cơ quan nhà nước. Sự đoàn kết, quan hệ trong công tác phải trên cơ sở nguyên tắc,
bằng con đường tổ chức với tinh thần xây dựng, tránh tình trạng đoàn kết nhất trí bề
ngoài hoặc đoàn kết một chiều.
Vấn đề tính tổ chức kỷ luật không chỉ là yêu cầu đối với cán bộ cấp dưới, với
đảng viên thường, mà trước hết với cán bộ chủ chốt. Người cán bộ lãnh đạo chủ chốt
phải tôn trọng kỷ luật mới nêu gương cho những người khác học tập và giữ nghiêm kỷ
luật của tổ chức, của địa phương của đơn vị mình phụ trách. Không một cán bộ nào, ở
bất kì cương vị nào, được phép đặt mình ngoài tổ chức, đứng trên tổ chức, vi phạm các
nguyên tắc, các quyết định, các chính sách và pháp luật đã được tập thể thông qua.
Đạo đức cách mạng còn bao gồm những đức tính như: nhân, nghĩa, trí, dũng, cần,

kiệm, liêm, chính mà cán bộ, đảng viên cần trau dồi.
Nhân nghĩa: nhân là yêu người, yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu quê hương, làng
xóm gia đình…mà cốt lõi là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân. Đã có nhân thì cũng phải có
nghĩa, trước hết là nghĩa lớn đối với dân tộc. Cái quý nhất của một dân tộc là độc lập và
tự do. Nhưng độc lập và tự do thật sự chỉ có thể gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Nhân nghĩa còn thể hiện trong việc làm hàng ngày của mỗi người trong quan hệ
với nhân dân, làng xóm, gia đình, bạn bè. Tự mình làm điều nhân nghĩa, khuyến khích

12


mọi người làm theo và đấu tranh chống lại những việc làm bất nhân, bất nghĩa, làm cho
quan hệ giữa người với người đầy tình nhân ái, tạo nên cuộc sống lành mạnh, yên vui và
hạnh phúc.
Trí dũng: trí là sự sáng suốt trong suy nghĩ và hành động, biết phân biệt đúng sai
để có những xử lý đúng đắn với mọi việc và mọi người. Dũng là có tinh thần kiên quyết
đấu tranh bảo vệ cái đúng, bảo vệ chân lý đến cùng, không sợ khó khăn, phiền lụy đến
mình, dũng cảm tự phê bình và phê bình có tính chất xây dựng để bảo vệ quan điểm,
đường lối đúng đắn của Đảng, giúp nhau phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm với
tinh thần luôn cầu tiến bộ.
Cần kiệm: cần là siêng năng, chăm chỉ, đạt năng suất và hiệu quả cao trong sản
xuất, công tác và học tâp. Kiệm là biết sử dụng sức người, tiền của, thời gian…trong
mọi lĩnh vực hoạt động sao cho hợp lý nhất, có lợi nhất, không để lãng phí, mất mát, gây
tổn thất cho Đảng, nhà nước, xã hội và nhân dân.
Liêm chính: liêm là giữ mình trong sạch, không tham ô, không tư lợi tôn trọng và
bảo vệ của công, không vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến lợi ích của người khác.
Chính là ngay thẳng, thật thà, không xu nịnh, không khuất phục trước bất cứ ai làm
những việc bất công, phi pháp, phi đạo lý để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ sự công bằng xã hội
và phẩm giá con người.
1.3. Tính quy luật của sự hình thành đạo đức cách mạng

* Đạo đức cách mạng bắt nguồn từ đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản hình
thành trong cuộc đấu tranh cách mạng:
Về mặt lịch sử, đạo đức cách mạng tồn tại và phát triển trước khi tồn tại xã hội xã
hội chủ nghĩa, nó được hình thành từ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại
giai cấp tư sản, nhằm xác lập địa vị thống trị chính trị của mình. Chính nội dung cuộc
đấu tranh này quy định nội dung đạo đức cộng sản. Khi xác lập được chính quyền và
nền chuyên chính của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo xã hội xây dựng nền kinh tế
mới, một cơ cấu xã hội - giai cấp mới, một đời sống văn hóa tinh thần mới có tính xã hội
chủ nghĩa. Đây là cơ sở tất yếu cho sự phát triển đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đạo
đức cách mạng hình thành và phát triển từ đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản trên
cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống có chọn lọc và càng trở thành đạo đức chung

13


của nhân loại.
Như vậy, đạo đức xã hội chủ nghĩa là chỉ một giai đoạn trong sự hình thành đạo
đức cộng sản.
Bản chất nhân đạo của đạo đức cộng sản xã hội bắt nguồn từ bản chất nhân đạo
của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa quy định, tuyệt nhiên không phải do một đầu óc uyên
thâm, thiện chí của một người nào đó nghĩ ra mà bị chi phối bởi nền kinh tế xã hội cộng
sản. Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa đồng thời là một kết quả của quá trình hình
thành và phát triển của đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đây cũng là giai đoạn triển
khai, phổ biến của đạo đức cộng sản trên quy mô toàn xã hội. Do đó, quá trình này vô
cùng khó khăn và phức tạp, trải qua một cuộc phê phán gay gắt với mọi hình thức,
chuẩn mực của đạo đức phi vô sản khác. Đạo đức cộng sản, theo nghĩa hẹp là đạo đức
mới được phát triển ở một giai đoạn cao nhất trong lịch sử xã hội loài người.
* Đạo đức cách mạng là sản phẩm tổng hợp của quá trình xây dựng xã hội mới:
Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi xuống mà nó xuất phát từ điều
kiện kinh tế - xã hội nhất định. Đời sống xã hội sản sinh ra đạo đức quyết định nội dung

và khuynh hướng phát triển của đạo đức. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, một
bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nó bị quy định bởi một tồn tại xã hội, một cơ sở hạ
tầng nhất định. Quá trình xây dựng xã hội mới cũng là quá trình hình thành và phát triển
của đạo đức cách mạng. Điều đó được thể hiện như sau:
- Nền sản xuất xã hội xã hội chủ nghĩa là cơ sở kinh tế của đạo đức cách mạng.
Khác với mọi nền sản xuất khác, nền sản xuất xã hội xã hội chủ nghĩa có mục đích cao
nhất vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân lao động. Nó tạo ra sự công bằng trong hưởng
thụ và sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, theo nghĩa đó, nó mang tính chất
nhân đạo cao cả. Chính vì vậy, đạo đức cộng sản phản ánh và lấy cơ sở từ nền kinh tế xã hội đó cũng mang tính nhân đạo. Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa càng phát triển bao
nhiêu thì đạo đức cộng sản càng nhân đạo bấy nhiêu.
- Quan hệ bình đẳng giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp
trí thức xã hội chủ nghĩa và các tầng lớp lao động khác là cơ sở xã hội - giai cấp của đạo
đức cộng sản. Ở đây, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng
lớp lao động khác đã được giải phóng khỏi điều kiện kinh tế và chính trị, họ trở thành

14


chủ thể của mọi quá trình xã hội, là nguồn sáng tạo chân chính. Đó là cơ sở trực tiếp
quyết định sự phản ánh và điều chỉnh đạo đức mới dựa trên sự thống nhất về lợi ích của
các chủ thể trong xã hội. Cơ cấu xã hội - giai cấp đó là hệ thống quan hệ giữa những
người lao động có quan hệ thân ái, đoàn kết, có chung lợi ích và mục đích. Chính quan
hệ này trong xã hội chủ nghĩa là cơ sở chính trị - xã hội của đạo đức cộng sản.
- Nền văn hóa tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa là cơ sở tinh thần của đạo
đức cộng sản. Sự tác động của chính trị đến đạo đức là hết sức to lớn và mang ý nghĩa
quyết định đối với sự phát triển của đạo đức, nhất là đối với đạo đức cộng sản. Điều đó
được thể hiện trong đường lối chính sách và các biện pháp giáo dục của con người mới
nói chung, đạo đức mới nói riêng của nhà nước vô sản. Ý thức chính trị có vai trò xác
định phương hướng, phạm vi, biện pháp phát triển của đạo đức cộng sản. Khoa học
trong xã hội xã hội chủ nghĩa luôn tác động tích cực đến đời sống đạo đức bằng cách

làm phong phú nội dung đạo đức mới, nâng sự phản ánh, điều chỉnh của đạo đức mới
lên trình độ ngày càng cao hơn. Khoa học còn là phương tiện hữu hiệu để giáo dục đạo
đức cộng sản trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nghệ thuật có vai trò to lớn trong đời sống tinh thần nói chung, đời sống đạo đức
nói riêng, khi nó thực hiện chức năng giáo dục của mình. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa,
sự phát triển hoàn thiện nền nghệ thuật không vì mục đích tự thân, mà là nhằm xây đựng
con người mới, đạo đức mới. Và nó trở thành phương tiện có hiệu quả để giáo dục đạo
đức cộng sản.
Tóm lại: cơ sở kinh tế - xã hội - giai cấp quyết định nội dung của đạo đức mới,
bảo đảm sự tồn tại vững chắc của nó. Cơ sở tinh thần làm phong phú nội dung và hoàn
thiện cấu trúc của đạo đức cộng sản. Nó có ý nghĩa như là công cụ phương tiện giáo dục
và hoàn thiện đạo đức cộng sản.
* Đạo đức cách mạng không là sản phẩm tự phát mà được hình thành một cách
tự giác (nói cách khác nó là kết quả của giáo dục và tự giáo dục):
Giáo dục có vai trò quan trọng hàng đầu trong quá trình hình thành, phát triển và
hoàn thiện nhân cách. Nhờ có giáo dục mà đạo đức mới - đạo đức cách mạng dần dần
được phát triển và hoàn thiện trong ý thức cá nhân và ý thức xã hội, trở thành yếu tố phổ
biến, thống trị trong đời sống xã hội. Quá trình giáo dục đạo đức cộng sản cần tuân theo

15


một số yêu cầu sau:
- Một là: giáo dục đạo đức cộng sản phải là quá trình giáo dục tổng hợp bao gồm
giáo dục chính trị, giáo dục đạo đức, thẩm mỹ, văn hóa, lao động…và chúng luôn gắn
bó với nhau.
- Hai là: giáo dục đạo đức cộng sản phải là một quá trình thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn. Trong chủ nghĩa xã hội tính tự giác của quá trình hình thành đạo đức mới
không chỉ thể hiện ở công tác giáo dục, mà nó còn thể hiện trong toàn bộ hoạt động xây
dựng xã hội mới, xây dựng nền kinh tế mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn xây

dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa”. Đây là quá trình
hình thành và phát triển các phẩm chất đạo đức cá nhân: quá trình đó, một mặt, con
người thể hiện niềm tin đạo đức, những biểu hiện về giá trị, chuẩn mực đạo đức, mặt
khác, nhờ những kết quả hoạt động, họ xác nhận một cách thực tiễn những giá trị đạo
đức của mình.
- Ba là: giáo dục đạo đức cộng sản là quá trình kết hợp giữa giáo dục và tự giáo
dục. Quá trình tự giáo dục là sự tiếp tục giáo dục đạo đức ở chủ thể, là mặt bên trong,
nội tâm cả quá trình giáo dục đạo đức do xã hội thực hiện đối với mỗi cá nhân. Những
tri thức về đạo đức trở thành đối tượng của những rung cảm sâu lắng, trở thành những
nội dung cơ bản của đối tượng giáo dục. Quá trình giáo dục và tự giáo dục có ý nghĩa
quyết định đến tính tự giác của đạo đức mới.
1.4. Vai trò của đạo đức trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Đạo đức là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng của ý thức xã hội, một mặt bị
quy định bởi cơ sở hạ tầng của tồn tại xã hội; mặt khác nó cũng có tính độc lập tương
đối và tác động tích cực trở lại đối với cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội. Vì vậy trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đạo đức có vai trò rất to
lớn. Chúng ta có thể xem xét một số khía cạnh sau:
Một là, đạo đức góp phần định hướng mục tiêu chủ nghĩa xã hội:
Hiện nay nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa từ một nền kinh tế lạc hậu. Ở đây xã hội mới không phải là sự cộng sinh giữa

16


chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội mà là sự phản ánh tổng thể các mối quan hệ biện
chứng của các nhân tố xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội vừa là mục tiêu của sự định
hướng, vừa hiện diện ngay từ đầu trong sự định hướng đó với tính cách là nhân tố hợp
thành, là những mầm non đang trưởng thành và phát triển hoàn thiện đạt đến mục tiêu

của chủ nghĩa xã hội. Những nhân tố đó là “Nhà nước của nhân dân lao động dưới sự
lãnh đạo của Đảng”, “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, kinh tế nhà nước đóng vai
trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác trở thành nền tảng”, “tăng trưởng kinh tế gắn liền
với tiến bộ và công bằng xã hội”.
Như vậy, mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa của cách mạng nước ta đồng nhất
với mục tiêu của chủ nghĩa nhân đạo là làm cho mọi người đều có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Hai là, nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngay từ trong
bản chất của nó đã chứa đựng yếu tố luân lý đạo đức:
Trước hết chúng ta cần phải thấy rằng, nền kinh tế thị trường không phải là thuộc
tính riêng của chủ nghĩa tư bản. Nó là phương thức tiến hành sản xuất của nhiều chế độ
xã hội phù hợp với yêu cầu hoạt động của lực lượng sản xuất kể cả trình độ hiện đại.
Trong điều kiện xã hội tư bản, dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
mục đích của người sản xuất hàng hóa là thu được giá trị thặng dư, tức bóc lột lao động
thặng dư của người lao động để gia tăng tư bản tư nhân, còn thõa mản nhu cầu đời sống
của con người chỉ là phương tiện để đạt được mục đích.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khác hẳn về chất so với nền
kinh tế thị trường khác. Ở đây kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế
hợp tác trở thành nền tảng cho toàn bộ nền kinh tế. Nhiệm vụ của nó là giải phóng lực
lượng sản xuất, lấy việc nâng cao hiệu quả của kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống nhân
dân là mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích các thành phần kinh tế. Muốn vậy, đòi
hỏi phải sử dụng hợp lí, hữu hiệu các nguồn vốn (thiết bị, nguyên liệu, nhân lực) để
nâng cao hiệu quả sản xuất, bảo đảm chất lượng sản phẩm và bảo vệ quyền lợi cho
người tiêu dùng là biểu hiện các quan niệm giá trị đạo đức.
Ngày nay, thước đo đánh giá hoạt động của chủ thể sản xuất kinh doanh không
hoàn toàn là hiệu quả kinh tế mà còn là tình cảm trách nhiệm và danh dự xã hội.

17



Ba là, các tiêu chuẩn đạo đức và quan niệm giá trị biểu hiện hình thái ý thức cấu
thành tiền đề nhân văn trong hoạt động chủ thể kinh tế:
Thực tiễn cho thấy, động lực của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, ngoài những nhân tố kinh tế, còn có cả nhân tố phi kinh tế, kể cả nhân tố
tinh thần đạo đức: như tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý thức độc lập tự chủ,
tự cường của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đó chính là những tình cảm và giá trị đạo
đức cao đẹp của người Việt Nam. Dựa trên những giá trị đó, mọi tài năng sáng tạo, mọi
nguồn lực to lớn của đất nước, của nhân dân ta sẽ được tập hợp và phát huy để hướng
vào mục tiêu đưa nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, sánh vai cùng
các nước phát triển trên thế giới.
Cạnh tranh là yếu tố tất yếu xuất phát từ bản thân nền kinh tế hàng hóa, với các
chủ thể thị trường khác nhau, dẫn đến phương thức cạnh tranh khác nhau. Có cạnh tranh
dẫn đến hủy hoại con người, hủy hoại môi trường, tàn phá sản xuất, “cạnh tranh theo
luật rừng”, có cạnh tranh làm phồn vinh xí nghiệp tạo ra sản phẩm nhiều hơn và tốt hơn,
nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất, tạo ra cơ hội làm ăn tốt hơn. Thực chất của cạnh tranh
này là nguồn gốc đạo nghĩa. Vấn đề có tính quy luật chung phổ biến trong cạnh tranh
hiện nay là một thứ gian dối tầm thường sẽ dần dần bị lọc bỏ và cuối cùng thắng lợi chủ
yếu thuộc về các yếu tố công nghiệp mới và quản lý mới. Ở đây, sáng tạo không chỉ là
yếu tố kinh tế, điều kiện kinh tế mà còn là hành động của lý trí, lương tri.
Ngày nay, trong công cuộc đối mới đất nước, Đảng ta xác định nhiệm vụ trọng
tâm là phát triển kinh tế, điều đó không có nghĩa là xem nhẹ vai trò của đạo đức. Đảng
ta luôn khẳng định vai trò quyết định của nhân tố con người, đó phải là những con người
phát triển cao về trí tuệ, cường trán về thể chất, trong sáng về đạo đức, phong phú về
tinh thần, trong đó đạo đức mới là một động lực tinh thần to lớn thúc đẩy phong trào thi
đua yêu nước, hăng say lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát huy sáng kiến kỹ
thuật, làm việc có chất lượng và hiệu quả cao của nhân dân lao động.
Bốn là, đạo đức góp phần điều tiết các quan hệ lợi ích trong kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa:
Quan hệ đạo đức gắn liền “tiềm ẩn” trong các quan hệ xã hội. Các chuẩn mực
đạo đức duy trì trật tự chung trong các lĩnh vực sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu


18


dùng, điều hòa quan hệ lợi ích giữa con người với con người.
Trong các xí nghiệp thuộc kinh tế nhà nước, vấn đề đặt ra là làm sao cho công
nhân yêu mến xí nghiệp mình, làm sao để họ coi trọng lợi ích xí nghiệp và thành quả
lao động của công nhân gắn bó chặt chẽ với vinh dự xã hội và lợi ích vật chất của họ. Ở
đây không chỉ là tác động của kinh tế, chính trị mà còn là yếu tố đạo đức nữa.
Trong khu vực kinh tế tư bản - tư nhân, quan hệ giữa chủ và người làm thuê cũng
đặt ra nhiều vấn đề. Ngoài việc tuân thủ chính sách và pháp luật của nhà nước, giữa họ
còn có quan hệ về mặt đạo nghĩa: tôn trọng nhân cách của người lao động, quan tâm cải
thiện điều kiện lao động và đãi ngộ phúc lợi hợp lí…
Trong quan hệ giữa chủ thể kinh doanh với người tiêu dùng ở khâu sản xuất và
trao đổi, yêu cầu đạo đức biểu hiện ở vai trò của các quy phạm đạo đức nghề nghiệp,
hàng hóa phải hợp quy cách, đúng chất lượng, mẫu mã. Chủ doanh nghiệp phải chịu
trách nhiệm trước người tiêu dùng về hàng hóa mình bán ra, bảo đảm “hàng thực, giá
đúng”. Nhà doanh nghiệp luôn có ý thức về đạo đức trong kinh doanh, ngoài lợi nhuận
chính đáng còn phải suy nghĩ xem có nên sản xuất loại hàng này không? Hàng hóa này
có nên đem bán ra thị trường không?
Như vậy đạo đức có vai trò hết sức quan trọng và là yếu tố bên trong của chính
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

19


Chương 2
THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, VIÊN CHỨC
NHÀ NƯỚC Ở TỈNH CÀ MAU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỊNH HƯỚNG
NHẰM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, VIÊN

CHỨC NHÀ NƯỚC Ở TỈNH CÀ MAU HIỆN NAY.
2.1. Vị trí, vai trò của cán bô, viên chức nhà nước đối với sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Cà Mau
Cà Mau là tỉnh cực nam của Tổ quốc có ba mặt giáp biển với 307km bờ biển.
Phía Bắc giáp tỉnh Kiên Giang và Bạc Liêu; phía Ðông và phía Nam giáp biển Ðông;
phía Tây giáp vịnh Thái Lan. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 5.195 km, chiếm 1,58%
diện tích cả nước và chiếm 13,6% diện tích của đồng bằng sông Cửu Long. Cà Mau có
các con sông lớn chảy qua như sông Tam Giang, Bảy Háp, sông Gành Hào, sông Ðốc,
Sông Trẹm... tạo thành các cửa sông lớn rất thuận lợi cho giao thông đường thuỷ đi khắp
nơi vùng Ðồng bằng sông Cửu Long; ngoài biển Cà Mau còn có đảo Hòn Khoai, Hòn
Chuối có cảng Năm Căn nằm trong cung đường biển của nhiều trung tâm phát triển
vùng Đông Nam Á, thuận lợi cho phát triển kinh tế thương mại và du lịch của tỉnh và
vùng Ðồng bằng sông Cửu Long. Cà Mau là vùng đất mới, thấp bao gồm: đất phèn, đất
mặn, đất than bùn và đất bãi bồi tạo nên những cánh đồng màu mỡ thường xuyên bị
ngập nước, có tới 90% diện tích đất ngập mặn có chứa phèn. Cà Mau nằm trong vùng
khí hậu nhiệt đới gió mùa ổn định và mang tính đặc trưng phân mùa rõ rệt. Mùa mưa có
từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung
bình khoảng 2.400 mm, trong đó mùa mưa chiếm khoảng 90% lượng mưa cả năm.
Nhiệt độ trung bình trong năm là 26,50C; số giờ nắng trung bình năm đạt 2.500 giờ.
Trong bối cảnh chung có nhiều khó khăn, thách thức, nhưng tình hình kinh tế - xã
hội của tỉnh tiếp tục ổn định và phát triển. Kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, GDP năm
2009 tăng 1,75 lần năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 4 năm trên 13% (chỉ
tiêu 12 – 12,5%), cao hơn gần 2 lần mức bình quân cả nước. Cơ cấu chuyển dịch nhanh,
đúng hướng, tỷ trọng công nghiệp chiếm 34,4% tăng vượt mức phấn đấu (chỉ tiêu 2010
là 31%). Kim ngạch xuất khẩu 4 năm đạt gần 2,5 tỷ USD, là tỉnh có kim ngạch xuất
khẩu cao nhất vùng Đồng băng sông Cửu Long. Thu ngân sách năm 2009 đạt 1.860 tỷ

20



đồng, gấp 2,34 lần so với năm 2005, vượt trước 1 năm so với chỉ tiêu Nghị quyết (chỉ
tiêu năm 2010 là 1.600 tỷ đồng). GDP bình quân đầu người năm 2009 đạt 1.030 USD,
tăng 1,76 lần 2005, tương đương mức bình quân cả nước; môi trường kinh doanh, đầu tư
được cải thiện, các thành phần kinh tế phát triển, doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp
đổi mới; kinh tế tập thể từng bước vươn lên; kinh tế tư nhân phát triển mạnh, trong 4
năm, thành lập mới 1.740 doanh nghiệp, số vốn đăng ký 5.630 tỷ đồng, nâng tổng số
toàn tỉnh lên 3.400 doanh nghiệp, với tổng vốn đăng ký 9.200 tỷ đồng, tăng 1,4 lần về số
doanh nghiệp và 3,6 lần về vốn so với năm 2005.
Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, đến nay đã thực hiện đạt và vượt nhiều chỉ tiêu
Nghị quyết. Giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ có tiến bộ, trình độ dân trí và chất
lượng nguồn nhân lực tăng đáng kể; phát triển kinh tế gắn với đảm bảo an sinh xã hội,
bảo vệ môi trường được chú trọng hơn; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nâng
lên rõ nét, số hộ nghèo giảm 2/3 so với năm 2005. Quốc phòng, an ninh giữ vững; chính
trị - xã hội ổn định. Năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, các cấp ủy và đội ngũ cán bộ, đảng
viên được nâng lên; hệ thống chính trị, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố,
tăng cường và phát huy.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và
cơ hội của tỉnh. Tình hình trong tỉnh còn nhiều khó khăn, hạn chế. Sản xuất kinh doanh
ở một số lĩnh vực chưa bền vững; sức cạnh tranh của nền kinh tế và của doanh nghiệp
còn thấp. Năng suất tôm nuôi và năng suất lúa còn thấp; chất lượng tôm giống chưa
được kiểm soát chặt chẽ; chưa hình thành được vùng sản xuất nguyên liệu tập trung quy
mô lớn; nguồn nguyên liệu thủy sản phục vụ cho chế biến chưa ổn định. Đề án nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sản xuất tôm, lúa giai đoạn 2009 – 2012 và định
hướng đến năm 2005 triển khai chậm.
Tiến độ đầu tư các khu công nghiệp của tỉnh rất chậm. Công nghiệp chế biến thủy
sản vẫn còn rất chậm do nhu cầu thị trường thế giới giảm; chưa chủ động giải quyết
được nguyên liệu cho công nghiệp chế biến xuất khẩu. Một số dự án được cấp Giấy
chứng nhận đầu tư chậm triển khai. Công tác giải ngân các nguồn vốn đạt thấp; công tác
giải phóng mặt bằng ở một số địa phương chưa được quan tâm đúng mức. Tiến độ thực
hiện một số công trình xây dựng cơ bản, nhất là công trình giao thông nông thôn chưa


21


đạt kế hoạch.
Kinh tế tập thể tuy phát triển khá hơn trước, nhưng vẫn còn chậm; chất lượng,
hiệu quả hoạt động thấp.
Văn hóa - xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc, đời sống một bộ phận nhân dân còn
khó khăn; ô nhiễm môi trường gia tăng, khả năng kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường
và ứng phó các sự cố môi trường còn yếu kém. Trật tự an toàn xã hội từng lúc, từng nơi
còn phức tạp. Chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở một số nơi còn thấp.
Những khó khăn, yếu kém đó nếu không có giải pháp sớm khắc phục thì sẽ là cản trở
đối với quá trình phát triển của tỉnh.
Để đạt được những thành tựu và khắc phục những hạn chế, yếu kém trên thì cán
bộ, viên chức nhà nước của tỉnh giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Cán bộ là người
phụ trách công tác của chính quyền hay của đoàn thể. Chế độ xã hội nào cũng chú ý
quan tâm đến cán bộ, vì nó liên quan đến sự hưng thịnh của mỗi tỉnh, mỗi quốc gia.
Nước ta nói chung và tỉnh Cà Mau nói riêng, cán bộ luôn là vấn đề nổi lên hàng đầu và
giữ một vai trò hết sức trọng yếu. Nó chẳng những có ý nghĩa quyết định đối với công
tác xây dựng Đảng và việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn là nhân tố
quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói riêng và cả nước nói chung.
Lênin cho rằng: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền
thống trị nếu không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh đạo chính trị,
những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc và muôn việc thành công hay thất
bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” [23; tr273].
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Cà Mau nói riêng và xã hội nói
chung, thì cán bộ, viên chức nhà nước có một vai trò vô cùng quan trọng, vì họ là một
lực lượng được tuyển chọn từ trong các giai cấp, tầng lớp lao động trong xã hội. Cán bộ
là người định ra đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, đồng thời là

người là người đưa ra chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước đến với nhân dân.
Cán bộ, viên chức có trách nhiệm vận động, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi các
mục tiêu đã đề ra, tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án “Nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả trong sản xuất tôm, lúa tỉnh Cà Mau giai đoạn 2009 – 2012 và định

22


hướng 2015”. Xây dựng hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất đa mục tiêu. Nghiên cứu,
hướng dẫn kỹ thuật cho nhân dân chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất của tỉnh đưa đất nước nói chung và tỉnh Cà Mau nói riêng ngày càng phát triển
và tiến bộ. Trong lĩnh vực xã hội: tăng cường công tác đào tạo, phát triển nguồn lực y tế.
Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách xã hội như đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người có
công với cách mạng. Đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức thực hiện mục tiêu
giảm nghèo bền vững, tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các chính sách trợ giúp. Chú
trọng tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động trong thời gian tới. Đẩy mạnh
công tác phòng chống các tệ nạn xã hội, nhất là ma túy, mại dâm, nâng cao hiệu quả
cuộc vận động xây dựng xã, phường, thị trấn lành mạnh không có tệ nạn xã hội. Bản
thân họ phải gương mẫu, đề bạt, tổ chức thực hiện sau cho có hiệu quả.
Cán bộ, viên chức nhà nước tỉnh Cà Mau được đào tạo để trở thành những người
làm công tác quản lý, làm chuyên gia nghiên cứu khoa học…trên nhiều lĩnh vực từ kinh
tế, chính trị, pháp luật, ngoại giao đến văn hóa, giáo dục, kinh tế - xã hội,…Cho nên, họ
tác động tới nhiều mặt đối với xã hội. Sự ảnh hưởng, tác động này đến mức nào là tùy
thuộc vào năng lực quản lý, chất lượng chuyên môn và phẩm chất chính trị, đạo đức của
họ.
Sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh phụ thuộc phần lớn vào năng lực hoạch định
chính sách, năng lực quản lý, điều hành, ý thức lao động, khả năng nghiên cứu khoa
học, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ khu vực của họ. Thực tế đã chứng minh: nền
kinh tế của tỉnh sẽ gặp khó khăn, yếu kém thậm chí rơi vào suy thoái, văn hóa - xã hội
còn nhiều vấn đề bức xúc chưa được giải quyết là do cán bộ, viên chức nhà nước có

trình độ, năng lực chuyên môn kém, có phẩm chất chính trị, tư tưởng đạo đức sa sút,
tham nhũng tiêu sài lãng phí…Do đó, kết quả lao động mà người cán bộ, viên chức nhà
nước tạo ra chính là thước đo sự đóng góp của họ đối với sự phát triển xã hội và đó cũng
là tiêu chí đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức của người cán bộ, viên chức nhà nước.
Cán bộ, viên chức nhà nước là bộ phận rất quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh. Có thể nói tầm quan trọng ấy tựa như xương sống của một cơ thể.
Càng đi sâu vào thực tiễn của thời kì đổi mới, chúng ta càng thấy rõ tầm quan trọng của
đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước.

23


Để đạt được những thành tựu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và khắc
phục những hạn chế, yếu kém của tỉnh thì đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước có một vị
trí, vai trò đặc biệt quan trọng nhất là vai trò của những cán bộ, viên chức luôn có đạo
đức cách mạng sẵn sàng vì lợi ích chung mà quên đi lợi ích của bản thân mình. Việc
nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, viên chức nhà nước là cần thiết xuất phát từ
những yêu cầu và thực tiễn của thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.2. Sự tác động của nền kinh tế thị trường đối với đạo đức của cán bộ, viên
chức hiện nay ở tỉnh Cà Mau
Cơ chế thị trường đang là hiện tượng có tính toàn cầu, là điều kiện để mỗi quốc
gia tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với tính cách là phương thức và trình độ
của sự phát triển xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa có quan hệ với đạo đức trên
nhiều bình diện và mức độ khác nhau.
Từ bình diện triết học, có thể nhìn nhận trong tương quan giữa công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và đạo đức trên hai khía cạnh chủ yếu sau.
Đạo đức là nhân tố, động lực của công nghiệp hóa.
Đạo đức như là mục tiêu kết quả của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương VII chỉ rõ: “Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa phải được thực hiện theo cơ chế thị trường”. Điều đó có nghĩa là mọi chương

trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, mọi sự lựa chọn, tiếp nhận áp dụng các tiến bộ
khoa học công nghệ…đều bị cho phối bởi các quy luật của cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường là hiện tượng có tính toàn cầu là điều kiện để mỗi quốc gia tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Không thể nói đến phát triển nếu không chuyển
sang nền kinh tế thị trường, nó tác động mạnh đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đạo đức có quan hệ mật thiết với kinh tế là điều không ai nghi ngờ. Nhưng trong
quá trình chuyển đổi cơ chế này, dưới tác động của kinh tế thị trường, đạo đức người
cán bộ đang biến động theo hai hướng tích cực và tiêu cực.
Lý giải về sự tác động của kinh tế thị trường đối với luân lý đạo đức, trên thế giới
cũng như trong nước đã có nhiều ý kiến khác nhau. Xu hướng phủ nhận ảnh hưởng tích
cực của cơ chế thị trường đối với đạo đức.
Xu hướng này, kinh tế thị trường bản chất là xung khắc bài xích đạo đức. Sự phát

24


triển kinh tế thị trường, cái “thiện” của kinh tế thị trường luôn phải trả giá bằng cái “ác”
của sự suy đồi đạo đức của xã hội. Theo họ kinh tế thị trường với tư cách là một trong
những hình thức trao đổi vật chất của con người, đã ném con người vào những tệ nạn xã
hội, hợp tác thủ đoạn, cạnh tranh là mục đích.
Những người theo thuyết “trượt dốc” đã tuyệt đối hóa ảnh hưởng tiêu cực của
kinh tế thị trường với đạo đức. Họ cho rằng việc chuyển sang kinh tế thị trường sẽ gây
ra sự trượt dốc về luân lý đạo đức xã hội, biểu hiện của nó là sự sinh sôi nảy nở những
hiện tượng tiêu cực trong xã hội như việc làm hàng giả, lừa đảo, mại dâm, tham nhũng,
lối sống vô trách nhiệm với gia đình, cộng đồng…Đây là hậu quả tất yếu của việc phát
triển kinh tế thị trường. Phát triển kinh tế thị trường đồng nghĩa với việc mở toan cái đập
chắn trước đây là sự quan tâm tới lợi ích riêng tới mức cực đoan và vì vậy sẽ không
ngăn chặn được cơn “hồng thủy” của “chủ nghĩa vị kỷ”. Vì vậy, không thể có sự phát
triển kinh tế thị trường đi cùng với sự phát triển và hoàn thiện về luân lý đạo đức.
Một số người khác thì nhìn nhận ít cực đoan hơn. Họ cho rằng, các hiện tượng

tiêu cực này, biểu hiện của sự suy thoái đạo đức chỉ là kết quả của sự tác động của kinh
tế thị trường và những nhân tố ngẫu nhiên xã hội được hình thành có tính lịch sử. Vì
vậy, họ chủ trương phát triển kinh tế thị trường một cách hạn chế để hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của nó [14; tr26].
Bên cạnh đó còn có xu hướng nhấn mạnh ảnh hưởng tích cực của cơ chế thị
trường đối với đạo đức. Xu hướng này khẳng định tác động tích cực của kinh tế thị
trường đối với sự phát triển của đạo đức. Theo họ, cơ chế thị trường kích thích sự phát
triển kinh tế, nâng cao tổng công lợi xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển con người.
Những người theo “thuyết leo dốc” lại cho rằng: xét về tổng thể, việc xây dựng
và phát triển kinh tế thị trường có xu hướng nâng cao đạo đức của xã hội. Điều đó biểu
hiện ở chỗ, con người tham gia kinh tế thị trường về nhân cách độc lập, tự do, có quyền
bình đẳng cạnh tranh, phải giữ chữ “tín” trong trao đổi và việc tăng cường quan tâm
phát triển lợi ích chung của toàn xã hội.
Những hiện tượng tiêu cực chỉ là những trạng thái đi kèm với sự vô trật tự trong
buổi đầu của kinh tế thị trường, là hậu quả của một cơ chế đang hình thành còn nhiều
khuyết điểm nhất định, khi cơ chế thị trường được hoàn thiện thì những khuyết điểm về

25


×