Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ QUANG ĐỨC

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐẤT ĐAI
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢƠI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ THỦY

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là
trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Nguyễn Thị Quang Đức


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy giáo,
cô giáo Trường Đại học Luật Hà Nội, các thầy giáo, cô giáo Khoa Sau đại
học, Khoa Hành chính – Nhà nước, các thầy giáo, cô giáo trong Tiểu ban
chuyên ngành Luật hành chính đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình học tập cũng như hoàn thành luận văn thạc sỹ.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới cô giáo, TS. Nguyễn Thị Thủy –
người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình thực hiện và
hoàn thành luận văn thạc sỹ này.
Tôi cũng xin bày tỏ lời biết ơn tới gia đình, người thân, bạn bè, đồng
nghiệp, đặc biệt là mẹ đã luôn ở bên cạnh, động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện
thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn thạc sỹ.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2014.
Tác giả
Nguyễn Thị Quang Đức


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài ............................................. 3
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ........................................................................ 3
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài .................................... 4
6. Bố cục của Luận văn ....................................................................................... 4

Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐẤT ĐAI .......... 5
1.1. Khái niệm quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về
đất đai .................................................................................................................. 5
1.2. Điều chỉnh của pháp luật đối với quyết định hành chính trong lĩnh vực
quản lý nhà nước về đất đai .............................................................................. 10
1.1.1. Thẩm quyền ban hành quyết định hành chính trong lĩnh vực quản
lý nhà nước về đất đai .................................................................................... 10
1.1.2. Căn cứ ban hành quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà
nước về đất đai ............................................................................................... 13
1.1.3. Nội dung của quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà
nước về đất đai ............................................................................................... 15
1.1.4. Thủ tục ban hành quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý
nhà nước về đất đai ........................................................................................ 20
1.1.5. Hình thức của quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà
nước về đất đai ............................................................................................... 23
1.1.6. Kiểm tra, giám sát và xử lý quyết định hành chính trong lĩnh vực
quản lý nhà nước về đất đai khiếm khuyết .................................................... 24
1.3. Vai trò của quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về
đất đai ................................................................................................................ 25


Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐẤT ĐAI ....................................... 28
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về quyết định hành chính trong lĩnh
vực quản lý nhà nước về đất đai ....................................................................... 28
2.2. Thực tiễn ban hành và thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực
quản lý nhà nước về đất đai .............................................................................. 35
2.2.1. Thực tiễn ban hành quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý
nhà nước về đất đai ........................................................................................ 35

2.2.1.1. Những thành tựu đạt được .............................................................35
2.2.1.2. Hạn chế, bất cập ............................................................................36
2.2.2. Thực tiễn thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý
nhà nước về đất đai ........................................................................................ 46
2.2.2.1. Những thành tựu đạt được .............................................................46
2.2.2.2. Hạn chế, bất cập ............................................................................47
2.3. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế của quyết định hành chính trong lĩnh vực
quản lý nhà nước về đất đai ................................................................................ 51
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC VỀ ĐẤT ĐAI ............................................................................... 55
3.1. Quan điểm, phương hướng về quyết định hành chính trong lĩnh vực
quản lý nhà nước về đất đai .............................................................................. 55
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quyết định hành chính trong
lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai ................................................................ 57
3.2.1. Giải pháp về xây dựng, ban hành pháp luật ........................................ 57
3.2.2. Giải pháp về tổ chức, thực hiện quyết định hành chính trong lĩnh
vực quản lý nhà nước về đất đai .................................................................... 66
3.2.3. Một số giải pháp khác .......................................................................... 67
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GCNQSDĐ

: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất


HĐND

: Hội đồng nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân

QĐHC

: Quyết định hành chính

QLNN

: Quản lý nhà nước

QPPL

: Quy phạm pháp luật

VBQPPL

: Văn bản quy phạm pháp luật


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tài sản, nguồn lực to lớn của đất

nước và là nguồn sống của nhân dân. Quản lý đất đai nói chung và QLNN trong
lĩnh vực đất đai nói riêng là một vấn đề quan trọng nhưng cũng vô cùng phức
tạp, liên quan đến chủ quyền quốc gia, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của mỗi cá nhân. Tại các văn kiện của Ban chấp hành Trung ương
Đảng như kết luận số 22-KL/TW tại Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, Nghị
quyết trung ương 7 khóa IX, Nghị quyết 19-NQ/TW Hội nghị lần thứ 6 Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã khẳng định và nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc quản lý đất đai ở nước ta hiện nay.
Đảng và Nhà nước có nhiều cách thức để QLNN trong lĩnh vực đất đai,
trong đó, ban hành QĐHC là một trong những phương thức được áp dụng phổ
biến trên thực tế. Thông qua QĐHC, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể
giải quyết kịp thời các công việc QLNN trong lĩnh vực đất đai như giao đất, cho
thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất,… bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Đồng thời, QĐHC cũng trực
tiếp tạo ra những chuyển biến trong lĩnh vực này theo đúng mục đích, yêu cầu
của hoạt động QLNN. Với những ý nghĩa đó, QĐHC có vai trò rất quan trọng
trong lĩnh vực QLNN về đất đai.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, số lượng QĐHC trong lĩnh vực QLNN về đất
đai (sau đây gọi là QĐHC về đất đai) được ban hành hàng năm vô cùng lớn
nhưng số lượng QĐHC bất hợp pháp, bất hợp lý, số lượng QĐHC bị khiếu nại,
khởi kiện (chủ yếu là các quyết định thu hồi đất, quyết định bồi thường khi thu
hồi đất, quyết định giao đất, cho thuê đất…) cũng rất nhiều. Điều này ảnh hưởng
không nhỏ tới quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, cũng như gây khó khăn trong
hoạt động QLNN về đất đai.


2
Xuất phát từ các lý do trên, cùng với mong muốn đi sâu nghiên cứu, tìm
hiểu những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn và đưa ra một số ý kiến nhằm nâng
cao hiệu quả của QĐHC về đất đai, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số vấn

đề lý luận và thực tiễn về quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà
nước về đất đai” để làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình. Hy vọng việc nghiên
cứu đề tài sẽ góp phần nâng cao chất lượng QĐHC về đất đai và hoàn thiện hơn
hệ thống pháp luật trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về QĐHC nói chung và QĐHC trong
lĩnh vực QLNN về đất đai nói riêng là một trong những vấn đề được nhiều tác
giả quan tâm. Bởi vậy, liên quan đến nội dung của đề tài này đã có một số công
trình nghiên cứu, bài viết như: Bùi Thị Đào,“Tính hợp pháp và tính hợp lý của
QĐHC”, Luận án tiến sỹ Luật học, Hà nội, 2008,… Một số bài viết trên các tạp
chí chuyên ngành như: TS.LS. Nguyễn Thanh Bình, “Nhận diện tính bất hợp
pháp của QĐHC trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai”, tạp chí Nghề luật,
số 2 tháng 4/2013; Ths. Cao Minh Vũ, “Bảo đảm quyền con người trong các
QĐHC về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất”, tạp chí Luật
học, số 1/2013; PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải, “Từ vụ việc cưỡng chế thu hồi đất ở
Tiên Lãng bàn về hiệu quả của QĐHC nhà nước và vấn đề đặt ra trong đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức”, tạp chí quản lý nhà nước, số 196 (5/2012); TS.
Nguyễn Văn Liêm, “Tăng cường giám sát, kiểm tra việc ban hành, thực hiện
QĐHC góp phần hạn chế khiếu kiện”, tạp chí Thanh tra, số 5/2011; Ths. Trần
Văn Duy, “Bàn về tính hợp pháp, hợp lý trong quyết định quản lý nhà nước”,
tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11/2009; TS. Nguyễn Văn Quang, “Căn cứ
đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính”, tạp chí Luật học, số
11/2013,… Tuy nhiên, hầu hết các công trình nói trên chủ yếu tập trung đi sâu
nghiên cứu về QĐHC nói chung. Số lượng công trình nghiên cứu cũng như bài
viết về QĐHC về đất đai chưa nhiều và mới chỉ dừng lại ở việc khái quát hoặc đi
sâu nghiên cứu về một số loại quyết định cụ thể ở lĩnh vực này. Bởi vậy, với


3
công trình nghiên cứu của mình, tác giả sẽ nghiên cứu những vấn đề lý luận và

thực tiễn về QĐHC trong lĩnh vực QLNN về đất đai một cách toàn diện hơn trên
cơ sở kế thừa và phát triển các công trình nghiên cứu trước đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
 Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Đề tài phân tích cơ sở lý luận của QĐHC về đất đai. Trên cơ sở đó, tác giả
xem xét thực trạng các quy định của pháp luật; thực tiễn việc ban hành và thi
hành QĐHC về đất đai để thấy được hạn chế, bất cập và đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của QĐHC trong lĩnh vực này ở nước ta trong thời gian tới.
 Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết những vấn đề cơ bản
sau đây:
- Phân tích cơ sở lý luận về QĐHC trong lĩnh vực QLNN về đất đai.
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn ban hành, thi hành QĐHC về
đất đai. Phát hiện hạn chế và chỉ ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng ban
hành, thi hành QĐHC về đất đai bất hợp pháp, bất hợp lý trong thời gian qua.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của QĐHC về đất đai
trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
QĐHC được sử dụng phổ biến trong hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước với nội dung, hình thức và tính chất khác nhau. QĐHC được chia
thành ba loại cơ bản: quyết định chủ đạo, quyết định quy phạm và quyết định cá
biệt. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ đi sâu vào nghiên cứu về
QĐHC cá biệt trong lĩnh vực QLNN về đất đai. Đây là loại quyết định được chủ
thể QLNN ban hành với số lượng lớn để giải quyết các vụ việc đất đai cụ thể
phát sinh trên thực tế và ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đất.


4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam
về Nhà nước và pháp luật để làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về QĐHC
trong lĩnh vực QLNN về đất đai.
Đồng thời, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học xã
hội và khoa học pháp lý để làm rõ các vấn đề tập trung trong luận văn, đó là:
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương
pháp mô tả, phương pháp thống kê,...
6. Bố cục của Luận văn
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về quyết định hành chính trong lĩnh vực
quản lý nhà nước về đất đai.
Chương 2. Thực trạng quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà
nước về đất đai.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quyết định hành
chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai.


5
Chƣơng 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐẤT ĐAI
1.1. Khái niệm quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nƣớc về
đất đai
Theo học thuyết Mác – Lê Nin, nhà nước là một tổ chức quyền lực đặc
biệt được sinh ra trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định với mục đích
duy trì trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển. Để thực hiện sứ mệnh đó, nhà nước
tiến hành nhiều hoạt động khác nhau mà đặc trưng là những hoạt động mang tính
quyền lực nhà nước. Một trong những biểu hiện của việc thực hiện quyền lực
nhà nước là hoạt động ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định pháp luật.
“ Quyết định” là định một cách chắc chắn, với ý nhất định phải thực hiện

[32]. Trong hoạt động QLNN, chủ thể quản lý có thẩm quyền phải ban hành các
quyết định để giải quyết những vấn đề cụ thể. Nói cách khác, quyết định là giải
pháp, phương án được lựa chọn để giải quyết một vấn đề (hoặc một nhóm vấn
đề) trong hoạt động quản lý.
Theo giáo trình Luật Hành chính (Khoa Luật Trường đại học khoa học xã
hội và nhân văn, năm 1994) thì “quyết định” được bắt nguồn từ thuật ngữ La
tinh – “Actus” nghĩa là hành động. Các tài liệu pháp lý nước ngoài khi nói về
quyết định cũng xuất phát từ nghĩa đó của “Actus” để chỉ những hành vi cụ thể.
Chính vì vậy, trong khoa học pháp lý, quyết định là tạo ra hiệu lực pháp luật và
đó chính là quyết định pháp luật.
Dựa vào mục đích sử dụng quyền lực nhà nước khi ban hành thì quyết
định được chia thành ba nhóm: quyết định lập pháp, QĐHC, quyết định tư pháp.
Trên cơ sở sự phân công thực hiện quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà
nước mà mỗi nhóm quyết định chủ yếu được ban hành bởi các cơ quan nhất định
phù hợp với chức năng của các cơ quan đó. Trong đó, QĐHC chủ yếu được ban
hành bởi cơ quan hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, cơ quan quyền lực, cơ


6
quan xét xử, cơ quan kiểm sát cũng có quyền ban hành QĐHC nhưng chỉ được
ban hành với số lượng ít, phạm vi hẹp, thường là các quyết định nhằm xây dựng,
ổn định chế độ công tác, nội bộ cơ quan và khả năng tác động trực tiếp tới các
lĩnh vực khác nhau trong xã hội rất hạn chế.
QĐHC không phải là đề tài mới mẻ trong khoa học thực tiễn pháp lý.
Khái niệm này đã được nghiên cứu và sử dụng với phạm vi, mức độ, mục đích
khác nhau nên cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Dưới góc độ hình thức biểu hiện, QĐHC thường được tiếp cận ở hai phạm
vi: Một là, QĐHC gồm quyết định bằng văn bản, quyết định bằng lời nói, dấu
hiệu, ký hiệu; Hai là, QĐHC chỉ là các quyết định bằng văn bản. Qua các quy
định của pháp luật và thực tiễn pháp lý đã khẳng định tính ưu việt của quyết định

bằng văn bản so với quyết định không thể hiện bằng văn bản. Nếu như quyết
định bằng lời nói, dấu hiệu, ký hiệu tạo nên sự sống động, linh hoạt của quản lý
thì quyết định bằng văn bản lại phản ánh tính khuôn mẫu, tính có căn cứ chắc
chắn, tạo nên sự ổn định của hoạt động QLNN. Tuy nhiên, các QĐHC biểu hiện
dưới dạng lời nói, dấu hiệu, ký hiệu (hay nói cách khác là được thể hiện bằng
hành vi) trong hoạt động tổ chức trực tiếp QLNN cần được nghiên cứu dưới
khoa học quản lý nhiều hơn góc độ khoa học pháp lý. Bởi vậy, các QĐHC ở đây
chỉ là quyết định được thể hiện dưới dạng văn bản.
Dưới góc độ tính chất, QĐHC cũng được tiếp cận dưới hai góc độ: QĐHC
chỉ là quyết định cá biệt và QĐHC bao gồm quyết định cá biệt, quyết định quy
phạm (hoặc thêm cả quyết định chủ đạo).
Có quan điểm cho rằng QĐHC là văn bản do cơ quan hành chính nhà
nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ
chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động QLNN được
áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Với quan điểm này
thì QĐHC chỉ là QĐHC cá biệt do cơ quan hành chính nhà nước ban hành. Tuy
nhiên, một số ít cơ quan hành chính nhà nước vẫn còn có thẩm quyền ban hành


7
QĐHC quy phạm. Do vậy, việc hiểu QĐHC chỉ là quyết định cá biệt sẽ không
đầy đủ và không bao quát được hết các loại QĐHC.
Có quan điểm lại cho rằng QĐHC không chỉ là quyết định cá biệt mà còn
bao gồm cả quyết định quy phạm, quyết định chủ đạo. Để thực hiện quyền hành
pháp, bên cạnh việc áp dụng pháp luật để giải quyết công việc cụ thể phát sinh
trong hoạt động QLNN thì cơ quan nhà nước còn đặt ra các QPPL điều chỉnh các
quan hệ xã hội phổ biến, điển hình trong xã hội. Nói cách khác, chủ thể có thẩm
quyền cũng có thể ban hành các quyết định quy phạm áp dụng cho nhiều cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Quan điểm này cũng được ghi nhận trong Từ điển Luật học, ở đó QĐHC

bao gồm quyết định chủ đạo, quyết định quy phạm, quyết định cá biệt: “Quyết
định trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. QĐHC thể hiện ý chí quyền
lực đơn phương của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của người có chức vụ, tổ
chức và cá nhân được nhà nước trao quyền, được thực hiện trên cơ sở và để thi
hành pháp luật, theo trình tự và hình thức do pháp luật quy định hướng tới việc
thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính” [33, tr.658].
Như vậy, có thể thấy, hiện nay vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về
khái niệm QĐHC. Với mỗi cách tiếp cận khác nhau chúng ta có thể xem xét
QĐHC dưới những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các cách tiếp cận khái niệm
QĐHC nêu trên phù hợp với nội dung, mục đích nghiên cứu trong các trường
hợp tương ứng. Tổng kết những phân tích trên, có thể hiểu“QĐHC là quyết định
do các cơ quan, người có thẩm quyền, các cá nhân, tổ chức được Nhà nước trao
quyền ban hành theo hình thức, thủ tục pháp luật quy định, thể hiện ý chí của
chủ thể quản lý dưới dạng các QPPL hay các mệnh lệnh cá biệt giải quyết các
công việc có thể phát sinh trong quản lý hành chính, nhằm thực hiện chức năng
quản lý hành chính nhà nước”.
QĐHC được ban hành để giải quyết những vụ việc/ tình huống phát sinh
trong nhiều lĩnh vực khác nhau của hoạt động QLNN, trong đó có lĩnh vực đất


8
đai. Do những nét đặc thù của lĩnh vực này nên QĐHC về đất đai mang nhiều
đặc điểm riêng so với QĐHC nói chung và QĐHC trong các lĩnh vực khác.
Một là, QĐHC về đất đai chủ yếu do cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
ban hành.
QĐHC được ban hành bởi nhiều chủ thể khác nhau – đó là các chủ thể
nằm trong bộ máy nhà nước, thường xuyên sử dụng quyền lực nhà nước như cơ
quan, cán bộ, công chức nhà nước. Trong lĩnh vực đất đai, QĐHC do Chính phủ
và UBND các cấp ban hành. Dựa vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan và
nội dung của từng loại QĐHC về đất đai mà Chỉnh phủ hoặc UBND các cấp có

thẩm quyền ban hành QĐHC về đất đai đối với từng đối tượng bị áp dụng khác
nhau. Chẳng hạn, UBND cấp tỉnh có thẩm quyền ban hành quyết định giao đất,
cho thuê đất đối với tổ chức, trong khi UBND cấp huyện có thẩm quyền ban
hành quyết định giao đất, cho thuê đất đối với hộ gia đình, cá nhân. Hoặc UBND
cấp tỉnh có thẩm quyền ban hành quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở
tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài,… thì UBND cấp huyện có thẩm
quyền ban hành quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng
dân cư; Tuy nhiên, nếu khu vực thu hồi đất bao gồm cả đối tượng thuộc thẩm
quyền của UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện thì UBND cấp tỉnh ban hành
quyết định thu hồi đất hoặc có thể ủy quyền cho UBND cấp huyện. Như vậy, có
thể thấy tùy vào trường hợp áp dụng và đối tượng áp dụng mà UBND các cấp
ban hành QĐHC về đất đai phù hợp. Đặc biệt, thẩm quyền này chỉ thuộc về cơ
quan QLNN về đất đai mà không thuộc về cơ quan QLNN trong các lĩnh vực khác.
Hai là, QĐHC về đất đai giải quyết những vấn đề cụ thể trong QLNN về
đất đai.
Khác với QĐHC nói chung – được ban hành nhằm đề ra những chủ
trương, chính sách lớn hoặc đặt ra các quy tắc xử sự để điều chỉnh mối quan hệ
phát sinh trong thực tiễn QLNN,… thì QĐHC về đất đai được ban hành nhằm
giải quyết những công việc, vấn đề cụ thể trong QLNN về đất đai như thu hồi


9
đất, giao đất, cho thuê đất, cấp GCNQSDĐ… QĐHC về đất đai ra đời đã kịp
thời giải quyết các vụ việc, vấn đề phát sinh trên thực tế, giúp người sử dụng đất
đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Bên cạnh đó, QĐHC về đất đai được ban hành còn có hiệu lực thi hành
ngay và người sử dụng đất được quyền khiếu nại, khởi kiện nếu cho rằng QĐHC
đó bất hợp pháp, xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Ba là, QĐHC về đất đai ảnh hưởng đến lợi ích vật chất của phần lớn đối
tượng sử dụng đất.

Nếu QĐHC nói chung ảnh hưởng tới quyền, lợi ích của đối tượng chịu sự
tác động trực tiếp của QĐHC trong nhiều lĩnh vực QLNN thì QĐHC về đất đai
ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích vật chất của phần lớn đối tượng sử dụng đất. Khi
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quyết định giao đất, cho thuê đất, cấp
GCNQSDĐ thì có nghĩa các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có quyền sử dụng
mảnh đất được giao để sinh sống, làm ăn và được hưởng những lợi ích vất chất
hợp pháp do mảnh đất mang lại. Thế nhưng, khi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành quyết định thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất thì đối tượng sử
dụng đất phải giao đất cho Nhà nước. Điều đó đồng nghĩa với việc quyền, lợi ích
của người sử dụng đất cũng bị ảnh hưởng. Từ đó cho thấy, QĐHC về đất đai có
ảnh hưởng to lớn đến đối tượng sử dụng đất. Nếu QĐHC về đất đai đảm bảo tính
hợp pháp, tính hợp lý thì quyền lợi của đối tượng sử dụng đất được đảm bảo,
ngược lại sẽ xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của họ, làm phát sinh tình
trạng khiếu nại, khởi kiện gây ảnh hưởng tới hoạt động QLNN trong lĩnh vực đất đai.
Tóm lại, dựa vào khái niệm QĐHC nói chung và những đặc điểm riêng
của QĐHC về đất đai cho thấy QĐHC về đất đai là một dạng cụ thể của QĐHC
– QĐHC cá biệt. Từ đó có thể hiểu “QĐHC trong lĩnh vực QLNN về đất đai là
văn bản do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ban hành, quyết định
về một vấn đề cụ thể trong hoạt động QLNN về đất đai, được áp dụng một lần
đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể”.


10
1.2. Điều chỉnh của pháp luật đối với quyết định hành chính trong lĩnh vực
quản lý nhà nƣớc về đất đai
Điều chỉnh pháp luật là quá trình tác động có định hướng, có mục đích
của pháp luật (với tư cách là công cụ điều chỉnh) lên các quan hệ xã hội nhằm
sắp xếp chúng có trật tự, bảo vệ chúng và hướng chúng phát triển theo những
định hướng nhất định để đạt được những mục đích trên [29, tr.231]. Điều chỉnh
pháp luật đối với QĐHC về đất đai chính là quá trình tác động có định hướng, có

mục đích của pháp luật vào quá trình ban hành, thi hành QĐHC về đất đai để
QĐHC trong lĩnh vực này đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về tính hợp pháp, tính
hợp lý.
Pháp luật cần hướng tới điều chỉnh QĐHC về đất đai ở những nội dung cơ
bản sau:
1.1.1. Thẩm quyền ban hành quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý
nhà nước về đất đai
Thẩm quyền với ý nghĩa là “quyền xem xét để kết luận và định đoạt một
vấn đề theo pháp luật”. Thẩm quyền ban hành QĐHC về đất đai là tiêu chí đầu
tiên và có ý nghĩa quan trọng để đánh giá tính hợp pháp và minh bạch của
QĐHC trong lĩnh vực này. Bởi một QĐHC phải chính danh để từ đó người dân
có thể nắm rõ và phản hồi trực tiếp với chủ thể ban hành QĐHC. Đồng thời, việc
xác định rõ thẩm quyền sẽ là căn cứ cho việc quy trách nhiệm rõ ràng, tránh sự
nhập nhằng, đổ lỗi lẫn nhau và không có chủ thể đứng ra nhận trách nhiệm giữa
các cơ quan hành chính khi có vấn đề phát sinh do QĐHC về đất đai gây ra.
Thẩm quyền ban hành QĐHC về đất đai gồm có thẩm quyền về hình thức
và thẩm quyền về nội dung.
Thứ nhất, thẩm quyền về hình thức
Thẩm quyền về hình thức là việc cơ quan, cá nhân có thẩm quyền được
ban hành những loại QĐHC nào do pháp luật quy định. Trong lĩnh vực đất đai,
cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ban hành quyết định giao đất, quyết


11
định cho thuê đất, quyết định chuyển mục đích sử dụng đất, quyết định thu hồi
đất, quyết định trưng dụng đất, quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, quyết
định cấp GCNQSDĐ, quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định giải
quyết tranh chấp đất đai. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chủ thể
có thẩm quyền phải ban hành các loại QĐHC về đất đai nêu trên mà không được
tự mình sáng tạo ra một loại QĐHC về đất đai riêng.

Thứ hai, thẩm quyền về nội dung
Thẩm quyền về nội dung là việc cơ quan, cá nhân có thẩm quyền ban
hành QĐHC phù hợp với thẩm quyền của mình theo quy định của pháp luật.
Đất đai là lĩnh vực rộng lớn trong hoạt động QLNN và việc quy hoạch
đất, sử dụng đất gắn liền với việc phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương
cũng như phù hợp với nhu cầu của người dân ở đó. Do vậy, để phù hợp với nhu
cầu sử dụng đất của từng địa phương, đáp ứng được nguyện vọng của người dân
thì thẩm quyền ban hành QĐHC về đất đai phải là thẩm quyền theo lãnh thổ chứ
không nên là thẩm quyền theo ngành.
Thẩm quyền theo lãnh thổ được phân cấp cho các cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, cụ thể là UBND các cấp hoặc chủ tịch UBND các cấp. Nếu
thẩm quyền ban hành QĐHC về đất đai thuộc UBND thì cơ quan này có thể thay
mặt Nhà nước – đại diện chủ sở hữu đất đai toàn dân tiến hành giao đất, cho thuê
đất, chuyển mục đích sử dụng đất, cấp GCNQSDĐ tới từng hộ gia đình, cá nhân,
tổ chức sử dụng đất hoặc tiến hành thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất vì những lý
do khác nhau. Điều này là khá hợp lý. Tuy nhiên, UBND là tập thể nên thẩm
quyền ban hành QĐHC về đất đai sẽ thuộc về trách nhiệm của tập thể. Có nghĩa
là, để ban hành ra QĐHC về đất đai thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải
trải qua nhiều thủ thục hành chính. Điều này không phù hợp với xu hướng cải
cách thủ tục hành chính ở nước ta hiện nay. Bên cạnh đó, việc giao thẩm quyền
cho tập thể UBND phần nào sẽ dẫn đến hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm khi có
sai phạm, tạo khó khăn cho Nhà nước khi xác định trách nhiệm của chủ thể ban
hành QĐHC về đất đai khiếm khuyết.


12
Nếu thẩm quyền ban hành QĐHC về đất đai thuộc về chủ tịch UBND thì
sẽ nâng cao được trách nhiệm của cá nhân trong việc ban hành QĐHC về đất đai
cũng như góp phần giảm thiểu các thủ tục hành chính và theo kịp tiến trình cải
cách thủ tục hành chính ở nước ta hiện nay. Việc giao thẩm quyền cho chủ tịch

UBND các cấp cũng tạo điều kiện thuận lợi trong việc truy cứu trách nhiệm của
chủ thể ban hành quyết định thu hồi đất, quyết định giao đất,… khiếm khuyết,
hạn chế được tình trạng đùn đẩy trách nhiệm và đổi lỗi lẫn nhau. Tuy nhiên, giao
thẩm quyền cho cá nhân chủ tịch UBND các cấp thì quyền lực tập trung vào
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước là khá lớn. Điều này có thể dẫn tới
việc cảm tính trong quá trình ban hành QĐHC về đất đai và quá tải trong hoạt
động QLNN.
Mặc dù vậy, đất đai là lĩnh vực thường xuyên xảy ra tình trạng khiếu nại,
khởi kiện về QĐHC xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Để
khắc phục được tình trạng này cần nâng cao trách nhiệm của chủ thể ban hành
QĐHC về đất đai, cũng như phải xác định rõ được chủ thể chịu trách nhiệm khi
ban hành QĐHC về đất đai khiếm khuyết. Do đó, thẩm quyền ban hành QĐHC
về đất đai nên giao cho Chủ tịch UBND các cấp.
Mặt khác, pháp luật cũng nên xem xét tới việc ủy quyền hay không ủy
quyền trong quá trình ban hành QĐHC về đất đai. “Ủy quyền” phần nào có thể
sẽ hạn chế sự phân cấp, phân quyền trong hoạt động QLNN. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp đặc biệt thì việc ủy quyền cho cơ quan cấp dưới – Chủ tịch
UBND cấp huyện hoặc các cơ quan cùng cấp như sở Tài nguyên và Môi trường
thực hiện thẩm quyền của mình là cần thiết. Chẳng hạn, để thực hiện các dự án
của Nhà nước thì trước khi thu hồi đất, Quốc hội, Chính phủ, HĐND và UBND
cấp tỉnh đã phê duyệt kế hoạch sử dụng đất phù hợp với thẩm quyền được giao.
Nói cách khác, việc thu hồi đất đã có quy hoạch của Nhà nước và chủ thể ban
hành QĐHC về đất đai chỉ có thẩm quyền thu hồi đất đối với từng hộ gia đình,
cá nhân, tổ chức để triển khai dự án đó. Do đó, chủ thể có thẩm quyền ban hành
QĐHC về đất đai cấp tỉnh có thể ủy quyền cho chủ thể có thẩm quyền ban hành
QĐHC về đất đai cấp huyện thu hồi đất nhằm giảm tải công việc trong quá trình


13
QLNN và kịp thời giải quyết những trường hợp thu hồi đất cấp bách khi chủ thể

có thẩm quyền vắng mặt.
Hay trong trường hợp cấp GCNQSDĐ thì Sở Tài Nguyên và Môi trường
là cơ quan quản lý trực tiếp việc sử dụng đất và tham mưu cho chủ thể có thẩm
quyền cấp GCNQSDĐ. Bởi lẽ đó, việc ủy quyền cho sở Tài nguyên và Môi
trường trong việc cấp GCNQSDĐ có thể giảm tải được công việc cho chủ thể
cấp GCNQSDĐ cấp tỉnh cũng như nhanh, gọn hơn về thủ tục hành chính cấp
GCNQSDĐ.
Như vậy, QĐHC về đất đai được ban hành bởi chủ thể có thẩm quyền
thực hiện công việc liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của mình và không được
vượt quá giới hạn có thể mà pháp luật đã trao quyền cho họ. Những QĐHC về
đất đai không đáp ứng được nội dung thẩm quyền nêu trên được coi là QĐHC
bất hợp pháp và bị áp dụng biện pháp xử lý phù hợp để giữ gìn trật tự trong hoạt
động của bộ máy nhà nước.
1.1.2. Căn cứ ban hành quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà
nước về đất đai
Căn cứ ban hành là một trong những tiêu chí đánh giá tính minh bạch, tính
hợp pháp của QĐHC về đất đai. Việc xác định căn cứ ban hành có ý nghĩa trong
việc minh bạch hóa trách nhiệm của cơ quan hành chính, tránh khả năng tùy tiện
áp đặt, các mệnh lệnh không đúng pháp luật và không đúng với vụ việc xảy ra
trên thực tế. Căn cứ ban hành QĐHC về đất đai bao gồm căn cứ pháp lý và căn
cứ thực tiễn.
Thứ nhất, căn cứ pháp lý
Căn cứ pháp lý là các VBQPPL có hiệu lực cao hơn – tạo tiền đề cho việc
ban hành QĐHC về đất đai. Căn cứ pháp lý gồm có ba nhóm: nhóm văn bản
pháp luật quy định về thẩm quyền, nhóm văn bản pháp luật quy định về nội dung
và nhóm văn bản pháp luật quy định về thủ tục. Các nhóm căn cứ pháp lý này
được xác định ngay dưới tên mỗi QĐHC về đất đai.


14

Nhóm văn bản pháp luật quy định về thẩm quyền được xác định dựa trên
Luật ban hành VBQPPL, Luật đất đai và các VBQPPL điều chỉnh tổ chức, hoạt
động của cơ quan QLNN về đất đai như Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức
HĐND và UBND. Nhóm căn cứ này là cơ sở pháp lý giúp cơ quan nhà nước xác
định được chủ thể nào có thẩm quyền ban hành QĐHC về đất đai như quyết định
thu hồi đất, quyết định giao đất, quyết định cho thuê đất… một cách chính xác
nhất. Cụ thể, khi ban hành quyết định cho thuê đất thì các VBQPPL nêu trên
giúp cơ quan nhà nước xác định được UBND các cấp hay chủ tịch UBND các
cấp có thẩm quyền ban hành quyết định cho thuê đất và thẩm quyền đó ở mức độ,
phạm vi nào.
Nhóm văn bản pháp luật quy định về nội dung được xác định dựa trên
Luật Đất đai, các nghị định và văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Đối với quyết
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, quyết định giải quyết
tranh chấp đất đai thì cơ quan nhà nước cần căn cứ nội dung thêm tại Luật tố
tụng hành chính và Luật xử phạt vi phạm hành chính. Những VBQPPL này là cơ
sở pháp lý để cơ quan nhà nước xác định được tình huống/ vụ việc nào thuộc
phạm vi điều chỉnh của lĩnh vực đất đai và nội dung đó được pháp luật điều
chỉnh như thế nào, cần phải áp dụng biện pháp xử lý hoặc chế tài ra sao. Cụ thể,
khi ban hành quyết định thu hồi đất thì chủ thể có thẩm quyền sẽ dựa vào các
quy định tại Chương VI Luật Đất đai và văn bản hướng dẫn thi hành để xác định
được các trường hợp thu hồi đất, căn cứ thu hồi đất; hoặc chủ thể có thẩm quyền
cũng có thể dựa vào Chương V Luật Đất đai để xác định các đối tượng được
giao đất, cho thuê đất, thời hạn giao đất, cho thuê đất phù hợp với mục đích sử
dụng đất,… khi ban hành quyết định giao đất, cho thuê đất.
Cũng tương tự nhóm văn bản pháp luật quy định về nội dung, nhóm văn
bản pháp luật quy định về thủ tục được xác định dựa trên cơ sở Luật đất đai và
các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật. Đối với quyết định xử phạt vi
phạm hành chính, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai có thể được xác định
dựa vào Luật xử phạt vi phạm hành chính, Luật tố tụng hành chính. Nhóm căn
cứ này là cơ sở pháp lý vững chắc trong việc xác định trình tự, thủ tục ban hành



15
quyết định thu hồi đất, quyết định giao đất, quyết định cho thuê đất, quyết định
cấp GCNQSDĐ,…
Thứ hai, về căn cứ thực tiễn
Căn cứ thực tiễn là những sự kiện pháp lý nảy sinh trên thực tế làm căn
nguyên cho việc ban hành QĐHC về đất đai. Bên cạnh căn cứ pháp lý, chủ thể
có thẩm quyền cũng cần xem xét, đánh giá một cách chính xác, khách quan tình
huống/ vụ việc thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất, cấp GCNQSDĐ hay giao đất,
cho thuê đất,…trên thực tế khi ban hành QĐHC về đất đai. Việc dựa vào một
tình huống/ vụ việc có thật trên thực tế và xác định được đầy đủ “lí do”, “căn
cứ”, “chứng cứ” hay “bằng chứng” của tình huống/ vụ việc đó sẽ hạn chế được
tình trạng ban hành QĐHC về đất đai bất hợp pháp, bất hợp lý, xâm phạm tới
quyền và lợi ích của người sử dụng đất.
Tóm lại, sự hiện diện của căn cứ ban hành góp phần nâng cao chất lượng
QĐHC về đất đai ban hành. Đồng thời, nó cũng là nhân tố thuận lợi, cho phép
người dân, các chủ thể giám sát của QĐHC theo dõi và đánh giá tính hợp pháp,
minh bạch của QĐHC về đất đai.
1.1.3. Nội dung của quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước
về đất đai
QĐHC về đất đai được ban hành nhằm giải quyết những vụ việc cụ thể
như giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất, trưng dụng
đất, bồi thường, hỗi trợ, tái định cư, cấp GCNQSDĐ, cưỡng chế thu hồi đất, xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với một hoặc một số đối
tượng cụ thể; hoặc giải quyết tranh chấp giữa các đối tượng sử dụng đất.
Để hoạt động QLNN trong lĩnh vực đất đai đạt hiệu quả cao và QĐHC
phát huy được hết vai trò của nó thì pháp luật cần điều chỉnh nội dung của
QĐHC về đất đai ở những vấn đề sau:
Thứ nhất, về đối tượng áp dụng

Nội dung của QĐHC về đất đai phải xác định được đối tượng áp dụng của
QĐHC nhằm tạo điều kiện cho chủ thể có thẩm quyền trong quá trình ban hành


16
QĐHC về đất đai. Hiện nay, sử dụng đất là nhu cầu của rất nhiều cá nhân, tổ
chức trong xã hội, do đó người sử dụng đất có phạm vi rất lớn bao gồm tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tổ chức nước ngoài có
chức năng ngoại giao, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Những chủ thể này đều có thể trở thành đối tượng áp
dụng của QĐHC về đất đai. Tuy nhiên, đối với mỗi loại QĐHC về đất đai thì đối
tượng áp dụng mang những nét đặc thù riêng.
Nhóm quyết định giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
Đất đai là sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, do đó, tất cả
người sử dụng đất nêu trên đều có thể trở thành đối tượng áp dụng của QĐHC
nếu có nhu cầu sử dụng đất vì những mục đích chính đáng.
Nhóm quyết định thu hồi đất, trưng dụng đất, bồi thường, hỗ trợ tái định
cư khi thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất. Thu hồi đất, trưng dụng đất là việc nhà
nước thu lại quyền sử dụng đất hoặc trưng dụng quyền sử dụng đất của người
được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu hồi đất của người sử dụng đất vi
phạm pháp luật về đất đai. Do đó, đối tượng áp dụng của quyết định thu hồi đất,
trưng dụng đất là những người đang có quyền sử dụng đất nhưng vì những lý do
khác nhau mà Nhà nước thu lại hoặc trưng dụng quyền sử dụng đất đã trao.
Đồng thời với việc thu hồi đất, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với tất cả các chủ thể sử dụng đất nhưng bị
nhà nước thu hồi đất không phải vì vi phạm pháp luật về đất đai nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho họ nhanh chóng ổn định cuộc sống. Mặt khác, cơ quan nhà
nước cũng ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất đối với một số chủ thể sử
dụng đất không tự nguyện thi hành quyết định thu hồi đất.
Quyết định cấp GCNQSDĐ được cấp cho chủ thể đang sử dụng đất trên thực

tế nhằm xác nhận quyền sử dụng đất của họ. Đây cũng chính là cơ sở pháp lý hợp
pháp để nhà nước có thể bảo vệ người dân khi quyền và lợi ích của họ bị xâm hại.
Nhóm quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai,
quyết định giải quyết tranh chấp đất đai có đối tượng áp dụng tương đối đặc


17
biệt. Nếu như các QĐHC về đất đai nêu trên áp dụng đối với hầu hết chủ thể sử
dụng đất thì quyết định xử phạt vi phạm hành chính chỉ áp dụng đối với người sử
dụng đất vi phạm pháp luật đất đai, xâm hại tới quyền, lợi ích của người khác;
Quyết định giải quyết tranh chấp đất đai chỉ áp dụng đối với hai hoặc nhiều bên
chủ thể đang có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ đất đai.
Thứ hai, về trường hợp áp dụng
Đất đai là tư liệu sản xuất, là nơi sinh sống của người dân. Các tổ chức, cá
nhân, hộ gia đình đã sử dụng đất đai trong nhiều trường hợp cụ thể nhằm phục vụ
lợi ích cho bản thân cũng như cho toàn xã hội. Do đó, điều chỉnh của pháp luật đối
với trường hợp áp dụng của từng nhóm QĐHC về đất đai là vô cùng cần thiết.
Nhóm quyết định giao đất, cho thuê đất. Nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa
các chủ thể được giao đất, cho thuê đất, nhà nước tiến hành giao quyền sử dụng
đất dưới hai hình thức không thu tiền sử dụng và thu tiền sử dụng; cho thuê
quyền sử dụng đất theo các hình thức trả tiền khác nhau. Theo đó, giao đất
không thu tiền sử dụng đất được áp dụng đối với những trường hợp phục vụ cho
lợi ích phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước và ổn định đời sống của nhân dân.
Giao đất có thu tiền sử dụng đất áp dụng đối với trường hợp cơ quan, tổ chức, cá
nhân sử dụng đất để ở hoặc thực hiện các dự án xây dựng nhà ở, dự án đầu tư
vào các lĩnh vực xã hội khác. Để đáp ứng nhu cầu sử dụng đất của người dân thì
chỉ giao đất là chưa đủ, nhà nước còn tiến hành cho thuê đất đối với tất cả chủ
thể mong muốn sử dụng đất vào việc kinh doanh thương mại, dịch vụ hợp pháp;
để thực hiện các dự án đầu tư vào nông, lâm, ngư, nghiệp; xây dựng các công
trình công cộng hoặc trụ sở làm việc.

Quyết định chuyển mục đích sử dụng đất. Trong quá trình sử dụng đất, đối
tượng bị áp dụng QĐHC về đất đai có những định hướng, nhu cầu mới trong
việc khai thác, sử dụng đất và cần thiết phải chuyển đổi sang loại đất khác để
thực hiện được mục đích của mình. Do đó, quyết định chuyển mục đích sử dụng
đất được áp dụng trong trường hợp người sử đất có mong muốn chuyển mục


18
đích sử dụng đất và được sự cho phép của nhà nước như chuyển đất nông nghiệp
sang đất phi nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không phải đất ở sang đất ở,…
Nhóm quyết định thu hồi đất, quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi thu hồi đất, quyết định cưỡng chế thu hồi đất. Thu hồi đất là một vấn đề nhạy
cảm bởi lẽ không một đối tượng sử dụng đất nào mong muốn mảnh đất đang
sinh sống bị mất quyền sử dụng đất. Hơn nữa, việc thu hồi cũng ảnh hưởng lớn
tới lợi ích vật chất của người sử dụng đất. Do đó, nhà nước chỉ tiến hành thu hồi
đất khi thực sự cần thiết như vì mục đích an ninh, quốc phòng, để phát triển kinh
tế - xã hội vì lợi ích của quốc gia, công cộng, việc sử dụng đất có nguy cơ đe dọa
đến tính mạng con người hoặc do vi phạm pháp luật về đất đai; Nhà nước cũng
thu hồi đất khi hết thời hạn sử dụng đất hoặc người dân tự nguyện trả lại đất.
Kéo theo quyết định thu hồi đất, quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
thu hồi đất sẽ được ban hành tương ứng với các trường hợp khi nhà nước thu hồi
đất để hỗ trợ người dân nhanh chóng ổn định cuộc sống.
Mặt khác, nhằm đảm bảo quyết định thu hồi đất được thực thi trên thực tế,
quyết định cưỡng chế thu hồi đất ban hành trong trường hợp người sử dụng đất
không thi hành, gây khó khăn hoặc chống đối lại quyết định thu hồi đất của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Quyết định cấp GCNQSDĐ là chứng thư hợp pháp để nhà nước xác nhận
quyền sử dụng đất hợp pháp. Do đó, tất cả những trường hợp người sử dụng đất có
giấy tờ đầy đủ, hợp pháp, được thừa kế, được tặng cho, được nhận chuyển đổi, người
mua nhà, tài sản khác gắn liền với đất, người sử dụng đất tách thửa, hợp thửa, vợ

chồng chia tách hoặc hợp nhất quyền sử dụng đất… thì đều được cấp GCNQSDĐ.
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai được áp
dụng trong trường hợp người sử dụng đất có hành vi vi phạm pháp luật xâm hại
đến quan hệ QLNN về đất đai như lấn, chiếm đất, sử dụng đất không đúng mục
đích theo quyết định giao đất, cho thuê đất hoặc gây cản trở cho việc sử dụng đất
của người khác,…


19
Cuối cùng, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai được ban hành trong
trường hợp hai hoặc nhiều bên chủ thể sử dụng đất có tranh chấp, không thỏa
thuận được với nhau về quyền và nghĩa vụ của mình khi sử dụng đất. Chẳng hạn
như tranh chấp về diện tích sử dụng đất, về quyền sử dụng đất đối với một mảnh
đất nhất định,…
Thứ ba, về phương thức áp dụng
Phương thức áp dụng chính là cách thức chủ thể có thẩm quyền tiến hành
thực thi QĐHC về đất đai trên thực tế. Hầu hết QĐHC về đất đai như quyết định
giao đất, quyết định cho thuê đất, quyết định chuyển mục đích sử dụng đất,…
được ban hành chủ yếu dựa trên ý chí, nguyện vọng của người sử dụng đất. Bởi
vậy, người dân thường tự nguyện và nhanh chóng thi hành các QĐHC về đất đai
đó trên thực tế.
Thế nhưng, quyết định thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất là những QĐHC
về đất đai xuất phát chủ yếu từ ý chí của chủ thể QLNN và ảnh hưởng trực tiếp
tới lợi ích vật chất của người sử dụng đất nên việc thi hành QĐHC này thường
chậm và gặp phải sự phản kháng của người dân. Vì vậy, nhà nước bắt buộc phải
sử dụng các biện pháp cưỡng chế để triển khai quyết định thu hồi đất trên thực
tế. Phương thức cưỡng chế cũng chính là điểm khác biệt giữa quyết định thu hồi
đất, quyết định cưỡng chế thu hồi đất so với các QĐHC về đất đai khác.
Thứ tư, một số nội dung khác
Hầu hết QĐHC về đất đai đều tập trung giải quyết nhu cầu của người dân,

của nhà nước trong quá trình sử dụng đất. Tuy nhiên, quyết định xử phạt vi phạm
hành chính về đất đai và quyết định giải quyết tranh chấp đất đai là hai loại
QĐHC giải quyết các vụ việc, vấn đề đất đai đã phát sinh trên thực tế mà người
sử dụng đất có những hành vi vi phạm pháp luật hoặc có mâu thuẫn không thỏa
thuận được. Do đó, ngoài việc xác định đối tượng bị áp dụng, trường hợp áp
dụng, phương thức áp dụng thì quyết định xử phạt vi phạm hành chính còn xác
định biện pháp xử lý đối với chủ thể sử dụng đất có hành vi vi phạm pháp luật
như phạt tiền, buộc khắc phục lại tình trạng đất như trước khi vi phạm,…; quyết


×