BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
CAO THỊ NGỌC YẾN
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ VƢƠNG LONG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ
và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin
cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Cao Thị Ngọc Yến
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
7
1.1. Khái niệm, mục đích, yêu cầu của phổ biến, giáo dục pháp luật cho
đồng bào dân tộc thiểu số
7
1.2. Chủ thể, đối tƣợng của phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào
dân tộc thiểu số
13
1.3. Nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân
tộc thiểu số
16
1.4. Hiệu quả và các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả phổ biến, giáo dục
pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
19
Chương 2: THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG
BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Nghệ An
24
24
2.2. Kết quả đạt đƣợc và nguyên nhân của hoạt động phổ biến, giáo dục
pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
29
2.3. Hạn chế và nguyên nhân của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
cho đồng bào dân tộc thiểu số
44
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHỔ
BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY
54
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng
bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Nghệ An
54
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào
dân tộc thiểu số ở tỉnh Nghệ An
56
KẾT LUẬN
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
76
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DTTS
: Dân tộc thiểu số
HĐND
: Hội đồng nhân dân
PBGDPL
: Phổ biến, giáo dục pháp luật
UBND
: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
bảng
2.1
Thành phần các dân tộc tỉnh Nghệ An
25
2.2
Số lƣợng chƣơng trình tuyên truyền PBGDPL
33
2.3
Kết quả hoạt động của tổ hòa giải cơ sở năm 2013
34
2.4
Trình độ chuyên môn của cán bộ thực hiện PBGDPL năm 2013
37
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
Tên biểu đồ
Trang
biểu đồ
2.1
Cơ cấu thành viên của Tổ hòa giải cơ sở năm 2013
38
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đất nƣớc ta đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân với một
trong những đặc trƣng cơ bản và quan trọng là Nhà nƣớc quản lý xã hội bằng pháp
luật và pháp luật có vị trí tối thƣợng trong đời sống xã hội. Để thực hiện đƣợc điều
đó đòi hỏi các chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc phải thực
sự đi vào cuộc sống, trở thành hành vi thực tế, hợp pháp của từng chủ thể, các cơ
quan nhà nƣớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng
và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) là cầu nối để chuyển tải pháp luật
vào cuộc sống, là khâu đầu tiên của hoạt động thực thi pháp luật và là phƣơng tiện
không thể thiếu trong việc nâng cao tri thức pháp luật, ý thức tôn trọng, chấp hành
pháp luật của mọi tầng lớp nhân dân. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của hoạt động
PBGDPL, Đảng và Nhà nƣớc ta rất quan tâm và thƣờng xuyên chỉ đạo, tổ chức thực
hiện hoạt động PBGDPL một cách có hiệu quả. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng
và pháp luật của Nhà nƣớc đã đề cập đến vấn đề PBGDPL.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI - Đại hội của đƣờng lối đổi mới toàn
diện đất nƣớc khẳng định rõ vai trò của hoạt động PBGDPL:
Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật,
đƣa việc dạy pháp luật vào hệ thống các trƣờng của Đảng, của Nhà nƣớc
kể cả các trƣờng phổ thông, đại học, của các đoàn thể nhân dân. Cán bộ
quản lý các cấp từ trung ƣơng đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức pháp
luật, cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật và làm tƣ vấn pháp luật cho nhân dân [16].
Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng về
tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động PBGDPL, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã khẳng định: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là
một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ
2
thống chính trị đặt dƣới sự lãnh đạo của Đảng” [18]. Đặc biệt là sự ra đời của Luật
PBGDPL năm 2012 đã một lần nữa khẳng định vai trò to lớn của PBGDPL và sự quan
tâm của Đảng, Nhà nƣớc đối với hoạt động này. Luật đã khẳng định: “Phổ biến, giáo
dục pháp luật là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó Nhà nƣớc giữ
vai trò nòng cốt; Nhà nƣớc bảo đảm nguồn lực cần thiết cho công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật; Thực hiện xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật...” [37,
Điều 3].
Thực hiện các văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc về PBGDPL,
thời gian qua, các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các Bộ, ngành, đoàn thể và địa
phƣơng đã chỉ đạo, tổ chức triển khai hoạt động PBGDPL. Hoạt động PBGDPL đã
đạt đƣợc nhiều kết quả quan trọng, hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật đã đƣợc
phổ biến bằng nhiều hình thức phong phú, phù hợp với từng đối tƣợng và địa bàn,
đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của cán bộ và nhân dân; hiểu biết pháp luật và ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân từng bƣớc
đƣợc nâng lên, góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc bằng pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc thì vẫn còn có những tồn tại, công
tác PBGDPL còn nhiều bất cập, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán
bộ, công chức, viên chức và ngƣời dân trong xã hội chƣa cao, nhất là đối với đồng
bào dân tộc thiểu số (DTTS), trong đó có vùng đồng bào DTTS ở tỉnh Nghệ An.
Đồng bào DTTS hiện chiếm gần 14% dân số cả nƣớc (trên 12 triệu
ngƣời), trong đó thanh niên DTTS có gần 4 triệu ngƣời cƣ trú trên địa bàn rộng
thuộc các vùng xung yếu, chiến lƣợc của đất nƣớc. Trong những năm qua đƣợc sự
quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc, đời sống vật chất cũng nhƣ ý thức pháp luật của
đồng bào DTTS nói chung, đồng bào DTTS ở tỉnh Nghệ An nói riêng đƣợc nâng
lên rõ rệt. Tuy nhiên, DTTS gắn liền với những nét đặc thù nhƣ trình độ văn hóa
thấp, đời sống còn nhiều khó khăn nên họ quan tâm đến nhu cầu tìm kiếm cơm ăn,
áo mặc hơn là tìm hiểu các tri thức văn hóa, các chuẩn mực xã hội trong đó có
pháp luật, đặc biệt là sự ảnh hƣởng mạnh mẽ của luật tục chi phối, điều chỉnh các
quan hệ trong đời sống, do đó, hoạt động PBGDPL ở các địa bàn cƣ trú của đồng
3
bào DTTS gặp rất nhiều khó khăn. Bởi vậy, quan tâm PBGDPL cho đồng bào
DTTS nói chung và giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ở tỉnh Nghệ An nói
riêng là vấn đề cần thiết.
Với mong muốn tìm hiểu và đánh giá thực trạng PBGDPL cho đồng bào
DTTS ở Nghệ An thời gian qua, trên cơ sở đó tìm ra giải pháp để nâng cao hiệu quả
của hoạt động này trong thời gian tới, tôi chọn đề tài “Phổ biến, giáo dục pháp luật
cho đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Nghệ An hiện nay” để nghiên cứu làm luận
văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, PBGDPL là vấn đề hết sức quan trọng. Việc
nghiên cứu về PBGDPL dƣới góc độ khoa học pháp lý đƣợc nhiều nhà khoa học
Việt Nam quan tâm. Có thể khái quát các công trình nghiên cứu đó theo hai nhóm
vấn đề sau:
Nhóm 1: Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật
và nghiên cứu giáo dục pháp luật trong mối quan hệ với các hiện tượng khác;
nhóm này có một số công trình sau:
- “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong thời kỳ đổi
mới”, Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-98-223-ĐT của Viện Nghiên cứu Khoa học
pháp lý, Bộ Tƣ pháp. Đề tài đã làm rõ những vấn đề lý luận cũng nhƣ thực tiễn về
giáo dục pháp luật trong thời kỳ đổi mới, từ đó đƣa ra các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục pháp luật trong điều kiện đổi mới của đất nƣớc ta hiện nay;
- “Bàn về giáo dục pháp luật” của các tác giả Trần Ngọc Đƣờng và Dƣơng
Thanh Mai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Đề tài đã khái quát những mục
tiêu, yêu cầu, nội dung cũng nhƣ các hình thức, phƣơng tiện và phƣơng pháp tổ
chức giáo dục pháp luật phù hợp trong điều kiện đổi mới ở nƣớc ta nhằm nâng cao
ý thức pháp luật và hình thành lối sống theo pháp luật của nhân dân;
- “Ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt Nam”, Luận án Phó tiến sĩ
luật học, Nguyễn Đình Lộc (bảo vệ ở Liên Xô năm 1977). Luận án làm rõ các khái
niệm, đặc trƣng của ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật; mối quan hệ giữa
4
chúng; phân tích thực trạng về ý thức pháp luật, giáo dục pháp luật ở Việt Nam và
nguyên nhân của những thực trạng trên, từ đó đƣa ra các giải pháp nhằm nâng cao ý
thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt Nam.
Nhóm 2: Nghiên cứu phổ biến, giáo dục pháp luật đối với các đối tượng
cụ thể; nhóm này có một số công trình sau:
- “Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam”, Luận án
Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Dƣơng Thị Thanh Mai, 1996. Luận án làm rõ về
phƣơng diện lý luận và thực tiễn vấn đề giáo dục pháp luật qua hoạt động Tƣ pháp một dạng đặc thù của giáo dục pháp luật. Từ đó đƣa ra phƣơng hƣớng và đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục pháp luật qua các hoạt động tƣ
pháp ở nƣớc ta trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam;
- “Phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành xây dựng Việt Nam hiện nay”,
Luận văn thạc sĩ Luật học của Lƣơng Thị Kim Loan, 2013. Luận văn nghiên cứu có
hệ thống và tƣơng đối toàn diện về hoạt động PBGDPL trong ngành xây dựng ở
nƣớc ta hiện nay, nêu khái niệm và đặc trƣng của hoạt động PBGDPL cho các đối
tƣợng trong ngành và đề cập giải pháp cơ bản để nâng cao chất lƣợng công tác giáo
dục pháp luật trong các cơ quan, đơn vị thuộc ngành xây dựng;
- “Phổ biến pháp luật cho người nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền”, Luận văn thạc sĩ Luật học của Hà
Thị Tuyến, năm 2011. Luận văn phân tích các cơ sở lý luận của PBGDPL cho
ngƣời nông dân ở nông thôn và đồng bào DTTS ở nƣớc ta hiện nay; đánh giá thực
trạng PBGDPL cho ngƣời nông dân nông thôn và đồng bào DTTS ở nƣớc ta hiện
nay từ đó đề xuất các giải pháp cơ bản của việc tăng cƣờng PBGDPL cho ngƣời
nông dân nông thôn và đồng bào DTTS ở nƣớc ta;
- “Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên dân tộc thiểu số vùng
Tây Bắc - thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Đinh
Công Sỹ, 2006. Luận văn đã phân tích trên phƣơng diện lý luận về PBGDPL, ý thức
pháp luật, mối liên hệ giữa phƣơng pháp, nội dung, cách thức phổ biến với đặc điểm
đặc thù của thanh thiếu niên DTTS và thực trạng PBGDPL cho đối tƣợng này hiện
nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của PBGDPL trong
5
thanh thiếu niên DTTS vùng Tây Bắc.
Các đề tài này đều chỉ đề cập đến PBGDPL ở những khía cạnh khác nhau,
cho các đối tƣợng khác nhau. Tuy nhiên, trong số các công trình trên, chƣa có công
trình nào đề cập riêng về “Phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số ở tỉnh Nghệ An hiện nay” nhƣ công trình này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là PBGDPL cho đồng bào DTTS tỉnh
Nghệ An sinh sống tập trung ở 11 huyện là Kỳ Sơn, Tƣơng Dƣơng, Con Cuông,
Anh Sơn, Tân Kỳ, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Thanh Chƣơng và
Thị xã Thái Hòa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về ý thức pháp luật và thực trạng PBGDPL
ở 11 huyện, thị xã miền núi có đồng bào DTTS đang cƣ trú tập trung nhất là Kỳ
Sơn, Tƣơng Dƣơng, Con Cuông, Anh Sơn, Tân Kỳ, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ
Hợp, Nghĩa Đàn, Thanh Chƣơng và Thị xã Thái Hòa từ đó nhận định khái quát
chung cho đồng bào DTTS cả tỉnh Nghệ An.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận là chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối chính sách
của Đảng Cộng sản Việt Nam về PBGDPL. Ngoài ra, luận văn đƣợc nghiên cứu
trên cơ sở sử dụng kết hợp một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ: phân tích,
tổng hợp; thống kê; điều tra xã hội học…
5. Mục đích nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu này nhằm tìm ra các giải pháp có tính khả thi, phù hợp với
đặc điểm chung của đồng bào DTTS tỉnh Nghệ An để nâng cao hiệu quả PBGDPL
cho nhóm đối tƣợng này, góp phần hạn chế vi phạm pháp luật, đảm bảo trật tự, an
toàn xã hội ở địa phƣơng.
6. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
6
Để đạt đƣợc các mục đích nói trên đề tài tập trung nghiên cứu làm rõ những
vấn đề cơ bản sau:
- Phân tích trên phƣơng diện lý luận về khái niệm, nội dung, hình thức
PBGDPL nói chung và đồng bào DTTS nói riêng, hiệu quả và những yếu tố ảnh
hƣởng tới hiệu quả của PBGDPL cho đồng bào DTTS.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân thực trạng hoạt
động PBGDPL cho đồng bào DTTS ở Nghệ An.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả PBGDPL và nâng cao ý
thức pháp luật cho đồng bào DTTS ở tỉnh Nghệ An hiện nay.
7. Đóng góp mới của đề tài
Về mặt lý luận: Góp phần làm rõ và sâu sắc hơn các yếu tố làm ảnh hƣởng
tới PBGDPL cho đồng bào DTTS.
Về mặt thực tiễn: Đề xuất đƣợc một số giải pháp chung và giải pháp cụ thể
phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội, phong tục tập quán, trình độ nhận thức nhằm
nâng cao hiệu quả PBGDPL cho đồng bào DTTS ở tỉnh Nghệ An, cung cấp tài liệu
tham khảo cho các cơ quan trực tiếp thực hiện chức năng PBGDPL ở địa phƣơng có
thể nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn có 3 chƣơng.
Chương 1: Cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân
tộc thiểu số.
Chương 2: Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số ở tỉnh Nghệ An hiện nay.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục
pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Nghệ An hiện nay.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU CỦA PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một hoạt động xã hội xuất hiện gắn liền với
sự ra đời của pháp luật, khi pháp luật ra đời thì PBGDPL là cầu nối đƣa pháp luật
tiếp cận với ngƣời dân. Vai trò của pháp luật càng ngày càng đƣợc nâng cao thì hoạt
động PBGDPL càng đƣợc chú trọng.
Trong khoa học pháp lý hiện nay còn nhiều quan điểm, quan niệm khác
nhau về khái niệm PBGDPL, do cách tiếp cận của các tác giả ở các khía cạnh, góc
độ khác nhau. Xét về mặt ngữ nghĩa thì PBGDPL là một từ ghép gồm hai từ: phổ
biến pháp luật và giáo dục pháp luật. Có thể có một số quan niệm sau:
Thứ nhất: "phổ biến là làm cho đông đảo mọi ngƣời biết đến một vấn đề,
một tri thức bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thông qua hình thức nào đó" hoặc
“làm cho mọi ngƣời đều biết đến" [33].
"Giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ
chức nhằm bồi dƣỡng cho con ngƣời những phẩm chất đạo đức và những tri thức
cần thiết để ngƣời ta có khả năng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội" [28].
Thứ hai:
Phổ biến pháp luật là sự truyền tải có định hƣớng, có mục đích
những thông tin pháp luật đến các đối tƣợng nhất định
Giáo dục pháp luật là sự tác động một cách có hệ thống, có mục
đích và thƣờng xuyên tới nhận thức của con ngƣời nhằm trang bị cho họ
một trình độ tri thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về
pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật [21].
8
Thứ ba: PBGDPL đƣợc hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Nghĩa rộng: là công tác, lĩnh vực hoạt động, bao gồm tất cả các
công đoạn phục vụ cho việc thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật (xây
dựng chƣơng trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật; triển khai
chƣơng trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua việc áp
dụng các hình thức, biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật; hƣớng dẫn,
kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện chƣơng trình, kế hoạch
phổ biến, giáo dục pháp luật).
Nghĩa hẹp là: là việc truyền bá pháp luật cho đối tƣợng nhằm nâng
cao tri thức, tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tƣợng, từ đó nâng cao ý thức
tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tƣợng [4].
Trên cơ sở những quan điểm, quan niệm nêu trên về PBGDPL, có thể hiểu:
PBGDPL là hoạt động truyền bá tri thức pháp lý của chủ thể lên đối tƣợng
PBGDPL một cách có định hƣớng, có mục đích, có hệ thống và thƣờng xuyên nhằm
hình thành ở họ nhận thức đúng đắn về pháp luật, thái độ chấp hành pháp luật, thói
quen xử sự theo pháp luật.
Xét trên mối quan hệ thực tiễn cũng nhƣ yêu cầu, mục đích chung của phổ
biến pháp luật và giáo dục pháp luật có thể thấy: phổ biến pháp luật và giáo dục
pháp luật có mối quan hệ đan xen, kết hợp chặt chẽ với nhau. Phổ biến pháp luật
hƣớng tới giáo dục pháp luật, còn trong giáo dục pháp luật thì có phổ biến pháp luật
và cả hai đều có mục đích chung là nâng cao hiểu biết pháp luật và ý thức chấp
hành pháp luật của ngƣời dân.
Phổ biến, giáo dục pháp luật tác động đến tất cả các đối tƣợng trong xã hội.
Trong đó đồng bào DTTS là một trong những loại đối tƣợng mang những nét đặc
thù, bởi vì, Nghị định số 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc của Chính phủ ngày
14 tháng 01 năm 2011 đã đƣa ra khái niệm nhƣ sau: “Dân tộc thiểu số là những dân
tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nƣớc Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam” [13].
Trên cơ sở quan niệm về PBGDPL đã nêu, có thể hiểu: PBGDPL cho đồng
bào DTTS là hoạt động truyền bá tri thức pháp luật của chủ thể PBGDPL cho
9
những DTTS một cách có tính định hƣớng, có mục đích, có hệ thống và thƣờng
xuyên nhằm hình thành ở họ ý thức đúng đắn về pháp luật, thái độ chấp hành pháp
luật, thói quen xử sự theo pháp luật.
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào DTTS là hình thức PBGDPL đặc
thù, ngoài những điểm chung của PBGDPL, còn có những điểm riêng. Đồng bào
DTTS có điều kiện sống khó khăn, trình độ dân trí thấp, nhận thức pháp lí còn hạn
chế và đặc biệt là đời sống bị ảnh hƣởng nhiểu bởi các phong tục, tập quán, do đó,
PBGDPL cho đối tƣợng này đòi hỏi phải lựa chọn nội dung, hình thức phù hợp với
đặc trƣng của đồng bào DTTS.
1.1.2. Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số
Khi tiến hành bất cứ một hoạt động nào đó, các chủ thể tiến hành luôn đặt
ra những mục đích nhất định mà mình mong muốn đạt đƣợc và hƣớng tới việc thực
hiện những mục đích đó. Do đó việc xác định mục đích của mỗi hoạt động có ý
nghĩa hết sức quan trọng nhằm đánh giá hiệu quả và là cơ sở để xây dựng nội dung,
hình thức phù hợp với mục đích đặt ra.
Mục đích của PBGDPL hiện nay bao gồm:
Một là, hình thành và từng bƣớc mở rộng hệ thống tri thức pháp luật cho
mọi công dân (mục đích nhận thức). Tri thức pháp luật là tiền đề để hình thành nhận
thức đúng đắn và lựa chọn hành vi hợp pháp, tích cực. Tri thức pháp luật không thể
là sự hiểu biết đơn giản, phiến diện về một vài khía cạnh pháp luật nào đó mà nó
mang tính hệ thống, logic. Do đó, PBGDPL là hoạt động có vai trò quan trọng đối
với quá trình mở rộng khối lƣợng tri thức pháp lý, nâng cao khả năng hiểu biết pháp
luật một cách toàn diện, thống nhất đối với chủ thể.
Hai là, hình thành nên lòng tin, tình cảm đối với pháp luật (mục đích cảm
xúc). Mục đích cảm xúc của PBGDPL bao gồm: giáo dục tình cảm công bằng, giáo
dục tình cảm trách nhiệm, giáo dục tình cảm không khoan nhƣợng đối với những
hành vi vi phạm pháp luật và giáo dục tình cảm pháp chế. Lòng tin chỉ có giá trị
đích thực khi nó đem lại thái độ chủ động trong xử sự phù hợp với pháp luật và
đƣợc hình thành trên tri thức pháp luật cần thiết, bởi: “có đƣợc lòng tin vào tính
10
công bằng của pháp luật, con ngƣời sẽ có các hành vi hợp pháp phù hợp với các đòi
hỏi của quy phạm pháp luật một cách độc lập và tự nguyện. Lòng tin vào tính công
bằng của pháp luật sẽ hƣớng dẫn hành vi hợp pháp của con ngƣời” [22].
Ba là, hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự hợp pháp, tích cực
(mục đích hành vi). Việc hình thành những thói quen, hành vi hợp pháp do giáo dục
pháp luật mà có thƣờng tồn tại dƣới dạng cụ thể sau: thói quen tuân thủ pháp luật,
thực hiện nghĩa vụ pháp luật và sử dụng pháp luật. Hành vi xử sự của mỗi cá nhân
đƣợc biểu hiện ra bên ngoài trƣớc những tình huống cụ thể của đời sống. Thói quen
xử sự hợp pháp đƣợc hiểu là thói quen tuân thủ các quy phạm hƣớng dẫn của pháp
luật, thói quen thực hiện đúng đắn, tận tâm các quyền và nghĩa vụ pháp lí, thói quen
sử dụng và áp dụng các tri thức pháp luật và các qui phạm pháp luật cụ thể để bảo
vệ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình, của ngƣời khác và của xã hội. Mục
đích hành vi là mục đích cuối cùng và quan trọng nhất của PBGDPL, bởi vì hành vi
xử sự của đối tƣợng PBGDPL là thƣớc đo kết quả của quá trình PBGDPL, thông
qua hành vi pháp luật của đối tƣợng giáo dục mới đánh giá đƣợc hiệu quả của quá
trình PBGDPL mang lại.
Ba mục đích của PBGDPL có mối quan hệ chặt chẽ và đan xen, thống nhất
với nhau, từ nhận thức đến tự giác, từ tự giác đến tích cực và từ tích cực đến thói
quen xử sự hợp pháp. Mục đích trƣớc là tiền đề, là cơ sở cho mục đích sau, ngƣợc
lại khi đạt đƣợc mục đích sau thì nó lại làm cho mục đích ban đầu sâu sắc hơn.
Từ những nhận thức cơ bản nhƣ trên về mục đích của PBGDPL nói chung,
trên cơ sở những đặc điểm mang tính đặc thù của đồng bào DTTS có thể thấy mục
đích của PBGDPL cho đồng bào DTTS nhƣ sau:
Một là, mục đích nhận thức. Hiện nay, tình trạng vi phạm pháp luật ở đồng
bào DTTS diễn ra còn khá phổ biến, xuất phát từ những nguyên nhân nhƣ: trình độ
văn hóa hạn chế, tỷ lệ mù chữ cao, trình độ nhận thức pháp lý còn rất thấp, đặc biệt,
các luật tục ăn sâu, cố hữu trong đời sống của họ bao đời nay nên họ thƣờng xử sự
theo những luật tục của cộng đồng mình mà coi nhẹ vai trò của pháp luật. Trong
phần lớn các vụ việc vi phạm pháp luật có nguyên nhân chính là do thiếu hiểu biết
về pháp luật. Khi thực hiện một hành vi xử sự nào đó họ không biết đƣợc hành vi
11
của mình có phải là phạm tội hay không? cũng nhƣ không biết bảo vệ quyền và lợi
ích của mình khi bản thân bị xâm phạm. Vì thế, PBGDPL sẽ làm cho nhận thức về
pháp luật của đồng bào DTTS đƣợc nâng lên. Tuy nhiên, do nền tảng văn hóa, trình
độ nhận thức thấp nên đối với đồng bào DTTS việc nâng cao nhận thức pháp luật
cho họ cần phải xác định ở mức độ các tri thức pháp luật tối thiểu, căn bản về nhà
nƣớc, pháp luật, quyền và nghĩa vụ của mình trong mối quan hệ với nhà nƣớc, với
công dân khác. Sau những kiến thức cơ bản về nhà nƣớc và pháp luật là những kiến
thức cơ bản về các lĩnh vực mà đồng bào DTTS dễ vi phạm nhiều nhất.
Hai là, mục đích cảm xúc. PBGDPL cho đồng bào DTTS nhằm hình thành
cho họ lòng tin, tình cảm vào pháp luật cũng nhƣ các cơ quan bảo vệ pháp luật có ý
nghĩa quan trọng, vì nếu thiếu điều đó thì dù có hiểu biết về pháp luật cũng dễ hành
động chệch khỏi các chuẩn mực pháp luật vì lợi ích riêng tƣ. Hành vi, xử sự phù
hợp với các quy định của pháp luật của đồng bào DTTS một phần xuất phát từ tình
cảm tự nhiên tuân theo tập quán, khi các tập quán này phù hợp với pháp luật. Tuy
nhiên không phải phong tục, tập quán nào cũng tốt đẹp, cũng phù hợp với những
chuẩn mực của pháp luật, mà bên cạnh đó có những phong tục, tập quán đi ngƣợc
lại với một số chuẩn mực của pháp luật, do đó, để ngƣời dân tiếp nhận, tin vào pháp
luật để thay thế cho một số phong tục, tập quán của cộng đồng mình và thay đổi xử
sự cho phù hợp với pháp luật không phải là điều dễ dàng. Vì thế, muốn hình thành
tình cảm của đồng bào DTTS đối với pháp luật cần phải củng cố những tình cảm tự
nhiên của họ đối với pháp luật, đồng thời xây dựng mới những tình cảm chƣa có
dựa trên sự hiểu biết mới về pháp luật. Việc hình thành lòng tin đối với pháp luật
chính là xây dựng lòng tin của họ đối với Đảng, chính quyền cấp cơ sở.
Ba là, mục đích hành vi. Đối với đồng bào DTTS, hầu hết sự tuân thủ pháp
luật của họ không phải lúc nào cũng thể hiện đúng tình cảm, sự tôn trọng của họ đối
với pháp luật, có thể nói, phần lớn ngƣời dân thƣờng cho rằng “pháp luật” là những
mệnh lệnh mà ngƣời ta cần phải tuân thủ, là hình phạt, là trừng trị… còn một số
ngƣời khác thì cho rằng, pháp luật chỉ là để giải quyết các tranh chấp, vì vậy, ngƣời
dân thƣờng chỉ quan tâm tới pháp luật khi bản thân họ phải rơi vào tình thế sự việc
miễn cƣỡng, lợi ích bị xâm hại, dính líu tới pháp luật (kiện cáo, tranh chấp, bị phạt,
12
bị cƣỡng chế…) [53]. Do đó, trong quá trình PBGDPL cho đồng bào DTTS cần giải
thích, phân tích cho ngƣời dân hiểu đƣợc rằng pháp luật không chỉ bao gồm các quy
định cƣỡng chế, thực thi pháp luật, biện pháp giải quyết tranh chấp mà pháp luật
còn bao gồm các quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, khuyến
khích sự giao dịch lành mạnh giữa các thành viên trong xã hội vì sự phát triển và
bảo đảm trật tự ổn định. Đồng thời, khi PBGDPL cũng cần lên án các hành vi vi
phạm pháp luật và đồng tình ủng hộ các hành vi thực hiện đúng pháp luật nhằm
hình thành dƣ luận và tâm lý đồng tình ủng hộ hành vi hợp pháp, lên án các hành vi
vi phạm pháp luật.
Trong tình hình hiện nay của đồng bào DTTS nói chung còn thiếu hiểu biết
về pháp luật thì chúng ta không thể đòi hỏi có ngay tình cảm và hành vi xử sự hợp
pháp, mà qua việc nâng cao nhận thức pháp luật gắn liền với việc giáo dục tình cảm
từ đó mới dần hình thành thói quen xử sự đúng pháp luật.
1.1.3. Yêu cầu đối với việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào
dân tộc thiểu số
Thứ nhất, cần đề cao tính Đảng trong PBGDPL. Pháp luật của Nhà nƣớc là
sự cụ thể hóa các đƣờng lối, chính sách của Đảng, vì vậy, PBGDPL chính là phổ
biến, giáo dục đƣờng lối, chính sách của Đảng. Đề cao tính Đảng trong PBGDPL
tức là thể hiện đƣợc vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề
dân tộc là vấn đề đƣợc Đảng rất quan tâm và chú trọng, do đó, Đảng đã ban hành rất
nhiều chính sách liên quan đến đồng bào DTTS. Các chính sách đó phản ánh đƣợc
thực tiễn đời sống của đồng bào DTTS hiện nay đồng thời đƣa ra những phƣơng
hƣớng, biện pháp nhằm phát triển và nâng cao đời sống của cộng đồng DTTS. Vì
thế, PBGDPL phải thể hiện đƣợc tinh thần, quan điểm của Đảng, sự kết hợp hài hòa
giữa nội dung pháp luật cụ thể và chủ trƣơng, chính sách của Đảng ta sẽ làm cho
đồng bào DTTS tin tƣởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin tƣởng vào sự quan tâm của
Đảng, một lòng đi theo Đảng.
Thứ hai, đảm bảo tính khoa học, tính chuẩn xác, truyền đạt trung thực văn
bản. Các văn bản pháp luật đƣợc sử dụng phải chuẩn xác, giữ nguyên nội dung,
không sáng tạo, thêm hoặc bớt từ ngữ, thay đổi từ ngữ của các văn bản. Đối với
13
đồng bào DTTS, khi trình độ văn hóa cũng nhƣ trình độ nhận thức pháp lý còn hạn
chế thì việc nhận biết đƣợc độ chính xác của văn bản là điều rất khó, do đó, nếu văn
bản đƣợc sử dụng không đảm bảo đƣợc tính chuẩn xác, cũng nhƣ tính trung thực thì
sẽ dẫn đến việc gây hiểu lầm, nhận thức sai lệch và dẫn tới những hành vi đi ngƣợc
lại với nội dung văn bản.
Thứ ba, bảo đảm tính đại chúng. Văn bản đƣợc sử dụng PBGDPL phải dễ
hiểu, dễ nhớ, sử dụng những từ ngữ đại chúng, tránh dùng những thuật ngữ khó
hiểu. Đối với cộng đồng DTTS, khi PBGDPL cần sử dụng những hình thức,
phƣơng pháp phù hợp với trình độ văn hóa, nhận thức, cần phải giải thích từ ngữ
trong các văn bản luật dựa trên việc sử dụng ngôn ngữ thông dụng trong đời sống
thƣờng ngày của đồng bào.
Thứ tư, các hình thức PBGDPL phải phù hợp với nhu cầu, lứa tuổi, trình độ
của đối tƣợng đƣợc PBGDPL và truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân
tộc. PBGDPL phải biết lồng ghép với những hoạt động phục vụ đời sống tinh thần
của đồng bào, biết cách tận dụng tối đa các phong tục, tập quán tốt đẹp để hoạt động
PBGDPL đạt hiệu quả tốt hơn.
Thứ năm, phải gắn việc PBGDPL với thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của cộng đồng DTTS. Ở mỗi địa phƣơng tùy theo những đặc trƣng, tình hình
cụ thể mà đƣa ra những chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội khác nhau. Các hoạt
động khác trong phạm vi địa phƣơng đó đều hƣớng tới việc thực hiện những mục
tiêu chung của địa phƣơng, vì thế, PBGDPL phải đƣợc thực hiện phù hợp với nhiệm
vụ đó. Việc nâng cao nhận thức pháp luật sẽ đóng góp vào việc hoàn thành mục tiêu
kinh tế - xã hội của địa phƣơng đã đƣợc đề ra.
1.2. CHỦ THỂ, ĐỐI TƢỢNG CỦA PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
Quá trình PBGDPL làm phát sinh các quan hệ mà giữa một bên là ngƣời
giáo dục pháp luật (chủ thể giáo dục pháp luật) và một bên là ngƣời đƣợc giáo dục pháp
luật (đối tƣợng giáo dục pháp luật). Giữa chủ thể PBGDPL và đối tƣợng PBGDPL
có sự tác động qua lại với nhau. Do đó, việc xác định chủ thể và đối tƣợng PBGDPL
có vai trò rất quan trọng trong lý luận và hoạt động thực tiễn của PBGDPL.
14
1.2.1. Chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số
Chủ thể PBGDPL là tổ chức, cá nhân theo chức năng, nhiệm vụ hay trách
nhiệm xã hội phải tham gia vào việc thực hiện các mục đích pháp luật. Nguồn nhân
lực cho công tác rất đa dạng, khác nhau về ngành nghề, trình độ, chuyên môn, hiểu
biết pháp luật và kĩ năng nghiệp vụ. Khái quát lại có thể chia các chủ thể này thành
ba nhóm sau:
- Những chủ thể làm công tác quản lý tổ chức và hoạt động PBGDPL.
- Những chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động PBGDPL (chuyên trách hoặc
kiêm nhiệm), gồm có:
+ Chủ thể PBGDPL chuyên trách đƣợc hiểu là tổ chức, cá nhân có chức
năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm pháp lý chủ yếu đƣợc pháp luật quy định thực hiện
nhiệm vụ PBGDPL. Cơ quan chuyên trách về hoạt động PBGDPL đƣợc thành lập ở
bốn cấp: ở Trung ƣơng (Bộ Tƣ pháp), ở địa phƣơng là Sở Tƣ pháp (cấp tỉnh), phòng
Tƣ pháp (cấp huyện), Ban Tƣ pháp (cấp xã). Cán bộ chuyên trách thực hiện PBGDPL
là cán bộ Tƣ pháp và cán bộ làm ở bộ phận pháp chế của các cơ quan, sở, ban, ngành.
+ Chủ thể PBGDPL kiêm nhiệm là những cá nhân ngoài việc thực hiện
nhiệm vụ chính đƣợc phân công thì còn kiêm thêm nhiệm vụ PBGDPL nhƣ: đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, các thành viên của Hội đồng phối
hợp PBGDPL, tƣ pháp hộ tịch, hòa giải viên…
- Những chủ thể thực hiện hoạt động PBGDPL thông qua hoạt động chuyên
môn, nghiệp vụ của mình, hoặc lồng ghép hoạt động PBGDPL với các hoạt động xã
hội nhƣ: Cơ quan, tổ chức (Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; tổ chức hành nghề về pháp
luật; cơ sở đào tạo luật; các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân...); cá nhân
(đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp; cán bộ, công chức,
viên chức và cán bộ, chiến sĩ trong lực lƣợng vũ trang nhân dân; già làng, trƣởng bản...).
Đối với đồng bào DTTS thì trong đời sống văn hóa - xã hội của họ vai trò
của trƣởng bản, già làng, những ngƣời có uy tín trong cộng đồng các DTTS có ảnh
hƣởng rất lớn. Những ngƣời có uy tín trong cộng đồng DTTS:
15
Là ngƣời tiêu biểu, có ảnh hƣởng trong dòng họ dân tộc, thôn và
cộng đồng dân cƣ nơi cƣ trú; có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó với đồng
bào dân tộc, hiểu biết về văn hóa truyền thống, phong tục, tập quán dân
tộc; có khả năng quy tụ, tập hợp đồng bào dân tộc thiểu số trong phạm vi
nhất định, đƣợc ngƣời dân trong cộng đồng tín nhiệm, tin tƣởng, nghe và
làm theo [15].
Do đó, họ nhƣ là một biểu tƣợng, là chỗ dựa tinh thần của cộng đồng DTTS,
họ đóng vai trò “kép”, vừa là đối tƣợng vừa là chủ thể PBGDPL. Vì vậy, cần thu
hút và tranh thủ sự ủng hộ của họ trong PBGDPL là rất cần thiết. Pháp luật Việt
Nam cũng đã ghi nhận vai trò của các chủ thể này, đồng thời tạo điều kiện để các
chủ thể này tham gia một cách tích cực vào hoạt động PBGDPL.
1.2.2. Đối tƣợng của phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số
Đối tƣợng của PBGDPL là các cá nhân hay các nhóm, cộng đồng dân cƣ
trực tiếp hay gián tiếp nhận đƣợc những tác động của các hoạt động PBGDPL do
các chủ thể PBGDPL tiến hành nhằm đạt đƣợc các mục đích đề ra. Các đối tƣợng sẽ
có những đặc điểm khác nhau về trình độ nhận thức, về tâm lý, nghề nghiệp, lứa
tuổi, giới tính, nhu cầu và khả năng nhận thức khác nhau. Hoạt động PBGDPL đã
ngày càng phủ rộng đối tƣợng đƣợc PBGDPL, trong đó tập trung vào 05 nhóm đối
tƣợng cần ƣu tiên là: nông dân, đồng bào DTTS, phụ nữ; cán bộ, công chức; thanh
thiếu niên; ngƣời lao động, ngƣời quản lý; cán bộ công đoàn và lực lƣợng vũ trang
nhân dân [23]. Tuy nhiên luận văn này chỉ tập trung vào đối tƣợng là đồng bào
DTTS, tức là loại đối tƣợng có những nét đặc điểm chính sau:
+ Các DTTS có quy mô dân số không đồng đều, cƣ trú xen kẽ nhau, không
có dân tộc nào ở vùng lãnh thổ riêng. Tính chất cƣ trú đó đã tạo điều kiện thuận lợi
để các dân tộc tăng cƣờng hiểu biết lẫn nhau, đoàn kết, tƣơng trợ, giúp đỡ lẫn nhau
cùng phát triển.
+ Hầu hết các DTTS cƣ trú trên địa bàn rộng lớn, điều kiện địa lý, tự nhiên
khắc nghiệt, có vị trí chiến lƣợc đặc biệt quan trọng về chính trị, quốc phòng và môi
trƣờng sinh thái.
16
+ Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các dân tộc không đồng đều. Một
số dân tộc đã phát triển kinh tế - xã hội tƣơng đối cao, nhƣng còn nhiều dân tộc vẫn
còn trong tình trạng lạc hậu, chậm phát triển, một số dân tộc vẫn còn trong tình
trạng tự cung tự cấp, du canh du cƣ.
+ Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng (ngôn ngữ, phong tục, tập quán,
trang phục …), tạo nên bản sắc văn hóa của từng dân tộc, góp phần làm phong phú,
đa dạng nền văn hóa Việt Nam thống nhất.
1.3. NỘI DUNG, HÌNH THỨC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.3.1. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
Nội dung PBGDPL là tổng thể các tri thức pháp luật mà chủ thể PBGDPL
truyền tải đến đối tƣợng. Nội dung PBGDPL theo quan điểm chung hiện nay đƣợc
xác định bao gồm phạm vi tƣơng đối rộng, đó là:
- Các thông tin về pháp luật, gồm cả kiến thức cơ bản và văn bản pháp luật
thực định; các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về tình hình vi phạm pháp luật
và tội phạm, về việc điều tra, xử lý các vi phạm pháp luật.
- Các thông tin liên quan đến kết quả nghiên cứu, điều tra xã hội học về
thực hiện, áp dụng pháp luật; về vị trí, tác động của từng văn bản pháp luật đối với
đời sống kinh tế xã hội, đối với từng đối tƣợng; phản ánh những nhu cầu, nguyện
vọng, ý kiến, đề xuất của nhân dân, của các chuyên gia pháp luật và các ngành khác
trong việc xây dựng, thực hiện và hoàn thiện pháp luật.
- Các thông tin hƣớng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân nhƣ:
Quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, các quy trình, thủ tục để bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp…
Tuy nhiên, trong thực tiễn, nội dung chủ yếu của PBGDPL đƣợc xác định
theo những cấp độ khác nhau tùy thuộc từng loại đối tƣợng, phù hợp với những nhu
cầu, đặc điểm của đối tƣợng mà hoạt động giáo dục pháp luật hƣớng tới. Nội dung
PBGDPL theo quy định của Luật PBGDPL năm 2012 bao gồm nội dung chung cho
công dân và nội dung cho một số đối tƣợng đặc thù.
17
Nội dung PBGDPL chung cho công dân bao gồm:
- Quy định của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật, trọng tâm là các
quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân và gia đình, bình
đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trƣờng, lao động, giáo dục, y tế, quốc
phòng, an ninh, giao thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền hạn và
trách nhiệm của cơ quan nhà nƣớc, cán bộ, công chức, các văn bản quy phạm pháp
luật mới đƣợc ban hành.
- Các điều ƣớc quốc tế mà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên, các thỏa thuận quốc tế.
- Ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi ích
của việc chấp hành pháp luật; gƣơng ngƣời tốt, việc tốt trong thực hiện pháp luật
(Điều 10).
Trên cơ sở những nội dung chung nhƣ trên, khi tiến hành PBGDPL cho
đồng bào DTTS, chủ thể PBGDPL:
...Cần phải lựa chọn những nội dung căn cứ vào đặc điểm của
đồng bào dân tộc thiểu số mà tập trung vào các quy định pháp luật về
dân tộc, tôn giáo, trách nhiệm tham gia bảo vệ, giữ gìn an ninh, quốc
phòng, biên giới, chủ quyền quốc gia, biển, đảo, tài nguyên, khoáng sản
và các lĩnh vực pháp luật khác gắn liền với đời sống, sản xuất của
ngƣời dân [37, Điều 17].
1.3.2. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số
Hình thức PBGDPL là cách thức tổ chức hoạt động PBGDPL và cách thức,
biện pháp đƣợc chủ thể PBGDPL sử dụng để truyền đạt nội dung pháp luật đến với
đối tƣợng nhằm trang bị tri thức pháp luật, hình thành và nâng cao ý thức pháp luật.
Xét theo quan điểm triết học về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức,
hình thức PBGDPL giữ vai trò hỗ trợ hoặc tác động trở lại đối với kết quả chung
của hoạt động PBGDPL. Nếu nội dung pháp luật phù hợp, thiết thực, dễ hiểu, gần
gũi nhƣng hình thức tổ chức mờ nhạt, thiếu sáng tạo, xa rời thực tiễn thì tất yếu sẽ
18
ảnh hƣởng đến hiệu quả PBGDPL. Vì lẽ đó, hoạt động PBGDPL luôn đƣợc xã hội
quan tâm không những ở nội dung mà còn quan tâm tới hình thức PBGDPL. Hiện
nay có rất nhiều hình thức để thực hiện tuyên truyền, PBGDPL, mỗi hình thức
tuyên truyền PBGDPL đều có những đặc thù và kỹ năng riêng.
Các hình thức PBGDPL nói chung gồm có: họp báo, thông cáo báo chí; phổ
biến pháp luật trực tiếp; tƣ vấn, hƣớng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin,
tài liệu pháp luật; thông qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh,
internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên Công báo; đăng tải thông tin
pháp luật trên trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ
chức, khu dân cƣ; tổ chức thi tìm hiểu pháp luật; thông qua công tác xét xử, xử lý vi
phạm hành chính, hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân và hoạt động khác của các cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc; thông qua hoạt
động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở; lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn
nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật
và các thiết chế văn hóa khác ở cơ sở; thông qua chƣơng trình giáo dục pháp luật
trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân; các hình thức PBGDPL
khác phù hợp với từng đối tƣợng cụ thể mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền có thể áp dụng để bảo đảm cho công tác PBGDPL đem lại hiệu quả (Điều 11,
Luật PBGDPL năm 2012).
Để hoạt động PBGDPL đƣa lại hiệu quả tốt nhất thì việc lựa chọn và sử
dụng cách thức PBGDPL cho đồng bào DTTS cũng cần phải dựa trên những căn cứ
khác nhau nhƣ: căn cứ vào mục tiêu; căn cứ vào nội dung giáo dục; căn cứ vào đặc
điểm của đồng bào; lựa chọn phƣơng pháp phải phù hợp với chủ thể, đối tƣợng
PBGDPL; thời gian, thời lƣợng; các điều kiện đảm bảo thực hiện các phƣơng pháp
đó trên thực tế...
Đối với hoạt động PBGDPL cho ngƣời dân ở vùng DTTS cần đƣợc chú
trọng thực hiện thông qua hòa giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý lƣu động; tƣ vấn pháp
luật, cung cấp miễn phí thông tin, tài liệu pháp luật bằng tiếng dân tộc cho đồng bào
DTTS; lồng ghép PBGDPL trong các hoạt động văn hóa truyền thống.
19
1.4. HIỆU QUẢ VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ PHỔ
BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.4.1. Hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
Ở nƣớc ta, việc nghiên cứu, đánh giá vấn đề hiệu quả các loại hình hoạt
động vẫn còn là những bƣớc đi đầu tiên, đặc biệt đối với các lĩnh vực pháp luật
trong đó có PBGDPL. PBGDPL về bản chất sẽ mang lại những lợi ích to lớn cho xã
hội do vậy cần thiết phải tính đến chất lƣợng, hiệu quả trên cả bình diện cá nhân, tổ
chức và toàn xã hội.
Theo GS.TS. Hoàng Thị Kim Quế thì “Hiệu quả của phổ biến, giáo dục pháp
luật là kết quả đạt đƣợc theo đúng yêu cầu, mục đích của các quy định pháp luật tƣơng
ứng và các lợi ích xã hội đƣợc đem lại với chi phí về vật chất, tinh thần thấp nhất” [34].
Nói đến hiệu quả là nói đến đòi hỏi nghiêm ngặt của xã hội đối với việc
đánh giá định lƣợng, định tính theo bộ công cụ kiểm định chất lƣợng và các tiêu chí,
tiêu chuẩn về hiệu quả của PBGDPL mang lại.
Hiệu quả của PBGDPL cần đƣợc nhận thức, đánh giá trên cả hai phƣơng
diện sau đây:
Về hiệu quả PBGDPL xét trên phương diện thực hiện đúng các yêu cầu,
mục đích của các quy định pháp luật tương ứng
Hiệu quả PBGDPL cần đƣợc đánh giá trên từng mục đích cơ bản của
PBGDPL. Theo đó có các tiêu chí sau đây:
Tiêu chí thứ nhất: đạt đƣợc mục đích nhận thức pháp luật;
Tiêu chí thứ hai: đạt đƣợc mục đích thái độ, tình cảm, niềm tin pháp luật;
Tiêu chí thứ ba: đạt đƣợc mục đích hành vi phù hợp với pháp luật.
Ngoài ra, tiêu chí về mức độ chi phí để đạt đƣợc kết quả thực tế cũng là cơ
sở để đánh giá hiệu quả của hoạt động PBGDPL. Tiêu chí này thể hiện tính kinh tế,
tính văn hóa, tính hữu ích của hoạt động PBGDPL.
Phương diện hiệu quả xã hội đạt được từ kết quả thực hiện các quy định
pháp luật
Hiệu quả xã hội của PBGDPL về cơ bản phụ thuộc vào hiệu quả xã hội của
chính bản thân các quy định pháp luật cần đƣợc phổ biến, giáo dục cho các đối
20
tƣợng xã hội nhất định. Đó chính là các lợi ích xã hội đạt đƣợc do thực hiện các quy
định pháp luật của các đối tƣợng đƣợc PBGDPL. Hiệu quả xã hội của PBGDPL phụ
thuộc rất nhiều vào chất lƣợng của các quy định pháp luật mà cụ thể là tính hợp lý,
công bằng, sự thể hiện các loại lợi ích của cá nhân, cộng đồng, xã hội. Hiệu quả xã
hội của PBGDPL còn đƣợc thể hiện trên một phạm vi rộng hơn, lan tỏa ra cả những
ngƣời xung quanh chứ không chỉ đối với những ngƣời đƣợc trực tiếp PBGDPL.
Đây cũng chính là giá trị to lớn của PBGDPL. Pháp luật chỉ có hiệu lực thực sự khi
đƣợc mọi ngƣời dân tiếp nhận và thi hành một cách tự giác.
Theo quan điểm của PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan thì hiệu quả PBGDPL
cần đƣợc xem xét cả ở chi phí đầu tƣ về vật chất, thời gian, công sức... sự tƣơng
quan giữa chi phí đầu tƣ và kết quả đạt đƣợc chính là biểu hiện rõ nhất của hiệu quả
cũng nhƣ tính cần thiết của hoạt động PBGDPL. Để đánh giá hiệu quả này trong
giai đoạn hiện nay thì cần chú trọng những tiêu chí cơ bản sau: mục đích, mục tiêu,
yêu cầu của hoạt động PBGDPL; những kết quả thực tế do hoạt động PBGDPL
mang lại; những chi phí cho quá trình tiến hành hoạt động PBGDPL.
Kết hợp hai quan điểm trên về các tiêu chí đánh giá hiệu quả PBGPL có thể
thấy rằng hiệu quả PBGDPL cho đồng bào DTTS thể hiện ở chỗ với điều kiện cơ sở
vật chất không quá ít, cũng không quá nhiều; kinh phí để thực hiện PBGDPL tiết
kiệm nhất; đội ngũ nguồn nhân lực không quá đông; thời gian giành cho PBGDPL
không nhiều... nhƣng có thể tác động đến toàn bộ đồng bào DTTS nhằm đạt đƣợc
mục đích của PBGDPL (nâng cao nhận thức pháp luật, thái độ, tình cảm với pháp
luật và hình thành hành vi xử sự hợp pháp trên thực tế). Ngoài ra, hiệu quả
PBGDPL cho đồng bào DTTS còn thể hiện ở các lợi ích xã hội đạt đƣợc do thực
hiện các quy định pháp luật của đồng bào DTTS và phạm vi tác động của nó.
1.4.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật
cho đồng bào dân tộc thiểu số
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào DTTS đó là cả một quá trình và
trong quá trình đó có nhiều yếu tố ảnh hƣởng, tác động đến hiệu quả của hoạt động
PBGDPL. Quá trình này chủ yếu chịu ảnh hƣởng của một số yếu tố sau:
Thứ nhất, trình độ văn hóa của đối tƣợng PBGDPL. Đây là yếu tố tác động
trực tiếp đến việc tiếp nhận tri thức pháp luật. Nếu trình độ văn hóa cao sẽ có sự tiếp