Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Pháp luật về sở giao dịch hàng hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.31 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐINH NGUYỆT HÀ

PHÁP LUẬT VỀ SỞ GIAO DỊCH
HÀNG HÓA - MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỒNG NGỌC BA

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Kết quả nghiên cứu
trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Đinh Nguyệt Hà



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng dẫn của các thầy cô giáo,
gia đình và bạn bè trong suốt khóa học cũng như thời gian nghiên cứu đề tài
luận văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành tới Ban giám hiệu, toàn thể quý thầy, cô, cán bộ, nhân viên trong
Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Khoa Pháp luật kinh tế và cán bộ, nhân
viên Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn thạc sỹ.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến TS. Đồng Ngọc Ba,
người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè đã luôn
ở cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện Luận văn
thạc sỹ này.

Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2014
Tác giả

Đinh Nguyệt Hà


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ SỞ GIAO DỊCH HÀNG HOÁ VÀ PHÁP
LUẬT VỀ SỞ GIAO DỊCH HÀNG HOÁ ................................................... 5
1.1. Khái quát về Sở giao dịch hàng hoá ................................................. 5
1.1.1. Khái niệm Sở giao dịch hàng hóa ............................................... 5

1.1.2. Đặc điểm của Sở giao dịch hàng hóa .......................................... 8
1.1.3. Vai trò của Sở giao dịch hàng hóa ............................................ 12
1.2. Khái quát pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa............................... 14
1.2.2. Khái niệm pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa ......................... 14
1.2.2. Nội dung pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa........................... 16
1.2.3. Vai trò của pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa........................ 22
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SỞ GIAO
DỊCH HÀNG HOÁ .................................................................................... 25
2.1. Địa vị pháp lý của Sở giao dịch hàng hoá ....................................... 25
2.1.1. Tư cách pháp lý và hình thức tổ chức của Sở giao dịch hàng hoá
............................................................................................................. 25
2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của Sở giao dịch hàng hoá ......................... 27
2.2. Thành lập, chấm dứt hoạt động của Sở giao dịch hàng hoá ......... 29
2.2.1. Thành lập Sở giao dịch hàng hoá ............................................. 29
2.2.2. Chấm dứt hoạt động của Sở giao dịch hàng hoá ...................... 36
2.3. Tổ chức hoạt động của Sở giao dịch hàng hoá ............................... 38
2.3.1. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Sở giao dịch hàng hoá... 38
2.3.2. Bộ máy tổ chức hoạt động của Sở giao dịch hàng hoá ............. 40
2.3.3. Thành viên của Sở giao dịch hàng hóa ..................................... 43
2.4. Quản lý nhà nước đối với Sở giao dịch hàng hoá........................... 46
2.4.1. Chủ thể quản lý nhà nước đối với Sở giao dịch hàng hoá ........ 47
2.4.2.

Nội dung quản lý nhà nước đối với Sở giao dịch hàng hoá .. 48


2.5. Xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp đối với Sở giao dịch hàng hoá
................................................................................................................. 50
2.5.1. Xử lý vi phạm đối với Sở giao dịch hàng hóa ............................ 50
2.5.2. Giải quyết tranh chấp đối với Sở giao dịch hàng hóa ............... 53

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỞ GIAO DỊCH HÀNG
HÓA Ở VIỆT NAM ................................................................................... 57
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa 57
3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa ......... 58
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa ở
Việt Nam ................................................................................................. 60
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về Sở giao dịch
hàng hóa .............................................................................................. 60
3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về Sở giao dịch
hàng hóa .............................................................................................. 68
KẾT LUẬN ................................................................................................. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 71


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi Sở giao dịch hàng hoá đầu tiên xuất hiện đến nay, Sở giao dịch hàng
hoá ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới, hầu như mỗi quốc gia phát triển đều
có những Sở giao dịch hàng hoá của riêng mình. Trong lịch sử phát triển hơn 100
năm, Sở giao dịch hàng hoá đã phát huy vai trò của mình đối với nền kinh tế thế
giới. Khi mới ra đời, Sở giao dịch hàng hoá là tổ chức cung cấp địa điểm, phương
tiện cần thiết để thực hiện giao dịch mua bán hàng hoá tương lai, qua đó, tác động
tích cực đến quá trình lưu thông, tiêu thụ hàng hoá, đảm bảo sự cân bằng giữa sản
xuất và tiêu dùng, đồng thời bảo hiểm rủi ro cho các nhà sản xuất, kinh doanh. Dần
dần, với sự phát triển của thị trường mua bán hàng hoá tương lai, Sở giao dịch hàng
hoá mang tính chất của một thị trường tài chính, cung cấp công cụ đầu tư hữu hiệu
thông qua việc cho phép mua bán các hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn được
giao dịch tại Sở giao dịch, cho phép các nhà đầu tư tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở
chênh lệch về giá hàng hoá.

Tại Việt Nam, với đặc thù là một nước đi lên từ sản xuất nông nghiệp, nhiều
nông sản là mặt hàng xuất khẩu thế mạnh, Sở giao dịch hàng hoá có những điều
kiện thuận lợi để hình thành và phát triển, đặc biệt là từ sau khi Nhà nước thực hiện
chính sách đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Việc xây dựng Sở giao dịch hàng hoá ở Việt Nam những năm gần đây đang
được chú trọng, các trung tâm giao dịch đã được hình thành và đi vào hoạt động.
Tuy nhiên, thực tế là các trung tâm này hoạt động còn khá “cầm chừng”, không hiệu
quả. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do hệ thống pháp luật về
Sở giao dịch hàng hoá nước ta còn chưa đầy đủ, chưa đủ sức tạo ra cơ chế pháp lý
chặt chẽ, hiệu quả cho sự hình thành và phát triển của Sở giao dịch hàng hoá. Vì
vậy, cần phải nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật về Sở giao dịch hàng
hoá nhằm góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc
tế. Trước yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới của đất nước và xu thế hội
nhập, tôi đã chọn vấn đề “Pháp luật về Sở giao dịch hàng hoá - một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình để tìm hiểu rõ, nhận


2
thức đầy đủ hơn quy định của pháp luật, qua đó góp phần khắc phục những hạn chế
của pháp luật hiện hành về Sở giao dịch hàng hoá, tạo hành lang pháp lý đầy đủ để
các Sở giao dịch hàng hoá có thể hoạt động hiệu quả trong tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sở giao dịch hàng hoá là một vấn đề khá mới ở Việt Nam nên chưa có nhiều
công trình nghiên cứu về vấn đề này. Trong những năm gần đây, có một số công trình
nghiên cứu về hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá, như:
- Đề tài khoa học cấp Bộ: “Thị trường hàng hoá giao sau và việc triển khai
xây dựng ở Việt Nam” của PGS.TS Nguyễn Văn Nam, Viện nghiên cứu thương
mại, Bộ Thương mại;
- Sách chuyên khảo “Thị trường hàng hoá giao sau” (2000), Bộ Thương
mại, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội;

- Luận án tiến sĩ kinh tế: “Sự hình thành thị trường hàng hoá giao sau cho
một số nông sản ở Việt Nam”, Nguyễn Lương Thanh, Hà Nội, 2010;
- Luận án tiến sĩ luật học: “Pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng
hoá qua Sở giao dịch hàng hoá ở Việt Nam”, Nguyễn Thị Yến, Hà Nội, 2011.
Có thể thấy, các công trình khoa học trên chủ yếu nghiên cứu về hoạt động
mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hoặc thị trường hàng hoá giao sau (mà Sở giao
dịch hàng hoá chỉ là một chủ thể tham gia). Phần lớn các công trình này nghiên cứu
thị trường hàng hoá giao sau dưới góc độ kinh tế, chỉ ra bản chất của thị trường, giới
thiệu về các hình thức hợp đồng, chủ thể tham gia….
Bên cạnh đó, cũng có một số bài viết trên tạp chí về Sở giao dịch hàng hoá
và hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch dưới góc độ pháp lý, như: bài viết
“Mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá” của Th.S Bùi Thanh Lam, Tạp chí
Luật học số 01/2008; bài viết “Một số bình luận về thực thi pháp luật mua bán hàng
hoá qua Sở giao dịch hàng hoá ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Thị Dung, Tạp chí
Luật học số 01/2011; bài viết “Đặc trưng cơ bản của quan hệ mua bán hàng hoá
qua Sở giao dịch hàng hoá theo pháp luật Việt Nam” của Th.S Nguyễn Thị Yến,
Tạp chí Luật học số 06/2007; bài viết “Các chủ thể tham gia giao dịch trên Sở giao
dịch hàng hoá” của Th.S Nguyễn Thị Yến, Tạp chí Luật học số 07/2009; bài viết


3
“Hoàn thiện pháp luật về Sở giao dịch hàng hoá” của TS. Nguyễn Thị Yến, Tạp
chí Luật học số 10/2012…; và một số bài viết liên quan đến vấn đề này được đăng
tải trên các trang web.
Đề tài “Pháp luật về Sở giao dịch hàng hoá - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” ở cấp độ luận văn thạc sỹ sẽ được nghiên cứu chuyên sâu, đầy đủ, có hệ thống
về các vấn đề pháp lý liên quan đến Sở giao dịch hàng hoá, bên cạnh đó, tác giả có
ý thức kế thừa kết quả khoa học của những công trình đã công bố và kinh nghiệm
thực tiễn có liên quan.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài

Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ luật học, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về Sở giao dịch hàng hoá và pháp luật về
Sở giao dịch hàng hoá; phân tích, đánh giá một cách toàn diện các quy định pháp
luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về Sở giao dịch hàng hoá ở
Việt Nam, từ đó đưa ra những điểm tích cực, hạn chế, đề xuất phương hướng và
giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về Sở giao dịch hàng hoá.
4. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài: Luận văn làm sáng tỏ các vấn đề lý
luận trên cơ sở phân tích các quan điểm, quan niệm trong khoa học pháp lý hiện nay
về Sở giao dịch hàng hoá, lấy đó làm cơ sở khoa học cho việc đánh giá thực trạng
pháp luật, tìm ra những ưu điểm, hạn chế; qua đó đề xuất phương hướng và giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật nước ta về Sở giao dịch hàng hoá, để các quy định
pháp luật có tính khả thi cao, phát huy hiệu lực, hiệu quả trong đời sống xã hội.
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải hoàn thành các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về Sở giao dịch hàng hoá, pháp luật về Sở
giao dịch hàng hoá nhằm xây dựng các khái niệm mang tính khoa học;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn tổ chức thực hiện qua
việc phân tích các khảo sát, báo cáo và số liệu thực tế, đưa ra nhận xét về những
điểm tích cực, những mặt hạn chế;


4
- Đề xuất, kiến nghị những giải pháp xác đáng, khoa học, có tính khả thi cho
việc hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của Sở giao dịch
hàng hoá.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cở sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh, suy
luận logic được sử dụng chủ yếu ở phần khái quát về Sở giao dịch hàng hoá và pháp
luật về Sở giao dịch hàng hoá nhằm lý giải các vấn đề lý luận, giúp cho mỗi vấn đề

được nhìn nhận từ nhiều góc độ, thấy được những điểm hợp lý và chưa hợp lý của
các quan điểm, quan niệm đưa ra trong luận văn, từ đó đưa ra kết luận có tính khoa
học và nổi bật về vấn đề.
Phương pháp thống kê, phương pháp tổng kết được sử dụng chủ yếu ở phần
pháp luật Việt Nam hiện hành về Sở giao dịch hàng hoá để từ những số liệu, tình
hình thực tế cụ thể có thể phân tích, đánh giá một cách toàn diện về thực trạng pháp
luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về Sở giao dịch hàng hoá ở Việt Nam, tìm hiểu
nguyên nhân của thực trạng trên và từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về Sở giao dịch hàng hoá và pháp luật về Sở giao
dịch hàng hoá
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về Sở giao dịch hàng hoá
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về Sở giao dịch hàng hoá ở Việt Nam


5

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ SỞ GIAO DỊCH HÀNG HOÁ VÀ PHÁP LUẬT VỀ SỞ
GIAO DỊCH HÀNG HOÁ
1.1. Khái quát về Sở giao dịch hàng hoá
1.1.1. Khái niệm Sở giao dịch hàng hóa
Khái niệm Sở giao dịch hàng hoá xuất hiện khá sớm, gắn liền với sự hình
thành và phát triển của thị trường hàng hóa giao sau hay còn gọi là thị trường hàng
hoá tương lai. Người ta đã tìm thấy những dấu vết của hợp đồng mua bán hàng hóa
tương lai sơ khai ở Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, Sở giao dịch các hợp đồng tương lai
có tổ chức hiện đại đầu tiên lại là Sở giao dịch lúa gạo Dojima (Dojima Rice

Exchange) tại Osaka - Nhật Bản vào năm 1710 [29].
Ở Hoa Kỳ, thị trường hàng hoá tương lai đã hình thành vào đầu những năm
1800 của thế kỷ XIX, ban đầu là ở Chicago - trung tâm lớn của hoạt động mua bán
nông sản thời bấy giờ. Vào những năm này, đến vụ thu hoạch, một khối lượng lớn
ngũ cốc từ các trang trại vùng vành đai được vận chuyển đến Chicago khiến nhu
cầu tiêu thụ ngũ cốc tăng đột biến. Lợi dụng tình trạng này, các nhà đầu cơ đã ép
giá, làm cho giá ngũ cốc giảm mạnh sau thu hoạch, gây thiệt hại lớn về kinh tế cho
các chủ trang trại. Mặt khác, giá ngũ cốc lại tăng cao khi mất mùa, số lượng ngũ cốc
không đủ cung cấp cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, gây khó khăn cho các nhà
buôn và người tiêu thụ. Do đó, để giảm thiểu rủi ro, trước mỗi mùa vụ, những người
nông dân, chủ trang trại đã thoả thuận với các thương nhân và người tiêu thụ để bán
số ngũ cốc của mình. Người bán và người mua gặp nhau, thoả thuận về số lượng
ngũ cốc, phẩm cấp, giá cả, thời gian, địa điểm giao hàng và nhận tiền. Khi những
thỏa thuận này trở nên phổ biến, một thị trường mới được hình thành, đó là thị
trường hàng hoá tương lai – nơi người bán và người mua gặp nhau để thoả thuận,
cam kết về việc mua bán hàng hoá vào thời điểm hiện tại nhưng giao hàng và thanh
toán vào một thời điểm nhất định trong tương lai. Tuy nhiên, phần lớn các hợp đồng
được giao kết không được thực hiện đúng bởi cả bên bán lẫn bên mua do những
biến động của giá cả hàng hoá. Hơn nữa, thị trường mua bán hàng hoá tương lai khó
thanh khoản, rất cần có Sở giao dịch hàng hoá với tư cách là chủ thể trung gian kết
nối và bảo đảm cho tính thanh khoản của các giao dịch tương lai. Vì vậy, năm 1848,


6

Phòng Thương mại Chicago (CBOT), thị trường giao dịch hợp đồng tương lai hiện
đại đầu tiên trên thế giới được thành lập. Ban đầu, việc giao dịch mua bán thông qua
các hợp đồng kỳ hạn đã được tiêu chuẩn hóa bởi CBOT. Dần dần, khi các giao dịch
này ngày càng trở nên phổ biến, ngân hàng cho phép sử dụng những hợp đồng này
làm vật cầm cố cho các khoản vay và các hợp đồng này được mua đi bán lại nhiều

lần trước ngày thanh lý. Theo đó, Sở giao dịch hàng hóa cho phép giao thương các
công cụ tài chính phái sinh, tác động mạnh đến sự phát triển của thị trường.
Cùng với sự phát triển rực rỡ của thị trường hàng hóa tương lai, Sở giao dịch
hàng hóa cũng không ngừng phát triển và hoàn thiện hơn. Hầu như mỗi quốc gia có
nền kinh tế thị trường phát triển đều tổ chức một Sở giao dịch hàng hóa nhằm khai
thác lợi thế cạnh tranh về sản phẩm của mình. Đồng thời, các Sở giao dịch cũng
được hiện đại hóa bằng hệ thống giao dịch điện tử nhằm tăng tính nhanh chóng,
chính xác cho giao dịch. Có thể kể đến một số Sở giao dịch hàng hóa lớn trên thế
giới như: Sở giao dịch hàng hóa Chicago, Sở giao dịch hàng hoá New York, Sở
giao dịch hàng hoá London, Sở giao dịch hàng hóa Bombay, Sở giao dịch hàng hóa
Tokyo, Sở giao dịch kỳ hạn Thượng Hải…
Cùng với sự đa dạng của các Sở giao dịch hàng hóa trên thế giới, khái niệm
về Sở giao dịch hàng hoá cũng rất phong phú do được nhìn nhận, đánh giá dưới
nhiều góc độ khác nhau.
 Dưới góc độ kinh tế:
Nếu xem Sở giao dịch hàng hóa như là một thuật ngữ kinh tế đơn thuần, thì
có thể hiểu “Sở giao dịch hàng hóa là một loại thị trường hàng hóa đặc biệt, có tổ
chức và có quy chế chặt chẽ, tại đó hàng hóa mua bán là những hàng hóa có phẩm
cấp rõ ràng (như nguyên liệu và ngũ cốc) và được mua bán với khối lượng lớn,
bằng những phương thức đặc biệt như giao ngay, giao kỳ hạn” [13].
Cụ thể hơn, Từ điển Bách khoa toàn thư điện tử đưa ra khái niệm về Sở giao
dịch hàng hóa một cách khá chi tiết: “Sở giao dịch hàng hóa là hình thức thị trường
đặc biệt, thực hiện việc mua bán quy mô lớn, theo mẫu và quy cách hàng hóa. Sở
giao dịch hàng hóa có đặc điểm: ở đó không có hàng hóa bán ra mà chỉ mua bán
hàng hóa theo mẫu và quy cách; đối tượng giao dịch không phải là những hàng hóa
khác nhau nhiều, mà thường là những hàng hóa cùng chất lượng, quy cách. Việc
giao dịch ở Sở giao dịch hàng hóa được thực hiện chủ yếu theo giao dịch kỳ hạn,


7


sau khi thành giá, qua một thời gian nhất định mới giao hàng cho người mua. Ở Sở
giao dịch hàng hóa, việc mua bán không gắn liền với việc di chuyển thực tế của
hàng hóa, mà chỉ là mua bán quyền sở hữu hàng hóa. Do đó, Sở giao dịch hàng
hóa mở rộng và đẩy mạnh hoạt động của thị trường, đồng thời tạo điều kiện cho
hoạt động đầu cơ của các nhà tư bản...” [26].
Thông qua những khái niệm này, có thể thấy Sở giao dịch hàng hóa được coi
là một loại thị trường đặc biệt - nơi diễn ra các hoạt động mua bán hàng hóa tương
lai. Điểm đặc thù của thị trường Sở giao dịch hàng hóa đó là hàng hóa được mua bán
tại Sở giao dịch được tiêu chuẩn hóa theo mẫu và quy cách nhất định, với số lượng
lớn, việc giao hàng không phải ở thời điểm hiện tại mà được thực hiện tại một thời
điểm trong tương lai đã được các bên ấn định trước.
 Dưới góc độ pháp lý:
Xuất phát từ bản chất pháp lý của Sở giao dịch hàng hóa, khái niệm Sở giao
dịch hàng hóa được ghi nhận trong từ điển pháp lý và pháp luật về Sở giao dịch
hàng hóa của các nước.
Từ điển Black’s law định nghĩa về Sở giao dịch hàng hoá là “một toà nhà
hoặc sảnh đường nơi các thành viên tham gia một giao dịch gặp gỡ vào mỗi ngày
để mua và bán cho chính mình hoặc với tư cách là người môi giới cho các khách
hàng của họ để thực hiện việc giao hàng trong hiện tại và tương lai” [27]. Theo đó,
Sở giao dịch hàng hoá được hiểu là địa điểm diễn ra việc mua bán hàng hoá tương
lai thông qua thành viên của Sở giao dịch. Đối với phương thức giao dịch truyền
thống, địa điểm giao dịch thường là một toà nhà hoặc sảnh đường lớn cho hàng
trăm nhân viên của các công ty môi giới đứng ra hô giá, trả giá công khai để khớp
lệnh. Đối với phương thức giao dịch điện tử, địa điểm giao dịch có thể chỉ là một
toà nhà nhỏ, có nhân viên, hệ thống máy tính và màn hình lớn hiển thị giá cả.
Tương tự, Luật mua bán hàng hoá tương lai của Singapore quy định về Sở
giao dịch hàng hóa như sau: “Sàn giao dịch hàng hoá tương lai là một tổ chức cung
cấp hoặc sẽ cung cấp các phương tiện kỹ thuật cần thiết cho hoạt động mua bán
các hợp đồng mua bán hàng hoá tương lai và duy trì hoặc sẽ duy trì một trung tâm

mua bán hàng hoá tương lai được Hội đồng phê chuẩn. Trung tâm mua bán hàng
hoá tương lai là trung tâm, sàn giao dịch hàng hoá tương lai hoặc địa điểm khác
mà tại đó các hợp đồng mua bán hàng hoá tương lai được thực hiện một cách


8

thường xuyên hoặc một hệ thống điện tử, dù hoạt động ở Singapore hay không mà
thông qua hệ thống đó giao dịch mua bán các hợp đồng mua bán hàng hoá tương
lai được tiến hành, nhưng không bao gồm phương tiện điện tử chỉ đơn thuần cung
cấp giá cả hoặc các thông tin khác liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hoá
tương lai (dù phương tiện đó có là một phần của hoặc được thực hiện liên quan đến
hợp đồng mua bán hàng hoá tương lai) và nó không cho phép người sử dụng gửi
các đơn hàng, thực hiện các giao dịch hoặc trao đổi về hợp đồng mua bán hàng
hoá tương lai”. Theo khái niệm này, Sở giao dịch hàng hóa là một chủ thể có tổ
chức, thực hiện việc cung cấp các trang thiết bị kỹ thuật cần thiết cho hoạt động
mua bán các hợp đồng mua bán hàng hoá tương lai, cho thấy Sở giao dịch cho phép
giao dịch các công cụ tài chính phái sinh. Đồng thời, Sở giao dịch hàng hóa còn duy
trì một trung tâm mua bán hàng hoá tương lai, là địa điểm mà tại đó các hợp đồng
mua bán hàng hoá tương lai được thực hiện một cách thường xuyên. Điều này cho
thấy tần suất các giao dịch được diễn ra ở đây khá lớn và cũng có thể coi đây là một
điều kiện cần tại trung tâm mua bán hàng hoá tương lai. Hoạt động tại Sở giao dịch
có thể thông qua một hệ thống điện tử - phương tiện để các bên tham gia giao dịch
có thể trực tiếp tiến hành hoạt động mua bán các hợp đồng mua bán hàng hóa tương
lai. Pháp luật Singapore không quy định hệ thống điện tử đó phải được hoạt động
tại Singapore mà có thể ở các quốc gia khác.
Như vậy, có thể thấy, dù nhìn nhận dưới góc độ pháp lý hay kinh tế, Sở giao
dịch hàng hoá cũng là nơi diễn ra các hoạt động mua bán hàng hoá tương lai theo
những quy định nhất định. Trên cơ sở đó, có thể đưa ra một định nghĩa khái quát về
Sở giao dịch hàng hoá như sau: Sở giao dịch hàng hoá là một tổ chức được thành

lập và hoạt động theo những nguyên tắc, điều kiện nhất định với chức năng cung
cấp các phương tiện cần thiết và điều hành hoạt động mua bán hàng hoá tương lai,
để giao dịch mua bán hàng hóa được tiêu chuẩn hóa, với số lượng lớn, theo những
quy tắc giao dịch của Sở giao dịch hàng hóa.
1.1.2. Đặc điểm của Sở giao dịch hàng hóa
Căn cứ vào khái niệm Sở giao dịch hàng hóa, có thể thấy Sở giao dịch hàng
hóa có một số đặc điểm nổi bật như sau:


9

Thứ nhất, Sở giao dịch hàng hoá là một thị trường hàng hoá đặc biệt, được tổ
chức để thiết lập và thực hiện giao dịch về những loại hàng hóa nhất định. Trong thị
trường này hiếm khi diễn ra việc luân chuyển hàng hóa mà chủ yếu là sự luân
chuyển quyền sở hữu hàng hóa và tiền tệ giữa các chủ thể tham gia thị trường nhằm
hạn chế rủi ro hoặc thu lợi nhuận (do biến động về giá) đối với các loại hàng hóa
tương lai. Những người có hàng hóa và người cần hàng hóa đều có thể chuyển rủi
ro về giá hàng hóa cho các nhà đầu tư tham gia thị trường - những người chấp nhận
rủi ro để kiếm lời. Sự tham gia của những người đầu tư vào quá trình luân chuyển
rủi ro, luân chuyển vốn thông qua giao dịch mua bán hàng hóa tương lai đã làm cho
thị trường Sở giao dịch hàng hóa có tính chất của thị trường tài chính.
Xuất phát từ chức năng cung cấp địa điểm, phương tiện cần thiết để tiến
hành giao dịch mua bán hàng hóa tương lai, Sở giao dịch hàng hóa khi được thành
lập và hoạt động phải tuân thủ theo những điều kiện, nguyên tắc nhất định. Cụ thể,
Sở giao dịch hàng hóa khi được thành lập phải đáp ứng điều kiện về vốn pháp định,
về cơ sở vật chất kỹ thuật, về nhân sự. Đồng thời, hoạt động của Sở giao dịch phải
tuân thủ những nguyên tắc nhất định như: nguyên tắc trung gian, nguyên tắc công
khai, nguyên tắc đấu giá… Qua đó mới đảm bảo hiệu quả hoạt động cũng như phát
huy vai trò của Sở giao dịch hàng hóa.
Do thị trường Sở giao dịch hàng hóa mang tính chất của thị trường tài chính

nên trong quá trình hoạt động, Sở giao dịch hàng hóa đặt ra các quy tắc giao dịch
chặt chẽ nhằm đảm bảo hoạt động mua bán hàng hóa diễn ra công khai, minh bạch,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia giao dịch. Những quy
định này nằm trong khuôn khổ pháp luật và là sự chi tiết hóa các quy định pháp luật
mà từng Sở giao dịch áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu giao dịch qua Sở giao
dịch cũng như thành viên của Sở giao dịch. Cụ thể, Sở giao dịch đặt ra các điều kiện
chặt chẽ đối với khách hàng khi tham gia giao dịch, đặc biệt là điều kiện về tài
chính, quy định nội dung hợp đồng mà mỗi khách hàng phải tuân thủ, quy định về
vấn đề thanh khoản, tất toán hợp đồng, giao nhận hàng, thanh toán… Tương tự, đối
với thành viên Sở giao dịch cũng phải thỏa mãn những điều kiện nhất định (về cơ sở
vật chất, về nhân lực…) mới được chấp thuận tư cách thành viên và phải chịu sự
kiểm soát chặt chẽ của Sở giao dịch trong quá trình tiến hành các hoạt động cụ thể.


10

Đối tượng hàng hóa được mua bán tại Sở giao dịch hàng hóa không phải là
những hàng hóa thông thường mà là những hàng hoá được quy định về phẩm cấp,
chất lượng chặt chẽ. Hàng hoá được mua bán qua Sở giao dịch thường là nguyên
liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất, chế biến, xuất khẩu và phải thoả mãn các điều
kiện như: có thể tích trữ trong một thời gian dài (phù hợp với việc giao nhận trong
tương lai), dễ phân loại phẩm cấp (phù hợp với các nhu cầu khác nhau của nhà đầu
tư), giao dịch với số lượng lớn (phù hợp với thị trường tập trung, quy mô lớn), biến
động giá hoàn toàn phụ thuộc vào cung - cầu…[14]
Thứ hai, Sở giao dịch hàng hoá là trung gian kết nối người mua và người bán
thông qua thành viên của Sở giao dịch hàng hoá, đồng thời tiến hành cung cấp dịch
vụ để mọi giao dịch được diễn ra nhanh chóng, thuận tiện và an toàn. Có thể thấy,
Sở giao dịch hàng hoá không phải là một bên chủ thể trong các giao dịch mua bán
hàng hoá tương lai, chỉ là trung gian kết nối và cung cấp các dịch vụ cho các chủ thể
tham gia mua bán tại Sở giao dịch với nhau. Các dịch vụ cơ bản mà Sở giao dịch

cung cấp bao gồm nhận lệnh - khớp lệnh tập trung, thanh toán và giao nhận hàng
hoá. Đầu tiên, Sở giao dịch hàng hoá nhận các lệnh mua, lệnh bán hàng hoá từ các
thành viên kinh doanh của mình, sau đó, tiến hành khớp các lệnh này với nhau theo
những nguyên tắc nhất định để thiết lập nên các hợp đồng tương lai, hợp đồng
quyền chọn. Sở giao dịch không chỉ đích danh người mua, người bán cho nhau mà
để các bên tự tìm đến nhau, giúp các bên đưa thông tin của mình lên mà cụ thể là
lệnh mua, lệnh bán để từ đó các bên thực hiện được mục đích của mình. Khách
hàng có thể thông qua thành viên môi giới hoặc ủy thác cho thành viên kinh doanh
của Sở giao dịch để thực hiện giao dịch trên Sở. Do việc giao kết hợp đồng được
thực hiện qua trung gian nên người mua, người bán có thể không biết nhau, vì vậy,
họ không thực hiện thanh toán trực tiếp với nhau mà thông qua Sở giao dịch tại bộ
phận thanh toán. Cơ quan thanh toán sẽ nắm giữ mọi thông tin về khách hàng, quản
lý khoản tiền ký quỹ của khách hàng, thực hiện chuyển tiền từ tài khoản của người
mua sang tài khoản của người bán. Đối với việc giao hàng - nhận hàng giữa các chủ
thể tham gia giao dịch trên Sở sẽ do trung tâm giao nhận hàng hóa của Sở giao dịch
đảm nhận.


11

Do các giao dịch không được giao kết và thực hiện trực tiếp giữa người mua
và người bán nên trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, cung cấp dịch vụ,
nếu xảy ra vi phạm, Sở giao dịch hàng hoá sẽ là chủ thể chịu trách nhiệm.
Thứ ba, hình thức giao dịch tại Sở giao dịch hàng hoá là hợp đồng. Hợp đồng
mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch có bản chất của hợp đồng mua bán hàng hoá
nói chung nhưng các điều khoản trong hợp đồng được quy định với những ràng
buộc chặt chẽ, có tính chất tiêu chuẩn hoá. Sự tiêu chuẩn hoá các điều khoản chủ
yếu trong hợp đồng mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch giúp cho việc giao kết hợp
đồng được thuận lợi và đảm bảo an toàn về mặt pháp lý, hạn chế rủi ro cho các chủ
thể tham gia mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch. Các điều khoản trong hợp đồng

mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá bao gồm: tên hàng, chất lượng, giá trị
hợp đồng, thời gian giao hàng, địa điểm giao hàng…
Các hình thức hợp đồng chủ yếu trên Sở giao dịch hàng hóa là hợp đồng kỳ
hạn và hợp đồng quyền chọn. Trong đó, hợp đồng kỳ hạn là những hợp đồng được
tiêu chuẩn hóa, được giao dịch trên Sở giao dịch hàng hóa để mua hoặc bán một
lượng hàng hóa trong một thời điểm định trước trong tương lai với một mức giá xác
định. Hợp đồng quyền chọn là một thỏa thuận giữa người mua và người bán, theo
đó, người mua có quyền được mua hoặc bán một hàng hóa xác định với mức giá
định trước và phải trả một khoản tiền để mua quyền này, sau đó, người mua có
quyền thực hiện hoặc không thực hiện việc mua bán hàng hóa đó [18].
Thứ tư, Sở giao dịch hàng hóa phản ánh biến động giá cả trên thị trường. Sở
giao dịch là nơi diễn ra các hoạt động mua bán nên đã phản ánh sự biến động quan
hệ cung cầu, sự thay đổi giá cả trên thị trường. Việc mua bán hàng hóa trong tương
lai giữa các bên với giá dự kiến giúp thị trường tự điều chỉnh giá. Giá cả được niêm
yết công khai khiến cho các nhà kinh doanh cũng như những nhà sản xuất không lo
bị ép giá. Các thông tin từ thị trường này được các nhà kinh doanh dùng để tham
khảo khi giao dịch, ký kết hợp đồng. Với các thông tin về giá cả, người tiêu dùng,
người sản xuất sẽ có được các quyết định đúng hơn về hàng hóa được tiêu thụ, được
sản xuất, cách sản xuất trong giai đoạn hiện tại so với tương lai. Như thế, Sở giao
dịch hàng hóa phản ánh được sự biến động của nền kinh tế và góp phần ổn định giá
cả, giúp các nhà sản xuất kinh doanh khi ra các quyết định đầu tư.


12

1.1.3. Vai trò của Sở giao dịch hàng hóa
Sở giao dịch hàng hóa cung cấp địa điểm tiến hành việc giao dịch trong hoạt
động mua bán hàng hóa tương lai, đồng thời điều hành giao dịch mua bán hàng hóa
tương lai. Qua đó, Sở giao dịch hàng hóa thể hiện được vai trò quan trọng của mình.
Thứ nhất, đối với nhà đầu tư:

Một là, Sở giao dịch hàng hóa cung cấp công cụ đầu tư cho các nhà đầu tư.
Với công cụ tiền ký quỹ, họ có thể tham gia vào hoạt động mua bán hàng hóa tại Sở
giao dịch hàng hóa. Thay vì bỏ ra một khoản tiền lớn để đặt cọc hoặc yêu cầu có sự
bảo lãnh của bên thứ ba hoặc thế chấp để đảm bảo cho việc mua bán, người tham
gia chỉ cần nộp một số tiền cụ thể theo quy định của từng Sở giao dịch. Khi tham
gia giao dịch tại Sở giao dịch, nhà đầu tư có cơ hội tìm kiếm lợi nhuận dựa trên sự
chênh lệch về giá giữa lúc giao kết hợp đồng và thời điểm giao hàng.
Hai là, Sở giao dịch hàng hóa cung cấp công cụ để các nhà đầu tư tự bảo hiểm
và san sẻ rủi ro, thể hiện trong việc thương nhân sử dụng hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng
quyền chọn nhằm mục đích tự bảo hiểm cho thương vụ thực tế của mình. Sở giao
dịch còn cung cấp thông tin về giá cả hàng hóa trên thị trường giúp các thương nhân
giao dịch hàng hóa tận dụng mọi khả năng để chuyển dịch những rủi ro về giá trong
giao dịch thực tế, tránh và giảm những tổn thất do biến động giá gây ra. Cụ thể, “khi
ký những giao dịch mua, bán trên thị trường hàng thực để phục vụ nhu cầu kinh
doanh trong thời gian nhất định, để tránh sự biến động khó lường của giá hàng hoá,
các nhà kinh doanh thường đến Sở giao dịch hàng hoá để đặt các lệnh mua, bán đối
ứng với những giao dịch họ đang thực hiện trên thực tế. Nếu giá cả hàng hoá biến
động tăng lên (hoặc giảm đi) so với thời điểm họ giao kết hợp đồng, với tư cách là
người bán trên thị trường hàng thực, họ sẽ bị lỗ (hoặc lãi) nhưng trong giao dịch đối
ứng trên Sở giao dịch, họ lại được lãi (hoặc lỗ) với tư cách người mua” [15].
Ba là, Sở giao dịch hàng hóa cung cấp công cụ để bảo vệ nhà đầu tư, giúp
kiểm soát rủi ro thanh toán, đảm bảo thực hiện hợp đồng, tạo môi trường đầu tư an
toàn cho nhà đầu tư. Cụ thể, Sở giao dịch đặt ra các quy tắc giao dịch chặt chẽ buộc
các chủ thể phải tuân theo, các giao dịch trên Sở giao dịch hàng hóa được thực hiện
thông qua các bộ phận chức năng và thành viên của Sở giao dịch và Sở giao dịch sẽ
chịu trách nhiệm về việc đảm bảo thực hiện hợp đồng trên thực tế. Bên cạnh đó,


13


hàng hoá được đưa vào giao dịch tại Sở phải đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng,
chủng loại, đơn vị giao dịch chuẩn của từng hợp đồng… do Sở giao dịch hàng hoá
đặt ra và được kiểm định chặt chẽ bởi hệ thống giao nhận của Sở giao dịch, qua đó
góp phần hạn chế rủi ro về tiêu chuẩn hoá hợp đồng.
Thứ hai, đối với thị trường mua bán hàng hóa tương lai:
Sở giao dịch hàng hóa là chủ thể trung tâm của hoạt động mua bán hàng hóa
tương lai với chức năng tổ chức và điều hành hoạt động mua bán hàng hóa tương lai
trên thị trường. Từ đó, có thể thấy, hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa có sự tác
động mạnh mẽ tới sự phát triển của thị trường mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch.
Cụ thể, Sở giao dịch hàng hoá hoạt động theo những nguyên tắc nhất định, giao
dịch những hàng hoá đã được tiêu chuẩn hoá về phẩm cấp, chất lượng, phản ánh
biến động cung cầu trên thị trường, vì thế, hoạt động của Sở giao dịch hàng hoá nếu
hiệu quả sẽ đưa sự phát triển của thị trường hàng hóa theo hướng quy mô, hiện đại,
ngày càng lành mạnh, minh bạch hơn.
Thứ ba, đối với nền kinh tế:
Sở giao dịch hàng hóa giúp định hướng sản xuất và tiêu dùng, tạo ra sự cân
bằng trong sản xuất và tiêu dùng.
Một là, Sở giao dịch hàng hóa giúp định hướng sản xuất trong nền kinh tế.
Cụ thể, khi quan hệ cung cầu trên thị trường được thể hiện trên Sở giao dịch, các
nhà sản xuất, các hãng kinh doanh sẽ có nguồn thông tin giúp họ định hướng sản
xuất, kinh doanh cũng như thay đổi lượng cung cầu của một mặt hàng nhất định để
điều chỉnh giá cả trên thị trường. Với các nhà sản xuất, khi thực hiện hoạt động mua
bán hàng hóa tại Sở giao dịch, họ sẽ có hợp đồng với số lượng, giá cả, chất lượng và
thời hạn giao hàng xác định trước, từ đó nắm chắc đầu ra của sản phẩm để có thể
vạch ra kế hoạch sản xuất, tiến hành huy động vốn, mua sắm vật tư, mở rộng quy
mô sản xuất, tiến hành áp dụng các kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất và chất
lượng sản phẩm. Đồng thời, đó cũng là một yếu tố quan trọng để nâng cao khối
lượng hàng hóa, tận dụng được một cách hợp lý nguồn tài nguyên về nhân lực.
Hai là, Sở giao dịch hàng hóa giúp cân bằng giữa sản xuất và tiêu thụ. Bằng
việc tham gia mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch, sự cân bằng giữa tiêu thụ và sản

xuất sẽ được đảm bảo do sự điều chỉnh giá liên tục được thực hiện trên thị trường


14

dựa trên cung cầu. Người sản xuất cũng như người tiêu dùng sẽ quyết định sản xuất
hoặc tiêu thụ bao nhiêu hàng hóa dựa trên giá thị trường. Nếu có một sự dư thừa của
một sản phẩm nào đó trên thị trường, giá sẽ giảm, do đó nhà sản xuất sẽ sản xuất ít
đi. Nếu có sự thiếu hụt của một sản phẩm nào đó trên thị trường, giá sẽ tăng vì nhà
sản xuất nâng giá và sẽ tác động tới yếu tố tiêu thụ.
Thứ tư, đối với cơ quan quản lý nhà nước:
Thông qua Sở giao dịch hàng hóa, các cơ quan quản lý nhà nước nắm được
các diễn biến của thị trường, từ đó có thể dự đoán được chiều hướng phát triển trong
tương lai của nền kinh tế, đưa ra các chính sách điều hành nền kinh tế một cách
chính xác, rõ ràng, định ra các giải pháp phòng ngừa thích hợp, hạn chế các diễn
biến bất lợi cho nền kinh tế, qua đó, thực hiện vai trò quản lý đối với thị trường
cũng như đối với nền kinh tế. Ngoài ra, Sở giao dịch hàng hóa còn có vai trò là một
trong những công cụ quản lý tài chính giúp Nhà nước có thể thực thi các chính sách
kinh tế của mình một cách hiệu quả.
Có thể thấy, Sở giao dịch hàng hóa có vai trò quan trọng, không chỉ là công cụ
đầu tư nhằm bảo hiểm rủi ro, đem lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư mà Sở giao dịch
hàng hóa còn là công cụ tài chính để Nhà nước quản lý, điều hành hoạt động mua bán
hàng hóa tương lai. Qua đó, Sở giao dịch hàng hóa góp phần thúc đẩy sự phát triển
của thị trường mua bán hàng hóa tương lai cũng như nền kinh tế quốc gia.
1.2. Khái quát pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa
1.2.2. Khái niệm pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa
Pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa là một bộ phận không thể thiếu của pháp
luật về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch - một chế định luật thương mại đặc thù,
bởi lẽ Sở giao dịch hàng hóa là chủ thể trung tâm của thị trường mua bán hàng hóa
qua Sở giao dịch. Ngoài ra, Sở giao dịch theo quy định của pháp luật một số nước là

một tổ chức có tư cách pháp nhân, có thể được tổ chức dưới loại hình công ty, vì vậy
Sở giao dịch hàng hóa còn chịu sự điều chỉnh của luật doanh nghiệp. Nhìn chung,
pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa là một bộ phận của pháp luật mua bán hàng hóa
qua Sở giao dịch nói riêng và pháp luật thương mại nói chung. Vì vậy, việc nghiên
cứu, đánh giá các quy định pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa là không thể thiếu


15

trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về mua bán hàng hóa qua
Sở giao dịch và pháp luật thương mại. Xuất phát từ sự cần thiết đó, việc đưa ra khái
niệm pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa là việc làm cơ bản, đặt nền móng cho việc
hoàn thiện các quy định pháp luật về mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch và pháp luật
thương mại.
Dưới góc độ lý luận có thể hiểu, pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự
mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực
hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với ý chí của Nhà nước.
Pháp luật có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội thông qua việc ghi nhận các
quan hệ xã hội chủ yếu trong xã hội và đảm bảo cho sự phát triển của các quan hệ
xã hội. Pháp luật còn là công cụ bảo vệ các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh.
Tùy từng quốc gia khác nhau mà pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa có chức
năng khác nhau. Đối với hầu hết quốc gia, pháp luật về Sở giao dịch hàng hoá thực
hiện chức năng phản ánh, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
thành lập, hoạt động, giải thể, phá sản Sở giao dịch. Điều này có nghĩa là Sở giao
dịch đã được thành lập trong thực tế và cần có các quy phạm pháp luật điều chỉnh để
hoạt động của tổ chức này đi vào khuôn khổ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể tham gia kinh doanh tại Sở giao dịch cũng như lợi ích của Nhà nước, đảm
bảo sự minh bạch của thị trường mua bán hàng hóa tương lai. Đối với một số quốc
gia khác, pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa ngoài chức năng phản ánh các quan hệ
xã hội đã phát sinh còn thực hiện chức năng định hướng, tạo ra khuôn mẫu cho việc

thành lập và đưa vào hoạt động các Sở giao dịch trong tương lai (chức năng dự báo).
Bên cạnh đó, pháp luật về Sở giao dịch hàng hoá có thể được quy định dưới
các hình thức khác nhau, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội cũng như trình độ
lập pháp của mỗi quốc gia. Có nước, ví dụ Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc… đã
xây dựng một đạo luật riêng về Sở giao dịch hàng hóa và hoạt động mua bán hàng
hóa qua Sở giao dịch. Theo đó, pháp luật về Sở giao dịch hàng hoá bao gồm đầy đủ
các nhóm quy phạm, từ các quy phạm về nội dung thành lập, hoạt động đến các quy
phạm về thủ tục giải quyết tranh chấp và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Đây
là cách quy định được áp dụng ở những nước mà luật pháp không phân chia thành
các ngành luật độc lập, chế định pháp luật điều chỉnh một hoạt động thương mại cụ
thể bao gồm tất cả các nhóm quy phạm điều chỉnh quan hệ phát sinh từ hoạt động


16

đó. Điều này làm cho luật pháp về Sở giao dịch hàng hoá nói riêng và pháp luật
điều chỉnh các lĩnh vực luật pháp khác nói chung cụ thể và đầy đủ, đồng thời khiến
việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn trở nên thuận tiện và hiệu quả hơn.
Có nước, ví dụ: Liên bang Nga, Việt Nam…, pháp luật về Sở giao dịch hàng
hoá được quy định trong nhiều văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực luật khác nhau
như: luật thương mại, luật doanh nghiệp, luật dân sự, luật hành chính, luật hình
sự… Theo cách này, Luật về Sở giao dịch hàng hoá (luật chuyên ngành trong lĩnh
vực thương mại) chỉ quy định những vấn đề về địa vị pháp lý của Sở giao dịch hàng
hoá, điều kiện thành lập, giải thể, phá sản, nguyên tắc hoạt động, bộ máy tổ chức,
chủ thể tham gia giao dịch… còn những vấn đề khác liên quan đến giải quyết tranh
chấp phát sinh từ hoạt động của Sở giao dịch hàng hoá, các quy định về chế tài áp
dụng đối với hành vi vi phạm pháp luật được dẫn chiếu sang các văn bản pháp luật
chuyên ngành. Cách quy định này được áp dụng ở những nước mà hệ thống pháp
luật phân chia thành các ngành luật, mỗi khía cạnh của một quan hệ pháp luật được
điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật chuyên biệt. Cách quy định này có ưu điểm

là tạo ra sự chuyên sâu trong việc điều chỉnh các khía cạnh đặc thù của mỗi quan hệ,
nhưng lại làm cho luật pháp điều chỉnh về từng hoạt động chuyên biệt trở nên
không đầy đủ và khiến việc áp dụng pháp luật trở nên khó khăn và ít hiệu quả hơn.
Trên cơ sở những phân tích trên đây có thể đưa ra khái niệm pháp luật về Sở
giao dịch hàng hóa như sau: Pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa là tổng hợp những
quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thành lập, hoạt động, giải
thể, phá sản Sở giao dịch hàng hóa.
1.2.2. Nội dung pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa
Sở giao dịch hàng hoá là chủ thể trung tâm của mọi giao dịch mua bán hàng
hoá tương lai, vì vậy, pháp luật về Sở giao dịch hàng hoá đóng vai trò quan trọng
trong pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch. Theo pháp
luật các nước, quy định về Sở giao dịch hàng hoá bao gồm tập hợp các quy phạm sau:
- Quy phạm về địa vị pháp lý của Sở giao dịch hàng hoá:
Tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước dựa trên những tiêu chí
nhất định để quy định về tư cách pháp lý của Sở giao dịch hàng hoá. Có nước, như:


17

Hàn Quốc, Thái Lan, Canada… căn cứ vào hình thức tổ chức hoạt động của Sở giao
dịch hàng hoá để đưa ra quy định. Theo tiêu chí này, Sở giao dịch hàng hoá tồn tại
dưới một trong hai hình thức: hoặc Sở giao dịch hàng hoá là pháp nhân do các thành
viên góp vốn thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty, cung cấp các dịch vụ giao
dịch hàng hoá tương lai nhằm hướng tới mục đích lợi nhuận; hoặc Sở giao dịch
hàng hoá là một tổ chức phi lợi nhuận, do Nhà nước hoặc tổ chức nghiệp đoàn là
chủ sở hữu, cung cấp các dịch vụ giao dịch hàng hoá tương lai không nhằm hướng
tới mục tiêu lợi nhuận. Có nước như Mỹ, căn cứ vào các đặc trưng của Sở giao dịch
hàng hoá để định nghĩa Sở giao dịch hàng hoá. Theo đó, Sở giao dịch hàng hoá
được mô tả với hai đặc trưng cơ bản: là thị trường hàng hoá đặc biệt, nơi tổ chức,

kết nối các giao dịch mua bán hàng hoá tương lai tập trung, công khai theo nguyên
tắc khớp lệnh giao dịch; là chủ thể trung gian của mọi giao dịch, chịu trách nhiệm
về các dịch vụ mà mình cung cấp trước mọi chủ thể tham gia giao dịch. Có thể nói,
quy phạm về tư cách pháp lý của Sở giao dịch hàng hoá là quy phạm căn bản trong
pháp luật về Sở giao dịch hàng hoá, vì thế, pháp luật các nước đều chú trọng xây
dựng quy định này nhằm tạo tiền đề xây dựng các quy định pháp luật liên quan đến
Sở giao dịch hàng hoá. Trên cơ sở tư cách pháp lý của Sở giao dịch hàng hóa, pháp
luật các nước cũng ghi nhận các quyền và nghĩa vụ pháp lý của Sở giao dịch trong
quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Quy phạm về tổ chức hoạt động của Sở giao dịch hàng hoá:
Các quy phạm về tổ chức hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa có vai trò
quan trọng trong pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa và được cụ thể hóa trong bản
Điều lệ và Quy tắc hoạt động của từng Sở giao dịch.
Một là, pháp luật quy định các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Sở giao
dịch hàng hoá. Sở giao dịch hàng hoá, dù tồn tại dưới hình thức nào cũng được tổ
chức theo những nguyên tắc nhất định và khá thống nhất ở các nước, cụ thể là các
nguyên tắc: nguyên tắc trung gian, nguyên tắc công khai hoá thông tin, nguyên tắc
đấu giá. Nguyên tắc trung gian nghĩa là khi mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch
hàng hoá, khách hàng không được trực tiếp giao dịch với nhau mà phải thông qua
thành viên của Sở giao dịch hàng hoá hoặc người môi giới của khách hàng (trừ
trường hợp thành viên Sở giao dịch hàng hoá hoạt động tự doanh), điều này giúp


18

hoạt động giao dịch qua Sở giao dịch đảm bảo an toàn. Nguyên tắc công khai hoá
thông tin nghĩa là mọi thông tin liên quan đến biến động giá hàng hoá đều phải
được công khai trong các phiên giao dịch ở Sở giao dịch, bằng những phương tiện
nhất định, có như vậy mới tạo ra sự cạnh tranh công bằng và bình đẳng giữa các chủ
thể tham gia thị trường. Nguyên tắc đấu giá nghĩa là giá hàng hoá hình thành qua

các phiên giao dịch tại các Sở giao dịch hàng hoá hoàn toàn dựa trên quy luật cung
cầu. Ngoài ra, từng Sở giao dịch hàng hoá quy định cụ thể về thời gian giao dịch,
đối tượng giao dịch, đơn vị giao dịch chuẩn, mức biến động tối thiểu của mỗi hợp
đồng… để các chủ thể tham gia giao dịch tuân theo khi tiến hành giao dịch.
Hai là, pháp luật quy định cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch hàng hoá. “Tuỳ
theo pháp luật từng nước, các bộ phận cấu thành Sở giao dịch có thể không hoàn
toàn giống nhau về tên gọi, nhưng nhìn chung bao gồm ba bộ phận chức năng: bộ
phận quản lý Sở giao dịch, bộ phận tham gia trực tiếp vào các giao dịch và bộ phận
phục vụ, hỗ trợ hoạt động giao dịch qua Sở giao dịch hàng hoá” [16]. Các bộ phận
cấu thành Sở giao dịch có quan hệ mật thiết với nhau, cùng tham gia quan hệ phát
sinh trong nội bộ Sở giao dịch, đồng thời tham gia quan hệ mua bán hàng hoá với tư
cách đại diện cho Sở giao dịch. Các bộ phận này có thể do Sở giao dịch bỏ vốn thành
lập hoặc do Sở giao dịch uỷ thác cho chủ thể khác thực hiện nhưng vẫn đại diện cho
Sở giao dịch.
Ba là, pháp luật quy định về thành viên của Sở giao dịch hàng hoá. Có thể
thấy, các giao dịch chủ yếu trên Sở giao dịch hàng hoá được thực hiện thông qua
các thành viên của Sở giao dịch. Thông thường, pháp luật các nước ghi nhận hai
loại thành viên chủ yếu của Sở giao dịch là thành viên kinh doanh và thành viên
môi giới, thực hiện việc kết nối các nhà đầu tư tham gia Sở giao dịch, đảm bảo các
giao dịch diễn ra thường xuyên, đúng pháp luật và tuân thủ Điều lệ của Sở giao dịch
hàng hoá. Pháp luật quy định về điều kiện trở thành thành viên Sở giao dịch, thủ tục
chấp thuận và huỷ bỏ tư cách thành viên, quyền và nghĩa vụ của các thành viên khi
thực hiện các giao dịch trên Sở giao dịch hàng hoá.
- Quy phạm về thành lập, chấm dứt hoạt động của Sở giao dịch hàng hoá:
Một là, pháp luật quy định về điều kiện thành lập và chấm dứt hoạt động đối
với Sở giao dịch hàng hóa. Tuỳ vào điều kiện kinh tế xã hội của mình mà pháp luật


19


mỗi nước đặt ra các điều kiện có thể khác nhau. Thông thường, điều kiện tiên quyết
để thành lập Sở giao dịch là điều kiện về vốn, xuất phát từ vai trò của Sở giao dịch là
trung gian trong mọi giao dịch, cung cấp không chỉ dịch vụ nhận lệnh, khớp lệnh mà
còn cung cấp và chịu trách nhiệm về vấn đề thanh khoản theo ngày, tất toán vị thế
của các bên theo hợp đồng hay giao nhận hàng… Vì vậy, khả năng tài chính của Sở
giao dịch là vấn đề rất quan trọng để đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể tham
gia giao dịch. Ngoài điều kiện về vốn, Sở giao dịch hàng hoá phải có Điều lệ hoạt
động, Quy tắc giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật và các điều kiện khác mà
pháp luật từng nước quy định. Có nước, ví dụ Đức, Nga… điều kiện thành lập Sở
giao dịch hàng hoá được quy định cho các sáng lập viên, bao gồm quy định về những
đối tượng có quyền thành lập Sở giao dịch, tỷ lệ vốn mà các sáng lập viên được góp
vào vốn điều lệ của Sở giao dịch… Nhìn chung, pháp luật các nước quy định về điều
kiện thành lập các Sở giao dịch hàng hoá là tương đối chặt chẽ và nghiêm ngặt.
Về việc chấm dứt hoạt động của Sở giao dịch hàng hoá, các Sở giao dịch
hàng hoá thường chấm dứt hoạt động theo hai cách thức: một là các sáng lập viên tự
nguyện chấm dứt hoạt động khi thấy Sở giao dịch hàng hoá hoạt động không hiệu
quả, không đạt được mục tiêu đề ra hay sự tồn tại của Sở giao dịch hàng hoá là
không còn cần thiết; hai là Sở giao dịch hàng hoá trong quá trình hoạt động có
những hành vi vi phạm pháp luật, bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy
phép hoạt động và buộc phải chấm dứt hoạt động.
Như vậy, các quy phạm về điều kiện thành lập, chấm dứt hoạt động đối với
Sở giao dịch hàng hoá là cơ sở pháp lý để Sở giao dịch có thể ra đời và hoạt động,
thể hiện việc thực thi quyền quản lý của Nhà nước đối với Sở giao dịch hàng hóa.
Hai là, pháp luật quy định về thủ tục thành lập, chấm dứt hoạt động đối với
Sở giao dịch hàng hóa. Theo đó, pháp luật quy định quy trình để tiến hành các hoạt
động này, quy định về hồ sơ giấy tờ cũng như các chủ thể có thẩm quyền thành lập,
chấm dứt hoạt động đối với Sở giao dịch hàng hóa. Đây là những quy định hết sức
cần thiết, là căn cứ pháp lý để các chủ thể thực hiện trong thực tế.
- Quy phạm về quản lý nhà nước đối với Sở giao dịch hàng hóa:
Quản lý nhà nước là chế định có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của

Sở giao dịch hàng hóa, bởi vì, hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch chứa


20

đựng nhiều rủi ro, nếu không được quản lý chặt chẽ và hiệu quả, thị trường này sẽ
hỗn loạn, một số nhà đầu tư sẽ lợi dụng thao túng thị trường khiến các nhà đầu tư
khác cũng như nền kinh tế có nguy cơ bị ảnh hưởng. Vì thế, pháp luật về Sở giao
dịch hàng hóa các nước đều chú trọng điều chỉnh vấn đề quản lý nhà nước đối với
hoạt động của chủ thể này. Cụ thể, quy định về quản lý nhà nước đối với Sở giao
dịch hàng hóa gồm các quy phạm sau:
Một là, quy phạm về cơ quan quản lý nhà nước đối với Sở giao dịch hàng hóa:
Dựa vào các tiêu chí khác nhau mà chủ thể có thẩm quyền quản lý Sở giao
dịch hàng hóa có thể là là cơ quan quản lý doanh nghiệp nói chung (bởi vì Sở giao
dịch hàng hóa theo quy định của pháp luật một số nước là doanh nghiệp, hoạt động
theo nguyên tắc tổ chức quản lý của các doanh nghiệp) hoặc là cơ quan quản lý hoạt
động thương mại nói chung (bởi vì Sở giao dịch hàng hóa là chủ thể điều hành hoạt
động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa - một hoạt động thương mại đặc
thù) hoặc là cơ quan quản lý hoạt động tài chính (bởi vì Sở giao dịch hàng hóa mang
tính chất của một thị trường tài chính phái sinh). Dù được xác định theo tiêu chí nào,
cơ quan quản lý Sở giao dịch hàng hóa cũng là cơ quan đại diện cho Nhà nước quản
lý mọi hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa. Các quy phạm pháp luật về chủ thể có
thẩm quyền quản lý Sở giao dịch hàng hóa tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước can thiệp
vào hoạt động của các Sở giao dịch nhằm hướng hoạt động của các chủ thể này theo
ý chí của Nhà nước, đồng thời tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động mua bán hàng
hóa qua Sở giao dịch.
Hai là, quy phạm về nội dung quản lý nhà nước đối với Sở giao dịch hàng
hóa:
Sở giao dịch hàng hóa cung cấp địa điểm, điều kiện vật chất và điều hành
hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch là hoạt động mua bán không chỉ hàng

hóa hữu hình mà còn mua bán hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn (hay mua
bán các công cụ tài chính phái sinh), do đó đòi hỏi cách thức quản lý của Nhà nước
đối với chủ thể này phải có tính chuyên biệt so với các doanh nghiệp thông thường.
Nhà nước thực hiện quản lý hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa bằng việc ban
hành hệ thống pháp luật đầy đủ, chặt chẽ về Sở giao dịch, bao gồm các quy định về
điều kiện thành lập Sở giao dịch, quy định các nguyên tắc hoạt động của Sở giao
dịch, quy định về chế độ thông tin đầy đủ, kịp thời trong quá trình hoạt động của Sở


×